sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Bí quyết hóa rồng - Lịch sử Singapore 1965 - 2000 - Phần 2 - Chương 24 phần 2

Tháng 1/1996, tôi đến Delhi và nói chuyện với các quan chức Ấn tại Trung tâm Quốc tế Ấn Độ và cũng nói chuyện với các thương nhân thuộc ba phòng thương mại về những trở ngại cản trở Ấn Độ đạt được tăng trưởng kinh tế cao hơn. Trong một cuộc họp riêng chỉ có tôi với Rao, ông ta thừa nhận rằng sự lo sợ lâu đời của nhiều người Ấn cho rằng các cải cách kinh tế sẽ dẫn đến sự phân bố của cải không bình đẳng, đã gây khó khăn cho ông ta trong việc tiếp tục những thay đổi sâu rộng hơn. Ông mang về những lượng tiền lớn từ nước ngoài để làm lợi cho nhân dân nhưng lại bị Đảng đối lập kết án rằng ông đang bán đứng, thế chấp cả đất nước. Ông nêu bật hai vấn đề xã hội: tốc độ xây dựng nhà ở công cộng chậm chạp do thiếu ngân sách và tỷ lệ sinh đẻ cao. Ông muốn thủ tướng của tôi giúp đỡ ông trong chương trình xây dựng nhà ở. Tôi đoán biết ông ta nghĩ rằng chúng tôi đã thành công trong chương trình nhà ở của mình nên chúng tôi có thể giải quyết các khó khăn về nhà ở của Ấn Độ, nên tôi phải ngăn không cho ông ta hy vọng. Singapore có thể giúp Ấn Độ quy hoạch nhưng họ phải tự tìm ra các nguồn lực để thực hiện các kế hoạch.

Khi tôi gặp Rao vào những năm 80, ông đã là Bộ trưởng Ngoại giao của chính phủ Indira Gandhi. Ông thuộc thế hệ những chiến sĩ chiến đấu cho nền độc lập. Lúc đó, ông đã gần 80 tuổi, đang chuẩn bị nghỉ hưu. Khi Rajiv Gandhi bị ám sát năm 1991 lúc đang vận động tranh cử, đảng Quốc đại đồng ý chọn Rao làm người đứng đầu. Lá phiếu đồng cảm đã đem lại cho đảng của ông số ghế nhiều nhất mặc dù vẫn chưa đủ đa số. Rao trở thành Thủ tướng, và trong 2 năm đầu của nhiệm kỳ 5 năm, ông đã tiến hành các cải cách kinh tế triệt để; nhưng ông không phải là một con người trẻ trung năng động theo đuổi các ý tưởng riêng của mình. Lực thúc đẩy nền kinh tế Ấn Độ bắt nguồn từ Manmohan Singh, Bộ trưởng Tài chính của ông. Điều mỉa mai thay, ông này là người đã bắt đầu sự nghiệp với tư cách là nhà hoạch định trung ương. Rao không có đủ niềm tin để thuyết phục nhân dân Ấn Độ ủng hộ những cải cách qua mặt phe đối lập đang gây cản trở này.

Với tốc độ phát triển dân số nhanh, nhưng phát triển kinh tế lại chậm, Ấn Độ chưa sẵn sàng trở thành một quốc gia giàu có chỉ trong một thời gian nhất định nào đó. Nó buộc phải giải quyết các vấn đề xã hội và kinh tế của mình trước khi nó có thể đóng vai trò to lớn ở Đông Nam Á. Làm cho Ấn Độ mạnh hơn và có thể góp phần duy trì hòa bình và ổn định ở phía Ấn Độ Dương của Đông Nam Á chính là lợi ích của các nước Asean.

Ấn Độ có rất nhiều người lỗi lạc trong mọi lĩnh vực học thuật nhưng vì một số lý do nào đó, Ấn Độ đã hạ thấp những tiêu chuẩn cao mà người Anh để lại. Bây giờ, người ta ít chú trọng vào kết quả của các kỳ thi vào các trường trung học và đại học hàng đầu, các trường chuyên nghiệp và ngành dân chính của chính phủ Ấn (Indian Civil Service – ICS). Gian lận trong các kỳ thi thì đầy rẫy. Các trường đại học dành chỉ tiêu số chỗ cho các nghị sĩ của các bang, những người này hoặc bán, hoặc cho những chỗ học cho cử tri của họ.

Các quan chức thuộc ngành dân chính của chính phủ Ấn (ICS) trong thời thuộc Anh được bầu chọn từ những tinh hoa ưu tú của toàn nước Ấn. Một người Ấn phải tỏ ra xuất chúng mới được chọn vào ngạch hành chính ưu tú của Anh này. Trong một chuyến thăm vào những năm 60, tôi nghỉ tại Rashtrapati Bhavan. Một buổi sáng trước khi chơi gôn, hai viên chức Ấn từng là thành viên của ICS đầu tiên chứ không phải của IAS (ngạch hành chính Ấn Độ) vốn từ ICS trở thành, đến dùng bữa sáng. Họ gây cho tôi ấn tượng sâu sắc. Một người đã giải thích làm thế nào vài trăm quan chức ICS có thể cai quản 450 triệu dân Ấn ở một đất nước Ấn thuộc Anh và đã cai quản tốt. Ông nói với một sự hoài niệm về phẩm chất của những người được chọn vào ICS và hối tiếc khi các cuộc thi tuyển vào ICS trước đây từng được chỉ đạo chỉ bằng tiếng Anh, giờ được thực hiện bằng tiếng Anh hoặc bằng tiếng Hindi. Các áp lực từ phía những người theo chủ nghĩa dân túy đã hạ thấp các tiêu chuẩn tuyển mộ và còn dẫn đến việc khả năng thông tin trong ngành kém hơn.

Đó là một sự trượt dốc từ từ về chất lượng của một ngành đã từng một thời là tinh túy mà bây giờ phải khổ sở trong cơn đau dữ dội của một cuộc cách mạng kinh tế xã hội vốn làm giảm sút mức sống của người dân. Dưới thời cai trị của người Anh, họ đã sống theo một kiểu sống nhất định. Các tướng lĩnh, đô đốc hải quân, tư lệnh không quân và các quan chức ICS cao cấp đều chơi gôn. Ở Ấn Độ những năm 60 và 70, họ không thể mua được những quả bóng chơi gôn loại tốt (ví dụ, bóng nhập khẩu) bởi vì loại bóng này bị cấm nhập khẩu. Tôi nhớ một cuộc du ngoạn đến câu lạc bộ Gôn Delhi. Cao ủy chúng tôi đã khuyên tôi nên mang theo vài hộp bóng chơi gôn để phân phát cho các ủy viên câu lạc bộ. Thật đáng buồn khi thấy các quan chức cao cấp cả quân sự lẫn dân sự xé toạc các bao gói bóng và bốc từng nắm bóng nhét vào túi chơi gôn.

Thật vậy, những quả bóng chơi gôn quý đến nỗi hễ chúng rơi vào nhà dân hay bất cứ nơi nào, những người phục vụ trong sân gôn lập tức bổ nhào đi nhặt hay tìm kiếm chúng. Một lần, tại sân Gôn Hoàng gia ở Bombay cũ năm 1965, tôi đánh xoáy bóng vào khu vực nhà ở và nghe một tiếng va lớn khi nó rơi vào một mái kẽm. Người phục vụ của tôi lao đi. Tôi nghĩ là để tìm xem bóng có va vào người nào không. Nhưng không, một chú bé nhỏ xíu xuất hiện cùng quả bóng trên tay, không thấy nó kêu đau mà chỉ đòi tiền chuộc bóng. Tôi buồn khi thấy những người phục vụ thu lượm những giá đỡ bóng chơi gôn bằng gỗ và bằng nhựa đã gãy, sửa chữa chúng và sử dụng lại để đặt bóng sẵn cho những người chơi gôn. Trong phòng thay đồ, những người hầu mang vớ, giầy cho bạn hoặc cởi chúng ra. Có quá nhiều người nhưng lại quá ít việc.

Có lẽ lỗi là do hệ thống. Ấn Độ đã bỏ phí nhiều thập kỷ cho việc kiểm soát và lập kế hoạch nhà nước; những vấn đề này bị kìm hãm bởi bộ máy quan liêu và tham nhũng. Một hệ thống phân quyền lẽ ra đã cho phép nhiều trung tâm như Bangalore và Bombay có điều kiện phát triển và thịnh vượng. Một nguyên nhân khác nữa có thể là do chế độ đẳng cấp trong xã hội Ấn. Nó là kẻ thù của chế độ nhân tài bởi mỗi đẳng cấp đòi hỏi một số lượng nhất định các vị trí trong mọi thể chế, dù là tuyển mộ vào IAS hay vào các trường đại học. Lý do thứ ba là các cuộc chiến tranh và xung đột không dứt với Pakistan đã làm cho cả hai nghèo nàn hơn.

Delhi mà tôi đến thăm những năm 60 là một thành phố lớn trải dài với không gian thoáng rộng, không bị ô nhiễm và cũng không có quá nhiều khu ổ chuột. Delhi của thập kỷ 90 là một đống hỗn độn nếu xét về môi trường. Lúc tôi đến thăm Delhi là vào tháng Giêng, không khí khét lẹt mùi than cháy bốc ra từ các nhà máy điện và các gia đình. Nhà xây dựng trái phép ở khắp mọi nơi. Để bảo vệ an ninh, họ sắp đặt cả một đại đội lính trước khách sạn Sheraton nơi tôi ở. Giao thông đông nghẹt. Delhi không còn thoáng đãng như xưa.

Đến khi đảng Quốc đại của Narasimha Rao thất cử năm 1996, liên minh 13 đảng, bao gồm cả vài đảng Cộng sản, đã hợp sức lại để ngăn không cho đảng Dân tộc Hindu BJP nắm quyền. Nền dân chủ Ấn Độ đã từ bỏ nền tảng phi tôn giáo của nó. Thật khó khăn để mưu cầu sự tự do hóa hơn cho nền kinh tế. Nhưng những vấn đề sâu sắc hơn không bao giờ được giải quyết. Thủ tướng Inder Kumar Gujral trong một lần phát biểu công khai đã đề cập đến những phát hiện trong một tài liệu khảo sát rằng Ấn Độ là nước tham nhũng đứng hàng thứ hai ở châu Á. Năm 1997, ông nói với Hiệp hội công nghiệp Ấn Độ: “Thỉnh thoảng tôi cảm thấy xấu hổ, và xấu hổ đến chết được khi người ta bảo tôi rằng Ấn Độ là một trong mười nước tham nhũng nhất thế giới”. Ấn Độ là một quốc gia mà tính vĩ đại của nó chưa được thực thi. Tiềm năng của nó chưa được khai thác, không được sử dụng đúng mức.

SRI LANKA

Chuyến viếng thăm Sri Lanka lần đầu tiên của tôi là vào tháng 4/1956 trên đường công du tới London. Tôi nghỉ tại khách sạn Galle Face, khách sạn hạng nhất thời thuộc địa Anh, nằm bên bờ biển. Tôi dạo quanh thành phố Colombo, khá ấn tượng trước các tòa nhà công cộng, nhiều tòa nhà với mặt tiền bằng đá vẫn không bị chiến tranh hủy hoại. Bởi vì Mountbatten đặt Sở chỉ huy Đông Nam Á của ông ta ở Kandy nên Ceylon có nhiều nguồn lực và cơ sở hạ tầng tốt hơn Singapore.

Cùng năm đó, Solomon West Ridgeway Dias Bandaranaike được bầu làm lãnh tụ đảng Tự do Sri Lanka mới ra đời và trở thành Thủ tướng. Ông hứa sẽ công nhận tiếng Sinhale là quốc ngữ và đạo Phật là quốc giáo. Ông là một “pukka sahib” nâu[30] được hấp thụ nền giáo dục Anh quốc và là một tín đồ Thiên Chúa giáo; ông quyết định chọn chủ nghĩa bản xứ, cải đạo thành Phật tử và trở thành người nói thành thạo ngôn ngữ Sinhale. Đó là khởi đầu của việc tháo gỡ Ceylon.

[30] “Pukka sahib” nghĩa là người đàn ông châu Âu có địa vị ở Ấn Độ, Sri Lanka (ND). Người làm ebook không tìm thấy bất kỳ sự phân loại “pukka sahib” nào nên “nâu” có thể để chỉ màu da.

Tổng ủy viên Singapore khi đó là Lim Yew Hock mời tôi gặp ông ta ở bữa ăn tối. Bandaranaike, một người nhỏ bé, hoạt bát, ăn mặc bảnh bao, phát âm rõ ràng, phấn khởi khi được đa số cử tri Sinhale giao cho sứ mệnh biến Ceylon thành một xã hội mang tính bản địa hơn nữa. Đó là một phản ứng chống lại xã hội “Sahib nâu” – tầng lớp ưu tú về chính trị, những người khi thừa hưởng quyền lực đã rập khuôn người Anh, kể cả lối sống. Ngài John Kotelawala, vị Thủ tướng mà Bandaranaike kế nhiệm, thường cưỡi ngựa dạo chơi mỗi buổi sáng. Bandaranaike dường như không lo lắng gì về vấn đề người Tamil dòng Jaffna và các sắc tộc thiểu số khác bây giờ bị đặt vào thế bất lợi, vì tiếng Sinhale trở thành quốc ngữ và người Tamil Ấn Độ giáo, người Moor Hồi giáo và người Burgher Thiên Chúa giáo (con cháu của người Hà Lan và người bản địa) khó chịu trước vị trí được nâng cao lên thành quốc giáo của đạo Phật. Ông đã là Chủ tịch Hiệp hội Oxford và khi tranh luận về xã hội, ông ta phát biểu như thể mình vẫn còn là hội viên của hiệp hội đó. Tôi không ngạc nhiên khi ba năm sau ông bị ám sát bởi một tu sĩ Phật giáo. Tôi nghĩ thật là mỉa mai khi một tu sĩ Phật giáo bất mãn với tốc độ tiến triển chậm của đất nước trong việc biến Phật giáo thành quốc giáo nên đã hành động như vậy.

Trong cuộc bầu cử sau đó, bà góa phụ Sirimavo Bandaranaike đã trở thành Thủ tướng nhờ vào những lá phiếu thương cảm. Bà tỏ ra là một nhà lãnh đạo ít có tài ăn nói hơn nhưng lại cứng rắn hơn nhiều. Khi tôi gặp bà ở Ceylon tháng 8/1970, bà là một phụ nữ quyết đoán, người tin tưởng vào tư tưởng không liên kết. Ceylon ủng hộ việc rút toàn bộ quân đội Mỹ khỏi miền Nam Việt Nam, Lào, Campuchia và một khu vực không có vũ khí hạt nhân ở Ấn Độ Dương, không có những xung đột giữa các cường quốc lớn. Là một người trẻ tuổi hơn, tôi kiên nhẫn giải thích các mục tiêu khác nhau trong chính sách đối ngoại của mình, chỉ ra rằng Singapore sẽ bị đe dọa nghiêm trọng nếu miền Nam Việt Nam bị rơi vào tay cộng sản, đe dọa cả Campuchia, Lào và Thái Lan. Tình trạng nổi dậy sẽ lan đến Malaysia và mang lại những hậu quả nghiêm trọng cho Singapore. Chúng tôi không thể tán thành hệ tư tưởng cao siêu này khi nó mang lại những hậu quả nghiêm trọng cho tương lai của chúng tôi. Các cường quốc khác trong khu vực như Trung Quốc và Nhật Bản sẽ có ngày mở rộng việc xây dựng hải quân của họ. Vì thế, Singapore cảm thấy cần thiết phải duy trì Hiệp định Phòng thủ năm nước vì nó đã đem lại cho chúng tôi an ninh đáng kể.

Cháu bà, Felix Bandaranaike, là cố vấn của bà về vấn đề quốc tế. Là người thông minh nhưng không sâu sắc, ông nói rằng vị trí địa lý và lịch sử tốt đẹp đã mang lại cho Ceylon hòa bình và an ninh, vì thế chỉ 2,5 % ngân sách được chi cho phòng thủ. Tôi tự hỏi ông sẽ nói gì vào cuối thập kỷ 80, lúc hơn nửa ngân sách được chi cho quân đội và lực lượng phòng thủ để dẹp tan cuộc bạo loạn của người Tamil dòng Jaffna.

Ceylon là một đất nước thuộc Khối Thịnh vượng chung theo kiểu mẫu của nước Anh. Nó đã được chuẩn bị cẩn thận để độc lập. Sau chiến tranh, đây là một đất nước có kích thước trung bình với ít hơn 10 triệu dân. Nó có một tiêu chuẩn giáo dục tương đối cao với hai trường đại học chất lượng cao ở Colombo và Kandy dạy bằng tiếng Anh, ngành dân chính phần lớn là người địa phương và có kinh nghiệm quản lý theo hệ dân biểu bắt đầu bằng các cuộc bầu cử hội đồng thành phố trong những năm 30. Khi Ceylon độc lập vào năm 1948, nó là một mô hình cổ điển của tiến trình từ từ đi đến độc lập.

Đáng tiếc là nó không có hiệu quả. Trong những cuộc viếng thăm của tôi qua nhiều năm, tôi đã chứng kiến một đất nước đầy triển vọng đi vào lãng phí. Chế độ một người một phiếu không giải quyết được vấn đề căn bản. Tám triệu người Sinhale chiếm đa số luôn đánh bạt 2 triệu người Tamil dòng Jaffna, những người bị thiệt thòi bởi việc chuyển từ tiếng Anh sang tiếng Sinhale là ngôn ngữ chính thức. Từ chỗ không có tôn giáo chính thức, người Sinhale coi đạo Phật là quốc giáo của họ. Cũng như người Hindu, người Tamil dòng Jaffna cảm thấy bị tước quyền.

Tháng 10/1966, trên đường trở về từ hội nghị các Thủ tướng ở London, tôi ghé thăm Colombo để gặp gỡ Thủ tướng Dudley Senanayake. Ông là một người đứng tuổi tin vào số mệnh, hiền lành nếu không nói là nhún nhường. Khi chúng tôi chơi gôn ở sân Hoàng gia Colombo cũ, ông xin lỗi vì các túp lều lấn chiếm trái phép và lũ dê, bò trong các đường lăn bóng của sân gôn. Ông nói đó là điều không thể tránh được vì dân chủ và các kỳ bầu cử; ông không thể biện minh việc giữ những khoảng không gian xanh rộng lớn ở trung tâm thành phố. Ông đưa tôi đến Nuwara Eliya bằng tàu hỏa, nơi đây đã từng một thời là nhà ga trên đồi tuyệt đẹp của họ. Đó là một bài học đáng học nhất về những gì đã xảy ra sau độc lập. Thức ăn trên tàu hỏa (trong toa đặc biệt) bị nhiễm độc. Cua bị hư và hôi thối. Tôi vào nhà vệ sinh ngay tức thì và nôn ra tất cả. Điều này đã cứu sống tôi. Ở Nuwara Eliya, tôi nghỉ tại dinh thự “Nhà nghỉ” trên đồi của toàn quyền Anh trước đây. Nó đã đổ nát. Ngày xưa, hẳn nó đã được chăm sóc kỹ lưỡng, với hoa hồng (vẫn còn sót lại một số cây) trong một khuôn viên giống như một khu rừng ở Anh. Nằm ở độ cao khoảng 1.500 mét so với mặt nước biển, nó mát mẻ và dễ chịu. Tôi chơi gôn trong một sân gôn trước đây rất đẹp; giống như sân gôn ở Colombo, nó cũng bị lều, dê, bò lấn chiếm.

Tại bữa tối, một người Sinhale luống tuổi, uyên thâm với vẻ mặt hơi buồn giải thích rằng những gì đã xảy ra là điều không tránh khỏi với các cuộc bầu cử phổ thông. Người Sinhale muốn trở thành chủng tộc thống trị; họ muốn tiếp nhận vai trò người quản lý các đồn điền dừa, trà từ người Anh và cả vị trí quan chức nhà nước cao cấp của người Tamil. Họ phải trải qua một tấn thảm kịch trong việc biến tiếng Sinhale thành ngôn ngữ chính thức, một việc làm họ phải trả giá đắt khi dịch mọi thứ từ tiếng Anh sang tiếng Sinhale và Tamil, một quá trình chậm chạp và bất kham. Các trường đại học dạy bằng ba thứ tiếng: Sinhale cho đa số, Tamil cho người Tamil dòng Jaffna và tiếng Anh cho người Burgher. Tại trường đại học ở Kandy, tôi hỏi vị Phó Hiệu trưởng rằng làm thế nào để ba kỹ sư khác nhau được đào tạo theo ba ngôn ngữ có thể cộng tác với nhau để xây một chiếc cầu. Ông ta là người Burgher và đeo cà vạt của đại học Cambridge, do đó tôi có thể nhận ra ông là một tiến sĩ đích thực. Ông trả lời: ”Thưa ngài, đó là một câu hỏi mang tính chính trị dành cho các vị bộ trưởng.” Tôi lại hỏi về vấn đề sách. Ông đáp rằng các sách giáo khoa cơ bản đều được dịch từ tiếng Anh sang tiếng Sinhale và Tamil, luôn luôn trễ từ 3 đến 4 ấn bản ngay khi chúng vừa xuất bản.

Các đồn điền chè ở trong tình trạng tệ hại. Những người địa phương được đề bạt không phải là những giám sát viên giỏi như những tiền nhiệm người Anh. Vì không có kỷ luật nghiêm, nên những người hái chè không chỉ hái những búp non mà còn hái cả những lá già nên không thể ủ ra trà ngon được. Các đồn điền dừa cũng chịu cảnh tương tự. Theo như lời một cụ già Sinhale, đó là cái giá người ta phải trả để học cách quản lý một đất nước.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx