sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Bí quyết hóa rồng - Lịch sử Singapore 1965 - 2000 - Phần 2 - Chương 32 phần 1

32

TRIỀU TIÊN: ĐẾN BƯỚC NGOẶT

Tôi không có những ký ức tốt đẹp về người Triều Tiên vì những người Triều Tiên đầu tiên tôi gặp lại trong bộ quân phục Nhật. Họ là một trong hai đội quân đánh thuê mà người Nhật đã đưa đến Singapore, đội quân kia là người Đài Loan. Lính Triều Tiên hung dữ và cũng áp bức như lính Nhật. Lính Đài Loan đóng vai trò thông dịch viên, nói tiếng Phúc Kiến, thổ ngữ chính của người Hoa ở Singapore.

Sau chiến tranh, thuyết động lực về kinh tế của Nam Triều Tiên đã xóa bỏ thành kiến xưa kia của tôi. Khi tôi đến thăm quốc gia này vào tháng 10/1979, Tổng thống Park Chung Hee đã tiếp tôi tại nơi ở chính thức của ông là Nhà Xanh (BlueHouse). Park là một người trông có vẻ khổ hạnh, nhỏ con và gầy với gương mặt thông minh và mũi nhỏ. Người Nhật đã chọn và huấn luyện ông thành một sĩ quan quân đội. Chắc hẳn ông là một trong những người giỏi nhất của thế hệ ông.

Ông muốn có những mối quan hệ gần gũi với Asean và hy vọng tôi sẽ giúp đỡ. Ông nói triển vọng hòa bình ở bán đảoTriều Tiên không được tốt. Miền Nam không muốn một cuộc chiến tranh nào khác, họ cần đặt hòa bình lên hàng đầu và sự thống nhất xuống hàng thứ hai. Miền Bắc muốn thống nhất bằng vũ lực. Tôi hỏi liệu quân Mỹ có trở về nước sau năm 1981 – thời hạn mà Tổng thống Carter đã tuyên bố về việc rút quân đội Mỹ hay không. Park trả lời rằng Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ của Tổng thống Carter, ông Brown, đã hứa đảm bảo an ninh sau năm 1981 và đã phát biểu trước công chúng rằng vấn đề an ninh ở Nam Triều Tiên là quan trọng đối với Mỹ. Tôi nói rằng lời cam kết sẽ rút quân khỏi Nam Triều Tiên trong cuộc bầu cử năm 1976 của ông Carter đã được dân Mỹ ngưỡng mộ; nếu họ lại ưa thích nó thì Carter có thể thay đổi. Ông ta đồng ý và nói rằng ông lo lắng về chính sách của Mỹ vốn bị tác động bởi các vòng bầu cử bốn năm.

Tối hôm đó, ông ta không nói chuyện phiếm trong bữa ăn. Con gái ông ta, một cô gái hai mươi tuổi nói tiếng Anh, đã giữ cho cuộc nói chuyện tiếp tục. Park nói rằng quá trình huấn luyện của ông là quá trình huấn luyện của một sĩ quan quân đội, và công việc của ông là lấy những lời khuyên và những lời đề nghị của những chuyên gia mà ông đã bổ nhiệm với tư cách là những vị bộ trưởng, những viên chức cao cấp, rồi quyết định chính sách.

Thủ tướng của ông, Choi Kyu Hal, là một người có năng lực, được giáo dục theo kiểu Nhật. Vợ của Choi cũng thông minh như ông ta và được giáo dục tốt tại Nhật. Bà và chồng vẫn đọc những tiểu thuyết và báo bằng tiếng Nhật. Giới trí thức Nam Triều Tiên, cũng như Đài Loan, bị ảnh hưởng của người Nhật nhiều như tôi bị ảnh hưởng của người Anh. Park đã cầm quyền 18 năm và đã đưa nền kinh tế phát triển thịnh vượng với một dân tộc kỷ luật và đoàn kết, những người quyết tâm đạt được sự hiện đại hóa nền kinh tế. Theo cách của người Nhật, ông ấy đã khư khư bảo vệ thị trường quốc nội và xuất khẩu một cách tích cực. Ông đã khuyến khích, thậm chí ép buộc người Nam Triều Tiên phải tiết kiệm, từ chối những xa xỉ phẩm như những chiếc ti vi màu mà họ đang xuất khẩu với số lượng tăng dần. Tôi rất ấn tượng bởi ý chí sắt đá và cách giải quyết dứt khoát để đưa Nam Triều Tiên đến thành công. Nếu không có Park thì Nam Triều Tiên có thể không bao giờ trở thành một quốc gia công nghiệp hóa. Năm ngày sau khi tôi rời Nam Triều Tiên, Park đã bị viên sĩ quan hầu cận thân nhất, trưởng cơ quan tình báo, ám sát. Theo chính phủ, đây là một phần trong âm mưu chiếm quyền lực. Báo chí đưa tin rằng viên chỉ huy cơ quan tình báo lo sợ bị thay thế sau khi Park phê bình ông ta vì thất bại trong việc xử lý tình trạng náo động khi sinh viên và công nhân ẩu đả với cảnh sát ở Pusan.

Chuyến viếng thăm đã củng cố nhận định của tôi rằng người Nam Triều Tiên khá cứng rắn và có khả năng chịu đựng gian khổ. Những kẻ xâm lược đã bành trướng qua những thảo nguyên của vùng Trung Á và dừng chân ở bán đảo này. Họ là những người có dòng dõi Mông Cổ với những nét đặc trưng về hình dáng và gương mặt, rất dễ phân biệt với người Nhật và người Hoa. Tự hào về lịch sử của mình, họ đã đưa tôi đến Kyongju, trung tâm văn hóa cổ xưa, nơi có những lăng mộ của các vị Hoàng đế triều đại Shilla đã làm nở rộ những tạo phẩm tinh vi từ vàng và đá quý.

Lòng căm thù của họ đối với người Nhật thật mãnh liệt. Sự đàn áp tàn nhẫn của người Nhật trong 35 năm đối với bất kỳ hoạt động chống đối nào đã để lại những vết thương khắc sâu trong tâm hồn họ. Họ hồi tưởng lại những cuộc xâm lược của người Nhật trong hơn 500 năm qua, mà họ đã đẩy lùi. Ngay cả trong số những người Triều Tiên ưu tú bị Nhật hóa nhiều nhất, có thủ tướng Choi và vợ ông, cả hai hoàn toàn thấy thoải mái về ngôn ngữ, văn chương và văn hóa Nhật, vẫn có một mối ác cảm cơ bản đối với những kẻ trước đây đã từng cai trị họ. Người Nhật rất hà khắc với người Nam Triều Tiên vì họ đã phản đối sự thực dân hóa và thống trị. Họ cũng chống lại cương vị lãnh chúa của người Hoa trong một nghìn năm, nhưng họ lại không ác cảm sâu sắc như thế đối với người Hoa. Họ đã chấp nhận hệ thống chữ viết của người Hoa và cùng với nó là sự hấp thụ Nho giáo.

Những sinh viên Nam Triều Tiên trong các trường Đại học Mỹ đã chứng tỏ rằng họ cũng thông minh như người Nhật hoặc người Hoa. Nhưng dẫu người Hàn mạnh hơn về thể chất, thì họ cũng không thể sánh kịp người Nhật trong việc liên kết và cống hiến cho các công ty của họ. Các công đoàn và công nhân Nam Triều Tiên đều im lìm chừng nào nó ở trong tình trạng thiết quân luật. Khi luật này được bãi bỏ, các công đoàn đã trở thành những “chiến sĩ” lãn công, biểu tình ngồi và đình công. Họ đã yêu cầu được tăng lương và nâng cao điều kiện làm việc bất kể những gì đang xảy ra với các thị trường xuất khẩu của họ. Giới chủ và công đoàn người Nam Triều Tiên không bao giờ đạt được mối quan hệ hợp tác như người Nhật và các công đoàn của họ. Các công đoàn Nhật không bao giờ phá hủy vị trí cạnh tranh của công ty họ dù mối bất hòa giữa họ với chủ về việc ai sẽ nhận được cái gì có gay gắt đến đâu.

Người Nam Triều Tiên khá dữ tợn. Khi họ nổi loạn, họ cũng có tổ chức và kỷ luật như những cảnh sát chống bạo loạn – những người như những đấu sĩ trong chiếc mũ sắt với tấm che mặt và những cái khiên bằng chất dẻo, đang đối diện với họ. Khi những công nhân và sinh viên ẩu đả với cảnh sát trên đường phố, họ giống như những người lính trong cuộc chiến. Những người đình công ngồi xổm trên mặt đất lắng nghe những bài diễn văn và đưa nắm đấm lên xuống nhịp nhàng. Họ là những người mạnh mẽ không thỏa hiệp, và khi họ chống đối chính quyền, họ sẽ hành động với sự mạnh mẽ và dữ dội đó.

Tôi đã thực hiện hai chuyến viếng thăm đến Nam Triều Tiên trong những năm 80 để gặp gỡ với các Tổng thống Chun Doo Hwan và Roh Tae Woo. Tôi cũng đã gặp Tổng thống Kim Young Sam ở Singapore vào năm 1996. Cả bốn nhà lãnh đạo Nam Triều Tiên, từ ông Park đến ông Kim, đều quan tâm sâu sắc đến tính bất ổn về tình hình địa lý chính trị của quốc gia họ, vốn bị kẹp giữa ba nước láng giềng hùng mạnh và rộng lớn là Trung Quốc, Nga và Nhật.

Khi tôi gặp ông Chun ở Seoul vào năm 1986, tôi đã kinh ngạc trước nỗi ám ảnh và lo lắng của ông ấy về Bắc Triều Tiên. Tôi thấy điều này thật lạ. Dân số của miền Nam gấp đôi miền Bắc. Họ lại giàu hơn rất nhiều và được Mỹ viện trợ thiết bị quân sự tốt hơn. Những đau buồn đã phải trải qua trong cuộc xâm lược của những người cộng sản ắt hẳn đã để lại những vết thương sâu sắc và một nỗi lo sợ vĩnh cửu về tính hung ác của những người anh em Bắc Triều Tiên của họ. Tất cả những Bộ trưởng ngoại giao Nam Triều Tiên mà tôi gặp đều bày tỏ sự sợ hãi đối với sức mạnh và lòng dũng cảm của quân đội miền Bắc, bất chấp nền kinh tế khó khăn của họ.

Một vấn đề khác nổi bật trong các cuộc thảo luận của tôi với những nhà lãnh đạo Nam Triều Tiên là vấn đề thương mại và đầu tư giữa những nền kinh tế công nghiệp hóa mới (NIEs), trong đó có cả Nam Triều Tiên và Singapore, và các quốc gia phát triển của châu Âu và châu Mỹ. Năm 1986, tôi đã nêu rõ mối quan ngại của tôi với Tổng thống Chun về khuynh hướng bảo hộ đang gia tăng ở Mỹ và châu Âu. Nếu chúng tôi, những nước công nghiệp mới (NIEs), không mở cửa thị trường để đáp lại sự thâm nhập tự do mà chúng tôi đã thực hiện ở Mỹ và châu Âu, thì họ sẽ nhận thấy điều này là không thể chấp nhận được và sự bảo hộ mậu dịch sẽ tăng. Ông ấy đồng ý rằng NIEs nên mở rộng tự do. Nam Triều Tiên đang thực hiện điều này, với một phương pháp có hệ thống và ổn định, để được hoàn thành trong vòng 2 năm. Tôi chỉ ra rằng sau khi mở rộng tự do, các mức thuế của Nam Triều Tiên sẽ vẫn còn cao khoảng 16 đến 20 %. Câu trả lời của Chun là vì Nam Triều Tiên vẫn chưa phải là một quốc gia giàu có. Thu nhập theo đầu người chỉ khoảng 2.000 USD, ít hơn của Singapore, và nước ông đã có món nợ khoảng 46,5 tỷ USD bên cạnh gánh nặng quốc phòng.

Khi tôi nói chuyện với bốn tập đoàn kinh doanh quan trọng của Nam Triều Tiên trong bữa trưa ở Seoul vào năm 1986, tôi thấy rằng họ rất miễn cưỡng mở cửa thị trường của họ. Hai năm sau, cũng trong bữa ăn trưa với bốn tập đoàn này, tôi đã bàn đến sự cần thiết nên tăng hàng nhập khẩu, và đề nghị rằng họ và những NIE khác nên thảo luận với các quốc gia công nghiệp trong Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (Organization for Economic Cooperation and Development – OEQD) về những phương pháp để thu hẹp sự mất cân bằng thương mại. Lần này họ đã tiếp thu hơn, và nhận ra rằng vị trí của họ không còn đứng vững được.

Trong suốt nhiệm kỳ Tổng thống của Chun, những cuộc biểu tình và nổi loạn lớn thỉnh thoảng đã đưa Seoul vào tình thế bế tắc. Trước lúc kết thúc nhiệm kỳ, những cuộc biểu tình đã trở nên thường xuyên. Roh, với tư cách là viên sĩ quan phụ tá quan trọng của ông, đã làm tình trạng căng thẳng giảm xuống một cách tài tình và đã tập hợp sự hỗ trợ để tranh cử và chiến thắng trong cuộc bầu cử Tổng thống kế tiếp.

Roh Tae Woo là một người đàn ông trầm tĩnh và nghiêm nghị. Khi chúng tôi gặp nhau lần đầu vào tháng 7/1986, ông ấy còn là một Bộ trưởng trong nội các của Chun. Ông ta ca ngợi chính phủ trong sạch của Singapore. Tổng thống của ông đã cố gắng xóa bỏ nạn tham nhũng nhưng thấy rằng điều này không dễ dàng. Chúng tôi đã giải quyết vấn đề này như thế nào? Tôi đã giải thích về hệ thống của chúng tôi: đầu tiên, sự hiểu biết tốt; tiếp đến, sự khách quan, chứ không có quan điểm chủ quan; thứ ba, sự hậu thuẫn vững chắc từ những người lãnh đạo cao nhất trong công tác điều tra chống tham nhũng và truy tố. Tôi nói có thể cho những viên chức cao cấp đã lớn tuổi nghỉ hưu dần và đưa những người trẻ hơn, còn trong sáng, và đảm bảo rằng họ vẫn duy trì được những chuẩn mực cao. Họ nên được trả lương hậu hĩ. Tuy nhiên, tôi nhấn mạnh rằng, trừ phi những nhà lãnh đạo cao cấp đều hoàn hảo, và những cấp bậc chính quyền cao hơn được làm sạch trước, nếu không việc chống tham nhũng chỉ là sự lãng phí thời gian vô ích.

Tôi đã gặp Roh lần tiếp theo vào năm 1988, khi ông ta đã trở thành Tổng thống. Ông ta đã hỏi làm thế nào mà tôi có thể cầm quyền trong một thời gian khá dài như vậy, cũng như đã thắng được các cuộc bầu cử liên tiếp. Tôi trả lời, bởi vì người dân biết rằng tôi không nói dối và tôi trung thành với các lợi ích của họ. Người dân bình thường không thể hiểu được tính phức tạp của một vấn đề kinh tế hay vấn đề chính trị, vì vậy họ nghiên cứu xem người nào nên được tín thác. Để chiếm được niềm tin đó, tôi không bao giờ phát biểu điều mà tôi không tin chắc, và mọi người dần dần đã nhận ra rằng tôi trung thực và thẳng thắn. Đây là “tài sản” mạnh nhất của tôi. Cũng như nó đã là sức mạnh của Tổng thống Hoa Kỳ Reagan. Ông ta đã có những người viết diễn văn xuất sắc. Reagan đã làm việc trên những bản phác thảo của họ, sử dụng những ý tưởng của họ, nhưng lại đặt chúng trong ngôn ngữ của ông. Ông không cho phép bản thân bị “thuyết minh” bởi những người viết diễn văn của mình, vì vậy khi đọc một bài diễn văn, ông ta luôn được xem là một người đàn ông trung thực và có sức thuyết phục. Tôi khuyên Roh không nên đua tranh với Kim Dae Jung trong việc đọc những bài diễn văn lôi cuốn. Roh đã chứng tỏ với mọi người rằng ông ta có thể giữ bình tĩnh trong một cơn khủng hoảng với những cuộc bạo động lớn và mất trật tự xảy ra trước kỳ bầu cử, cũng như đã biểu hiện đức tính khiêm tốn của mình. Đó là những “tài sản” mà ông ta đã tạo được.

Roh đã kết nạp Kim Young Sam, một trong hai nhà lãnh đạo phe đối lập chính vào Đảng của ông. Điều này cho phép Kim trở thành vị Tổng thống thường dân đầu tiên đắc cử vào năm 1992. Ông ta đã thực hiện xóa bỏ nạn tham nhũng. Ông ta đã cách chức ba bộ trưởng trong nội các chỉ trong vòng vài tuần sau khi bổ nhiệm họ vì những hoạt động tham nhũng khác nhau, cách chức một số vị quan tòa cao cấp, sa thải và bỏ tù một số sĩ quan quân đội cao cấp. Quân đội đã không phản đối. Một số đài truyền hình và báo chí Nam Triều Tiên đã đến Singapore để thực hiện những phim tài liệu và những bài báo về luật chống tham nhũng và phương thức cưỡng chế của chúng tôi.

Năm 1996, tôi gặp Tổng thống Kim Young Sam khi ông viếng thăm Singapore. Là một người đàn ông sang trọng với trang phục trang nhã, ông ta tự hào nói với tôi rằng ông đã chạy bộ nhiều km mỗi buổi sáng. Ông ta nói rằng chúng tôi đã chia sẻ những nguyên tắc chung như tầm quan trọng của gia đình và một mạng lưới xã hội để hỗ trợ gia đình đó. Tôi bổ sung rằng mối quan tâm chung quan trọng nhất của chúng tôi là tầm quan trọng chiến lược về sự hiện diện của Hoa Kỳ ở châu Á.

Tình hình ở miền Bắc đột ngột thay đổi. Kim đã miêu tả những nhà lãnh đạo Bắc Triều Tiên như những người điên rồ và có khả năng thực hiện những hành động phi lý. Họ có lực lượng vũ trang khoảng 1,1 triệu quân nhưng vũ khí của họ đều lạc hậu, các tuyến viện trợ yếu và ngành hậu cần kém.

Khi nhậm chức, Kim đã tuyên bố rằng ông ta sẽ không bới lại các vấn đề cũ. Nhưng khi áp lực trong nước tăng lên, ông ta đã thay đổi quan điểm vào cuối năm 1995 và đã có cuộc họp quốc hội để thông qua một luật đặc biệt để nhằm gỡ bỏ những hạn chế của đạo luật áp dụng cho cuộc đảo chính năm 1979 và cho tội giết người, nổi loạn, tham nhũng, và những tội ác khác liên quan đến cuộc thảm sát ở Quang Du vào năm 1980, lúc quân đội đã giết chết vài trăm thường dân phản đối. Hai vị tiền nhiệm của ông đã bị bắt và buộc tội. Tôi kinh ngạc khi xem họ trên truyền hình lúc bị đưa ra tòa trong quần áo phạm nhân, tay bị còng và bị làm nhục. Chun bị kết án tử hình còn Roh bị xử 22 năm và 6 tháng tù giam vì vai trò của họ trong cuộc đảo chính năm 1979 và cuộc tàn sát ở Quang Du năm 1980. Cả hai cũng bị phạt về việc nhận hối lộ trong suốt nhiệm kỳ Tổng thống của họ. Nhờ kháng án, những bản án này sau đó đã được giảm xuống thành tù chung thân cho Chun và 17 năm tù cho Roh.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx