sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Bí quyết hóa rồng - Lịch sử Singapore 1965 - 2000 - Phần 2 - Chương 30 phần 2

Hai năm sau, khi tôi đến thăm Thủ tướng Takeo Miki, ông ta đã biểu lộ sự cảm kích và chân thành về sự giúp đỡ của chúng tôi trong hai tai nạn ở eo biển Singapore có liên quan đến các tàu chở dầu của người Nhật – một tai nạn đã gây nên sự giận dữ của các nước láng giềng với chúng tôi. Vào tháng Giêng năm đó, tàu Showa Maru bị mắc cạn ở Buffalo Rock, cách Singapore vài kilomet, đã gây nên một vết dầu loang kéo dài 20 km (khoảng 12 dặm). Đã có những nỗi lo sợ về nạn ô nhiễm đáng kể đối với vùng biển của các nước Indonesia, Malaysia và Singapore. Chuyên gia về cảng biển của chúng tôi đã lập tức khẩn trương chở các chất tẩy chống ô nhiễm đến để phân tán các vết dầu loang. Sau đó vào tháng 4, tàu Tosa Maru va chạm với một tàu chở dầu khác ngoài khơi đảo St. John ngay gần Singapore và bị vỡ làm hai. May là nó đã dỡ hết dầu mỏ nên đã không gây ô nhiễm. Tuy nhiên, các chính quyền Indonesia và Malaysia đã công khai đòi thu thuế đường biển để bù đắp tổn thất cho các quốc gia ven biển, đồng thời cũng giới hạn về trọng tải của các tàu được phép đi ngang eo biển Malacca. Vấn đề này rất hệ trọng đối với nước Nhật đến nỗi mà trong suốt cuộc viếng thăm đó của phó Thủ tướng Takeo Fukuda và Bộ trưởng Ngoại giao Kiichi Miyazawa, cả hai đã từng người một cảm ơn tôi về sự giúp đỡ của chúng tôi.

Chính quyền Nhật, hơn các cường quốc lớn khác, đánh giá sự quan trọng của một quốc gia đang phát triển tùy theo giá trị kinh tế của nước đó đối với Nhật. Singapore không có tài nguyên thiên nhiên nên họ đánh giá chúng tôi thấp. Chẳng hạn, để người Nhật giúp đỡ chúng tôi trong việc đầu tư một nhà máy hóa dầu, chúng tôi phải làm cho họ nhớ lại rằng tàu của họ đang đi ngang qua eo biển Malacca sẽ gặp vấn đề trong việc thu thuế quá cảnh nếu Singapore gia nhập với các nước ven biển khác như Indonesia và Malaysia. Nỗi lo lắng của Nhật đối với eo biển Malacca chỉ dịu bớt sau hội nghị của Liên Hợp Quốc về luật biển (UNCLOS) năm 1982, ban hành quyền quá cảnh miễn phí qua các eo biển quốc tế.

Suốt trong những năm tôi còn làm Thủ tướng, tôi đã khuyến khích sự đầu tư của người Nhật vào Singapore. Khi Thủ tướng Sato đến thăm Singapore vào tháng 9/1967, tôi đã công khai nói với ông ta rằng người Singapore không có sự hạn chế nào đối với vốn liếng, kỹ thuật cùng các nhà quản lý hoặc chuyên môn của Nhật, rằng người Nhật được giao nhiệm vụ dẫn dắt các nước châu Á còn lại tiến hành công nghiệp hóa. Tôi đã nói chuyện với các nhà tư bản công nghiệp Nhật ở trong Keidanren, một hiệp hội của các nhà tư bản công nghiệp lớn của họ rằng chúng tôi nghênh đón bất kỳ ngành kỹ nghệ nào mà Singapore có lợi thế về tiền lương hoặc chi phí vận chuyển. Một năm sau, ủy ban phát triển kinh tế (EDB) của chúng tôi đã thiết lập một văn phòng tại Tokyo, nhưng vào đầu những năm 1970, người Nhật không sẵn sàng chuyển các nhà máy của họ ra nước ngoài. Họ đang bít kín sản xuất công nghiệp của họ chỉ trong nước Nhật. Chỉ vào những năm 1980, khi người Mỹ gây áp lực về thặng dư mậu dịch đang gia tăng của họ, thì họ mới bắt đầu sản xuất tại Mỹ. Và khi châu Âu ngăn chặn các sản phẩm của họ thì người Nhật mới bắt đầu sản xuất ở đó, đặc biệt là tại Anh để xuất khẩu sang cộng đồng kinh tế châu Âu (EEC).

Tiêu biểu cho phong cách cẩn thận và kỹ lưỡng của các công ty Nhật đã đầu tư ở nước ngoài là phương hướng mà hãng Seiko đã quyết định xây dựng nhà máy của họ ở Singapore. Chúng tôi đã mất hơn 3 năm vào đầu thập niên 70 để thuyết phục hãng Seiko xây dựng một nhà máy sản xuất đồng hồ tại Singapore. Nhân viên của Ủy ban phát triển kinh tế của chúng tôi tại Tokyo là Wong Meng Quang đã được đào tạo tại một trường đại học của Nhật hiểu rất rõ về ngôn ngữ và văn hóa của họ. Seiko đã không tin rằng có bất cứ một nơi nào ở Đông Nam Á có những kỹ nghệ hỗ trợ và có lực lượng lao động được đào tạo và huấn luyện tốt đủ để đáp ứng các yêu cầu về kỹ thuật chính xác của họ. Wong đã làm việc tích cực để thuyết phục họ rằng sẽ có ngày các đồng hồ thạch anh (quartz) rẻ tiền hơn sẽ không kinh tế nếu sản xuất tại Nhật, họ nên nghĩ đến Singapore. Anh ta đã tranh thủ tình cảm vị giám đốc phụ trách về kỹ thuật và sản xuất. Sau một vài chuyến khảo sát, nhiều bản báo cáo khả thi cùng vô số các đảm bảo hỗ trợ cần thiết khác mà chúng tôi cung cấp, cuối cùng họ đã quyết định đầu tư. Tôi đã khánh thành xưởng sản xuất đầu tiên của họ vào năm 1976. Nếu họ đã rất kỹ lưỡng và cẩn thận trước khi quyết định đầu tư, thì sau quyết định đó họ sẽ cố gắng rất lớn để đảm bảo cho sự thành công của họ. Họ sớm từ bỏ các nghi ngờ về tiêu chuẩn của công nhân chúng tôi và đã nâng cấp lên sản xuất các công cụ có độ chính xác, các kỹ nghệ về người máy và các hệ thống tự động.

Vào năm 1969, chúng tôi quan tâm đến một dự án hóa dầu. Trước hết tôi yêu cầu sự hỗ trợ của chính quyền Miki vì chúng tôi biết rằng không như người Mỹ hay người châu Âu, chính quyền tại Nhật đóng vai trò rất quan trọng trong dạng đầu tư này và sự hỗ trợ của họ thường mang tính quyết định. Tháng 5/1975, tôi đã gặp ông Norishige Hasegawa, chủ tịch Tổng công ty hóa chất Sumitomo. Ông ta sẵn lòng đưa công ty của ông ta tham gia vào một dự án như vậy, nhưng ông ta nói rằng chính quyền Nhật không hỗ trợ việc đó. Ông ta yêu cầu tôi phải đạt được một lời cam kết hỗ trợ công khai từ phía Thủ tướng Nhật. Thủ tướng Miki miễn cưỡng thực hiện việc này bởi vì Indonesia, một nước sản xuất dầu mỏ muốn một dự án hóa dầu cho chính nước họ. Tôi đã thuyết phục ông Miki không cho phép nước Nhật bị các quốc gia giàu tài nguyên gây áp lực mà bỏ mất một cơ hội đầu tư có lợi. Tôi cũng đã nhắc cho ông ta nhớ lại việc Singapore đã giúp đỡ dàn xếp ổn thỏa việc hai chiếc tàu chở dầu bị rò rỉ của Nhật và hy vọng ông ta sẽ hỗ trợ cho dự án của công ty Sumitomo. Sau đó, ông ta đã tuyên bố một lời ngắn rằng: mặc dù đó là một dự án đầu tư của tư nhân nhưng chính phủ Nhật quan tâm sâu sắc đến nó và sẵn sàng ủng hộ.

Hai năm sau, vào tháng 5/1977, người kế vị của ông Miki là ông Takeo Fukuda đã tán thành dự án hóa dầu giữa Singapore và Nhật Bản với công ty Sumitomo đóng vai trò là một lãnh đạo dự án về phía người Nhật. Không có ông ta thì dự án sẽ không bao giờ thành hiện thực. Một khoản đầu tư hơn một tỷ đôla Mỹ được xem là rất lớn vào năm 1977 và hóa dầu được coi là lĩnh vực đòi hỏi tập trung vốn quá lớn và kỹ thuật quá cao đối với Singapore. Mặc dù thế, còn phải cần đến sự can thiệp của Thủ tướng Yasuhiro Nakasone khi ông ta viếng thăm Singapore vào năm 1983 để làm cho dự án thực sự vận hành. Sau một thời gian ngắn, dự án được tiến hành trên cơ sở vốn 50:50. Nó đã xuất phát chậm chạp để đi vào hoạt động trong một thời kỳ mà cung đã vượt cầu nhưng cũng có lãi và kéo theo một số khoản đầu tư lớn vào các sản phẩm hạ nguồn (các sản phẩm chế tạo từ dầu mỏ).

Các Thủ tướng Nhật mà tôi đã từng gặp, từ ông Ikeda năm 1962 đến ông Miyazawa năm 1990, đều là những người có năng lực đáng kể. Một người nổi bật như một viên kim cương thô là Kakuei Tanaka – người tôi đã gặp vào tháng 5/1973 tại Tokyo. Ông ta có tiếng là một loại xe ủi đường, một con người có đầu óc như một máy tính mạnh, một nhà thầu xây dựng chiến đấu để vươn lên từ địa vị thấp. Với một chiều cao trung bình của người Nhật, hơi đậm và vạm vỡ, ông ta là người có nghị lực. Sự cộc cằn và thẳng thừng trong tính cách của ông ta làm ông khác biệt với các Thủ tướng Nhật khác. Họ phần lớn đều tốt nghiệp từ Đại học Hoàng gia Tokyo hoặc một vài học viện nổi tiếng khác để rồi trở thành những viên chức và sau đó leo lên đến đỉnh cao của ngành dân chính và tham gia vào giới lãnh đạo của đảng Dân chủ Tự do (Liberal Democratic Party – LDP). Ông Tanaka thì chưa bao giờ học đại học nhưng ông ta thừa năng lực cho công việc.

Thật dễ chịu khi trò chuyện với một lãnh tụ người Nhật luôn sẵn sàng giãi bày quan điểm không hạn chế, ngay cả với những vấn đề nhạy cảm như tình cảm bài Nhật ở Đông Nam Á. Nước Nhật khi đó bị rắc rối với việc các sinh viên Thái biểu tình chống đối việc khai thác kinh tế của Nhật tại Bangkok. Tôi nói việc đó không phải chỉ cần phái Bộ trưởng Thương mại và Công nghiệp của họ, ông Nakasone, đến để vỗ về người Thái là đủ; nếu ông Tanaka không muốn những vấn đề như vậy nhức nhối thêm thì ông ta phải biểu lộ cho người Thái, người Indonesia và người Philippine thấy rằng ngoài việc khai thác các nguyên liệu thô của họ, người Nhật còn quan tâm đến việc giúp họ công nghiệp hóa. Tôi đã nhắc lại những lập luận này với các thủ tướng khác của Nhật nhưng không có tác dụng nhiều.

Trong vòng 8 tháng, vào tháng 1/1974, tôi đã tiếp đón ông Tanaka tại Singapore. Khi ông ta từ máy bay bước xuống, khuôn mặt ông ta cong oằn với đôi môi và cái má bị nhăn về một phía. Ông ta không hề ngượng ngập và giải thích rằng thật ra ông có vấn đề về thần kinh vốn cần có thời gian để giải quyết, ông ta toát ra vẻ tự tin mạnh mẽ.

Ông ta đã từ chức vào cuối năm 1974 do vụ hối lộ khi mua máy bay của hãng Lockheed, nhưng vẫn còn là nhân vật quyền lực trong đảng Dân chủ Tự do cho đến khi ông ta qua đời năm 1993.

Ông Takeo Fukuda là một người đàn ông mảnh khảnh, chỉnh tề và dẻo dai với một nét tinh quái biểu lộ trên khuôn mặt nhỏ và thanh nhã. Tôi đã gặp ông ta vào tháng 5/1977 sau khi ông ta trở thành Thủ tướng. Qua các buổi gặp gỡ trước đây khi ông ta còn là bộ trưởng, tôi biết ông ta có một đầu óc sắc bén, rộng rãi và có sự quan tâm bao quát. Có một lần, để trình bày nước Nhật đã bị thiệt hại như thế nào, ông ta đã móc từ túi áo trên ra một cuốn sổ bỏ túi và đọc lên kích thước của khu vực kinh tế được mở rộng của Nhật (Extended Economic Zone – EEZ)[39]so với Mỹ. Ông ta đã giữ lại các số liệu và hình ảnh hữu ích gồm cả số dặm vuông mà mỗi quốc gia có được như vùng kinh tế được mở rộng theo Luật biển.

[39] Vùng đặc quyền kinh tế (thường gặp với thuật ngữ Exclusive Economic Zone) là vùng biển mở rộng từ các quốc gia ven biển hay quốc gia quần đảo, nằm bên ngoài và tiếp giáp với lãnh hải, về cơ bản được quy định – theo Công ước Liên Hợp Quốc về luật biển UNCLOS năm 1982 – có chiều rộng 200 hải lý (khoảng 370,4km) tính từ đường cơ sở. Trong khu vực này, quốc gia có đặc quyền khai thác và sử dụng các tài nguyên biển. Nó là một trong các vùng mà quốc gia có chủ quyền. Đối với thuật ngữ Extended Economic Zone, người làm ebook không tìm được từ internet một trang nào đưa ra một định nghĩa chính thức, chỉ có một vài giải thích đi kèm thuật ngữ này liên quan đến giới hạn 200 hải lý.

Vào tháng 8, ông Fukuda đến thăm Singapore sau khi tham dự hội nghị thượng đỉnh ASEAN ở Kuala Lumpur. Chúng tôi đã có một cuộc trò chuyện một tiếng rưỡi đồng hồ. Các bộ trưởng của chúng tôi đồng ý thiết lập một trung tâm đào tạo Nhật – Singapore và những khoản đóng góp của các công ty Nhật cho trung tâm được khấu trừ thuế. Người Nhật yêu cầu chúng tôi dành một khoảng thời gian chuyển tiếp 5 năm trước khi UKC (Under Keel Clearance tức mớn nước của một con tàu) 3,5 mét – chừng 4 yard, được áp dụng đối với các tàu dầu của Nhật đi qua eo biển Malacca. Mặc dầu Indonesia, Malaysia và Singapore đã đồng ý rằng điều đó sẽ được thi hành sau ba năm rưỡi nhưng tôi hứa sẽ cố gắng gia hạn đến 5 năm. Chúng tôi đã thành công.

Lúc đó, tôi phản đối với Fukuda rằng các quan chức của ông ta đã nói về Singapore không phải như là một quốc gia đang phát triển mà như là một quốc gia được công nghiệp hóa và không được quyền vay ưu đãi từ Nhật. Nếu họ đối xử với chúng tôi như một quốc gia công nghiệp hóa trong khi chúng tôi chưa phải như vậy thì sớm muộn gì cộng đồng kinh tế châu Âu và Hoa Kỳ cũng đối xử với chúng tôi như vậy. Chúng tôi sẽ mất đi quyền được hưởng GSP (General Scheme of Preferences – Chính sách cho phép các nước đang phát triển được miễn thuế nhập khẩu) và những lợi thế khác trước khi chúng tôi có thể cạnh tranh trên điều kiện ngang bằng. Ông Fukuda ghi lại và họ đã ngưng đưa ra vấn đề này. Mấy năm sau, vào giữa những năm 1980, chính hội đồng châu Âu ở Brussels là bên đã đòi đặt lại vấn đề về địa vị quốc gia đang phát triển của Singapore.

Fukuda vẫn còn ảnh hưởng trong nền chính trị Nhật sau khi ông về hưu với tư cách là một nghị sĩ quốc hội. Con trai ông giành được chiếc ghế mà ông đã để lại (xin thôi) do lòng trung thành sâu sắc của các cử tri người Nhật. Khi ông qua đời vào năm 1995, nước Nhật đã mất đi một nhà lãnh đạo khôn ngoan, giàu kinh nghiệm và thông thái. Ông đã nắm chắc các vấn đề của thế giới ở cuối thế kỷ 20 và đã hiểu được rằng nước Nhật không thể sống cô lập.

Tôi đã chính thức viếng thăm Nhật vào tháng 10/1979, sau khi ông Masayoshi Ohira kế tục ông Fukuda. Nghi thức ngoại giao của người Nhật đã thay đổi theo thời gian, không còn yêu cầu đội mũ phớt đen và mang găng tay màu xám. Chúng tôi ở tại dinh Asakasa. Chúng tôi đã ăn trưa với Nhật hoàng Hirohito và Hoàng hậu, sau đó dùng bữa tối với Thủ tướng.

Ông Ohira có một khuôn mặt lớn, tươi cười, đôi má đầy đặn và rất dễ cười thành tiếng. Vị cử nhân của đại học Hitotsubashi đã từng làm việc ở Bộ Tài chính. Ông là một nhà lãnh đạo thận trọng và có năng lực. Tôi đã lôi kéo sự chú ý của ông ta về ý nghĩa của sự hợp tác Nhật Bản – Singapore qua các dự án như trung tâm đào tạo Nhật – Singapore, trung tâm đào tạo về phần mềm, phân khoa Nhật học của đại học Singapore và sự kết nghĩa của hai khoa kỹ thuật giữa Đại học Singapore và Đại học Nhật Bản – đối với các nước láng giềng của chúng tôi. Việc này đã được các nước láng giềng của chúng tôi nghiên cứu một cách cẩn thận. Vì Singapore đã thành công nên các nước nhận thức được giá trị của việc đào tạo cũng như kiến thức và muốn hợp tác nhiều hơn với Singapore và Nhật. Ông ta đã đồng ý với lời yêu cầu của tôi về việc giúp đỡ phát triển nguồn nhân lực, nói thêm là chủ đề này gần gũi với tâm tư của ông ta. Khi ông Ohira chết bất ngờ một năm sau đó, tôi đã mất một người bạn.

Ông Zenko Suzuki, người kế nhiệm ông Ohira đã sang thăm Singapore và các nước Asean khác vào tháng 1/1981. Tôi cố thuyết phục ông ta lưu ý đặc biệt đến các nước Asean theo cách châu Âu đã thực hiện cho châu Phi tại hội nghị Lomé. Ông Suzuki đã dứt khoát đồng ý. Ông ta đã quyết định tiến hành chuyến viếng thăm đầu tiên là đến các nước thuộc Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á, mặc dầu theo truyền thống thì chuyến viếng thăm đầu tiên của một Thủ tướng Nhật ra nước ngoài là đến Washington. Chỉ sau đó ông ta mới đến Washington rồi tiếp đó đến hội nghị thượng đỉnh G–7 ở Ottawa. Ông ta đã tuyên bố nước Nhật là một phần của châu Á và khi đã là quốc gia duy nhất công nghiệp hóa cao thì phải có trách nhiệm đặc biệt với châu Á và có ý định làm việc với châu Á.

Sự thay đổi về thái độ của ông ta thật quan trọng. Không thể tưởng tượng được rằng một Thủ tướng Nhật có thể xoay xở điều này mà không có sự hỗ trợ nào của các quan chức đầy quyền lực khác. Để nhấn mạnh tầm quan trọng của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á, ông ta đã kể lại việc Liên Xô đã tiếp cận với Nhật như thế nào để xin giúp đỡ phát triển kinh tế ở vùng Siberia. Nếu Liên Xô không thay đổi các chính sách của họ tại Afganistan và Việt Nam thì Nhật sẽ không trợ giúp kinh tế cho Siberia mặc dầu Liên Xô đã yêu cầu Nhật tách riêng vấn đề kinh tế ra khỏi chính trị. Tôi đã ủng hộ lập trường này của ông ta: Nếu Nhật, châu Âu và Hoa Kỳ giúp đỡ cho Liên Xô che đậy các thất bại của hệ thống xã hội của họ thì họ sẽ tiếp tục gây rắc rối cho thế giới. Không có sự giúp đỡ bên ngoài, trong vòng 15 đến 20 năm, họ sẽ phải đương đầu với các vấn đề nghiêm trọng hơn cả các vấn đề của Ba Lan. Ông Suzuki đã đồng ý.

Là một người tốt nghiệp ở Viện đào tạo ngư nghiệp (bây giờ là Đại học ngư nghiệp Tokyo), ông ta là một chuyên gia trong lĩnh vực đó. Tôi đã có một bữa ăn tối thú vị cùng ông ta và khám phá những điều huyền bí trong ngư nghiệp cũng như về kỹ nghệ đánh cá ở Nhật. Ông ta sử dụng nhiều ẩn dụ có liên quan tới cá. Khi tôi đề nghị rằng Nhật nên tập trung vào việc phát triển nguồn nhân lực, đào tạo cho các công nhân Đông Nam Á có năng suất và tài năng như người Nhật, ông ta đã đồng ý và nói: ”Nếu bạn cho một người nào đó một con cá thì anh ta chỉ có được một bữa ăn, nếu bạn dạy cho anh ta cách câu cá thì…”. Ông ta sẽ dành 100 triệu đôla cho một trung tâm đào tạo ở mỗi quốc gia Đông Nam Á, và một tại Okinawa. Ông ta nói chìa khóa để có nền kinh tế hiện đại là thông qua việc đào tạo chứ không phải việc trợ cấp hay cho vay ưu đãi.

Bởi vì hầu hết các Thủ tướng Nhật sau ông Sato đều không tại chức quá hai năm nên thật là khó để thiết lập các mối quan hệ cá nhân sâu đậm với họ. Những sự thay đổi thủ tướng và các bộ trưởng ít tạo sự khác biệt gì nhiều và người Nhật tiếp tục đạt được tốc độ phát triển cao. Các nhà bình luận nước ngoài quy điều này cho năng lực và thẩm quyền của bộ máy hành chính. Tôi cho rằng họ đã đánh giá thấp khả năng của những người đã lần lượt trở thành Thủ tướng và Bộ trưởng trong nội các. Họ đều là những người được tiến cử từ hàng ngũ đảng viên hàng đầu của đảng Dân chủ Tự do, tất cả bọn họ đều có khả năng, có kinh nghiệm và có cùng quan điểm.

Ông Yasuhiro Nakasone, người kế vị ông Suzuki, tại vị ghế Thủ tướng trong 5 năm từ năm 1982. Ông ta nói tiếng Anh giọng Nhật, với một âm thanh vang dội, nhấn mạnh và đầy sinh lực. Ông ta đã từng là một đại úy hải quân (người phát lương) trong Hải quân Hoàng gia Nhật và rất hãnh diện về điều này. Cao và vạm vỡ, trán rộng và bắt đầu hói, ông ta toát ra năng lực và ý thức kỷ luật. Ông ta thường ngồi thiền hai giờ một tuần tại một ngôi đền, trong tư thế thẳng lưng và hai chân chéo nhau như một bông sen, ông ta cũng khuyên tôi nên làm như vậy. Tôi đã thử theo lời khuyên của ông ta với sự giúp sức của một người bạn – một bác sĩ theo đạo Phật được đào tạo ở Tây phương – tôi đã học được cách thức làm như thế nhưng chỉ nửa giờ mỗi lần. Sau này, tôi ngồi thiền hàng ngày, nó có ích hơn việc dùng thuốc an thần.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx