sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Bí quyết hóa rồng - Lịch sử Singapore 1965 - 2000 - Phần 2 - Chương 25 phần 1

25

THEO LIÊN HIỆP ANH ĐẾN CHÂU ÂU

Những quan điểm của tôi về người châu Âu đã bị ảnh hưởng nhiều bởi những thái độ của người Anh ở thập niên 50 và 60. Người dân châu Âu có vẻ khác biệt và có gì đó lạ lùng, không đoàn kết như những người trong cùng một quốc gia, cũng chẳng có đầu óc hiến pháp như người Anh. Người Pháp lại có ý ngả về những cuộc bạo động hoặc những cuộc cách mạng và lật đổ hiến pháp; người Đức có xu hướng sử dụng vũ lực để giải quyết những cuộc tranh cãi. Nhưng vào năm 1962, khi Harold Macmillan, với cương vị là Thủ tướng, cố gắng để được gia nhập vào Cộng đồng kinh tế châu Âu (EEC, bây giờ đã phát triển đến một hình thức liên kết cao hơn là Liên minh châu Âu – EU) và bị từ chối, thì tôi tin đó chỉ là vấn đề thời gian trước khi đơn xin thứ hai hoặc thứ ba sẽ thành công. Sau khi nước Anh tuyên bố rút khỏi Đông Suez vào năm 1968, Thủ tướng Harold Wilson đưa ra lời đề nghị với Tổng thống Charles de Gaulle. Một lần nữa, nước Anh bị từ chối, nhưng nó nhấn mạnh tầm quan trọng của châu Âu đối với Anh.

Nước Anh muốn gia nhập để thoát khỏi những khó khăn kinh tế cứ tái diễn bởi mức tăng trưởng chậm so với sự phát triển ngày càng nhanh của Đức, Pháp, các nước vùng Benelux và thậm chí cả Ý nữa – tất cả đều là thành viên của EEC. Rõ ràng là thị trường lớn hơn đã thúc đẩy sức tăng trưởng. Tôi muốn thiết lập các mối quan hệ với một châu Âu mới này để Singapore không bị loại trừ khi nước Anh được gia nhập.

Giống như với hầu hết những tổ chức quan liêu, những tuyên bố mang tính nguyên tắc của người đứng đầu không đảm bảo cho quan hệ trôi chảy. Tôi đã va chạm với chính sách “Pháo đài châu Âu” của những người ủng hộ bảo hộ mậu dịch vào những năm 70 đối với các mặt hàng xuất khẩu của chúng tôi. Vào tháng 10/1977, tôi đến Brussel để gặp Chủ tịch Ủy ban châu Âu, Roy Jenkins, người mà tôi đã từng quen biết từ những năm 60, khi ông ta còn là Bộ trưởng Bộ Tài chính. Trước đó, tôi đã viết thư nói với ông ta rằng sự áp đặt của họ đối với Singapore trong các quy tắc chính sách thuế quan ưu đãi chung (GSP – the General Streme of Preferences – chính sách cho phép các nước đang phát triển được miễn thuế nhập khẩu ở một mức độ giới hạn)[31] đã gây nhiều khó khăn cho các mặt hàng xuất khẩu của chúng tôi như máy tính điện tử, dù, máy chiếu và ván ép. Gần đây, ngay cả mặt hàng hoa tươi cũng đang gặp phải những rào cản từ phía những người trồng hoa ở Hà Lan và Pháp. Tôi cũng nói thêm là tôi đã dự trù những khó khăn sẽ xảy ra cho mặt hàng dệt và dù, nhưng không nghĩ là máy tính điện tử và hoa tươi cũng vướng phải. Ông Jenkins rất thông cảm và hứa sẽ xem xét vấn đề này, nhưng ông ta đã không thể nào làm được gì cho mặt hàng dù. Có vẻ như chúng được sản xuất ngay tại vùng tranh cử của Tổng thống Giscard d’Estaing.

[31] Lưu ý là GSP không phải viết tắt của the General Streme of Preferences. Xem thêm ở chú thích #29.

Với những ủy viên khác, tôi bàn bạc xem làm thế nào để tránh sản xuất những sản phẩm mà các nước khối EEC coi là “nhạy cảm” vì có khả năng gây ra tình trạng thất nghiệp dai dẳng ở mức cao. Thật chán nản khi tôi khám phá ra rằng danh sách này thật không có giới hạn. Bất kỳ quốc gia thành viên nào có một chút ảnh hưởng với Brussels, khi cảm thấy có sự thiệt hại dù nhỏ nhất cũng có thể đệ đơn yêu cầu bảo hộ và họ luôn được chấp thuận. Tuy nhiên, EEC đã phủ nhận họ bảo hộ mậu dịch mạnh mẽ nhất trong tất cả các khối mậu dịch. Tôi nêu ra kinh nghiệm của Philips và Siemens, hai trong số những công ty đa quốc gia châu Âu nổi tiếng nhất; họ xuất khẩu những mặt hàng điện tử sản xuất tại Singapore sang châu Âu khó hơn sang châu Mỹ và châu Á.

Tôi đưa ra hai vấn đề: thứ nhất, sự “chuyển cấp” (coi như đã đạt được sự phát triển) dẫn đến việc tước bỏ những lợi ích của GSP không nên vội vàng áp dụng đối với Singapore, và thứ hai, những biện pháp bảo hộ nhằm hạn chế các mặt hàng nhập khẩu không chắc có hiệu quả trong việc giải quyết các vấn đề của EEC. Tôi đã cố gắng thuyết phục Jenkins, với cương vị là chủ tịch EEC, rằng ông ta nên chính thức hóa mối quan hệ đầy triển vọng giữa EEC và Asean trong một hiệp ước hợp tác kinh tế, và rằng một chuyến viếng thăm đến các quốc gia Asean sẽ đưa đến sự tán thành của hội đồng (EEC) về mục đích này. Thay vì vậy, ông ta lại cử Viscount Davignon, ủy viên hội đồng phụ trách về công nghiệp. Jenkins không thích hành trình về phương Đông, nơi những triển vọng của nó không được ông đánh giá cao. Cuối cùng, với sự giúp đỡ của Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Đức, Hans–Dietrich Genscher, vào năm 1980, Asean đã thành công trong việc đạt được thỏa thuận với EEC về một ủy ban hợp tác chung để thúc đẩy và đánh giá các hoạt động. Tuy nhiên, các nước Asean vẫn phải đương đầu với vô số những vấn đề về bảo hộ với tổ chức đa thành viên này. Thuế quan và trợ cấp nông sản chống lại các mặt hàng dầu cọ; các tiêu chuẩn y tế và an toàn, việc dán nhãn sinh thái cùng với các tiêu chuẩn lao động và môi trường khác đã hạn chế một cách hữu hiệu hàng xuất khẩu của Asean. Như trường hợp của Singapore năm 1986, là một phần của chương trình xem xét lại những đặc quyền GSP, EEC đưa ra một hạn ngạch nhập khẩu đối với mặt hàng vòng bi của Singapore.

Các công ty đa quốc gia châu Âu không hoạt bát và năng động bằng người Mỹ và Nhật Bản. Họ đang bỏ lỡ những cơ hội cho sản xuất hợp tác toàn cầu, chế tạo các bộ phận khác nhau của một sản phẩm ở các nước khác nhau. Đó là tình hình trong những năm 80 và vẫn còn khá đúng trong những năm 90.

Để thiết lập các mối quan hệ với Pháp, nước có vị trí quan trọng trong EEC, vào tháng 5/1969, tôi sắp xếp một cuộc gặp với Tổng thống De Gaulle, người mà đã từ lâu tôi ngưỡng mộ như là một nhà lãnh đạo tài ba. Ngay trước chuyến thăm, các sinh viên Pháp tràn ra đường, yêu cầu cải cách hiến pháp và đòi có thêm trường đại học, nhưng thật ra là thách thức tính hợp pháp của De Gaulle. Chuyến viếng thăm bị đình hoãn. De Gaulle kêu gọi một cuộc trưng cầu dân ý nhưng không được dân chúng ủng hộ nên ông đã từ chức. Tôi không bao giờ được gặp người đàn ông cao lớn, ngay thẳng và nghiêm khắc này, người đã khôi phục lại niềm tự hào của người Pháp về bản thân họ và đất nước của họ và là người mà tôi rất ấn tượng về tiểu sử, ngay cả trong bản dịch tiếng Anh.

Thay vào đó, tôi đã gặp người kế nhiệm ông ta, Georges Pompidou, vào tháng 9/1970. Ông này rất thân thiện và vui vẻ, một người rất thích trao đổi với một vị khách đến từ đất nước xa xăm tên Singapore. Ông ta nhấn mạnh rằng nước Pháp không chỉ có quần áo thời trang cao cấp, nước hoa đắt tiền và rượu vang tuyệt hảo. Ông ta muốn những sản phẩm hóa học chất lượng, máy móc kỹ thuật cao, kỹ thuật xây dựng và máy bay của Pháp sẽ trở thành biểu tượng để thế giới nhớ về nước Pháp của những năm 70. Ông ta có phong thái bình thản và thảo luận với tôi 20 phút về thái độ của châu Á về vàng. Liệu nó vẫn còn được xem là quý báu và được tích trữ nếu nó trở thành một loại hàng hóa thông thường và không còn là vật đảm bảo cho tiền tệ nữa? Tôi tin chắc là có. Vài nghìn năm đã qua đi, kinh nghiệm lịch sử về sự tàn phá và nạn đói do hạn hán, lũ lụt, chiến tranh và những tai họa khác gây ra đã dạy cho người Trung Hoa biết được giá trị của tiền vàng: không hư hỏng, không biến dạng và dễ dàng hoán đổi. Ba năm rưỡi Nhật chiếm đóng Singapore là một kinh nghiệm gần đây. Tôi nói với ông ta rằng với một tahil vàng (tương đương hơn một ao–xơ vàng một chút, khoảng 30 g), mặc cho lạm phát có ở mức cao, người ta vẫn có thể nuôi sống gia đình trong suốt 1 tháng kể cả thuốc men và những nhu yếu phẩm khác. Những gì tôi nói dường như càng củng cố thêm niềm tin của ông ta. Tôi nói đó là bản năng sơ khai trong con người. Thông dịch viên của ông ta, Hoàng thân Andronikov, người Pháp gốc Nga thì dịch là nguyên thủy. Tôi phản đối: “Không, sơ khai, những ngày đầu tiên của thế giới con người chứ?” Người phiên dịch lạnh lùng nhìn tôi nói: “Vâng, trong tiếng Pháp nguyên thủy tức là sơ khai”. Tôi cảm thấy mình đã kiềm chế đúng lúc.

Valéry Giscard d'Estaing được bầu làm Tổng thống vào tháng 5/1974, kế vị Pompidou. Tôi ở Paris trong một chuyến viếng thăm riêng tư nhưng ông ta đã bỏ ra ít thời giờ ngay trong khoảng thời gian chỉ vài ngày sau bầu cử để đón tiếp tôi. Đó là một buổi gặp gỡ rất thú vị kéo dài hơn một giờ đồng hồ ở điện Élysée. Không như Pompidou biết tiếng Anh nhưng chỉ nói bằng tiếng Pháp, Tổng thống Giscard quyết định sử dụng tiếng Anh. Cao lớn, với khuôn mặt dài vẻ quý tộc, trán hói cao, ông ta nói bằng giọng Pháp nặng, lựa chọn cẩn thận ngôn từ với độ chính xác cao.

Ông ta tỏ ra rất Pháp trong cách tiếp cận, khôn ngoan, logic và có hệ thống. Tại sao Singapore phát triển còn các nước khác thì không? Các nước khác còn thiếu điều gì? Tôi chỉ có thể nói với ông ta những gì tôi nghĩ là ba lý do chính; thứ nhất, xã hội ổn định và đoàn kết; thứ nhì, một động cơ văn hóa để đạt thành công và một dân tộc cần kiệm, siêng năng, luôn biết đầu tư cho tương lai, biết tiết kiệm cho những bất trắc và cho thế hệ mai sau; thứ ba, rất tôn trọng giáo dục và tri thức. Ông ta không thỏa mãn, nghĩ rằng đó chưa phải là câu trả lời đầy đủ.

Thủ tướng của Giscard, Jacques Chirac, lại có các mối bận tâm hoàn toàn khác hẳn. Ông ta không phí thời giờ cho những cuộc thảo luận triết học về những gì đang xảy ra ở châu Á mà chỉ muốn biết giữa Pháp và Singapore còn có thể làm gì. Tôi cố gây chú ý với ông ta không chỉ về Singapore mà ở lĩnh vực rộng hơn, sử dụng Singapore như là bàn đạp. Điều này lại tốn thêm 10 năm nữa, dưới thời một vị Tổng thống khác và sau nhiều vị Thủ tướng, trước khi tôi thuyết phục được chính phủ Pháp và các doanh nghiệp Pháp rằng Đông Nam Á là thị phần đầy hứa hẹn của thế giới để đầu tư vào.

Raymond Barre, kế vị Thủ tướng Jacques Chirac vào tháng 8/1976. Barre, một người mập mạp với chiều cao trung bình, là một giáo sư môn kinh tế và là một thính giả đáng mến. Ông hưởng ứng việc thành lập các công ty liên doanh của Pháp và việc đầu tư ra nước ngoài. Ông ta ủng hộ đề nghị của tôi để phát triển Singapore thành một trung tâm dịch vụ kỹ thuật và nói rằng nước Pháp có thể hợp tác với chúng tôi về thương mại và dịch vụ trong khu vực. Ông ta đề xuất một hiệp định hợp tác song phương 5 năm Sing – Pháp về thương mại, đầu tư, hỗ trợ kỹ thuật và giao lưu văn hóa với những mục tiêu cụ thể. Ông ta thực tế và có hệ thống trong việc giải quyết những khó khăn, quan tâm đến kết quả công việc. Nhưng các nhà tư bản công nghiệp Pháp lại không sẵn lòng cho việc hợp tác này. Tôi có nói chuyện với một nhóm trong số họ trong Liên đoàn các nhà quản lý quốc gia Pháp (French National Employers’ Federation). Cuối cuộc thảo luận một giờ đồng hồ, phát ngôn viên của họ nói với cánh báo chí rằng các nhà đầu tư đều nhận thức được những cơ hội ở Singapore, nhưng nhiều vị lại có vẻ như không thích đứng dậy và đi tới “vì nó xa xôi quá và ở đó lại sử dụng tiếng Anh”, và thêm rằng nước Pháp không thể có mặt ở mọi nơi vì nó đang tập trung vào Phi châu. Thực vậy, Pháp tập trung vào cộng đồng các nước nói tiếng Pháp ở châu Phi. Ngay cả ở châu Á, Pháp cũng chỉ quan tâm đến Việt Nam vì tin rằng Việt Nam vẫn còn là nước nói tiếng Pháp và hướng về Pháp. Mãi đến giữa thập niên 80, khi Tổng thống thuộc phe xã hội chủ nghĩa Mitterand và Thủ tướng theo trường phái De Gaulle của ông ta là Jacques Chirac đều quyết định rằng châu Phi không sẵn sàng phát triển như châu Á, thì những nỗ lực của tôi mới được đềnđáp.

Vào tháng 7/1981, trên đường đi London tham dự lễ cưới của Thái tử Charles, tôi ghé qua Paris với hy vọng gặp được vị Tổng thống mới được bầu Francois Mitterand. Nhưng Quai d'Orsay, văn phòng ngoại giao Pháp, lại chuộng nghi thức và không chấp nhận một chuyến viếng thăm tạt ngang. Tổng thống bận rộn nhưng vì ông ta cũng đi dự đám cưới nên ông sẽ gặp tôi ở London tại dinh thự đại sứ của họ. Để xoa dịu sự khước từ, Thủ tướng Pierre Mauroy mời tôi dùng bữa trưa.

Khởi hành từ Paris, chiếc xe chở tôi được lực lượng cảnh sátmở đường hộ tống từ khách sạn đến sân bay Charles de Gaulle lao đi vun vút giữa dòng xe cộ đông đúc. Đó là một ngày hè đẹp trời. Những đường cao tốc với những hàng cây và những bờ tường phủ dây leo là một cảnh tượng tuyệt vời. Sân bay Charles de Gaulle rất hiện đại và được bố trí có hiệu quả. Sau đó, tôi đáp xuống phi trường Heathrow, hết sức lộn xộn, những con đường rối rắm đưa tôi từ máy bay đến phòng đợi dành cho VIP (nhân vật quan trọng). Sau đó, tôi được đưa đến khách sạn Knightsbridge qua những con đường dơ bẩn với những vòng xoay, những bờ cỏ bỏ hoang không tỉa tót và cỏ dại mọc um tùm. Một sự trái ngược rõ rệt giữa Paris và London.

Tôi nhớ lại chuyến viếng thăm Paris đầu tiên của tôi với Choo vào tháng 6/1948. Đó là một thành phố sau thời bị chiếm đóng, nhếch nhác, bẩn thỉu, ít được kính nể hơn so với London tuy bị bom dày đạn xéo nhưng vẫn xanh sạch, thành phố của những con người tự tin, tự hào về thành tích đứng vững trướcphát xít và giải thoát loài người khỏi sự chuyên chế. Tôi cũng nhớ lại sự hỗn loạn ở Paris vào tháng 5/1958, ngay trước khi Charles de Gaulle trở lại với cương vị Tổng thống thành lập nền cộng hòa thứ 5. Qua vị Bộ trưởng văn hóa, Malraux, ông ta bắt đầu gột rửa Paris, chà sạch bồ hóng trên những tòa nhà và khiến nó trở lại là thành phố ánh sáng. Họ khôi phục lại niềm tự hào Pháp quốc, tạo ra những hy vọng mới trong khi London vẫn loay hoay vì nền kinh tế cứ vấp từ khủng hoảng này đến khủng hoảng khác. Tôi tin rằng có nhiều ưu điểm trong sự thay đổi mang tính cách mạng của Pháp so với sự phát triển trong khuôn khổ hiến pháp chậm chạp của Anh. Người Anh liên tục mở những cuộc họp xung quanh chuyện xây dựng những sân bay mới quanh London bao gồm cả Stansted và Gatwick, tất cả chẳng đi đến đâu vì người dân địa phương quyết định duy trì những tiện nghi mà họ đang có đã ngăn trở các cơ quan thực hiện kế hoạch. Điều này đã phải trả giá bằng sự chậm tiến của đất nước. Ngay cả sau thời gian Thatcher nắm quyền, Heathrow vẫn đứng đó như một tượng đài cổ kính biểu tượng cho sự thiếu táo bạo và xông xáo.

Trong số những lãnh đạo nước Pháp mà tôi đã gặp, người nhạy bén nhất trong việc đánh giá những xu hướng chính trị và bản chất của các xã hội khác nhau chính là Tổng thống Mitterand. Ông ta bàn về mối nguy hiểm nảy sinh từ sự can thiệp hung hăng của lực lượng Xô Viết ở Afghanistan. Ông thừa nhận Liên bang Xô Viết đã thành công ở Việt Nam và ở Trung Đông, cụ thể là ở Syria, nhưng ảnh hưởng của nó ở những nơi khác đang suy giảm. Họ nhiều lần chìa tay ra nhưng không mấy người muốn hợp tác với họ. Ông cũng tự tin rằng, nếu liên kết lại thì phương Tây sẽ có khả năng khôi phục lại cán cân quyền lực chung.

Trong hai năm đầu làm Tổng thống, với Thủ tướng Dierre Mauroy, Mitterand theo đuổi những chính sách xã hội chủ nghĩa tiêu chuẩn. Ông giảm lãi suất, mở rộng tín dụng để giải quyết vấn đề thất nghiệp và quốc hữu hóa nhiều ngành công nghiệp và ngân hàng then chốt. Nền kinh tế Pháp bị thương tổn. Già cỗi ở độ tuổi bảy mươi nhưng tư tưởng của Mitterand không hề cứng nhắc. Ông thay đổi Thủ tướng và theo đuổi chính sách kinh tế cổ truyền để kiểm soát nguồn cung ứng tiền tệ và lạm phát, khôi phục lại một cách vững chắc sự phát triển đều đặn tuy không ngoạn mục. Một thành tựu trong suốt 14 năm làm Tổng thống của ông là rèn luyện những người theo chủ nghĩa xã hội Pháp và biến họ trở thành một đảng có chỗ đứng trong chính phủ.

Chúng tôi có một cuộc thảo luận quan trọng kéo dài hơn một giờ đồng hồ vào tháng 9/1986 khi chiếc Concorde của ông ta ngừng lại ở sân bay Changi để nạp thêm nhiên liệu. Theo nghi thức ngoại giao, tôi không cần gặp ông, nhưng tôi nhận thấy ông là một người rất nghiêm túc. Với sự hiểu biết sâu rộng, Mitterand nói rằng cường quốc Xô Viết đang trong tình trạng mà chỉ cần một sự cố cũng đủ để tách biệt Trung Âu với Liên bang Xô Viết, rằng sự kiểm soát của Xô Viết dựa trên một thế cân bằng quyền lực nghiêng về phía Xô Viết. Tuy nhiên, lịch sử cho thấy rằng cán cân ấy luôn luôn dịch chuyển và sức mạnh hệ tư tưởng của Liên bang Xô Viết bắt đầu sụt giảm. Những người cộng sản thế hệ thứ ba tin rằng họ có thể hưởng lợi từ kinh nghiệm của thế giới phương Tây, và điều này đang tạo ra điểm yếu trong hệ thống Xô Viết.

Ông ta hoàn toàn đồng ý với tôi rằng châu Âu sẽ trở thành một lực lượng hùng mạnh hơn trong các vấn đề quốc tế nếu có chung tiếng nói. Đây là tham vọng lớn của ông ta – một châu Âu 320 triệu dân với tiềm năng kỹ thuật to lớn. Ông ta tin rằng tiếng Anh và tiếng Pháp có thể dùng như những ngôn ngữ chung của châu Âu, tiếng Pháp cũng ngang bằng với tiếng Anh. Nhưng sự hợp nhất phải diễn ra từ từ. Nếu gặp một vấn đề sống còn thì châu Âu chắc chắn sẽ hoàn toàn hợp nhất. Mặt khác, châu Âu sẽ luôn chống lại việc bị nền văn minh Mỹ nuốt chửng; nó phải chiến đấu để duy trì đặc tính riêng biệt của châu Âu. Sự Mỹ hóa với thức ăn nhanh, nhạc pop và phim ảnh đang xâm nhập vào lối sống cơ bản của người dân châu Âu.

Tôi gặp lại Mitterand vào tháng 5/1990 trong một chuyến viếng thăm chính thức. Ông bước xuống những bậc thềm điện Élysée để chào đón tôi, một vinh dự mà vị đại sứ của chúng tôi chú ý. Mitterand trở lại đề tài về sự sụp đổ của Liên bang Xô Viết và với khả năng huyền bí tiên đoán về sự xuất hiện trở lại của “tất cả những lực lượng dân tộc chủ nghĩa mà lâu nay bị đàn áp”.

Một thủ tướng có năng lực của Pháp là Edouard Balladur, người lãnh đạo chính phủ theo chủ nghĩa De Gaulle cùng tồn tại với Tổng thống theo phe xã hội chủ nghĩa Mitterand. Trước đây, chúng tôi đã có vài dịp gặp nhau, cố vấn ngoại giao của ông đã từng là đại sứ ở Singapore và là một người bạn nên tôi biết Balladur là một người rất có tài. Do vậy, tôi rất ngạc nhiên là ông ta lại có những lý thuyết thật lạ lùng về thương mại. Trong văn phòng của mình, ông trình bày lý thuyết của ông với những người ghi chép rằng sự xóa bỏ rào cản cho mậu dịch tự do có thể chỉ diễn ra giữa những nước có cùng hình thái kinh tế xã hội, bằng không, những sự khác biệt có thể dẫn đến sự lệch lạc và cạnh tranh không công bằng. Ông nêu ví dụ về trường hợp nền công nghiệp dệt của Pháp có thể mất đi trong vòng 10 đến 15 năm tới vì sự cạnh tranh từ Trung Quốc, Đài Loan và Hàn Quốc. Tôi không đồng ý với ông ta và tranh luận rằng sự bảo hộ công nghiệp của bất kỳ quốc gia nào sẽ không còn có thể thực hiện được nữa ngoại trừ chấp nhận trả một giá rất đắt. Các công ty có phạm vi hoạt động toàn cầu, đó là kết quả tất yếu của sự tiến bộ trong lĩnh vực công nghệ kỹ thuật, đặc biệt là hệ thống thông tin toàn cầu. Các công ty nhập nguồn nhiên liệu từ một nước, sử dụng lao động ở một nước khác, xây dựng công xưởng ở một nước thứ ba và tung sản phẩm ra thị trường ở nước thứ tư.

Mặc dù nói chung, ông ta đồng ý với những quan điểm của tôi, ông ta không thể từ bỏ quan điểm bảo hộ mậu dịch vì nỗi lo sợ việc làm bị mất đi bất cứ khi nào các công ty dời các công xưởng ra khỏi nước Pháp. Ông ta đồng ý rằng sự cạnh tranh kinh tế là phải trung thực và công bằng, thêm vào đó, các nhà sản xuất xe hơi Nhật Bản đã không cạnh tranh lành mạnh vì họ nắm được một vài ưu thế. Tôi nhận thấy lời giải thích này thật kỳ quặc và lạ lùng ở một người rõ ràng rất hiểu biết.

Jacques Chirac lúc còn là thị trưởng thành phố Paris cũng có cùng quan điểm với Balladur khi ông ta gặp tôi ở Singapore cuối năm 1993. Ông ta đã đọc bài diễn văn của tôi ở Diễn đàn Asahi vào tháng 10 năm đó khi ông ở Tokyo. Ông ta nhận thấy tuyên bố của tôi rằng châu Âu bảo hộ mậu dịch thật vô lý. Châu Âu là thị trường tự do nhất trên thế giới với thuế suất thấp nhất. Ông lập luận những nước bảo hộ thật sự chính là Nhật và Mỹ. Thật là bất công khi đổ lỗi cho Pháp hoặc Ủy ban châu Âu là ngăn cản thi hành các thỏa thuận Vòng đàm phán Uruguay (Round Uruguay) bởi lẽ họ đã từ chối xóa bỏ chính sách nông nghiệp chung châu Âu. Tôi phản đối rằng nếu không có mậu dịch tự do, thì thế giới sẽ phải chuẩn bị cho một cuộc chiến nữa. Dân tộc Trung Hoa đã dựng nên đế chế cổ vì họ cần thiết lập trật tự dựa trên sự bành trướng lãnh thổ và dân số để hàng hóa và dịch vụ có thể được tự do trao đổi mua bán trong đất nước của họ. Khi tất cả các khu vực của địa cầu bị chia nhỏ cho nhiều cường quốc khác nhau như trước Thế chiến thứ hai, thì chính sự cạnh tranh để có nhiều nguyên vật liệu thô hơn, nhiều thị trường hơn và nhiều của cải hơn đã dẫn đến chiến tranh.

Kế đến, chúng tôi bàn luận về nền nông nghiệp Pháp và Vòng đàm phán Uruguay. Tôi có nghe đài BBC về hoàn cảnh bi đát của nông dân Pháp và chuyện miền quê nước Pháp đã phải chịu cực khổ như thế nào. Nhưng đây là một phần của cuộc cách mạng kỹ thuật. Các nông dân Pháp không thể được che chở lâu dài để giữ lối sống của họ không bị thay đổi. Chirac đáp lại rằng Pháp cần bảo vệ nền nông nghiệp của nó, nhưng ông ta muốn tôi biết rằng ông ta đồng quan điểm với tôi về mậu dịch tự do. Vì lợi ích lâu dài cho nền nông nghiệp Pháp, không có lối nào khác hơn là mậu dịch tự do, vì thế Pháp là quốc gia ít ủng hộ bảo hộ mậu dịch nhất.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx