sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Yêu nữ - Chương 06 - 07

CHƯƠNG SÁU

“Hai người có thật là ba mẹ của chúng con không?” Sophie hỏi.

“Câu hỏi hay nhỉ!” Isis nạt ngang.

Sophie và Josh nhìn nhau. Cặp song sinh đang ngồi trên hai chiếc ghế hẹp ngay đằng sau Isis và Osiris. Virginia Dare thu mình trên sàn sau lưng hai đứa nhỏ. Josh đã cố nhường chỗ cho ả, nhưng ả bảo mình không thích bị gò bó. Ả vỗ vào mặt cậu bé khi nói lời cám ơn, và sự đụng chạm ấy đã khiến cả người cậu nóng bừng.

Richard Newman - Osiris - vặn người trong chiếc ghế da đen và mỉm cười. “Đúng, chúng ta thật sự là cha mẹ của các con. Chúng ta thật sự là các nhà khảo cổ và cổ sinh vật học - hay chí ít, chúng ta là thế trong Vương quốc Bóng Tối của các con. Mọi thứ các con biết về chúng ta đều là thật hết.”

“Ngoại trừ phần Isis và Osiris, các nhà cai quản Danu Talis,” Josh nói. “Hay là toàn bộ những khái niệm như cổ xưa và bất tử.”

Nụ cười của Osiris nở rộng. “Ta đã nói mọi thứ các con đã biết về chúng ta đều là thật hết. Chứ ta đâu có nói các con đã biết mọi thứ về chúng ta.”

“Chúng con phải gọi hai người là gì?” Sophie hỏi.

“Như những gì các con luôn gọi,” Isis nói. Bà đang điều khiển chiếc vimana bằng vàng và pha lê, bàn tay với những ngón thuôn dài đặt bè ra trên một bảng kính, những cử động chút xíu của ngón cái và ngón trỏ của bà làm phát ra những tiếng o o của con tàu xuyên khắp không trung.

Sophie chăm chăm nhìn vào sau gáy người phụ nữ. Người này trông giống hệt mẹ cô bé, nói chuyện và cử động y như mẹ... song... có gì đó khác biệt, có gì đó không ổn. Cô bé liếc qua cậu em trai mình và bằng bản năng, biết rằng cậu cũng đang cảm thấy chính xác như thế. Người đàn ông trông giống cha cô bé đang mỉm cười với hai đứa. Và nụ cười ấy cũng giống với nụ cười cô bé biết rất rõ trong Vương quốc Bóng Tối của mình, Trái Đất -những vết nhăn nơi khóe mắt ông, những đường nho nhỏ nơi khóe miệng ông. Đôi môi ông mím chặt y hệt như đôi môi của cha cô bé, một người không bao giờ mở miệng khi cười. Cô bé luôn nghĩ ông ngượng với nhữrg chiếc răng nanh dài của mình. “Răng ma cà rồng,” ông đã gọi chúng như thế hồi cô bé còn là một đứa trẻ. Cô bé đã phá ra cười khi nghe nói thế, nhưng bây giờ, những lời ấy sao mà ớn lạnh.

“Con nghĩ mình sẽ gọi hai người là Isis và Osiris,” cuối cùng cô bé nói - như thế cảm thấy đúng - và từ nơi khóe mắt mình, cô bé có thể nhìn thấy Josh đang gật lầu tán thành.

“Đương nhiên,” Osiris nói giọng đều đều. “Ta chắc chắn việc này thật khó tiếp thu. Để chúng ta đưa các con trở về cung điện và lấy chút thức ăn. Như thế sẽ khiến mọi chuyện dễ dàng hơn.”

“Cung điện ư?” Josh hỏi.

“Chỉ nhỏ thôi. Cái lớn hơn nằm trong Vương quốc Bóng Tối gần đây.”

“Vậy ra hai người là nhà cai trị ở đây sao?” Virginia Dare hỏi vọng lên từ chỗ ả ngồi trên mặt sàn.

Thoáng bực bội rất tinh tế nhảy nhót trên gương mặt bà khi nghe câu hỏi đó. “Chúng tôi là những người cai trị, đúng, nhưng chưa phải là người cai trị chủ chốt. Một người khác kia.”

“Tuy nhiên cũng không còn lâu lắm đâu,” Isis nói. Bà quay đầu mỉm cười với chồng.

Lần này những cái răng sữa nhọn hoắt cắn vào môi dưới khi bà toét miệng cười. “Không còn lâu lắm đâu,” ông nhất trí. “Và rồi chúng tôi sẽ là những nhà cai trị thế giới này và hết thảy các thế giới bên kia.”

“Vậy rõ ràng là chúng ta đang ở trên Danu Talis rồi,” Josh nói, gần như tự nhủ. Cậu ngẩng đầu nhìn ra bên ngoài chiếc vimana đang tăng tốc. Tất cả những gì cậu có thể nhìn thấy từ phía bên mình là miệng của một ngọn núi lửa khổng lồ, một làn khói màu trắng xám mỏng như chỉ cuộn bay lên các tầng trời. “Cội nguồn nổi tiếng của tất cả mọi huyền thoại Atlantis.”

“Vâng, đây là Danu Talis.”

“Khi nào thế?” cậu nhấn mạnh.

Osiris nhún vai. “Khó nói lắm, thật đấy. Giống người đã điều chỉnh niên lịch của họ hết lần này đến lần khác quá thường xuyên đến nỗi việc tính toán chính xác là không khả thi. Nhưng phỏng chừng mười ngàn năm trước thời của các con trên Trái Đất.”

“Từ thời của chúng con à?” Josh nói. “Không phải thời của hai người sao?”

“Đây mới là thời của chúng ta, Josh à. Thế giới của các con chỉ là một cái bóng của thế giới này.”

“Nhưng hai người cũng sống trong thế giới của chúng con mà.”

“Chúng ta đã sống trong nhiều thế giới lắm,” Isis nói, “và cũng nhiều thời kì nữa.”

“Mẹ con nói đúng đấy,” Osiris nói. “Chúng ta đã đi giữa các thế giới suốt nhiều thiên niên kỉ. Cả hai chúng ta có khả năng thám hiểm nhiều Vương quốc Bóng Tối hơn bất kì Elder nào khác.”

“Vậy ra hai người là Elder?” Sophie hỏi.

“Đúng, chúng ta là thế.”

“Và điều đó khiến chúng con trở thành gì?” Josh hỏi. “Chúng con là Elder hay là Thế hệ Kế tiếp ạ?”

“Phần còn lại sẽ được thấy thôi,” Osiris nói. “Vào điểm đặc biệt này của thời gian, không có Thế hệ Kế tiếp. Và nếu tất cả đi theo kế hoạch, thì sẽ không có Thế hệ Kế tiếp đâu. Họ chỉ xuất hiện sau biến cố Nhận chìm của hòn đảo này thôi.”

“Toàn bộ vấn đề là hai con đang ở đây, cả hai đứa đều đã được đánh thức và được huấn luyện nhiều Pháp thuật Cơ bản,” Isis nói.

Con tàu hụp xuống và thình lình một thành phố như mê cung có hình tròn rộng mênh mông hiện ra phía trước và bên dưới họ. Ánh sáng mặt trời phản chiếu màu bạc và vàng từ hệ thống kênh rạch và giao thông đường thủy trải rộng chạy vòng quanh một ngọn kim tự tháp khổng lồ tọa lạc ngay trung tâm thành phố. Đường phố đông nghẹt người, và trên đỉnh các kim tự tháp nhỏ rải rác chói rực ngọn lửa đuốc, trong khi những đỉnh khác lại bừng sáng những cờ xí. Dường như đó là những ngôi nhà, cung điện, đền đài và dinh thự với hàng tá kiểu kiến trúc khác nhau. Nằm ven thành phố là những mái nhà xiêu vẹo thấp lè tè chen chúc.

“Lớn quá,” Josh thì thào.

“Thành phố rộng lớn nhất thế giới đấy,” Osiris nói đầy vẻ tự hào. “Thực ra, đây là tâm điểm của thế giới.”

Josh chỉ tay về phía kim tự tháp đồ sộ mà dễ dàng nhận ra là thành phố được xây dựng chung quanh, cùng với cung điện nằm phơi mình phía sau. “Đó là nơi chúng ta đến phải không?”

“Chưa đâu.” Osiris mỉm cười. “Đó là Cung điện Thái Dương của hoàng gia, hiện nay là nơi ở của Aten, nhà cai trị Danu Talis.”

“Trông nó nhộn nhịp...” Josh mở lời.

Isis bất chợt ngồi chồm tới và chiếc vimana hụp nhào xuống. “Ông xã!” bà kêu lên, tâm trạng hoảng hốt hiện rõ trong giọng nói.

Osiris xoay người, chồm tới trước chăm chú nhìn vào khối kim tự tháp ấy. Không gian bên trên cung điện nhộn nhịp những chiếc vimana đủ mọi hình dạng, đủ mọi kích cỡ, và dưới đất từng hàng lính gác mang giáp đen đã vào sẵn vị trí. Một đám người rất đông tụ tập trước công trình kiến trúc, và từng dòng người từ khắp các đường phố xung quanh tuôn đổ vào.

Isis liếc xéo qua Osiris. “Trông như có gì đã xảy ra trong lúc chúng ta đi vắng thì phải,” bà nói khẽ.

“Bastet!” ông rít lên. “Lẽ ra tôi phải biết mụ ta không chịu ở yên chứ. Thay đổi kế hoạch: hạ chúng ta xuống. Chúng ta cần phải tập trung vào vụ này ngay tức thì mới được.”

“Hạ cánh à?” Isis nói, vừa đúng lúc động cơ của chiếc vimana giảm xuống thành một tiếng rên rỉ trầm trầm và con tàu nhẹ nhàng dao động qua một quảng trường họp chợ rộng rãi, đầy những quầy hàng được che bạt sáng trưng nhiều màu sắc. Không gian chật ních những người nước da rám nắng đậm màu, thấp, béo, đa số mặc áo chùng bằng len trắng hoặc sơ mi quần dài trắng toát. Vài người liếc nhìn chiếc vimana, nhưng không ai chú ý đặc biệt. Hai tay lính gác anpu mặc giáp da thú, mang khiên và giáo, đến chạy quanh chiếc vimana, nhưng khi nhìn thấy ai đang hạ xuống, chúng lập tức quay đi và biến mất dưới một con phố phụ. Bụi đất xoáy tròn khi con tàu đậu xuống ngay giữa quảng trường.

“Virginia, tôi sẽ để hai đứa song sinh lại cho cô chăm sóc,” Osiris nói khi phần mái của con tàu giật lui.

“Tôi sao!” Virginia Dare chớp mắt ngạc nhiên.

Osiris gật đầu. “Cô đấy.”

Isis ngồi tại chỗ vặn người quay lại nhìn Sophie và Josh. “Hãy đi với Virginia. Cha con và ta sẽ trở lại ngay, sau đó chúng ta sẽ ăn một bữa cơm gia đình và trò chuyện tiếp. Chúng ta sẽ trả lời mọi câu hỏi của các con, ta hứa đấy. Có nhiều điều tuyệt vời dành sẵn cho các con. Các con sẽ được mọi người biết đến như là người Vàng người Bạc. Các con sẽ được tôn sùng. Các con sẽ thống trị. Bây giờ thì đi đi, hãy đi đi.”

Cặp song sinh rời khỏi chỗ, bước ra đi vào bầu không khí buổi chiều muộn. Hai đứa hít thở sâu, xua sạch khỏi phổi mùi ozone kim loại khô khốc của chiếc vimana. Khu chợ đầy tràn hàng ngàn thứ mùi kì lạ và hoàn toàn không chút dễ chịu: trái cây - một số đã bị hư thối, gia vị nước ngoài và quá nhiều những thân thể không tắm rửa nhồi nhét sát nhau.

“Các người định đi đâu?” Virginia hỏi Osiris.

Elder dừng lại nơi lối ra của chiếc vimana. “Chúng tôi phải đến cung điện, và tôi không muốn mang bọn trẻ vào chốn nguy hiểm,” ông ta nói. Ông chỉ tay hướng về một tháp hình chóp màu vàng kim vút lên qua những mái nhà. Trên đầu tháp nhọn ấy là một lá cờ phấp phới, đính vào lá cờ là vật gì đó trông như một con mắt trang trí công phu. “Đó là nhà chúng ta. Hãy tới đó. Chờ chúng ta.” Ông ta nhìn quanh quảng trường. Phần lớn các chủ quầy hàng đều quay lại nhìn chằm chặp vào người đàn ông cao ráo đầu để trọc. Không phải ai cũng giấu được vẻ ghê tởm trên khuôn mặt họ. Không ai đón gặp ánh mắt ông. “Sẽ không ai làm hại các con,” ông nói lớn, giọng vang dội khắp quảng trường. “Không một ai ngay cả thử cũng không. Họ biết sự báo thù của ta là thật sự khủng khiếp.” Ông chồm tới đặt một bàn tay lên bờ vai trái của Virginia. Tức khắc, cô ả hất đi ngay. “Hãy bảo vệ con ta người bất tử,” ông ta nói khẽ. “Nếu có bất cứ điều gì xảy đến cho hai đứa, ta sẽ không hài lòng đâu đấy. Mà cô cũng không nốt.”

Virginia Dare nhìn trân trân vào đôi mắt màu xanh lơ của Elder. Ông ta mới là người hạ ánh mắt xuống trước. “Tôi không thích mấy lời đe dọa đó,” cô ả lào thào.

“Ồ, đây đâu phải là một lời đe dọa,” ông ta dịu dàng nói. Ông bước ra khỏi chiếc vimana, tiếng rì rầm lan khắp đám đông. “Mọi người biết cho,” ông ta nói oang oang, “ba người này được đặt dưới sự bảo trợ của ta. Hỗ trợ họ, hướng dẫn họ, bảo vệ họ thì ta sẽ rộng tay. Gây trở ngại cho họ, chỉ dẫn sai cho họ, hãm hại họ thì các người - tất cả các người - sẽ nghiệm được sự báo thù của ta. Đây là lời của ta, và các người biết lời ta là luật pháp.”

“Lời của ngài là luật pháp,” đám đông ầm ì đáp lại. Vài ông bà lớn tuổi cúi mọp người, áp trán xuống nền đất lát đá, vài người trẻ hơn chỉ cúi đầu.

Osiris trừng trừng nhìn một nhóm thanh niên. “Nếu ta có nhiều thì giờ hơn, ta sẽ dạy chúng một bài học vì sự xấc láo của chúng...” ông lầm bầm. Ông ta bước vào chiếc vimana trở lại. “Bây giờ thi đi đi. Đừng trì hoãn. Hướng thẳng tới tòa nhà treo cờ hiệu. Chúng ta sẽ trở lại nhanh hết sức.”

Hông chiếc vimana Rukma đóng lại đằng sau ông ta và con tàu kêu rền trong không trung, bỏ lại Sophie, Josh, và Virginia Dare đứng một mình giữa quảng trường. Chiếc vimana vừa khuất qua các mái nhà thì một quả cà chua bay vèo qua đầu đám đông rớt bắn tóe trên nền đất ngay chân Josh. Một quả thứ hai và thứ ba đi liền theo sau.

“Tôi mừng khi thấy rằng Isis và Osiris thật sự khiến đám đông phải kính trọng,” Josh nói.

“Đi thôi.” Virginia vừa nói lớn, vừa chụp lấy cánh tay hai đứa nhỏ, kéo chúng lùi lại. “Thường thường bắt đầu bằng trái cây...”

Một hòn đá rơi lóc cóc xuống đất và vỡ vụn.

“... nhưng luôn luôn kết thúc bằng đá.”

CHƯƠNG BẢY

Màu sắc.

Những màu sắc tươi tắn, sáng bừng.

Từng sợi chỉ óng ánh ngũ sắc lung linh, nhảy múa.

Các dải ánh sáng rộn ràng.

Nicholas vươn khỏi cầu tàu, cưỡi cao hơn cao hơn trên những làn sóng không khí vô hình uốn lượn gần đó quay tròn và xoáy tít bên dưới ông. Ông nhìn xuống, thấy đám đông nhốn nháo phía dưới và nhận ra chính mình đang ở giữa nhóm người ấy.

Ông đang bay.

Cảm giác thật phi thường.

Có lần ông rất ham thích bầu trời và gần như mỗi ngày đều nhìn thế giới qua đôi mắt của Pedro. Ông không bao giờ thật sự hiểu được sự quyến rũ của việc bay bổng cho tới khi bay vút qua những khu rừng trên đảo ở Thái Bình Dương, những đường phố quanh co đổ nát của Rome và những cánh đồng xanh rì chắp vá của Ireland và nhìn xuống bằng đôi mắt của Pedro. Rồi Nicholas biết vì sao Leonardo da Vinci đã đầu tư quá nhiều thời gian như thế vào việc chế tạo ra những cỗ máy cho phép người ta bay bổng. Có lẽ lời đồn đãi là thật, có lẽ Leonardo từng là người bất tử và đã học được cách nhìn thế giới qua đôi mắt của một chú chim.

Mặc dù đang là buổi chiều muộn và ánh sáng đang nhạt dần, nhưng thế giới được nhìn thấy qua đôi mắt con vẹt này thật sống động với những ánh lóe rộn ràng và những dải màu sắc. Embarcadero lóe lên sắc vàng và vàng kim, hất từng lằn hơi nóng cuồn cuộn lên trên mặt nước.

Nicholas có thể cảm thấy gió tạt qua người mình, bộ lông rập rờn lao xao rung rinh. Nhiều năm bay bổng với Pedro đã dạy ông không được nghĩ ngợi, đơn giản chỉ dồn mắt vào một điểm đến và rồi để cho bản chất tự nhiên của con vẹt ấy đảm nhiệm. Bên dưới ông, mặt nước mờ nhòa với những bong bóng phát lân quang, sống động với những đường kẻ sọc giữa các dòng nước nóng và nước lạnh.

Alcatraz cách bờ biển hơn một cây số rưỡi, không phải là khoảng cách xa xôi đối với loài vẹt hoang dã, nhưng Flamel biết chú chim này không thoải mái khi bay trên mặt nước. Ngay cả ý tưởng mơ hồ về đất liền cũng khiến cho con conure rẽ ngoặt và hướng trở lại những ngọn đèn chói lóa của Embarcadero. Con vẹt kêu quang quác, và bầy chim trên bờ biển xếp thành hàng trên những mái nhà nhiều màu sắc kêu thét lên chào đón.

Nicholas nhìn thấy được hình thù đặc trưng của Alcatraz một lần nữa, chú chim bay chệch lên - gần như miễn cưỡng - và hướng ra khỏi đất liền. Nó bay cao hơn, xa hơn khỏi bụi nước đầy muối, cho phép Nhà Giả Kim nhìn thấy hòn đảo thật rõ ràng: trên đỉnh hình thù xấu xí, thấp, dài là một nhà tù màu trắng với hai ngọn hải đăng cao vút lên bầu trời. Đằng sau và bên phải ông, cầu Vịnh là một dải băng đỏ sọc trắng, trong khi mất hút đằng xa xa, cầu Cổng Vàng biến thành một vệt mờ mờ nổi lên trên những lằn lung linh của không khí nóng ấm.

Tương phản lại, Alcatraz hoàn toàn tối sẫm, không có đến một chút sức nóng bức xạ khỏi mặt đất.

Khi ông tiến gần hơn đến hòn đảo, Nhà Giả Kim nhận ra rằng Perenelle nói đúng. Không hề có con chim nào khác trên không gian bên trên hòn đảo. Bầy mòng biển miền tây thường xuyên hiện diện năng lui tới trên những khối đá của hòn đảo, phủ lên đá một màu trắng tinh, lúc này đã biến đâu mất, và khi tiến gần hơn đến bờ biển, ông nhận ra rằng không có gì chuyển động cả. Không có cả chim cốc hay bồ câu. Trong khi Alcatraz lại là một nơi trú ẩn cho loài chim, hàng trăm con chim làm tổ ở đó mỗi năm.

Nicholas rùng mình và cảm nhận được cả gợn sóng rùng mình xuyên thấu khung xương chú chim nhỏ. Có gì đó đã ăn sạch.

Khi đã tới được đường bờ biển đầy đá, con vẹt conure dìm mình cỡi trên những dòng không khí, rồi sà xuống vũng tàu đậu, thả mình đáp ngay bên trên giá đỡ bản đồ và bản hướng dẫn. Nicholas để con chim nghỉ một lúc. Nhảy chân này sang chân kia, nó quay vòng tròn, cho ông một cái nhìn toàn cảnh vũng tàu. Hoàn toàn vắng vẻ. Cũng không có dấu hiệu nào của con thuyền Diều Hâu Đen đã lái. Từ quang cảnh thực tế ông có chút an ủi rằng mình cũng không nhìn thấy xác tàu nào, và hi vọng người bất tử đã không rơi vào tay bọn Nữ Thần Biển.

Dùng ý nghĩ Nicholas giục con chim bay lên, nó bay thành những vòng tròn chầm chậm ngang qua cửa hàng bán sách và Tòa nhà 64. Khi lên cao hơn, nó mang ông đi qua khu Nhà Cai ngục đổ nát, và lần đầu tiên kể từ khi đến hòn đảo, ông nhận ra một chút ánh sáng leo lét. Con conure đậu trên một thanh rầm bằng kim loại chống đỡ ngôi nhà đổ nát, sau đó rụt rè đi xiên xiên dọc theo đó, móng vuốt cào quẹt trên lớp kim loại, mắt săm soi nhìn xuống. Nơi góc đống đổ nát kia, phủ lên những bức tường xiêu vẹo và mặt sàn nứt hoác, là một đống khổng lồ. Trông như một quả banh bùn khô cứng. Bằng thị lực nâng cao của con vẹt, Nicholas có thể nhận ra ngay một hình dạng bên trong lớp bùn: một sinh vật đồ sộ, cuộn chặt thành một quả banh quấn chung quanh bằng rất nhiều chân. Đó là một con nhện. Con nhện thở phập phồng chầm chậm, nhè nhẹ đều đều: Areop Enap vẫn còn sống.

Nhưng mọi người khác đâu cả rồi?

Diều Hâu Đen đã thả Mars, Odin, và Hel trên hòn đảo. Họ không thể chết hết được, đúng không nào? Còn bọn quỷ sứ kia đâu? Perenelle đã nhận ra lũ boggart, troll và cluricaun trong các xà lim kia mà. Bà đã nhìn thấy một con minotaur còn non, chí ít cũng một con Windigo và một con oni. Một dãy hành lang khác còn giữ loài rồng, wyvern và rồng lửa.

Bây giờ con vẹt đang mệt, và Nicholas biết mình phải đưa nó trở lại đất liền ngay. Ông sẽ nhìn qua một vòng rồi sau đó quay về trước khi màn đêm buông xuống. Ông đi vòng ngọn hải đăng, rồi, bắt gặp một tia lửa bất chợt, bay vút qua nhà tù và rơi vào sân giải trí.

Khoảnh sân ứ ngập trong những làn sóng năng lượng.

Phế tích ma quái của những luồng điện mạnh mẽ không thể tin được uốn éo, cuộn xoắn khắp các phiến đá lát khổng lồ, quằn quại như bầy rắn. Có cả vàng ròng và bạc sáng lóa, màu vàng hôi thối của lưu huỳnh và một thứ sợi màu xanh tái rải rác trên mặt đất. Chính giữa sân, có vết hằn đã nhòa của một hình chữ nhật, mờ mờ với những dấu vết còn lại của những năng lượng cổ xưa. Thoáng nhạt nhòa những đường viền của bốn thanh gươm khắc vào mặt đá.

Một cánh cửa ra vào vụt mở. Con vẹt bắt đầu vọt lên khi ánh sáng chói lòa, và Nicholas quay lại nhìn thấy Odin phóng qua ngưỡng cửa hẹp, lao xuống một đợt cầu thang bằng đá. Elder độc nhãn dừng lại nơi chân cầu thang và quay mặt về hướng ông vừa rời khỏi, ngọn giáo ngắn cầm trong tay.

Mars xuất hiện nơi cửa, giữ cánh cửa mở toang, sau đó Machiavelli và Billy the Kid phóng qua, kẹp Hel ở giữa. Hai cánh tay Elder quàng qua vai hai người bất tử, cẳng chân bà lê trên đất, kéo theo một chất lỏng sẫm màu theo sát đằng sau. Mars đóng sầm cánh cửa kim loại lại và tấn lưng mình vào đó. Chiếc áo da thuộc màu đen của người chiến binh lòng thòng từng mảnh nhỏ, và thanh đoản kiếm trong tay ông nhỏ từng giọt chất lỏng màu xanh lơ nhàn nhạt. Thậm chí trong bóng tối cô đặc, Nicholas vẫn có thể thấy mắt ông ta sáng lên vẻ phấn khích. Cánh cửa đằng sau Mars đóng sập vào khung rồi, nhưng Elder vẫn gắng hết sức cố giữ nó đóng chặt cho tới khi Machiavelli và Billy the Kid lên đến cuối bậc thang và Odin bước ra đỡ lấy lưng họ.

Elder độc nhãn ra dấu cho Mars và người đàn ông cao to phóng mình ra khỏi cửa - ngay khi một chiếc răng nanh nhọn hoắt thò ra khỏi tấm kim loại và rạch thủng lên phía trên, xé rách toạc như tờ giấy mỏng.

Mars và Odin chiếm lấy vị trí nơi chân cầu thang, bảo vệ Machiavelli và Billy, những người đang chăm sóc cho vết thương của Hel trên các bậc thang dẫn lên sân thể dục. Billy cởi thắt lưng mình quấn quanh cẳng chân bị đứt sâu, hai bàn tay anh ta tối sẫm đầy máu của bà.

Im lặng và không còn thấy được nữa, con vẹt đã lượn vòng phía trên đầu.

Nicholas cố xâu chuỗi những hình ảnh mình đang nhìn thấy: Mars và Odin hợp tác với Billy và Machiavelli, bảo vệ họ trong khi anh chàng người Mỹ tận tình lo cho vết thương của Hel. Nicholas bối rối: tay người Ý không có bạn bè gì với nhà Flamel hay với người cùng phe của hai ông bà, và đã chiến đấu bên các Elder Đen tối suốt cuộc đời dài đằng đẵng của y cơ mà. Có lẽ Machiavelli bằng cách nào đó đã lừa được những người kia mất rồi? Nhà Giả Kim lắc đầu, con vẹt cũng bắt chước động tác ấy. Mars khờ khạo bị lừa là có khả năng, có lẽ Hel cũng vậy. Nhưng không ai có thể lừa được Odin. Có lẽ Machiavelli và Billy cuối cùng đã chọn phe đúng rồi chăng. Đó có phải là những gì Shakespeare đã nói, khốn khó sẽ làm người ta trở thành những người bạn đường kì lạ?

Ý chí Nhà Giả Kim phải nỗ lực rất ghê gớm mới giục được con vẹt thả mình xuống thấp hơn. Mọi bản năng của chú chim đều giục nó bỏ chạy. Lúc này khoảnh sân sinh động hẳn lên với những luồng điện kêu o o đầy màu sắc, mùi tanh hôi của máu Elder và mùi hôi thối của lũ quái thú.

Sinh vật đứng choán kín cả ngưỡng cửa gãy kia thật khổng lồ. Nó trông như một con lợn, nhưng mang kích thước của một con bò đực và mấy cái răng nanh của nó dài bằng cả sải tay đàn ông.

“Hus Krommyon,” Mars nói. “Lợn đực Crommyon. Tất nhiên không phải là chính gốc. Theseus đã giết chết con chính gốc đó rồi.”

Một con mắt duy nhất của Odin nhấp nháy. “Nó lớn thật,” ông ta lẩm bẩm. “Mạnh nữa.”

Con quái thú đi chầm chậm xuống các bậc thang. Nó quá dềnh dàng đến nỗi sườn cạ vào hai bên tường, lớp lông rễ tre nạo quèn quẹt trên mặt đá.

“Nó sẽ tấn công chúng ta đấy,” Mars cảnh báo.

“Và chúng ta sẽ không thể ngăn nó được,” Odin nói thêm. “Tôi đã từng săn lợn đực. Nó sẽ tấn công với cái đầu chúi xuống rồi xé ngược lên. Bắp thịt quanh cổ và vai dày cui rất đặc biệt. Tôi nghi ngờ không biết gươm kiếm và giáo mác của chúng ta có làm gì được để chống lại nó không đấy.”

“Và nếu chúng ta sử dụng luồng điện của mình, thì sẽ thu hút con nhân sư và mụ sẽ chén sạch năng lượng của chúng ta,” Mars nói. Ông ta nhẹ nhàng đẩy Odin sang một bên. “Cả hai chúng ta không được chết ở đây. Hãy để nó tấn công tôi. Tôi sẽ tóm lấy đầu nó và giữ chặt. Các ông dùng giáo mác của mình đâm vào hông nó. Xem thử các ông có thể đâm bên dưới không. Lớp thịt ở đó mềm hơn.”

Odin gật đầu. “Một kế hoạch hay, ngoại trừ...”

“Ngoại trừ gì?”

“Ông sẽ không thể giữ đầu nó được. Nó sẽ húc ông đấy.”

“Đúng. Có khả năng ấy. Vậy thì ông lấy dao găm đâm nó đi.”

“Mà các ông đã nhìn thấy nó làm gì với cánh cửa kim loại rồi đó,” Odin nói khẽ.

“Tôi dai lắm mà.” Mars cười toe.

“Ông vui thích với chuyện này nhỉ?”

“Tôi đã trải qua nhiều thiên niên kỉ trong một lớp vỏ cứng ngắc, không thể nhúc nhích gì được.” Ông búng nhẹ cổ tay và xoay tít thanh đoản kiếm. “Tôi chưa từng được vui vẻ nhiều thế này kể từ khi... ừm... tôi không… sao nhớ nổi.”

Mong vuốt con Hus Krommyon trườn trên bậc thang, lửa bắn thành tia văng khỏi mặt đá, nó nhào tới tấn công.

Ánh sáng hai màu đỏ và xanh lục chợt lóe lên, một con vẹt nhỏ phóng đến trước mặt con quái thú, vuốt con chim cào dọc theo mõm lên đến chính giữa hai tai. Con lợn đực kêu eng éc, từ từ nâng đầu lên, quai hàm bật tanh tách, phun ra thứ nước bọt đặc quẹo. Chú chim lại sà xuống lần nữa, cái mỏ mạnh mẽ rỉa đứt lìa một miếng tai lông lá của sinh vật ấy. Con Hus Krommyon kêu rống lên và giận dữ đứng trên hai chân sau để cắn táp vào sinh vật đang lao đến.

Và ngọn giáo của Odin đã cắm phập ngay vào cái cổ họng chìa ra của con quỷ dữ. Nó chết trước cả khi rơi xuống chạm đất.

“Làm thế mới là làm chứ!” Billy hò reo.

“Billy, tại sao anh không la lớn hơn chút nữa. Tôi bảo đảm anh có thể mang thêm vài con quỷ sứ xuống trên chúng tôi đấy,” Machiavelli khẽ khàng nói.

Anh chàng người Mỹ rụt vai. “Thỉnh thoảng ông phải buông lỏng và tán thưởng chứ.” Anh ta nhìn xuống Hel. “Bà thấy kích cỡ của thứ đó không?”

“Tôi còn thấy thứ to bự hơn,” bà nói ngọng nghịu.

Con vẹt vỗ cánh đáp xuống trên đầu con Hus Krommyon. Nó nghiêng cái đầu tí xíu màu đỏ qua một bên, trước tiên nhìn Mars rồi đến nhìn Odin.

“Mi là ai, hả chú chim nhỏ?” Mars hỏi, sau đó cánh mũi ông ta nở ra. “Bạc hà,” ông ta nói đầy vẻ kinh ngạc. “Nicholas ư?”

Cái mỏ của con conure há ra ngậm lại rồi nó kêu quang quác, “Flamel.”

Mars chào chú chim nhỏ bằng thanh gươm của mình. “Nhà Giả Kim. Thật tốt khi... e hèm... được gặp ông. Chúng tôi còn sống, như ông có thể thấy đấy. Quân số bổ sung thêm hai, nhưng chúng tôi đang trong tình cảnh gian nan tàn khốc. Bọn chúng có quá nhiều, quá quá nhiều, mà con nhân sư cứ lảng vảng rình mò hoài.” Ông ngưng bặt, rồi nói thêm, “Tôi không thể tin được là mình đang báo cáo cho một con vẹt đấy.”

“Areop Enap,” con chim ríu rít.

Mars nhìn Elder độc nhãn. “Nó vừa nói ‘Areop Enap’ có phải không?”

Con vẹt nhảy nhót từ chân này sang chân kia. “Areop Enap, Areop Enap, Areop Enap.”

Odin gật đầu. “Nó nói ‘Areop Enap’.”

“Ở đâu? Ở đây hả?” Mars hỏi gặng.

Con chim tung mình bay lên không trung, lượn vòng quanh hai Elder. “Ở đây, ở đây, ở đây.”

“Đó là một lời xác nhận đúng rồi,” Odin nói. “Một liên minh mới hay làm sao, nếu bà ấy chiến đấu cùng chúng ta.” Ông vỗ vào lưng Mars. “Đi mời Lão Nhện đi. Bà ấy không thể nào khó tìm đâu. Hãy để tôi chăm sóc vết thương cho Hel.” Ông ta túm lấy một cái răng nanh lo lướng của con Hus Krommyon và kéo lê nó ra khỏi cầu thang.

“Ông định làm gì với nó thế?”

“Hel đâu phải là người ăn chay.” Odin cười toe toét. “Và bà ấy thích thịt lợn lắm.”

“Tươi à?”

“Đặc biệt là tươi.”

Con conure Đầu Đỏ Anh Đào lao vào bầu trời đêm bay về hướng Embarcadero, đôi cánh vỗ mệt nhọc, sang sáng trên đầu Nhà Giả Kim. Cái đầu đỏ của nó chúi xuống, cái mỏ ngậm chặt gõ gõ vào xương sọ ông.

Nicholas rùng mình, hít một hơi thật sâu, còn Prometheus đỡ lấy ông trong khi ông vươn vai, lắc lắc xua đi cảm giác tê rần như kiến bò. Sau đó ông nhấc bàn tay phải, con vẹt nhảy ngay lên mấy ngón tay. “Cám ơn nhé,” ông thì thào. Làn sương mờ màu xanh bạc hà tỏa ra khỏi bộ lông màu đỏ lẫn xanh lục. Chú chim rùng mình, tung mình vào không trung, vừa bay vừa gọi lớn, “Areop Enap, Areop Enap, Areop Enap.” Flamel dõi mắt lần theo đường con chim nhỏ bay vào bầu trời đêm.

“Trong một hai ngày nữa mọi con vẹt trên Embarcadero đều sẽ kêu thét lên như thế,” Nhà Giả Kim nói.

“Ông có biết được chuyện gì không?” Perenelle hỏi.

Nicholas gật đầu. “Bọn quỷ sứ đang ở trong khối xà lim chính. Tôi đã thấy Mars, Odin, và Hel. Không thấy dấu tích của Diều Hâu Đen ở đâu cả, và Hel đang bị thương. Nhưng có vẻ như chúng ta có thêm hai liên minh mới: Machiavelli và Billy the Kid đang giúp đỡ bà ấy.”

Perenelle chớp mắt ngạc nhiên. “Machiavelli từ hồi nào tới giờ đâu có nằm trong số bạn bè của chúng ta.”

“Tôi biết thế. Nhưng y là kẻ cơ hội mà. Có lẽ y nhận ra rằng tốt hơn là nên chạy theo phe đang thắng thế.”

“Hay có lẽ y vừa phát hiện lại được nhân tính của mình,” Niten khẽ nói. “Có lẽ ai đó đã nhắc cho y nhớ rằng trước tiên y đã là con người, rồi sau đó mới thành bất tử.”

“Anh nói nghe như thể anh đang nhắc đến chính kinh nghiệm bản thân mình vậy,” Perenelle nói.

“Tôi đang làm thế thật mà,” anh ta nói dịu dàng. “Đã có thời tôi... rất hoang dại.”

“Đã xảy ra chuyện gì à?”

Anh ta mỉm cười. “Tôi đã gặp một chiến binh người Ireland có mái tóc đỏ.”

“Và anh đã đem lòng yêu mến?” bà trêu chọc.

“Tôi chưa hề nói vậy nhé.”

“Anh không phải nói đâu.” Bà quay trở lại Nicholas. “Còn Dee thì sao?”

“Đó là chuyện kì quặc: tôi có thể ngửi thấy luồng điện của hắn, nhưng nghe cũ kĩ và nhạt nhẽo lắm. Mùi đó quyện với mùi vanilla của Sophie và hương cam của Josh. Cũng có nghe cả mùi cây xô thơm nữa...”

“Virginia Dare,” Perenelle nói.

“Hết thảy đều trộn lẫn vào với nhau, cùng với năng lượng phát ra từ bốn Thanh kiếm Quyền lực. Nhưng tôi không nghĩ Dee vẫn còn trên hòn đảo đâu.”

“Vậy thì ở đâu được nhỉ?” Niten hỏi.

Nhà Giả Kim dợm lắc đầu, rồi ngưng lại. “Có cả vết tích của bốn Thanh kiếm Quyền lực trên nền đất nữa,” ông chậm rãi nói. Hai bàn tay ông mô tả một hình vuông. “Trông như chúng được đặt nằm đầu này giáp đầu kia, để tạo thành một hình chữ nhật.”

“Hắn đã dựng cổng tuyến đấy,” Prometheus nói. “Bản thân tôi chưa bao giờ nhìn thấy ai làm thế, nhưng tôi biết điều đó là khả thi.”

“Một cổng tuyến dẫn đi đâu vậy cà?” Nicholas hỏi. Ông nhìn Perenelle, bà lắc đầu.

“Không phải đến thế giới này đâu, điều đó là chắc chắn,” Prometheus nói. “Thực tế, gần như tôi có thể bảo đảm là cổng tuyến ấy sẽ đẫn đến một nơi nào đó trên Danu Talis cho xem. Dee đã mang cặp song sinh trở ngược thời gian rồi.”


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx