sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Bí quyết hóa rồng - Lịch sử Singapore 1965 - 2000 - Phần 2 - Chương 21 phần 3

Tại Kingston, Jamaica, vào tháng 4/1975, Thủ tướng Michael Manley, một người Tây Ấn da sáng, đã chủ trì cuộc họp với thái độ huênh hoang và nói năng rất hùng biện. Song tôi nhận thấy quan điểm của ông ta khá viển vông, ông chủ trương “tái phân phối tài sản của thế giới”. Quốc gia của ông là một hòn đảo phì nhiêu rộng khoảng 2.000 dặm vuông, có một số ngọn núi ở trung tâm, nơi trồng cà phê và các loại cây cận nhiệt đới khác. Họ có những khu nghỉ mát xinh đẹp do người Mỹ xây dựng làm nhà nghỉ đông. Họ có nền văn hóa thoải mái. Mọi người thuộc nhiều bài hát và các điệu nhảy, nói năng hùng hồn, nhảy múa sôi nổi và uống rượu nhiều. Họ đã bỏ lại đằng sau công việc nặng nhọc cùng cảnh nô lệ.

Một buổi chiều Chủ nhật, khi tôi và Choo bước ra khỏi hàng rào dây thép gai bao quanh các khách sạn dùng cho hội nghị để dạo bộ ngắm thành phố, một chiếc xe hơi đang chạy bỗng ngừng lại với tiếng gọi của người tài xế: “Ông Lý, ông Lý, đợi tôi với”. Một người Jamaica gốc Hoa, nói tiếng Anh giọng Caribbe, bước đến. “Ông không được quên chúng tôi. Chúng tôi đang ở trong giai đoạn rất khó khăn.” Ông ta đưa danh thiếp cho tôi. Ông là nhà kinh doanh bất động sản. Nhiều người có chuyên môn và những thương gia chuyển đến Hoa Kỳ, Canada đã nhờ ông bán đi các căn nhà và văn phòng của họ. Ông đã trông thấy tôi trên truyền hình Jamaica và ước ao được nói chuyện với tôi. Những người Hoa, người Ấn, và thậm chí cả người Jamaica da đen có chuyên môn cảm thấy không có tương lai dưới chính phủ xã hội chủ nghĩa cánh tả của Michael Manley. Các chính sách của chính phủ đều thất bại. Tôi hỏi ông dự định sẽ làm gì. Ông không phải là nhà chuyên môn, vì vậy ông có thể không đi. Tuy nhiên, khi đã bán tất cả các ngôi nhà lớn này và công việc kinh doanh bất động sản không còn nhiều để làm, ông có thể sẽ đi. Tôi mong ông sẽ gặp may mắn và kết thúc cuộc nói chuyện ngắn. Tôi thấy những nhân viên an ninh da đen người Jamaica đang bảo vệ chúng tôi dùng ngôn ngữ cử chỉ để yêu cầu chúng tôi quay lại. Về sau, tôi đọc những tin tức của Jamaica với sự thông cảm nhiều hơn.

Nhân lễ kỷ niệm 25 năm của Nữ hoàng, chúng tôi gặp nhau ở London vào tháng 7/1977. Mối quan hệ đã hoàn toàn khác. Nền kinh tế của Anh không còn mạnh; thật vậy, Denis Healey kêu gọi IMF giúp đỡ Anh thoát khỏi một số khó khăn vào năm 1976. Tôi nhớ mình đã đứng ở hàng phía sau Tổng giám mục Makarios của Cyprus khi Choo và tôi đợi ký vào sổ lưu niệm tại số 10 đường Downing, trước khi đi qua khu vườn phía sau để xem cuộc diễu binh mừng sinh nhật của Nữ hoàng. Đức ngài Phúc lớn không sử dụng cây bút do viên chuẩn úy người Anh đưa. Ông ấy rút cây bút của mình, ký vào sổ lưu niệm và đi. Khi tôi ký, tôi nói với người lính: “Vị Tổng giám mục đã ký bằng mực đỏ”. “Màu đỏ vì tay ông ấy dính đầy máu”, viên chuẩn úy trả lời, anh từng phục vụ ở Cyprus trong suốt những năm đẫm máu khi quân đội Anh phải ngăn cản những người theo chủ nghĩa dân tộc Cypriot muốn đánh đuổi quân Anh để liên minh với Hy Lạp.

Vào năm 1979, tôi thực hiện chuyến viếng thăm thứ ba đến Lusaka. Lần thứ nhất, vào năm 1964, là chuyến công du của tôi đến 17 thủ đô ở châu Phi, và lần thứ hai vào năm 1970, dành cho hội nghị thượng đỉnh các nước Không Liên kết. Từ năm 1970, kinh tế của Zambia đã suy yếu. Chúng tôi được tiếp đãi tại tòa nhà chính phủ, nơi tôi đã ở lại vào năm 1964 với tư cách là khách của viên thống đốc cuối cùng. Tòa nhà đã không còn vẻ xinh đẹp như trước. Số hươu và chim ngoại lai ở trong vườn ít hơn, và bề ngoài của ngôi nhà lớn cũng không còn cái vẻ bảnh bao như vốn có của các tòa nhà chính phủ thuộc địa Anh. Chúng tôi được sắp xếp ở trong những biệt thự gỗ như năm 1970, nằm xung quanh tòa đại sảnh do Nam Tư, một thành viên của phong trào Không Liên kết, xây cho họ. Tòa đại sảnh và những biệt thự gỗ đã không được sử dụng nhiều từ năm 1970, song chúng vừa mới được tân trang và trang bị lại với phí tổn khá lớn với những đồ đạc có nguồn gốc từ Tây Ban Nha.

Sự cung cấp thức ăn tại biệt thự gỗ nơi chúng tôi ở thật tồi tệ. Họ đã huấn luyện những sinh viên trẻ làm đầu bếp. Thực đơn về thức ăn của chúng tôi là thịt lưng lợn muối và trứng hoặc chỉ có trứng luộc lòng đào cho bữa điểm tâm, thịt bò cho bữa trưa và thịt bò cho bữa tối. Có quá nhiều rượu so với nhu cầu của chúng tôi.

Mọi thứ đều khan hiếm. Các cửa hiệu trống rỗng. Không có các vật dụng vệ sinh nhập khẩu từ nước ngoài và chỉ có một ít hàng địa phương thay thế. Choo đã thấy cảnh những phụ nữ xếp hàng chờ mua những thứ cần thiết. Đồ lưu niệm duy nhất mà Choo có thể mua là quả trứng làm bằng chất malachit, làm chúng tôi hiểu rằng Zambia có nền kinh tế gần như tự cấp tự túc, nhỏ bé, và giá của nó không bắt kịp với giá dầu và những mặt hàng nhập khẩu khác. Họ không có ngoại hối, và đồng tiền của họ đang giảm giá một cách nhanh chóng. Mối quan tâm hàng đầu của Thủ tướng Kenneth Kaunda là chính trị, hoạt động chính trị của người da đen chống lại người da trắng, chứ không phải là sự tăng trưởng kinh tế cho đất nước Zambia. Ông ta đã giữ chức tổng thống cho đến những năm 90 khi, với lòng tin của ông, ông đã chỉ đạo một cuộc bầu cử công bằng và đã bị thất cử. Sau khi Kaunda rời khỏi chức vụ, cuộc sống của nhiều người dân Zambia vẫn không được cải thiện nhiều.

Cuộc gặp gỡ đáng nhớ nhất của tôi tại hội nghị Melbourne vào tháng 10/1981 là cuộc gặp với một người Ấn tại phòng ăn. Chúng tôi là hai người duy nhất đang tìm các món ăn nhẹ. Tôi hỏi có phải ông ấy đi cùng với phái đoàn Ấn Độ không. Nhưng không phải, ông ta là nhà lãnh đạo của phái đoàn Uganda, thay mặt cho Tổng thống Milton Obote không thể đến được. Tôi ngạc nhiên (những người Ấn đã bị Idi Amin ngược đãi trong một thập niên và đã chạy trốn khỏi Uganda) và hỏi ông ta có trở về Uganda không. Không, gia đình ông đã định cư ở London và ông hiện là Cao ủy viên Uganda ở London. Ông đã ra đi trong thời gian cai trị của Idi Amin. Tôi hỏi ông điều gì đã xảy ra với Chủ tịch Hạ viện Uganda, người đã đón tiếp tôi và phái đoàn của tôi tại Tòa nhà quốc hội ở Kampala, vào tháng 1/1964. Ông ấy là một người Sikh với một chiếc khăn xếp trên đầu, tự hào về Tòa nhà quốc hội được ốp đá của ông. Thật ngẫu nhiên, cựu chủ tịch này cũng đang đến Melbourne để gặp người bạn Ấn Độ của tôi vào ngày hôm sau. Ông ta bị ép buộc phải rời khỏi Uganda và đã định cư ở Darwin, nơi đó ông trở thành một quan tòa. Tôi cảm thấy buồn. Lẽ ra Uganda có thể hợp tác với những người như thế nhiều hơn, để tạo động lực cho nền Uganda giống như những người Sikh đã từng giúp nhiều quốc gia khác, trong đó có cả Singapore. Ông ta là nạn nhân của cuộc đảo chính vào năm 1971 khi Idi Amin truất phế Milton Obote lúc ông đang ở tại Singapore.

Hai năm sau tại Delhi, tôi được xếp ngồi cạnh phu nhân của Otobe trong bữa tiệc tối của Nữ hoàng. Bà ấy đã cho tôi biết một khía cạnh khác về bi kịch của Uganda khi thuật lại chi tiết về việc bà và ba đứa con đã trốn từ Kampala đến Nairobi trong cuộc đảo chính năm 1971. Họ bị gởi trả về nước. Họ trốn thoát một lần nữa và đã trải qua những năm tháng ly hương tại Dar–es–Salaam. Bà trở về Uganda vào năm 1980, một năm sau khi Idi Amin bị truất phế. Milton Obote, lúc này đã trở lại chức vụ Tổng thống, trở thành một người đàn ông nhiều sầu thảm và thờ ơ hơn. Tôi đã nắm được khái quát tầm nghiêm trọng thảm họa của người Uganda từ cuộc nói chuyện với phu nhân của ông. Bà phát hiện ra rằng mọi người đã thay đổi, không còn sẵn sàng làm việc cho những gì họ cần. Sau chín năm sống trong sự tàn bạo, tình trạng hỗn độn và đồi bại dưới thời Idi Amin, người dân đơn giản chỉ chộp lấy những thứ mà họ muốn. Họ đã đánh mất những thói quen của cuộc sống văn minh. Tôi phải hình dung lại cảnh tượng này khi đội quân cảnh sát của chúng tôi trong lực lượng Liên Hiệp Quốc thuật lại những điều họ đã trải qua ở Campuchia từ năm 1991–1993. Có thể, Campuchia đã tồi tệ hơn sau 20 năm hỗn loạn.

Tháng 10/1983, Margaret Thatcher thảo luận về vấn đề Hong Kong. Đặng Tiểu Bình kiên quyết đòi được trao trả Hong Kong. Bà cố gắng thuyết phục ông cho phép gia hạn hợp đồng thuê, ông nói rõ điều đó hoàn toàn không thể chấp nhận; Trung Quốc phải lấy lại chủ quyền vào năm 1997. Quan điểm của tôi như thế nào? Bà đề xuất vấn đề vì viên thống đốc thông báo cho bà biết rằng Hong Kong thuê Lãnh Thổ Mới sắp hết hạn. Tôi hỏi bà sẵn lòng bảo vệ quan điểm của bà tới đâu khi sự tồn tại một Hong Kong thuộc địa Anh phụ thuộc vào thái độ của Trung Quốc. Bà chưa có câu trả lời sẵn sàng. Tôi nghĩ việc Trung Quốc đồng ý gia hạn hợp đồng cho thuê không thể xảy ra vì uy tín quốc gia sẽ bị đe dọa. Trong trường hợp của Ma Cao thì Bồ Đào Nha chỉ tiếp tục sự cai trị của họ mà không đặt vấn đề gì với Bắc Kinh. Bà nói viên thống đốc nói với bà rằng ông ta không có thẩm quyền theo luật định để gia hạn hợp đồng quá năm 1997, vì vậy bà phải nêu vấn đề.

Trước khi rời Delhi, tôi đã đưa ra quan điểm của tôi rằng bà đã có vài lá bài trong tay. Cách giải quyết tốt nhất là chuyển vấn đề này cho tòa án Trung Quốc, để nói với ông Đặng rằng Hong Kong có thể tồn tại và phồn vinh chỉ khi nào Trung Quốc muốn nó như vậy. Thuộc địa Hong Kong, chính hòn đảo này, và bán đảo Cửu Long không thể tồn tại nếu không có Lãnh Thổ Mới (New Territories) vốn đang là những bất động sản cho thuê theo hợp đồng. Vì vậy sẽ không thực tế nếu chấp nhận quan điểm theo pháp luật rằng Anh có thể tiếp tục nắm giữ thuộc địa ngoại trừ Lãnh Thổ Mới (New Territories); tốt hơn hết là tạo các điều khoản cho Hong Kong sẽ cho phép nó tiếp tục thịnh vượng như nó đã thịnh vượng nhưng dưới ngọn cờ của Trung Quốc.

Tôi chờ đợi cuộc hội nghị ở Nassau, Bahamas, vào tháng 10/1985. Đó là sân chơi của những người Mỹ giàu có. Khi đó, tôi đã đọc các hồ sơ của Anh về tình trạng thuốc phiện đã lan rộng khắp Bahamas và tội ác bạo lực đã tung hoành như thế nào. Tờ báo Sunday Times ở London đưa tin rằng Thủ tướng Sir Lynden Pindling có dính líu. Không có vụ kiện tội vu cáo nào theo sau. Để đến dự bữa tiệc tối của Nữ hoàng trên chiếc du thuyền Hoàng gia Britiannia, Pindling đã tổ chức cho tất cả các nhà lãnh đạo một chuyến đi bằng thuyền từ khách sạn của chúng tôi đến du thuyền Britiannia. Tôi quyết định đi bằng đường bộ. Gần cầu tàu nơi du thuyền Hoàng gia đang bỏ neo, chúng tôi đã đi ngang qua đám đông những người biểu tình với các tranh cổ động tố cáo Pindling; một số người nói: “Thủ tướng là một tên trộm”. Pindling và những người khách khác của ông đã mất nhiều thời gian đi bằng thuyền hơn so với chúng tôi đi bằng xe hơi. Hoặc vì biển động hoặc vì tàu chạy chậm, họ đã buộc Nữ hoàng đợi hơn một tiếng đồng hồ. Nữ hoàng luôn hòa nhã và tự chủ trong lời lẽ, nhưng không quen với việc phải chờ đợi. Bà ấy nói với tôi rằng các món sẽ bị nhừ. Món chính bị nhừ, nhưng món tráng miệng thì thật tuyệt.

Một ngày nọ, tôi đã dùng bữa trưa với Tổng thống Sri Lanka, Junius Jayewardence, và vị chánh án của Bahamas. Vị chánh án nói về thói quen sử dụng cocain rộng rãi trong nước và nhiều người đã tạo được nhiều của cải trong buôn bán thuốc phiện. Bọn buôn lậu bay đến Baha­mas từ Nam Mỹ trên những chiếc phi cơ nhỏ. Cùng với sự đồng lõa của hải quan và các quan chức khác, thuốc phiện được vận chuyển bằng đường hàng không hoặc đường thủy đến đất liền Mỹ. Trong quá trình chuyên chở, chúng đã đưa thuốc phiện đến dân cư địa phương và đã làm tan nát nhiều gia đình. Nhiều bộ trưởng cấp cao trong chính phủ có liên quan. Khi rời Nassau, tôi đã đánh mất ảo tưởng cuối cùng của tôi về một hòn đảo thiên đường tại bất cứ nơi nào của thế giới.

Hội nghị cuối cùng của tôi là ở Kuala Lumpur vào tháng 10/1989. Như hội nghị trước đó ở Vancouver tháng 10/1987, không có biến cố và các vấn đề “nóng” nào ở hội nghị. Tôi đã trải qua một đêm dài ở đảo Langkawi, trong suốt thời gian “ẩn dật” (thời gian tụ họp thân mật của các thành viên hội nghị ở một địa điểm nào đó), tán gẫu với Thủ tướng Bhutto và chồng của bà, ông Asif Zadari, và học hỏi được rất nhiều điều về nền chính trị và văn hóa của Pakistan. Bà Thủ tướng có diện mạo trẻ trung, làn da trắng, khuôn mặt ăn ảnh và trang điểm khá đẹp. Chồng bà là một người sôi nổi và khéo mặc cả, không hề do dự khi nói với tôi rằng ông sẵn sàng thực hiện các vụ mua bán với bất kỳ mặt hàng nào. Ông đang kinh doanh trái cây và những mặt hàng xuất khẩu, bất động sản cùng với mọi thứ khác. Tôi hứa sẽ giới thiệu ông với một số hãng nhập khẩu trái cây để mua xoài của ông, và tôi đã thực hiện lời hứa khi ông cùng vợ đến Singapore tham dự các cuộc hội nghị vào năm 1995. Ông là một người láu cá đáng yêu. Song tôi không bao giờ nghĩ rằng ông có thể giết anh vợ mình như chính phủ Pakistan đã buộc tội sau khi vợ ông bị Tổng thống cách chức.

Đó là hội nghị Khối Thịnh vượng chung cuối cùng mà tôi tham dự khi tôi chuẩn bị từ chức Thủ tướng vào năm 1990. Hội nghị đầu tiên năm 1962 là hội nghị thuộc một thời đại khác với một nhóm những nhà lãnh đạo khác. Khối Thịnh vượng chung khi đó là một tổ chức tương đối nhỏ, có những mối quan hệ sâu xa về lịch sử và họ hàng giữa Anh và những thuộc địa cũ của nó. Họ vẫn có sự liên kết chặt chẽ về kinh tế và chính trị với những quốc gia mới độc lập, tất cả vẫn còn được hưởng sự ưu đãi thuế quan của Khối Thịnh vượng chung, và Anh là đối tác thương mại chính. Khi Thủ tướng Harold Macmillan, người đàn ông của đế quốc thuộc thế hệ đã từng đấu tranh trên mặt trận phương Tây trong chiến tranh Thế giới Thứ nhất, khởi xướng sự gia nhập Anh vào châu Âu, những kẻ thống trị người da trắng cũ đều sửng sốt. Họ cảm thấy bị bỏ rơi sau khi đã sát cánh cùng Anh trong hai cuộc chiến tranh thế giới. Ngài Robert Menzies, Thủ tướng Úc, bằng sự can thiệp mạnh đã phá vỡ sự tự tin của Macmillan rằng Anh vẫn sẽ tiếp tục duy trì được mối quan hệ chặt chẽ với Khối Thịnh vượng chung sau khi gia nhập vào Cộng đồng Kinh tế châu Âu (European Economic Community – EEC).

“Tôi lãnh đạo một liên đoàn. Tôi biết các liên đoàn hoạt động như thế nào”, Menzies nói. Hoặc là chúng hướng tâm trong trường hợp các bang ngày càng tiến lại gần nhau như ở Úc, hoặc chúng ly tâm, với những bang chuyển động ngày càng xa nhau cho đến lúc cuối cùng chúng tách rời ra. Chúng không bao giờ đứng yên. Nếu Anh gia nhập vào EEC, mối dây ràng buộc giữa Anh và Khối Thịnh vượng chung sẽ trở nên lỏng lẻo và yếu ớt”. Nhìn lại hơn 40 năm qua, tôi nhớ lại Menzies đã tiên tri đúng như thế nào.

Anh và châu Âu đã tiến đến gần nhau hơn. Ngay cả các nước thuộc Khối Thịnh vượng chung cũ, bất kể thân thuộc đến mấy, đã không còn chia sẻ với nhau những mối quan hệ tình cảm sâu sắc của những năm 60. Vận mệnh của họ đi trên những con đường khác nhau trong những lục địa riêng biệt. Hai mươi lăm năm sau, vào năm 1998, người Anh vẫn chưa thống nhất ý kiến trong việc liệu có nên dùng một loại tiền tệ, đồng Euro, và (điều mà nhiều người lo sợ và không muốn) có nên gia nhập vào khối liên bang siêu quốc gia của châu Âu hay không.

Rồi vào năm 1989, với hơn 40 nhà lãnh đạo, không còn tồn tại ý thức về các giá trị được chia sẻ. Đó là một câu lạc bộ mà các thành viên đến rồi đi bất ngờ với những thay đổi bất thường của các cuộc bầu cử và các cuộc đảo chính, không có thời gian để chào tạm biệt. Hầu hết các đề tài nóng hổi ngày nay đều mang tính phù du – trật tự kinh tế quốc tế mới, cuộc đối thoại Bắc – Nam, sự hợp tác Nam – Nam, Rhodesia, nạn phân biệt chủng tộc – tất cả là một phần của lịch sử. Tuy nhiên, mỗi hội nghị đều nhắm đến một mục đích. Một nhà lãnh đạo có thể nhấn mạnh một số vấn đề nào đó một cách trực tiếp với các nhà lãnh đạo khác và đưa phe chống đối vào thế phòng thủ, như đã xảy ra khi Ấn Độ ủng hộ Việt Nam chiếm đóng Campuchia. Mặt đối mặt, bà Gandhi, bằng uy tín của bà, không thể và đã không bảo vệ được quan điểm của Ấn Độ. Điều này tạo ấn tượng cho những nhà lãnh đạo khác và ảnh hưởng đến lập trường của họ đối với vấn đề này. Tham dự các hội nghị này rất có giá trị. Nhưng tôi đã tham dự quá nhiều hội nghị và đây là lần cuối cùng của tôi.

Trong suốt các hội nghị của Khối Thịnh vượng chung, mỗi nguyên thủ quốc gia đều được tiếp kiến Nữ hoàng với tư cách là người đứng đầu Khối Thịnh vượng chung. Ngoại lệ duy nhất là vào hội nghị năm 1971 tại Singapore, khi đó vì một số lý do, chính phủ Heath đã quyết định rằng Nữ hoàng sẽ không tham dự. Tôi đã thăm Nữ hoàng lần đầu tiên vào tháng 9/1966. Bà ấy thật xuất sắc trong việc làm cho khách cảm thấy thoải mái mà lại không tỏ vẻ là làm như vậy, một kỹ năng xã hội đã được hoàn thiện bằng rèn luyện và kinh nghiệm. Bà hòa nhã, thân mật và thành thật quan tâm đến Singapore vì cậu của bà, huân tước Louis Mountbatten, đã từng kể cho bà nghe về khoảng thời gian ông ở Singapore với tư cách là Tổng tư lệnh quân đồng minh thuộc Bộ tư lệnh Đông Nam Á.

Khi tôi gặp bà ở London vào tháng 1/1969, bà nói rằng bà lấy làm tiếc về việc người Anh đã quyết định rút quân khỏi Singapore. Trông bà có vẻ buồn khi xem một chương quan trọng của lịch sử nước Anh đi đến hồi kết thúc. Bà đến thăm Singapore vào năm 1972 để bù đắp lại chuyến viếng thăm mà bà đã không thực hiện vào năm 1971. Tôi thu xếp để bà xem tất cả những địa điểm mà huân tước Mountbatten kể với bà; gồm Tòa thị chính, nơi ông tiếp nhận sự đầu hàng của quân Nhật, Isata, nơi ông đã sống, và nghĩa trang chiến tranh của Khối Thịnh vượng chung Kranji. Những đám đông lớn tụ tập hai bên đường để chờ xem Nữ hoàng đi qua. Họ lao đến vây quanh Nữ hoàng bất kỳ khi nào bà bước xuống xe. Viên thư ký trợ lý riêng của Nữ hoàng, Philip Moore, từng là phó cao ủy Vương quốc Anh tại Singapore vào những năm 60, yêu cầu tôi không nên ra lệnh cho các nhân viên an ninh giữ đám đông lại vì họ rất thân thiện. Nữ hoàng hoàn toàn thoải mái, vui sướng và thư giãn.

Để kỷ niệm chuyến viếng thăm của bà, Nữ hoàng đã tặng tôi Bội tinh Hiệp sĩ cao quý của thánh Michael và thánh Geogre (GCMG). Trước đó, Harold Wilson với tư cách là Thủ tướng đã đề cử tôi vào Hội viên danh dự (Companion of Honour – CH) trong danh sách những người được nhận huân chương danh dự của năm mới 1970. Thật bất thường khi một huân chương cao quý như thế lại được trao cho một người đàn ông trẻ bốn mươi bảy tuổi. Trước lúc năm mươi tuổi, tôi đã nhận được hai huân chương cao quý của Anh do những người đã lãnh đạo đế quốc Anh xưa kia trao tặng. Những năm dài hợp tác đã nuôi dưỡng những giá trị xác định. Tôi đã nhận được những huân chương từ Tổng thống Nasser của Ai Cập, vua Hirohito của Nhật Bản, Tổng thống Suharto của Indonesia, Tổng thống Park Chung Hee của Hàn Quốc và Hoàng thân Sihanouk của Campuchia trong số nhiều cái khác. Chúng không mang lại ý nghĩa cảm xúc giống nhau. Tôi nghĩ thật không thích hợp để sử dụng tước hiệu “Sir” đi với GCMC, nhưng thật hạnh phúc khi nhận được hai chiến lợi phẩm đáng thèm muốn của người Anh ngay cả khi người ta không còn mở cửa với người Anh như họ đã từng thực hiện trong thời đại đế quốc.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx