sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Bí quyết hóa rồng - Lịch sử Singapore 1965 - 2000 - Phần 2 - Chương 24 phần 1

24

NHỮNG LÃNH TỤ VÀ NHỮNG HUYỀN THOẠI CỦA NAM Á

ẤN ĐỘ

Khi còn là một sinh viên, tôi đã hâm mộ Nehru và mục tiêu của ông về một xã hội đa sắc tộc, phi tôn giáo. Cũng như hầu hết những người theo chủ nghĩa dân tộc ở các nước thuộc địa Anh, tôi đã đọc những quyển sách mà ông viết trong những năm dài bị giam cầm ở các nhà tù Anh quốc, đặc biệt là những bức thư ông gửi cho con gái. Chúng được viết một cách tao nhã, những quan điểm và tình cảm của ông đã đánh thức tôi. Cùng với những người theo chủ nghĩa xã hội dân chủ khác của thập niên 50, tôi tự hỏi Ấn Độ hay Trung Quốc sẽ trở thành mô hình mẫu cho sự phát triển. Tôi muốn Ấn Độ dân chủ giành chiến thắng, chứ không phải là Trung Quốc cộng sản. Nhưng mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu như cuộc cách mạng xanh, sự phát triển dân số đã và đang kìm hãm mức sống và chất lượng cuộc sống của Ấn Độ.

Tôi đến thăm Delhi lần đầu tiên với tư cách là Thủ tướng vào tháng 4/1962. Tôi được đưa tới nhà của Pandit Jawaharlal Nehru để gặp ông. Đó là ngôi nhà hai tầng, các mái hiên rộng, đất đai, vườn tược mênh mông được trải ra tuyệt đẹp, chốn này từng là nơi trú ngụ của một trong số các chỉ huy quân sự của quân đội Anh. Chúng tôi đã thảo luận nửa giờ đồng hồ.

Chúng tôi ăn trưa trên chiếc bàn dài, có lẽ được kế thừa từ thời còn là thuộc địa Anh. Mỗi vị khách có một khay lớn bằng bạc giống như đĩa dành để ăn tối và chọn những món mình thích từ một dãy đầy cơm, chapatis, cà–ri, rau cải, thịt, cá, đồ chua và gia vị được mang đến cho mỗi người. Một điều khác thường là mọi người đều ăn bốc. Choo và tôi không có thói quen này. Trong khi mọi người bốc thức ăn khéo léo, gọn gàng bằng những đầu ngón tay thì chúng tôi lại bới tung phần ăn của mình, nước sốt thịt chảy xuống các đốt ngón tay. Chúng tôi cảm thấy bẩn thỉu và trông chúng tôi cũng thật bẩn thỉu. Tôi thở phào nhẹ nhõm khi những tô nước rửa tay bằng bạc có những lát chanh được mang ra cho các vị khách rửa những ngón tay dính đầy mỡ trước khi ăn những món tráng miệng rất ngon. Nehru ngồi đối diện, đã nhận thấy sự vụng về của chúng tôi. Tôi giải thích rằng ngoài đũa, chúng tôi hay sử dụng muỗng và nĩa. May mắn thay, người ta đã mang cho chúng tôi bộ dao ăn trong các bữa ăn khác ở Delhi.

Nehru rất thích thú trước những gì tôi đã kể nên đã mời tôi đến buổi họp mặt lần thứ hai vào ngày hôm sau, lần này ông dành cho tôi 90 phút. Tôi giải thích về nhân khẩu học của Singapore, Malaya và sự kiểm soát dân số Trung Quốc của những người cộng sản, nhờ thành công lớn của họ trong việc chuyển hóa Trung Quốc từ một xã hội tham nhũng, thối nát thành một xã hội năng động, trong sạch và có kỷ cương. Hơn nữa, một Singapore độc lập sẽ là một thảm họa khi nó chắc chắn gánh chịu sự thù địch của các nước láng giềng – người Mã Lai ở Malaya, người Java và các sắc tộc Mã Lai khác ở Indonesia. Tôi cho rằng giải pháp tốt nhất là hợp nhất Singapore với Malaya và các vùng đất Borneo vì Tunku không muốn một mình Singapore gia nhập bởi lẽ lúc bấy giờ cử tri người Hoa sẽ cân bằng với cử tri người Malaya. Nehru ngạc nhiên nhưng cảm thấy thú vị khi biết có một người Hoa kiên quyết không để Singapore nằm dưới sự điều khiển của cộng sản và ảnh hưởng của Bắc Kinh.

Tôi đến thăm lại Nehru vào năm 1964 khi tôi quá cảnh ở Delhi trên đường quay về từ châu Phi. Ngồi sụp trên chiếc ghế sofa, ông là cái bóng của chính ông trước đó, mệt mỏi yếu ớt ở cả giọng nói và tư thế. Sự tập trung của ông kém hẳn. Người Trung Quốc tấn công qua dãy Himalaya là đòn đánh mạnh vào niềm hy vọng của ông về tình đoàn kết Á Phi. Tôi rời cuộc gặp mà lòng mang nặng nỗi buồn, ông đã mất vài tháng sau đó, vào một ngày tháng 5.

Những cuộc gặp gỡ của tôi với Nehru trong những năm 60 đã cho phép tôi gặp con gái ông, Indira Gandhi. Khi chúng tôi độc lập, chúng tôi đã yêu cầu chính phủ Ấn Độ giúp đỡ Singapore gia nhập các tổ chức Á Phi; các phái đoàn ngoại giao của họ đã cố gắng giúp đỡ chúng tôi. Một năm sau tôi ghé thăm Ấn Độ để cảm ơn Gandhi và thu hút sự quan tâm của chính phủ Ấn Độ đối với khu vực Đông Nam Á. Một Indira Gandhi lạc quan, năng động và trẻ trung đón tôi tại sân bay cùng với đội danh dự, và cùng đi với tôi tới dinh Phó vương trước đây, giờ được gọi là Rashtrapati Bhavan.

Gandhi thẳng thắn và thân thiện trong suốt chuyến lưu lại ba ngày của tôi vào năm 1966. Bà cho rằng bà cảm thấy khó khăn khi tiếp tục làm việc với nội các không phải do bà chọn ra. Các bộ trưởng hoạt động theo nhiều chiều hướng khác nhau. Mặc dù những người lãnh đạo đảng Quốc đại muốn sử dụng hình ảnh của Nehru cho kỳ bầu cử kế tiếp nên đã bổ nhiệm bà với thái độ vô cùng hoài nghi, thì tôi vẫn nghĩ rằng nếu bà chiến thắng với đa số phiếu thì bà vẫn có đủ quyền để thực hiện mọi ý đồ chính trị của bà.

Thật đáng buồn khi phải chứng kiến cảnh tuột dốc từng bước một của một quốc gia, biểu hiện ngay cả ở Rashtrapati Bhavan. Bát, đĩa, muỗng, thìa thật khủng khiếp – tại bữa ăn tối một con dao gãy tách ngay trong tay và gần như bật vào mặt tôi. Máy điều hòa không khí, loại do Ấn Độ sản xuất từ nhiều năm, chạy ầm ầm mà không lạnh. Những người phục vụ, trong bộ đồng phục trắng – đỏ cáu bẩn, lau dọn những vết rượu khỏi những chiếc bàn trong phòng chúng tôi. Hầu hết các ngày trong tuần người Delhi cấm dùng rượu. Vào một dịp nọ, trở về Rashtrapati Bhavan sau buổi tiệc chiêu đãi của cao ủy viên của chúng tôi, hai sĩ quan tùy tùng người Ấn của tôi lộng lẫy trong bộ đồng phục bước vào thang máy cùng với tôi, hai tay chắp sau lưng. Khi tôi bước ra, tôi thấy họ đang cầm mấy chai rượu. Tôi đã hỏi thư ký của tôi và được giải thích rằng đó là các chai rượu Scotch. Thông lệ tại các buổi tiệc chiêu đãi ngoại giao của cao ủy chúng tôi là tặng các chai rượu whisky loại Johnnie Walker Scotch cho các vị khách xứng đáng và mỗi sĩ quan tùy tùng được nhận hai chai. Không thể tìm được thứ rượu này ở Ấn Độ bởi vì chúng không được nhập khẩu. Có một sự vờ vĩnh, đạo đức giả trong chủ nghĩa quân bình chung, như việc các nhà lãnh đạo chính trị mặc quần áo tự dệt may tại nhà để đồng nhất với những người nghèo trong khi họ âm thầm lặng lẽ tích lũy của cải. Điều này đã làm xói mòn đạo đức của các quan chức cao cấp, cả dân sự lẫn quân sự.

Qua vài ngày lưu lại Rashtrapati Bhavan và những cuộc gặp gỡ với các nhà lãnh đạo cấp cao của họ tại các buổi tiệc chiêu đãi trong các bối cảnh khác nhau giúp tôi nhận ra vấn đề. Trong những lần viếng thăm trước vào năm 1959 và 1962, khi Nehru còn nắm quyền, tôi đã nghĩ rằng Ấn Độ tỏ ra có nhiều hứa hẹn sẽ trở thành một xã hội thịnh vượng và một cường quốc. Đến khoảng cuối những năm 70, tôi lại cho rằng nó sẽ trở thành một cường quốc quân sự lớn nhờ quy mô của nó nhưng không phải là một đất nước vững mạnh về kinh tế bởi vì bộ máy quan liêu của họ nặng nề đến ngạt thở.

Các quan chức Ấn Độ quan tâm nhiều hơn đến việc đạt được một thông cáo chung, một cam kết từ Singapore tham gia cùng Ấn Độ trong “mối lo ngại to lớn về nguy cơ đối với thế giới nói chung và khu vực Đông Nam Á nói riêng nảy sinh từ việc kéo dài cuộc xung đột ở Việt Nam”. Chính sách không liên kết nghiêng về phía Liên Xô; đây là cái giá để bảo đảm nguồn cung cấp vũ khí và kỹ thuật quân sự đều đặn.

Hai năm sau, Indira Gandhi thăm Singapore vào tháng 6/1968. Chúng tôi trao đổi nhiều vấn đề mà qua đó tôi kết luận rằng Ấn Độ không có những tiền đề cần thiết để mở rộng ảnh hưởng đến Đông Nam Á. Mặc dù vậy, khi tôi đến thăm Ấn Độ vào năm 1970, tôi đã hỏi bà rằng liệu Ấn Độ có ý định phát triển các lợi ích hàng hải của mình đến khu vực Đông Nam Á hay không? Bộ trưởng Ngoại giao Ấn Độ, Swaran Singh, có mặt tại đó đã xen vào nói rằng Ấn Độ quan tâm đến việc tăng cường các quan hệ kinh tế nhưng quan tâm lớn hơn của Ấn Độ là duy trì sự khai thông các đường biển phía Tây. Tôi có cảm giác rằng mối quan tâm quốc phòng chủ yếu của Ấn Độ là Pakistan, vì họ lo sợ rằng có sự liên kết giữa Pakistan với Mỹ và Trung Quốc.

Khi Morarji Desai trở thành Thủ tướng năm 1977, tôi đã sớm thiết lập mối quan hệ thân hữu với ông. Tôi đã biết ông khi ông còn là Phó Thủ tướng Ấn Độ vào năm 1969. Tôi đã ăn trưa cùng với ông tại dinh thự của cao ủy trong hội nghị Khối Thịnh vượng chung ở London vào tháng 6/1977. Ông đã trên tám mươi tuổi, là một người ăn chay khắc khổ, chỉ ăn đậu phộng sống, trái cây và rau củ, không thứ nào được nấu chín. Bữa ăn của ông ngày hôm ấy gồm có nho khô và đậu phộng. Sô–cô–la chất đống trước mặt nhưng ông không hề đụng đến. Cao ủy của ông không biết rằng ông tuân thủ chế độ ăn kiêng nghiêm ngặt. Ngay cả sữa phải lấy thẳng từ bò chứ không được qua bất cứ chai lọ nào. Quả đúng như vậy, tại hội nghị Khối Thịnh vượng chung khu vực ở Sydney năm sau đó, Thủ tướng Úc Malcolm Fraser có sẵn con bò sữa để lấy sữa cho ông. Desai bảo đảm với tôi rằng thực đơn ăn kiêng của ông cung cấp cho ông quá đủ chất dinh dưỡng và rằng những người ăn kiêng sẽ sống lâu. Ông đã chứng minh luận điểm của mình bằng việc sống đến năm chín mươi chín tuổi. Ông không có tính hài hước nhưng lại có trí nhớ tốt, trừ vài ý tưởng bất thường. Tháng 12/1978, trong chiếc xe hơi chở chúng tôi từ sân bay Delhi đến Rashtrapati Bhavan, ông nói rằng hàng nghìn năm trước, người Ấn đã thực hiện cuộc du hành ngoài vũ trụ và ghé thăm các hành tinh, điều mà mãi sau này người Mỹ mới thực hiện được. Hẳn lúc đó trông tôi có vẻ hoài nghi, vì thế, ông đã nhấn mạnh: “Vâng, điều đó là sự thật. Đó là bởi sự đầu thai. Điều này đã được ghi lại trong kinh Bhagavad Gita.”

Indira Gandhi thất cử năm 1977, nhưng bà lại giành được quyền lực vào năm 1980. Khi tôi gặp bà tại hội nghị khu vực các nguyên thủ quốc gia Khối Thịnh vượng chung (Commonwealth Heads of Government Regional Meeting – CHOGRM) ở Delhi vào tháng 9/1980, bà đã có phần kém hăng hái. Các chính sách căn bản của Ấn Độ không cất cánh được. Liên minh của Ấn Độ với Liên Xô đã ngăn cản bất cứ sự cộng tác chặt chẽ nào với Mỹ và châu Âu. Điều này, cộng với một hệ thống bị chi phối bởi các xí nghiệp quốc doanh làm ăn kém hiệu quả, không có nhiều các xí nghiệp thuộc khu vực tư nhân và ít đầu tư nước ngoài khiến nền kinh tế Ấn Độ khập khiễng. Thành tựu của Ấn Độ là đã nuôi sống dân số đông đúc, tăng nhanh hơn cả Trung Quốc.

Năm 1980, khi Ấn Độ công nhận chính phủ Campuchia, chúng tôi trở thành đối thủ trong các hội nghị quốc tế. Chúng tôi ở hai phía đối nghịch của một vấn đề quan trọng đối với hòa bình và ổn định của khu vực Đông Nam Á.

Khi bà Indira Gandhi viết thư mời tôi đến dự Hội nghị thượng đỉnh không liên kết lần thứ 7 ở Delhi dự kiến nhóm họp vào tháng 3/1983, tôi đã từ chối với lý do rằng: “Trong cuộc đấu tranh vì sự thống nhất thật sự, Phong trào không liên kết không thể thờ ơ trước những vi phạm gần đây đối với các nguyên tắc cơ bản của độc lập dân tộc, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, đặc biệt của những nước thành viên…”

Nhưng tôi đã tham dự hội nghị các nguyên thủ quốc gia Khối Thịnh vượng chung, toàn khối chứ không phải chỉ khu vực ở Delhi sau đó vào tháng 11/1983; chúng tôi lại một lần nữa tranh cãi về vấn đề Campuchia. Mặc cho việc tranh cãi này xảy ra, không có sự thù địch cá nhân nào giữa hai chúng tôi bởi chúng tôi đã có sự liên kết lâu dài và các mối quan hệ cá nhân tốt đẹp.

Indira Gandhi là một nữ Thủ tướng cứng rắn nhất mà tôi đã từng gặp. Bà ta đầy nữ tính nhưng không mềm yếu. Bà là một thủ lĩnh chính trị quyết đoán và nhẫn tâm hơn cả Margaret Thatcher, bà Bandaranaike hoặc Benazir Bhutto. Bà có một khuôn mặt đẹp rắn rỏi, với chiếc mũi diều hâu và kiểu tóc gọn gàng, nổi bật trên toàn bộ mái tóc đen huyền được chải ngược ra phía sau là một chiếc băng đô trắng. Bà luôn luôn duyên dáng thanh lịch trong bộ sari truyền thống. Bà tỏ ra nữ tính với nụ cười quyến rũ quý ông trong các cuộc trò chuyện xã hội; nhưng một khi bước vào dòng tranh luận dữ dội, chất thép trong con người bà cũng sánh ngang với bất kỳ nhà lãnh đạo nào ở điện Kremlin. Bà không giống cha. Nehru là một con người giàu ý tưởng, quan điểm đã được ông trau dồi như chủ nghĩa phi tôn giáo, chủ nghĩa đa văn hóa, sự công nghiệp hóa đất nước nhanh chóng bằng các ngành công nghiệp nặng theo kiểu của Liên Xô. Dù đúng hay sai, ông vẫn là một nhà tư tưởng.

Indira Gandhi là một người thực tế và thực dụng. Mối quan tâm chính của bà là cơ cấu quyền lực, giành quyền lực và thực thi những quyền lực đó. Một chương đáng buồn trong những năm tại chức của bà là khi bà xa rời quan điểm về chủ nghĩa phi tôn giáo, và để tranh thủ lá phiếu của người Ấn theo Ấn Độ giáo ở Bắc Ấn, bà đã vô tình hay hữu ý làm cho chủ nghĩa sô–vanh Hindu trỗi dậy, cho phép nó trở thành một lực lượng chính thống trong nền chính trị Ấn Độ. Điều này dẫn đến việc tái diễn các cuộc nổi loạn giữa người Hindu và Hồi giáo, việc đốt phá các nhà thờ Hồi giáo cổ ở Ayodhya và sự nổi lên của Đảng Bharatiya Janata (BJP), một đảng sô–vanh Hindu, là đảng lớn duy nhất trong nghị viện năm 1996 và lần thứ hai năm 1998. Bà tỏ ra cứng cỏi nhất khi sự thống nhất của Ấn Độ bị đe dọa. Khi bà ra lệnh quân đội tiến vào đền thờ thánh của người Sikh ở Amritsar, cả thế giới người Sikh nổi giận. Xem người Sikh ở Singapore thờ cúng thánh thần như thế nào, tôi hiểu rằng điều đó là một thảm họa chính trị: Bà đã xúc phạm, báng bổ nơi tôn nghiêm sâu thẳm nhất trong tín ngưỡng của người Sikh. Nhưng bà không đa cảm, ủy mị và chỉ quan tâm đến sức mạnh của nhà nước mà bà đã quyết tâm gìn giữ. Bà đã phải trả giá cho điều này bằng chính mạng sống của bà năm 1984, khi bà bị chính vệ sĩ riêng người Sikh của bà ám sát.

Các chính sách bất đồng về vấn đề Campuchia của chúng tôi đã làm tôi xa lánh Ấn Độ mãi đến tháng 3/1988, khi tôi cố thiết lập mối quan hệ với con trai bà là Rajiv Gandhi, lúc đó là Thủ tướng. Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Ấn Độ cũng có mặt cùng Thủ tướng là Natwar Singh, ông ta đã trình bày một cách sắc sảo và rõ ràng lập trường khó khăn của Ấn Độ. Rajiv gợi ý rằng Mỹ nên thiết lập các mối quan hệ ngoại giao với Việt Nam và chấm dứt sự trừng phạt kinh tế bởi ông tin Việt Nam có ý định rút quân khỏi Campuchia và tập trung vào việc tái thiết nền kinh tế. Tôi đáp lại là trong 10 năm nữa Việt Nam sẽ trở thành một nước Việt Nam khác hẳn, một Việt Nam mà Singapore có thể cộng tác và hoan nghênh như một bạn hàng kinh tế. Khi Campuchia được dàn xếp ổn thỏa, Ấn Độ và Singapore sẽ một lần nữa lại ở cùng một phía. Cả hai sự kiện đó đều đã xảy ra.

Sau những cuộc thảo luận giữa hai chúng tôi, Rajiv Gandhi cùng vợ ông, Sonia, đã mời tôi và Choo ăn trưa tại nhà riêng. Rajiv là một con người ngây thơ về mặt chính trị, đột nhiên thấy mình ở giữa một bãi mìn. Vì mẹ ông đã bị ám sát ngay tại nhà riêng, nên hàng rào an ninh của Rajiv rất chặt chẽ. Ông nói, ông cảm thấy điều đó rất ngột ngạt nhưng ông phải học cách tồn tại cùng với nó. Tôi thấy ông ta giống một phi công chỉ có tầm nhìn thẳng về phía trước. Ông thường quay về phía Natwar Singh trong các buổi thảo luận với tôi. Tôi tự hỏi ai là người dẫn dắt ông qua các hoạt động chính trị của Ấn Độ, nhưng chắc chắn là có nhiều người muốn nắm tay ông và dắt ông theo lối của họ.

Chỉ một vị Thủ tướng có thiện ý mới gửi quân đội Ấn đến Sri Lanka để dập tắt cuộc nổi loạn của người Tamil dòng Jaffna. Đấy là con cháu của người Tamil rời bỏ Ấn Độ cách đây hơn 1.000 năm và khác hẳn người Tamil ở Ấn Độ. Quân đội Ấn đã đổ máu ở Sri Lanka. Họ rút đi và cuộc chiến vẫn tiếp tục. Năm 1991, một phụ nữ trẻ người Tamil dòng Jaffna đến gần ông trong một cuộc vận động tranh cử gần Madras như thể để đeo vòng hoa cho ông và rồi cả hai nổ tung. Đó là điều không công bằng. Những ý định của ông là những ý định tốt đẹp.

Năm 1992, chính phủ đảng Quốc đại dưới thời Thủ tướng Narasimha Rao buộc phải thay đổi triệt để các chính sách kinh tế của Ấn Độ nhằm tuân thủ các biện pháp cả gói cứu vãn nền kinh tế do IMF áp đặt. Rao tỏ ra niềm nở với thủ tướng của tôi, Goh Chok Tong, khi họ gặp nhau tại Hội nghị không liên kết ở Jakarta năm 1992. Ông ta đã thuyết phục Goh Chok Tong đến thăm Ấn Độ cùng một phái đoàn gồm các thương nhân Singapore. Bộ trưởng Tài chính Ấn Độ Manmohan Singh và Bộ trưởng Thương mại Ấn Độ P. Chidambaram đã đến thăm Singapore để trình bày với tôi về những thay đổi trong chính sách của họ và thu hút đầu tư từ thương nhân Singapore. Cả hai vị Bộ trưởng đều hiểu rõ cần phải làm gì và làm như thế nào để cải thiện sự phát triển kinh tế Ấn Độ. Vấn đề là làm sao để thực hiện được điều đó khi có sự chống đối bài bác tự do kinh doanh, ngoại thương và đầu tư nước ngoài.

Tháng 9/1994, Rao đến thăm Singapore và bàn luận với tôi về việc mở cửa của Ấn Độ. Tôi nói khó khăn trở ngại nhất chính là hệ tư tưởng của giới công chức Ấn đối với người nước ngoài, cho rằng những người mà theo họ là đang ra sức bóc lột người Ấn và nên bị ngăn chặn. Nếu ông muốn đầu tư nước ngoài vào Ấn Độ thoải mái như ở Trung Quốc thì các quan chức Ấn phải thay đổi tư duy và chấp nhận rằng trách nhiệm của họ là tạo điều kiện thuận lợi chứ không phải là khống chế các hoạt động của các nhà đầu tư. Ông mời tôi thăm Ấn Độ để cùng dự một kỳ họp tự do trao đổi ý kiến với các đồng nghiệp và quan chức cao cấp của ông.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx