sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Yêu nữ - Chương 18 - 19 - 20

CHƯƠNG MƯỜI TÁM

“Ông là ai?” Tiến sĩ John Dee thở khò khè. Hắn ý thức mình đang nằm trên mặt sàn kim loại của một chiếc vimana, độ rung của nó truyền vào làm toàn thân hắn cũng rung lên. Bằng thị lực kém cỏi, mọi thứ xung quanh hắn đều mờ nhòe, và một hình dáng đang ngồi nơi hệ thống bảng điều khiển phía trước hắn chẳng gì hơn một cái bóng.

“Tôi đã bảo ông rồi, tôi được gọi là Marethyu.” Một nửa vòng kim loại lung linh chiếu mờ mờ trước mặt Dee. “Đôi khi người ta gọi tôi là người đàn ông có bàn tay móc câu. Mặc dù nó thật sự là cái liềm hơn là móc câu.”

Tay Pháp sư thấy mình vẫn còn được bọc trong chiếc áo khoác Josh đã đặt lên người. Hắn kéo áo sát vào thân hình đang run rẩy và cố gắng thẳng người lên, nhưng không làm được. “Tôi có cảm giác hình như mình biết ông,” hắn thì thào.

“Ông có biết đấy. Chúng ta từng gặp nhau cũng khá thường xuyên mà.”

“Đâu có,” Dee không đồng ý. “Tôi hẳn sẽ không bao giờ quên chiếc móc câu ấy.”

“Tôi cho rằng ông sẽ không quên,” Marethyu nói đầy vẻ bí ẩn.

“Anh bạn trẻ,” Dee vừa nói ra. Marethyu chợt phá ra cười. “Có gì buồn cười sao?”

“Đã quá lâu rồi nay mới có người gọi tôi là trẻ.”

“Đối với tôi trông ông còn trẻ mà. Ông nói năng nghe như còn trẻ, và đủ mạnh để có thể khiêng được tôi. Tôi già rồi, gần năm trăm tuổi. Còn ông đã sống bao lâu trên trái đất này?” người bất tử hỏi.

Nhưng người đàn ông có bàn tay móc câu vẫn im lặng trong khi chiếc vimana kêu rền xuyên bầu trời xanh lơ sáng rõ. Sau đó, ngay khi Dee bắt đầu ý thức mình chưa nhận được câu trả lời thì người đàn ông kia lên tiếng, giọng ông ta buồn thấm thía. “Pháp sư, tôi đã sống trên trái đất này mười ngàn năm nay. Và đã trải qua có lẽ đến mười lần dạo chơi trên các Vương quốc Bóng Tối. Thậm chí tôi còn không biết tuổi thật của mình nữa.”

Vậy ra ông là Elder à? Elder Vĩ đại? Quan chấp chính? Ông không phải là Thần Đất. Có lẽ ông là Người cổ đại chăng?”

“Không. Không phải ai trong những người ông vừa kể cả,” Marethyu nói. Tôi là người. Nhiều hơn người bình thường một chút, mà ít hơn rất nhiều. Nhưng đã được con người sinh ra và nuôi nấng.”

Động cơ của chiếc vimana hạ xuống thành tiếng ri rỉ và con tàu dìm xuống.

“Ai là chủ nhân của ông?”

“Tôi không có chủ nhân. Tôi phục vụ cho chính mình.”

“Vậy thì ai làm cho ông bất tử?” Dee hỏi, chỉ thấy càng lúc càng rối rắm.

“Tôi cho là ông nên hỏi tại sao, Tiến sĩ Dee ạ,” Marethyu bật cười vang.

“Tôi không hiểu.”

“Ông sẽ hiểu. Hãy kiên nhẫn, ông Tiến sĩ, kiên nhẫn đi. Tất cả sẽ được tiết lộ vào đúng thời.”

“Tôi không còn nhiều thời gian. Osiris đã lo liệu sẵn như thế.”

Chiếc vimana chìm xuống thấp hơn, động cơ chậm lại thành tiếng o o đùng đục.

“Chúng ta định đi đâu?” Dee hỏi.

“Tôi định đưa ông tới gặp một người. Người đó đã chờ ông lâu lắm rồi.”

“Ông biết tôi sẽ đến sao?”

“Tiến sĩ, tôi luôn biết ông sẽ đến đây. Tôi đã dõi theo tiến trình này của ông từ giây phút ông lọt lòng mẹ kìa.”

Dee thấy mệt mỏi, một cơn kiệt quệ mê mệt đe dọa đổ tràn trên người hắn, nhưng hắn biết nếu nhắm mắt, có thể có khả năng hắn sẽ không bao giờ mở mắt lại được nữa. Hắn dồn đủ lực để hỏi, “Tại sao?”

“Bởi vì ông có một vai phải diễn. Trong cả cuộc đời dằng dặc của mình, tôi đã khám phá ra rằng không có gì là ngẫu nhiên. Luôn có một kiểu mẫu. Mưu mẹo là phải nhìn ra kiểu mẫu ấy, nhưng khả năng đó là năng khiếu mà cũng có lẽ là lời nguyền chỉ được ban cho một số ít.”

“Và ông có thể nhìn ra kiểu mẫu này?”

“Đó là lời nguyền của tôi.”

Đột nhiên chiếc vimana đáp xuống đất. Nắp con tàu trượt lui, và Dee rùng mình khi một luồng không khí lạnh huốt, ẩm ướt tràn qua người. Thậm chí với thính giác tàn lụi, hắn vẫn có thể nhận ra tiếng gầm gào của biển cả gần đó, những con sóng lớn vỗ ì ầm vào bờ, tung bọt nước trắng xóa. Hắn nhìn thấy hai cánh tay của Marethyu lòn xuống dưới người mình và hắn yếu ớt xua đi.

“Chờ chút đã,” hắn phản đối.

“Như ông đã hiểu rất đúng, chúng ta không có nhiều thời gian đâu.”

Dee đưa tay lên nắm lấy cánh tay Marethyu. “Tôi không thể cảm nhận được luồng điện của ông.”

“Tôi không có.”

“Mọi người đều có luồng điện mà,” Dee nói khẽ, một lần nữa lại bối rối trước những gì chợt đến với mình.

“Mọi người đang sống kia,” người đàn ông trả lời.

“Ông là người chết à?”

“Tôi là Thần Chết mà.”

“Nhưng ông có năng lực chứ?”

“Có, năng lực bao la.”

“Ông có thể phục hồi tuổi trẻ cho tôi được không?”

Im lặng bao trùm, rồi bằng thị lực ít ỏi của mình, Dee có thể gần như thấy rõ Marethyu đang chăm chú nhìn hắn. “Tôi có thể,” cuối cùng ông ta nói. “Nhưng tôi sẽ không làm.”

Dee không thể hiểu tại sao người đàn ông này cứu hắn, song lại để hắn chết. “Tại sao không?”

“Đó gọi là hậu quả, hoặc có thể là phán xét. Ông không phải là người tốt, Tiến sĩ Dee ạ, và ông nên trả giá cho các tội ác kinh khủng mình đã gây ra. Tuy nhiên những gì tôi sẽ làm là phục hồi một chút sức mạnh của ông và cho phép ông có được phẩm giá của mình.” Marethyu đặt bàn tay lên đỉnh đầu tay tiến sĩ và đẩy mạnh.

Một cú choáng, như những chiếc đinh ghim, kim găm, rập rờn khắp người Dee. Hắn cảm thấy hơi ấm lan tỏa trong vùng thượng vị. Hơi ấm ấy tràn lên, qua ngực, lan xuống cánh tay, đồng thời dâng khắp vùng bắp đùi, dọc theo bắp chân, vào đến hai bàn chân. Bỗng nhiên hắn cảm thấy mạnh mẽ hẳn ra.

“Còn thị giác của tôi nữa,” hắn nài xin. “Hãy trả lại thị giác và thính giác của tôi nữa.”

“Thật tham lam, Tiến sĩ ạ, tham lam quá. Luôn luôn và mãi mãi ông chẳng bao giờ...”

“Ông đã mang tôi tới nơi lạ lùng này, thành phố đáng kinh ngạc nhất trong lịch sử Trái Đất. Song tôi lại không thể nhìn hoặc nghe gì được. Nếu ông từng dõi theo cuộc đời tôi, ông biết tôi lúc nào cũng bị lèo lái bởi sự khao khát tri thức, bởi một trí tò mò không sao thỏa mãn được mà. Xin làm ơn. Hãy cho tôi được nhìn thấy nơi này, để tôi có thể ghi nhớ lấy nó bất kể thời gian nào.”

Marethyu chồm tới trước, tựa ngón trỏ và ngón út vào hai mắt Dee, ấn nhẹ. Dee cảm thấy đau tức một chút, một nhát đâm nhức nhối lan khắp vùng xương sọ, sau đó Thần Chết nhấc bàn tay ra, Dee mở choàng mắt. Bóng tối biến mất và mọi thứ đều có đường nét sắc sảo. Hắn đã có thể nhìn thấy được rồi. Ngẩng lên nhìn Marethyu. Nửa dưới khuôn mặt kia bị che khuất trong một chiếc khăn quàng dày, phía trên là một đôi mắt sáng màu xanh lơ chằm chặp nhìn tay Pháp sư với vẻ gì đó vừa tò mò vừa vui thích. “Thỏa mãn chưa, ông Tiến sĩ?”

Dee cau mày. “Tôi đã gặp ông rồi,” hắn chậm rãi nói. “Tôi thấy ông gần như rất quen.”

“Chúng ta đã gặp nhau nhiều lần rồi mà. Đơn giản ông không biết đó chính là tôi thôi. Tôi là khuôn mặt trong tấm gương, tiếng nói trong bóng tối, dáng dấp trong màn đêm. Tôi là tác giả của những mảnh ghi chú không kí tên, và sau này là những bức thư điện tử nặc danh, mà ông từng nhận được. Tôi là tiếng nói trong máy trả lời tự động của ông, là những tin nhắn tồi tệ trong điện thoại của ông.”

Dee nhìn chăm bẳm vào hình dáng ấy đầy sợ hãi. “Tôi tưởng đó là các chủ nhân Elder của tôi đang nói với tôi.”

“Đôi khi. Chứ không phải luôn luôn.”

“Nhưng ông không liên đới với họ sao?”

“Tôi đã trải qua nhiều thiên niên kỉ gây cản trở cho họ.”

“Ông đã điều khiển tôi,” Dee buộc tội ông ta.

“Ồ, thôi nào, đừng có vẻ sốc thế chứ. Ông đã trải qua cả đời điều khiển người khác còn gì.”

Dee từ từ đứng dậy. Hắn vẫn còn già cỗi lắm. Hắn đoán thân xác mình có khả năng là thân xác của người tám mươi tuổi, nhưng thị giác và thính giác lại là của một chàng thanh niên. Hắn trèo ra khỏi chiếc vimana, nhìn quanh quất.

Họ đang đứng trên một bệ phẳng rộng gần đỉnh một ngọn tháp pha lê sứt sẹo. Mặt đất rải rác những gì còn sót lại của vũ khí, của những mảnh áo giáp, và những cục đá vương vãi dính đầy thứ chất lỏng màu đen và xanh lá, nhưng không có xác chết nào.

Marethyu sải chân bước về phía một ngưỡng cửa trong ngọn tháp, tấm áo choàng đen có mũ trùm phấp phới đằng sau. Bộ khung và lớp đá chung quanh cánh cửa ra vào bị sứt mẻ, mặt đất trơn trượt vì những thứ chất lỏng lính dính màu xanh lá và đen. Có những vết loang của gì đó như máu người lung tung trên mặt đất và bắn tóe trên mấy vách tường pha lê trắng nuốt bị rách toạc.

“Ở đây đã xảy ra chuyện gì?” Dee hỏi.

“Đã có một vụ đánh nhau. Thật ra là một cuộc tàn sát. Mới đây thôi.” Giọng Marethyu hạ xuống thành lời thì thào khàn khàn. “Đừng trượt chân đấy,” ông ta ngoái lại nói lớn. “Đường dài lắm.”

Dee cúi gập người lượm lên một thứ mà hắn nghĩ là một ngón giáo gãy. Đầu giáo đã văng mất trông như bị lạng đứt gọn. Dùng đoạn gỗ làm gậy đi đường, hắn bám theo Thần Chết băng qua cửa đi vào một căn phòng nho nhỏ hình tròn. Phòng ốc trống trơn. “Ông đâu rồi?” tay Pháp sư hỏi, giọng vang dội khi hắn nhìn quanh. Hắn để ý thấy có nhiều máu trên mặt sàn, và khi dí ngón chân vào đó, chất lỏng nhòe ra. Máu còn tươi.

“Trên này.” Câu trả lời phát ra từ một dãy cầu thang nằm khuất tầm mắt.

“Ở đâu?”

“Đây này!” Dee lần theo âm thanh giọng nói của Marethyu, tìm thấy cầu thang. Hắn chống đứng ngọn giáo gãy trên nấc thang đầu tiên, ngước nhìn vào vùng bóng tối u ám. “Chúng ta sẽ đi đâu?” hắn gọi lớn.

“Lên.”

Tay Pháp sư bước lên một nấc thang. “Ở đâu? Tại sao?”

Gương mặt Marethyu xuất hiện bên trên Dee, mặc dù miệng ông ta bị che khuất, Dee vẫn biết ông ta đang mỉm cười. “Tại sao à, ông Tiến sĩ, chúng ta đến gặp Pháp sư Abraham. Tất nhiên là ông biết cái tên ấy mà, phải không?”

Miệng mồm tay Pháp sư há ra ngậm lại đầy vẻ kinh ngạc.

“Tôi thấy ông rồi nhé.” Đôi mắt màu xanh lơ của Thần Chết nhăn nheo. “Ông ấy muốn lấy lại cuốn sách của mình đấy.”

CHƯƠNG MƯỜI CHÍN

Gian phòng rộng mênh mông.

Sophie Newman ngồi trên chiếc giường còn lớn hơn cả căn phòng của cô bé trong nhà dì Agnes ở San Francisco. Thực ra, cô bé nghĩ có thể nó lớn hơn toàn bộ tầng trên cùng của căn nhà ấy nữa kìa. Cô bé chắc chắn rằng gian phòng này được đặc biệt chuẩn bị dành cho cô bé. Mọi thứ từ bồn tắm chìm to tướng tới tủ quần áo sâu có thể bước vào được, tới nền đá lát dưới sàn đều hoặc là kim loại bạc, bọc bạc hoặc đánh bóng bằng bạc. Thậm chí khung giường cũng được đúc từ một khối kim loại ròng. Có ba bức tường được đánh bóng sáng lấp lóa, bức thứ tư bằng thủy tinh trượt mở vào khoảng sân trong rộng lớn. Một chiếc khung bạc được trang trí công phu nằm trên mặt bàn ngủ bằng bạc, lưu giữ một trong những tấm hình ưa thích nhất của cô bé, một bức ảnh chụp nhanh toàn bộ gia đình nhà Newman đang đứng trong tàn tích Machu Picchu cao tít trên rặng núi Peruvian. Mọi người đều cười hể hả, bởi vì Josh vừa giẫm vào một đống phân lạc đà không bướu, bắn vào cả giày vớ của cậu.

Thậm chí không nhìn, cô bé cũng biết phòng của Josh cũng được trang trí và trang bị toàn vàng ròng.

Nhưng điều thuyết phục cô bé rằng gian phòng này đã được chuẩn bị trước cho cô bé là trần nhà. Nó được sơn một màu xanh đậm, lộng lẫy. Đặt lưng xuống giường, cô bé nhìn lên. Những ngôi sao bạc tạo thành hình chòm sao Orion, và nửa vầng trăng khổng lồ rực rỡ lấp đầy một góc đối diện thẳng với giường cô bé.

Mẹ cô bé đã sơn một trần nhà giống hệt thế này trong phòng ngủ cô bé ở nhà dì Agnes.

Sophie đi dọc theo chiều dài gian phòng bạc, kéo mở cánh cửa đôi của tủ quần áo khổng lồ. Cô bé há hốc miệng hết sức kinh ngạc, xếp thành hàng ngăn nắp trên hai thanh treo đầu cắm vào hai dãy kệ là tất cả quần áo cô bé đã bỏ lại ở San Francisco: quần jeans, áo khoác, đầm, đồ lót. Nhưng khi luồn ngón tay vào chiếc quần jeans, cô bé liền khám phá ra rằng nó cứng đơ và nhận thấy là chúng chưa được mặc lần nào. Hết thảy quần áo đều còn mới toanh, một số vẫn còn nhãn đính vào đó. Bước vào tủ, cô bé đi giữa hai hàng thanh treo, rà quét mấy ngón tay trên quần áo. Cô bé nhận ra mọi thứ: từng chiếc áo chiếc quần cô bé đã mua hoặc mẹ hoặc dì tặng làm quà qua suốt những năm qua đều ở đây, cũng có cả chiếc áo khoác Oakland A màu xanh lá, trắng, vàng Josh đã tặng cô bé nữa. Bất chợt cô bé cười thành tiếng, chắc hẳn chẳng bao giờ cô bé nghĩ ra được rằng hãng chuyển giao hàng hóa UPS cũng giao hàng tới tận Danu Talis.

“Xin chào?” Có tiếng gõ nơi cửa ra vào, cô bé quay người lại ngay khi Isis hay đó chính là Sara, mẹ cô bé, trượt mở cánh cửa, săm soi nhìn vào phòng. “Con đấy ư. Mẹ chỉ hi vọng con thấy mọi thứ đều ổn.”

“Vâng, vâng, mọi thứ đều... thật khó tin,” Sophie nói, mặc dù giọng cô bé chẳng mấy nhiệt tình. “Con chỉ đang nhìn quần áo chút thôi.”

“Cha con nghĩ biết đâu việc chuyển chỗ sẽ dễ dàng hơn nếu các con có quanh mình mọi thứ đồ đạc quen thuộc.”

“Cám ơn ạ. Chỉ là hơi quá một chút. Vâng,” cô bé nói thêm, “có lẽ một chút thôi.”

“Ồ, Sophie.” Isis bước vào phòng. Bà ta đã cởi bộ giáp trắng bằng sứ và đang mặc sơ mi và quần vải lanh giản dị. Bàn chân nhỏ xíu để trần. Sophie để ý thấy móng chân bà cũng được sơn đen hợp với màu móng tay. Trước đây cô bé chưa bao giờ biết mẹ mình sơn móng chân. “Ta biết thật sự biết chuyện này phải khó khăn đối với con chừng nào.”

Tràng cười của Sophie run run. Cô bé chợt thấy tức giận. Họ mong muốn cô bé cứ chấp nhận tất cả chuyện này không một câu hỏi sao? “Trừ phi vừa mơi đây mẹ khám phá ra rằng mẹ của mình là một Elder mười ngàn tuổi ở Danu Talis được đặt tên theo một nữ thần Ai Cập, còn thì con không nghĩ mẹ biết con đang cảm thấy thế nào đâu.”

“Thật ra, không phải ta được đặt theo tên nữ thần Ai Cập, ta chính là nữ thần Ai Cập ấy.” Người phụ nữ mỉm cười, và trong chốc lát, với khóe mắt khóe miệng nhăn nhăn, trông bà ta giống hệt Sara Newman. “Nhưng ta là mẹ con, Sophie, và ta muốn con biết rằng tất cả chuyện này được thực hiện để bảo vệ con và em trai con.”

“Tại sao?” Sophie hỏi gặng.

Isis băng qua gian phòng, đôi chân trần để lại những vết chân ẩm trên mặt sàn lát bạc, bà trượt mở bức tường bằng kính dẫn ra ngoài. Một luồng hương thơm lạ lẫm tràn vào phòng. Nước nhỏ lanh canh, và xa xa vọng lại giọng nói rì rầm mơ hồ của Osiris cùng tràng cười giòn của Virginia Dare. “Con có kiến thức của Bà Phù Thủy Endor trong người mình đúng không?” Isis hỏi.

Sophie chậm rãi gật đầu. Khi mẹ cô bé còn đang nói, những hình ảnh xa lạ nhấp nháy nhảy múa ngay trên giới hạn tầm nhìn của cô bé, và Sophie biết đây không phải là kí ức của mình.

... Isis và Osiris mình mặc giáp trắng dẫn đầu một đạo quân anpu, cưỡi trên lưng loài thằn lằn khổng lồ, chạy ra khỏi thành phố rực cháy. Không một thi thể nào rải rác dọc đường là người, nhưng rất giống gấu, và không ai trong chúng được trang bị vũ khí.

... Isis và Osiris mình mặc y phục Ai Cập cổ, mặc dù quang cảnh là một khu rừng sum suê tươi tốt chứ không phải vùng sa mạc, từng hàng dài ngút mắt những nô lệ người đang kéo lê từng phiến đá về phía khối kim tự tháp xây dang dở.

... Isis và Osiris mình mặc áo choàng trắng, đeo mặt nạ trắng đứng trong một phòng thí nghiệm ánh sáng lập lòe đang quan sát các sinh vật giống như loài chuột khổng lồ mình trụi lủi bò lúc nhúc trong những chiếc chum tròn chứa chất lỏng màu hồng hồng sền sệt.

Isis mỉm cười, môi ngậm chặt. “Và ta nghĩ tốt hơn hết là phải cảnh báo với con rằng Phù thủy Zephaniah chưa bao giờ là bạn bè của chúng ta, vì thế chắc chắn con sẽ biết được những sự thật khó ưa về chúng ta. Nhưng hãy nhớ, những gì con đang trải qua đang nhớ lại tất cả là cách hiểu của Bà Phù Thủy. Không nhất thiết đó là sự thật. Mỗi câu chuyện đều có hai mặt.” Đôi mắt người phụ nữ nhắm lại và thoáng mùi hương quế rỉ vào phòng. “Đôi khi tất cả đều cần một chút phối cảnh.”

Sophie rùng mình khi những kí ức mới đổ ào vào và xoáy tít khắp tâm trí cô bé.

... Isis và Osiris mình mặc giáp trắng dẫn đầu một đạo quân anpu, cưỡi trên lưng loài thằn lằn khổng lồ, bảo vệ một ngôi làng tràn ngập những người giống như gấu có hình dáng nhỏ nhắn chống lại một quân đội to lớn gồm lũ quỷ sứ trông giống thằn lằn nước dãi nhễu nhão.

... Isis và Osiris mình mặc y phục cổ Ai Cập đang quan sát từng hàng dài những người đang ca hát, cười vang khi họ tháo dỡ một khối kim tự tháp và ném đá xuống biển.

... Isis và Osiris mình mặc áo choàng trắng, đeo mặt nạ trắng đứng trong một phòng thí nghiệm ánh sáng lập lòe đang quan sát các sinh vật giống như loài chuột khổng lồ mình trụi lủi bò lúc nhúc trong những chiếc chum tròn chứa chất lỏng màu hồng hồng sền sệt. Hai vợ chồng nhẹ nhàng giúp từng sinh vật một ra khỏi chum, quấn chúng trong lá bạc và mang chúng qua một cái giường. Phía trên giường, những ô cửa sổ hẹp hình chữ nhật cho thấy một thế giới nước ở đó các sinh vật giống chuột này nhào xuống và bơi lội. Xa xa loáng thoáng một thành phố trắng toát rộng bao la.

Isis choàng mở đôi mắt màu xanh lơ. “Hãy thong thả kiểm tra kĩ vùng kí ức của con, kí ức của Zephaniah và cân nhắc xem những gì ta nói với con có phải là thật không. Trong ngôi nhà này, thời điểm này, cặp song sinh huyền thoại có ít bạn bè thật tình lắm.”

Những khuôn mặt, một số là người, số khác là súc vật, và chợt thấp thoáng một vài con là sự chuyển tiếp giữa cả hai thứ, Sophie biết cô bé đang nhìn thấy kẻ thù của mình và Isis đang nói thật.

“Danu Talis được thống trị bởi các Elder và hậu duệ của các Elder Vĩ đại. Trong triều đình có nhiều phe cánh cố gắng giết chết hoặc kiểm soát con.” Isis bước đến, áp hai bàn tay lên mặt Sophie.

Cô gái nhỏ cố quay đi, nhưng người phụ nữ kia giữ quá chặt.

“Mọi thứ chúng ta có đều được dành để bảo vệ cả hai đứa con.” Người phụ nữ nhanh nhẹn chồm tới hôn vào trán Sophie, cô gái nhỏ níu lại và ôm lấy mẹ mình. Cảm giác gai gai của mùi quế khô dày đặc, đọng lại nơi cuống họng cô bé. “Thôi thay quần áo đi, rồi đến ăn. Cha con và mẹ sẽ trả lời mọi câu hỏi của tụi con, mẹ hứa đấy.”

“Mọi câu hỏi của tụi con?” Sophie hỏi.

“Mọi thứ. Thời của những bí mật đã qua rồi.”

CHƯƠNG HAI MƯƠI

“Đường hầm này chạy dưới sân nhà tù,” bóng ma của Juan Manuel de Ayala nói. “Nó nối với một đường hầm khác dẫn đến tháp nước. Có bậc thang dẫn hai người lên phía trên.”

Một quả banh năng lượng màu trắng nhỏ xíu do Niccolò Machiavelli tạo ra soi sáng đường hầm chật hẹp thấp chủm, làm ô uế bầu không khí bằng mùi ẩm mốc của rắn. Các bức vách biến màu được phủ một chất nhờn dinh dính dày cộp, nước từ trên trần nhỏ liên miên không ngớt. “Ông bạn, cái thứ này làm hỏng đôi giày bốt của tôi mất.” Tiếng nói của Billy vang bật ra khỏi mấy bức vách.

Machiavelli quay lại giương đôi mắt to nhìn chằm chặp vào gã. Trái banh năng lượng bằng nước kêu xì xì phía trên đầu y.

“Cái gì? Đây là đôi ủng ưa thích của tôi đấy!”

Machiavelli lắc đầu thất vọng. “Cố bám sát nhé,” y nói khẽ.

“Chúng ta đang bám theo một con ma xuống đường hầm nằm dưới một nhà tù.” Billy the Kid túm ống tay áo Machiavelli. “Làm thế nào mà chúng ta lại chịu tin vào ông ta... à... nó thế? Đây có thể là một cái bẫy.”

“Anh bắt đầu nói nghe hoang tưởng rồi nhỉ,” Machiavelli vừa nói, vừa liếc xéo sang anh chàng bất tử người Mỹ. Nước có màu xanh lục bắn tóe lên mặt gã và chảy cong theo hai bên gò má như những giọt nước mắt màu xanh lục bảo.

Billy nháy mắt. “Chứng hoang tưởng. Để tôi suy nghĩ về vụ này chút coi. Chúng ta chỉ là hai con người trên một hòn đảo đầy lũ quỷ sứ và các Elder. Vậy thì vâng, tôi cảm thấy có chút hoang tưởng đấy. Ông đã bao giờ xem ‘Star Trek’ chưa?” gã chợt hỏi. “Bộ phim gốc ấy.”

Machiavelli nghiêng đầu sang một bên. “Tôi có giống như người đã xem ‘Star Trek’ không?”

“Khó nói lắm. Ông không bao giờ nghĩ ra đâu, nhưng Diều Hâu Đen là một tay hâm mộ ‘Star Trek’ thứ thiệt đấy. Có đủ đồng phục và các thứ.”

“Billy, tôi điều hành một trong những tổ chức dịch vụ bí mật tinh vi nhất thế giới. Tôi không có thì giờ cho ‘Star Trek’.” Y dừng lại một chút rồi gật đầu, “tôi hâm mộ ‘Star Wars’ hơn. Sao anh hỏi vậy?”

“Thì khi thuyền trưởng Kirk và ngài Spork, ông biết họ là ai mà, phải không?”

Machiavelli thở dài. “Tôi từng sống trong thế kỉ hai mươi, Billy ạ. Tôi biết họ là ai chứ.”

“Tốt, khi họ rọi ánh sáng xuống một hành tinh, thường là Tiến sĩ McCoy mà đôi khi là Scotty bố trí.”

“Aspetta,” Machiavelli bắt đầu nói bằng tiếng Ý. “Chờ chút. Vậy là thuyền trưởng và ngài Spock, nói lại ông ta là gì?”

“Thần Lửa.”

“Cấp bậc của ông ta ấy?” Machiavelli gắt.

“Sĩ quan tối cao.”

“Vậy là, thuyền trưởng, sĩ quan tối cao và máy trưởng của con tàu và thỉnh thoảng là viên kĩ sư tất cả bọn họ chiếu rọi ánh sáng xuống một hành tinh. Cùng nhau. Toàn bộ quân số đầy đủ của nhóm sĩ quan cao cấp hả?”

Billy gật đầu.

“Ai chỉ huy con tàu?”

“Tôi không biết. Các sĩ quan cấp dưới, tôi đoán thế.”

“Nếu họ làm việc cho tôi, tôi đã đưa họ ra tòa án quân sự rồi. Nghe có vẻ như một vụ thiếu sót bổn phận rành rành ra đó.”

“Tôi biết. Tôi biết. Bản thân tôi luôn nghĩ như vậy thật kì quặc. Nhưng đó không phải là vấn đề.”

“Chứ vấn đề là gì?”

“Thường có một anh chàng mặc áo sơ mi đỏ đi kèm với họ. Luôn luôn là một tay thủy thủ mà trước đó ông chưa hề nhìn thấy bao giờ. Và ngay khi ông nhìn thấy chiếc áo sơ mi đỏ, ông biết anh ta sẽ chết.”

“Chuyện này dẫn đến đâu?” Machiavelli hỏi.

Billy chồm tới. “Bộ ông không thấy...” Ánh sáng nhấp nhô ném đôi mắt lấp lánh của gã vào vùng tối. “Chúng ta là những chiếc áo sơ mi đỏ ấy.” Gã chĩa ngón tay cái lên đầu. “Các Elder trên kia sẽ sống sót, họ luôn thế. Có lẽ phần lớn lũ quỷ sứ cũng sẽ sống sót. Dee và Dare đã rút lui. Cuối cùng chúng ta là những kẻ sẽ bị ăn thịt.”

Tay người Ý thở dài. “Suốt vương triều Napoleon, tiện thể phải nói đây là một vương triều tôi rất thích, đã phát sinh ra thuật ngữ người ôm pháo,” y nói. “Tôi e rằng anh nói đúng đấy.”

“Tôi nghĩ mình thích thuật ngữ sơ mi đỏ hơn,” Billy nói khẽ.

“Ê!” Một miếng kim loại cong cong độc địa quấn quanh cổ họng anh chàng bất tử người Mỹ và một gương mặt nước da màu đồng, với cái mũi nhọn, lùm lùm trong vùng tối, hàm răng trắng tương phản với cặp môi mỏng. “William Bonney, anh có biết bao nhiêu lần đáng lẽ ra tôi đã có thể giết chết anh không? Anh đang trở nên ủy mị sướt mướt rồi đấy.”

“Diều Hâu Đen,” Billy thều thào. “Anh làm tôi hoảng hoảng đến chết khiếp!”

“Một bầy trâu chạy tán loạn còn gây ra ít tiếng ồn hơn anh mà lại biết điều hơn.”

Billy quay lại, gạt cái rìu của Diều Hâu Đen qua một bên. “Ồ, thật tuyệt khi gặp anh, anh bạn cũ ạ.”

“Mừng khi gặp anh,” Diều Hâu Đen gật đầu với Machiavelli. “Cũng mừng khi gặp ông, ông người Ý.”

“Chúng tôi nhẹ cả người khi thấy anh còn sống,” Machiavelli nói. “Cứ sợ có gì xấu nhất xảy ra.”

“Suýt tí nữa. Bọn nhân ngư...”

“Nữ Thần Biển,” Billy xen ngang.

Diều Hâu Đen trừng mắt. “Xin lỗi, bọn Nữ Thần Biển làm ngập thuyền tôi, tôi vừa trườn mình lên bãi biển, đi vào một cái hang thì một thứ khổng lồ mình người chân bạch tuộc tấn công tôi.”

“Nereus đấy,” Machiavelli nói. “Lão Già Biển. Tôi ngạc nhiên khi anh thoát được.”

Diều Hâu Đen ngây người nhìn y, ánh sáng lấp lánh trên nước da màu đồng.

“Mà còn sống, ý tôi là vậy,” Machiavelli nói rõ. “Nereus là một trong những nhân vật chết người nhất trong các Elder.”

“Vậy à, bây giờ thì lão ta rõ ràng là chết ngắc rồi.” Anh chàng chiến binh bất tử gõ gõ chiếc rìu của người da đỏ vào lòng bàn tay mình và nháy mắt với Billy. “Đôi khi sơ mi đỏ cũng sống sót để chiến đấu vào một ngày khác chứ.”


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx