sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Chương 20: Chuyển Cơ

Binh mã Lô Lĩnh Châu và binh mã Khiết Đan duy trì sự điều động thống nhất trong cuộc tấn công thành, tất cả đều nghe theo hiệu lệnh của chủ tướng mới bái trong quân Dương Hạo, Chiết Duy Chính. Chiết Duy Chính không phải là một con rối vô năng, tuy nói sau lưng có sự tham mưu của tiểu cô cô, nhưng hắn thật sự cũng là một hổ tướng. Là trưởng tử của Chiết gia, từ nhỏ đã học binh pháp thao lược, đi theo cha, thường tham gia bàn kế ứng phó với sự xâm phạm của binh mã Hạ châu, đối với việc thủ thành có rất nhiều chiến lược tâm đắc. Lần này nhận trách nhiệm trọng đại, Chiết Duy Chính rất phấn chấn, bàn bạc thương lượng tỉ mỉ vơi tiểu cô cô rất lâu, dốc hết sức để chuẩn bị, hy vọng có thể đánh được trận này. Trong lòng có chuẩn bị thì lâm trận mới không hoang mang, chỉ huy điều động quân mới ra đâu ra đấy.

Hàng loạt những máy bắn đá bắn liên tiếp như mưa, làm cho đầu thành Ngân Châu tan nát. Thủ thành lần lượt tìm chỗ trốn. Khi máy bắn đá dừng lại mới lại chiếm cứ lại đầu thành. Lúc này, khi dừng để chuẩn bị cho đợt công kích thứ hai thì trên đầu thành bỗng xuất hiện rất nhiều tấm màn hình vuông có đinh có thể di chuyển. Những chiếc màn này dùng gỗ cực lớn làm cốt, da trâu làm lớp bọc che bên ngoài, da trâu vừa mềm lại dẻo dai, những chiếc mũi tên, mũi nỏ sắc nhọn đã không thể sản sinh ra uy lực gây tồn hại đến những binh sĩ trốn ở bên trong nữa, mà những binh sĩ ở bên trong đó lại có thể kịp thời quan sát trận hình di chuyển của quân đội ngoài thành, từ đó mà bố trí lại đội hình nghênh kích. Chiết Duy Chính đang đứng trên vọng lâu nhìn thấy thế lập tức hạ lệnh bắn lượng lớn hỏa tiễn, đạn khói độc, dùng máy bắn đá để bắn vại lửa, tiến hành công phá những chiếc màn đó. Quân ở đầu thành lại lập tức tìm cách ứng phó.

“Đặt cọc gỗ, chuẩn bị công thành”.

Cờ hiệu ở trên vọng lâu tung bay, một loạt các xe bắn nỏ xếp thành hàng hướng về phía tường thành, khi trống hiệu vang lên thì những tiếng xé gió của tên nỏ cũng vang lên, nhắm bắn như mưa vào phía tường thành, khi binh sĩ tiếp cận gần thì có thể nhân cơ hội mà trèo nhanh lên.

Một đội binh sĩ đứng sau bức màn da trâu đẩy những chiếc thang xếp bằng gỗ, dưới sự yểm hộ của làn cung tên mà nhanh chóng xông lên phía trước, sông hộ thành của Ngân Châu vừa rộng vừa sâu, nhưng nước sông đã bị Chiết Tử Du sai người đi chặn nguồn nước lại, nước tích trữ lại trong hào hộ thành chỉ còn khoảng một tấc, trong nước lộ ra những cọc gỗ nhọn hoắt cực lớn. “Rắc rắc rắc...”.

Tuy những cái trục và ròng rọc kéo nước đã được bôi dầu nhưng khi chuyển động nhanh vẫn vang lên những tiếng the thé. Những chiếc phi kiều do những người thợ khéo léo tỉ mỉ chế tạo ra đã giúp cho nó có thể xông qua trận mưa tên từ dưới thành bắn lên để đáp xuống mặt nước, sau đó chuyển động dây treo làm cho một nửa kia đang được gấp lại của cầu dần dần kéođéài về phía trước, bắc sang bờ sông đối điện. Mười chiếc cầu hào đã hình thành một mặt cầu rộng đến mười lăm trượng, đã làm cho cả con sông hộ thành trở thành bình địa.

“Phừng... Phừng... Phùng...”. Trong thành đã đổi mũi nỏ thành hỏa tiễn, không còn bắn người mà đổi thành bắn cầu, nhưng cầu hào của quân Dương Hạo đã qua sự thiết kế công phu của những người thợ khéo tay, họ cũng đã nghĩ tới những loại tấn công thường gặp này, cây cầu đa phần đã được dùng một lớp thiếc bọc lại, tiễn nỏ khó có thể làm tổn hại. Trừ phi có đại hỏa công phá còn không những đốm lửa nhỏ như trên đầu tiễn nỏ này không thể xuyên qua cầu, rất khó phát huy tác dụng.

“Giết giết giết!”. Một đại đội binh sĩ giơ tấm chắn, khiêng cự mã thương, hàng rào chướng ngại chạy qua cầu hào.

Những cung nỏ thù đứng từ xa, dựa vào ưu thế cung nỏ của họ, áp chế lần cuối đối với đầu thành. Trên thành ngoài xe bắn nỏ cực lớn, thì cho dù cung tiễn bình thường có bắn tới trước mặt họ cũng khó có thể sinh ra hiệu quả sát thương cho nên họ hoàn toàn không kiêng sợ, tùy ý cho công kích áp chế.

Đám binh sĩ nhanh chóng áp sát vào cửa thành mang theo những hàng rào chướng ngại. Vì khi công thành, bên công thành cho dù có kỵ binh cũng rất khó áp sát phía dưới thành, nhưng bên trong ủng thành phía trong thành và ngoài cửa thành lại có thể tùy ý phái ra những khinh kỵ xông tới giết sĩ tốt công thành, cho nên ở phía gần thành môn cần bố trí chướng ngại vật, để đề phòng bị phản công. Vì có sự yểm hộ áp chế bằng nỏ tiễn của hậu phương nên những thủ quân trên thành không dám tùy tiện đứng dậy bắn tên, những mũi tên lẻ tẻ bắn xuống cũng chỉ làm bị thương một số ít binh sĩ, những binh sĩ này sau khi bố trí thỏa đáng chướng ngại vật thì một lượng lớn thang dây được đẩy qua cầu hào.

Lúc này bên Khiết Đan đã có tổng tấn công, binh sĩ của họ lại có kinh nghiệm chiến đấu nhiều hơn quân đội Lô Lĩnh Châu, nhưng những vũ khí công thành của họ lúc này lại hiện rõ nhược điểm, cầu hào của họ hoàn toàn được làm bằng gỗ, rất dễ bén lửa, dụng cụ công thành chỉ có thang dây, nhưng thang dây lại không có hai tay bám đỡ, ở đỉnh đầu lại có tường chắc mái, có thể bào vệ binh sĩ một cách tốt nhất như của binh mã Lô Lĩnh Châu.

Khi thang dây được bắc lên tường thành, trong thành lập tức xuất ra vô số những chiếc cọc dài cả chục trượng, thang dây chưa kịp ổn định thì đã có rất nhiều chiếc bị đẩy đổ, mang theo hàng loạt những tiếng kêu than của binh sĩ bị ngã xuống đất.

Còn bên phía mặt trận binh chủ công của Lô Lĩnh Châu, tuy binh mã Lô Lĩnh Châu có hạn nhưng vũ khí tiên tiến lại giúp cho họ phát huy được hiệu lực cực lớn. Móc câu trên đỉnh của thang dây khi vừa chạm vào tường thành đã bám chặt lấy, gậy cọc hoàn toàn không thể đẩy rời nó, binh sĩ công thành căn bản không cần để ý đến thang đây đã có thể trèo hết lên, rất nhiều binh sĩ còn dựa vào những lỗ hổng để bắn tên ở trên tường thành, mồm ngậm trường đao đạp lên đó để trèo nhanh lên thành.

Phát hiện thang dây của đối phương không thể đẩy đổ, cờ hiệu trong thành liền phất lên, đột nhiên đẩy ra vô số những chiếc tủ màu vàng. Dương Hạo đứng trên vọng lâu nhìn sang, thấy ở đoạn đầu của những chiếc tủ đó đột nhiên phun ra những ngọn lửa dài, ngọn lửa chạm vào thang dây liền bén lửa, cháy mãnh liệt. Thấy vậy, Dương Hạo không khỏi tặc lưỡi nói: “Tướng thủ thành rốt cuộc là ai? Sao lai... Ngay cả máy bắn lửa cũng có?”.

Loại vũ khí này là một loại vũ khí công thành lợi hại: Tủ mãnh hỏa dầu. Cái gọi là mãnh hỏa chính là thạch dầu. Lúc đó nó còn được gọi là mãnh hỏa dầu. Những chiếc tủ màu vàng đó là dùng thục đồng đúc thành, bên trên có một cái miệng, có thể liên tục thêm vào thạch dầu, sau có lỗ gió, có thể nén không khí, bắn trúng người thì người sẽ bị thối nát, nước không thể diệt, lực sát thương cực lớn.

Chiết Duy Chính đang đứng trên vọng lâu nhìn, lập tức mệnh lệnh cho mười mấy vọng lâu hướng về trận địch. Vọng lâu này còn cao hơn nhiều so với tường thành, tác dụng chủ yếu là đề cho chủ tướng có thể nhìn rõ động tĩnh bên trong thành, nhưng cũng có thể bố trí cung thủ trên diện rộng, trên đó còn được bố trí những tiễn thủ đặc biệt. Hơn mười mấy vọng lâu áp sát vào nhau, bắn từ cao xuống dưới, tên bay như châu chấu, nhắm bắn vào những binh sĩ thủ quân đang điều khiển tủ mãnh hỏa. Tác dụng của tủ mãnh hỏa đã giành được thành công lớn. Thủ quân trong thành lập tức dãn các tủ mãnh hỏa sang hai bên và bố trí thêm tấm chắn, đồng thời tổ chức những tiễn thủ chuyên dụng để bắn lại những binh sĩ tên vọng lâu.

Chiến công thành đương nhiên không chỉ dựa vào sự triển hỏa kỳ môn binh khí, cũng không phải chỉ dựa vào những thứ tiên tiến hay không là nhất định có thể giành thắng lợi, chiến thắng cuối cùng vẫn phải do con người thao túng, ít nhất về địa thế thì thủ quân trong thành vẫn chiếm được tiên cơ, binh sĩ thủ quân và tướng sĩ công thành quần nhau đẫm máu trên ba mặt của tường thành, trong chiến công thành, tỷ lệ thương vong cao nhất chính là vào lúc công thành như thế này.

Da xoa lôi được lăn xuống dưới thành, bên trên vô số trường đinh nhọn hoắt được phóng xuống, đâm vào binh sĩ công thành, đầu rơi máu chảy, những quả dạ xoa lôi rơi xuống đè bẹp rất nhiều binh sĩ, những chiếc cọc gỗ chắc chắn dưới đất đâm xuyên bụng nát phổi họ.

Những chiếc xe lừa gỗ bị cọc trụ đâm vào đỉnh bộ, sau đó mãnh hỏa dầu từ trên phóng xuống dưới, đi theo nó là đại hảo, rất nhiều binh sĩ toàn thân bị bốc cháy, kêu gào thảm thiết, nhảy khỏi xe lừa gỗ để tránh mộc lôi thạch và tên thì lại bị loạn tiễn bắn chết.

Một làn khói đặc từ thượng phong đầu bay tới, đây là do cỏ xanh bị đốt và xe hất cát tạo thành, cả đầu thành bị bao phủ trong đó. Những tiếng kêu gào thảm thiết lại vang lên không ngừng, mười mấy chiếc xe nhờ có màn khói bụi yểm trợ mà dựa sát được vào phía dưới thành, bất kể những binh sĩ do thang dây bị đứt rơi xuống và lôi thạch trên tường thành đáp xuống bị đập, quân công thành vẫn chuyên tâm đào địa đạo.

Những người phụ trách đào địa đạo đều là những binh sĩ thân cường lực tráng. Một khi đã hiệp lực thì lập tức trao đổi với binh lính phía sau, từng rổ đất được truyền đi thành hàng, chuyển đến những chiếc xe ở phía sau, những chiếc xe này lại dùng đất đó để đổ vào hào hộ thành, có tác dụng lấp hào.

*

* *

Ting ting tang tang, những tạp âm này rất nhỏ, nhưng Lưu Diên Lãng ẩn người trong huyệt động sâu hai trượng lại nghe rất rõ. Tai hắn áp sát vào trong đáy vại, nghe thật kỹ tiếng truyền lại từ trong đất, rồi bỗng nhiên chạy ra ngoài.

“Cha, bên ngoài thành đang đào địa đạo, cự ly là hai trăm bước về phía đông, một trăm sáu mươi bước, một trăm mười bước, năm mươi bước, và chính diện, bốn bên có ba chỗ, khoảng cách tương đồng”.

Lưu Kế Nghiệp cau mày nói: “Hôm nay nhân mã bên ngoài thành công thành không giống như lúc trước. Lúc trước chúng tuy có vũ khí công thành tinh vi, nhưng vận dụng lại không thành thục. Bây giờ... Hình như đã đổi chủ tướng, hơn nữa hình như đối với pháp thủ thành của chúng ta cũng đã rõ như lòng bàn tay...”.

Hắn trầm ngâm một lúc, ra lệnh: “Tiếp tục nghe ngóng, truyền lệnh cho tất cả các đội, tại chỗ chúng đào đất lên chuẩn bị trộn thạch tín, hỏa dược, đợi một khi chúng đào tiến vào trong thành thì đánh. Đồng thời chuẩn bị hỏa dầu, thiết lôi mộc để phá vỡ xe mà địch bố trí bên ngoài thành”.

“Vâng!”. Lưu Diên Lãng đáp lời rồi đi.

*

* *

“Rầm!”. Tiếng kêu ầm vang cực lớn phát ra từ chỗ những chiếc xe, đám binh lính đang đào hầm đều ngẩng đầu lên nhìn. Những chiếc xe được gia cố năm lần và giảm hiệu quả chấn động rung lên một chút, mấy cái giá xe kêu răng rắc rồi dừng lại. Kha Trấn Ác lớn tiếng nói: “Không cần phải để ý đến nó, tiếp tục đào!”.

Hắn nhặt một chiếc xẻng ngắn nhưng sắc nhọn, đi về phía trước, xúc đất ở chỗ phía dưới tường thành rồi hất về phía sau thật nhanh.

“Rầm!”. Lại một tiếng động cực lớn vang lên, thấy một tảng đá lớn ném xuống chiếc xe, có người hét lớn: “Đoàn luyện đại nhân, đỉnh xe cháy rồi”.

“Mặc kệ nó, đào, tiếp tục đào”.

Mắt của Kha Tiấn Ác cũng đã đỏ, dưới tường thành đã đào sâu đến bảy, tám thước, cứ mỗi bước đào tiến lên thì hai bên lại dùng những khối gỗ tròn rắn chắc để chống đỡ.

“Rầm”. Lại một khối đá nữa rơi xuống, đỉnh đầu xe bị phá vỡ một lỗ lớn, những chiếc càng rắn chắc cũng đã có chút lung lay.

“Đoàn luyện đại nhân, mau đi thôi, đỉnh xe đã bị đập hỏng rồi”.

Kha Trấn Ác vẫn mặc kệ, cắn răng tiếp tục đào.

Một thùng mãnh hỏa dầu đổ xuống qua chiếc lỗ bị thủng đó, sau đó bốc cháy, may mà những binh sĩ ở dưới xe đã sớm có chuẩn bị, đều tránh cả ra.

“Đoàn luyện đại nhân, nếu còn không đi thì xe sẽ sập xuống”. Hai binh sĩ lo lắng nói, rồi xông vào kéo Kha Trấn Ác ra.

“Cho củi, cho tạp, nhét đầu dầu vào”. Kha Trấn Ác hung tợn nói. Mấy binh sĩ sớm đã chuẩn bị một đống củi, liền đổ mạnh hỏa dầu nhét vào trong hố. Kha Trấn Ác liền châm lửa một cành cùi rồi ném vào trong cái hố, cầm chắc thuẫn, lớn tiếng nói: “Rút lui”.

Phía sau cái hố phun ra một ngọn lửa phùng phực, Kha Trấn Ác dẫn người chặt móc câu giữa đầu xe và tấm mành che, lấy tấm mành che để yểm hộ, nhanh chóng tản đi.

“Rầm!”.

Dưới đất vốn là bùn ướt, lửa nóng vào làm nó biến thành lò nướng, làm cho một bộ phận tường thành bắt đầu phồng lên. Khi những khối gỗ tròn chống đỡ bị hủy, một bộ phận tường thành kết cấu bằng đất đã lỏng ra không thể chịu được trọng lượng của chính mình mà bị lún xuống. Tuy nói cái hố đấy vẫn chưa đào đủ sâu, chưa đủ rộng, một mảng tường thành chỉ lún xuống ba thước, ảnh hưởng tới toàn bộ tường thành không lớn, nhưng tường điệp, tường chắn mái, lỗ tiễn đều bị phá hỏng, đặc biệt là binh sĩ quan binh trên tường thành bị ảnh hưởng lớn, đã có người hoảng loạn kêu lên: “Thành bị phá rồi, thành bị phá rồi, mau chạy thôi...”.

Người hét là binh sĩ Ngân Châu bản địa, người đó đứng lên từ chỗ tường thành bị vỡ, nhất thời không hiểu tình hình, chỉ thấy cả mảng tường đã đổ, đang lúc hoảng loạn kêu lên thì xoẹt một cái một ánh sáng lóe lên, cái đầu lập tức bay ra khỏi cổ hắn.

Một tên võ quan Khiết Đan trừng mắt lên, quát: “Làm loạn lòng quân, giết! Nhìn cái gì, thủ thành, thủ thành! Chúng không thể xông lên được”.

*

* *

Tất cả các đội quân của Khiết Đan thiếu những vũ khí công thành tiên tiến, chỉ có thể dùng thang dây đan thô, cùng chiến thuật biển người để khổ chiến với quân thủ thành, hướng tấn công chủ yếu là phía thành môn, ủng thành bên ngoài thành đã bị phá vỡ, những chiếc xe chở đầy những cây gỗ lớn để phá cổng thành, mỗi lần xung kích đều có binh sĩ ngã xuống dưới loạn tiễn.

Lúc này thứ không đáng tiền nhất chính là nhân mạng, đã không còn ai để ý đến sự sống chết của họ nữa, mỗi người đều chém giết đỏ cả mắt, cũng không có ai để ý tới phải đỡ ai đó đậy, họ chỉ có thể đơn độc bò lên chiến trận, nhìn những người đồng hành của mình đẩy xe, dùng hết sức phá thành môn cứng, vững chắc như thể không bao giờ phá vỡ được.

“Rầm!”.

Cửa thành cuối cùng cũng bị phá một cái lỗ lớn, vụn gỗ bay ra, bắn tung tóe.

“Giết, giết!”.

Binh Khiết Đan đều đỏ cả mắt, những khối gỗ cực lớn được các binh sĩ công thành thu lại, nhanh chóng chuyển hướng, nhắm sang cửa thành đã lay động khác, tiến hành phá hoại cuối cùng, binh sĩ hậu phương đã phấn chấn trèo nhanh lên chiến mã, chuẩn bị tốt cho trận xung kích.

Trận đánh này quả thật là rất tốn sức. Bọn họ vốn đều là những võ sĩ thiện tiến công, xung phong không có gì là bất lợi, nhưng kẻ địch lại giao thủ bằng cách nấp sau những lớp chắn bảo vệ như ủng thành, thành lâu, tường chắn mái để phóng tên, thêm nữa những thể nghiệm trước đây chưa đủ, làm cho họ tích tụ phẫn nộ, bây giờ cuối cùng cũng đã tìm được con đường để phát tiết ra.

“Rầm...”.

Một nửa cánh cửa còn lại đã bị phá vỡ, những binh sĩ may mắn còn sống sót qua các trận trước vô cùng vui mừng hoan hỉ, thúc ngựa chạy tới. Những tiếng vó ngựa rầm vang từ phía sau dội lên. Đại đội kỵ binh như lốc xoáy vọt lên, tay cầm những thanh đao sáng lóe giơ lên cao...

Thành Ngân Châu đã bị phá rồi!

Những kỵ sĩ Khiết Đan tay cầm đao sắc xông vào được trong thành thì đột nhiên ngẩn cả ra. Có khoảng hơn tám trăm người xông vào, hoàn toàn chiếm cứ được bán vi nội thành, nhưng bên trong ngay cả một thủ quân cũng không có, phía trước mặt lại xuất hiện một thành môn nữa, đã chặn đường tiến quân của họ. Đó là một tòa ủng thành, một ủng thành di động, một ủng thành của nội thành, ủng thành này từ từ được đẩy về phía trước, đến khi tường thành và hai bên trái phải gần như hợp dính sát vào mới nhau mới dừng lại.

Ủng thành, mời quân nhập ủng. Trên ba mặt tường thành có vô số cung thủ đứng dậy, bắn tên như mưa...

Hàng trăm kỵ sĩ xông tiến vào thành đã chật cứng cả ủng thành, bên ngoài những đàn cá cứ ùa vào, sắp bị chật cứng với đoàn kỵ sĩ ở phía trước, người ngựa chen nhau dày đặc không thể chịu nổi. Phía trước tiến không được, lùi không xong, phía sau lại không biết có biến, vẫn không ngừng xông lên, bị những tướng sĩ ở gần cửa thành lớn tiếng gào thét, nhưng hoàn toàn không nghe rõ họ nói những gì.

Lúc này, trên tường thành đã hất xuống những chiếc thùng lớn bằng gỗ, nắp thùng đã bị mở ra, bay lộn nhào trong không trung, bắn tung tóe một chất dịch màu đen dính, ở phương tây, loại dịch này được người ta gọi là mồ hôi ma quỷ...

Ngẩng đầu lên nhìn thấy những chiếc thùng lớn rơi xuống đất, binh mã Khiết Đan hoảng loạn mở to mắt ra nhìn, họ nhìn thấy đi theo sau những chiếc thùng đó là những cây đuốc...

Rất nhiều binh sĩ Khiết Đan dính phải thứ mồ hôi ma quỷ đó, lửa bén vào, khuôn mặt hoảng hốt quay đi quay lại trong ngọn lửa, kêu gào thảm thiết, xông về trận doanh của mình, dáng vẻ rất kinh khủng, kêu gào thê lương, làm cho người ta phải khiếp đảm...

Xe đao đã bị tắc ở cổng thành, phía trước xe đao là vô số những thi thể người và ngựa, phía dưới đều là những tử thi bị đốt cháy, phía trên là thi thể được người ta ném từ trong thành ra. Trên thi thể vẫn còn cắm rất nhiều tên, người bị bắn rất giống con nhím. Phía sau xe đao lại là bức tường thành dựng thẳng đứng lên tới đỉnh bằng đá tảng và bao cát.

Thi thể bị vứt ra từ trong thành, đây là một loại đe dọa. Những chiếc tên cắm trên thi thể không được rút ra, rõ ràng là muốn cho ngoài thành thấy rõ thủ quân bên trong chuẩn bị rất đầy đủ. Da Luật Tà Chẩn đứng trên vọng lâu, thấy thi thể chất cao như núi nhưng lại không tỏ ra một chút ý nhụt chí nào. Từ đầu cho đến cuối, khuôn mặt như thể được khắc trên một tảng đá, phía trước cho dù có chết hàng trăm vạn người hắn cũng không động sắc như vậy.

Giống Da Luật Hưu Ca, hắn cũng là một tướng lĩnh bắt đầu được trọng dụng sau khi thánh thượng Da Luật Hiền kế vị, trước đây danh tiếng cũng không lớn lắm, uy danh của Da Luật Hưu Ca lúc này tuy vẫn chưa truyền khắp thiên hạ, vị danh tướng Da Luật Tà Chẩn này trong trận chiến sông Cao Lương, trận Yến Vân từng đại bại quân Tống và còn bố trí mai phục bắt Dương Kế Nghiệp ở Tô Châu lúc này cũng không lấy chiến công để nổi tiếng thiên hạ.

Cả đời hắn chiến công hiển hách, nhưng hắn là kẻ thiện dã chiến, chiến công hiển hách sáng chói của hắn đều là giành được ở trong nội cảnh Khiết Đan, đều là khi quân Tống bắc phạt Khiết Đan, tất cả quân đội phản kích. Còn đối với công phá thành trì hắn tuy có hiểu chút ít nhưng không hề giỏi, lúc trước cũng chưa từng khổ luyện nghiên cứu, lúc này tình thế trong và ngoài nước Khiết Đan lại rất ít gặp phải loại chiến công thành, nếu như lấy nghiên cứu công thủ thành làm chủ thì cơ hội sử dụng quả thật là quá ít, đó chính là kỹ thuật giết rồng, cho nên loại chiến thuật này trước nay không được người Khiết Đan coi trọng, nhưng lần này bao vây công thành Ngân Châu, hắn cuối cùng cũng biết được chỉ dựa vào tướng sĩ thiện chiến, thì khi đối mặt với tòa thành kiên cố cũng phải bó tay.

Thở dài một tiếng, Da Luật Tà Chẩn quay đầu sang hai bên nói: “Bắc quốc chúng ta ở trên thảo nguyên vạn dặm, bộ lạc tộc trưởng lấy di chuyển du mục làm chủ, con dân sinh ra trên ngựa, sống ở trên ngựa, thiện dã chiến mà không thiện cung thủ, dựa vào cung kỵ mà xông lên, khó có kẻ nào bằng nổi ta. Còn người nam lại sống trong thành, lấy nông canh mà sống, thiện dựa vào thành mà chống địch. Nếu luận về vũ khí công thành thì vũ khí của chúng ta không những đơn sơ, mà còn sử dụng không được đúng lúc, không dùng đúng cách. Tuy có tinh binh nhưng lại khó phát huy được sở trường, đây chính là điểm yếu của chúng ta.

Khánh Vương bây giờ đã làm cho thành Ngân Châu đến gió mưa cũng không lọt, đây chắc chắn không phải là sở trường của hắn, chắc chắn Khánh Vương khi chiếm được Ngân Châu cũng đã chiêu mộ được tướng lĩnh thiện thủ thành, mà hắn chỉ dựa vào những tướng lĩnh này đã có thể được uy phong như vậy, chiến pháp thủ thành trì của người nam quả thực là rất cừ. Các ngươi hãy quan sát cẩn thận, toàn tâm học theo, sau này không chừng sẽ có ích đấy”.

Chúng tướng nghe xong liền đồng thanh đáp lại.

Dương Hạo cũng chú ý học theo kỹ xảo chỉ huy của Chiết Duy Chính và Chiết Tử Du. Chiết Duy Chính lại không ngại để cho hắn nhìn thấy cách vận dụng và chỉ huy đối với khí giới và chiến thuật của mình, Dương Hạo cũng không ngại để lộ những khí giới công thành tinh xảo thiện chiến mà mình nắm trong tay cho người Khiết Đan thấy. Những thứ này đều rất dễ bị mô phỏng. Trong lịch sử cũng đã ghi chép lại, chỉ sau mấy trận chiến thì đã có thể nắm chắc hoàn toàn những vũ khí tiên tiến của người Hán. Họ ngoài có thể giáo dục quân lính bằng những trận chiến đẫm máu để rất nhanh nắm vững tri thứ mà còn có thể nắm chắc được từ những từ binh mà họ có trong tay. Nếu muốn nắm vững bí mật không để cho người khác biết thì trừ khi vĩnh viễn đừng dùng. Công cụ chiến tranh không ngừng tiến bộ, nghệ thuật chỉ huy cũng không ngừng hoàn thiện. Vận dụng kỳ diệu đều là ở sự thống nhất, đó mới là mấu chốt của chiến thắng.

Phía thành Dương Hạo tấn công đã bị sụp đổ ba chỗ, tổn thương đều không phải là nghiêm trọng nhưng tính vững chắc của tường thành đã chịu tồn thương nặng, Chiết Duy Chính và Chiết Tử Du vội vàng bàn luận mấy câu rồi lập tức thu binh, dừng công kích mạnh, lại điều động binh tập trung xe ném đá, tiến hành tấn công mạnh bằng đá vào đầu thành, để có thể đạt được chiến quả lớn, đồng thời chiến pháp tâm lý mà Dương Hạo đã đề nghị cũng tiếp cận được giai đoạn cuối, ở đầu ngọn gió đã cho thả rất nhiều diều, trên đó đều có rất nhiều truyền đơn được viết bằng văn Khiết Đan và văn Hán để thả vào trong thành.

“Đại ca, đại ca, phía tây thành đã có một số người tháo chạy ra tất cả đều bị chúng ta bắt rồi...”.

Loan Đao Tiểu Lục phi ngựa tới, từ xa đã hưng phấn kêu to.

Dương Hạo mừng rỡ, quay lại nói với Chiết Tử Du: “Kế vây thành bỏ khuyết của ngũ công tử quả nhiên cao minh, mở ra một mặt nhất định có người sẽ sinh lòng hoang tưởng”.

Chiết Tử Du được hắn tán dương chỗ đông người, trong lòng không khỏi vui mừng, nhưng ngoài mặt vẫn không tỏ ra gì, chỉ hắng nhẹ một cái, mất tự nhiên nói: “Ta chỉ dự liệu rằng tập trung binh tấn công tam diện, khi tấn công thành xuất hiện tình cảnh nguy hiểm thì trong thành tất có người muốn tháo chạy ra ngoài. Khánh Vương thủ thành khi điều động tinh binh tác chiến, những người ở thành tây bị chúng bỏ mặc chính là binh già yếu tàn tật. Có thể đuổi theo Khánh Vương tới đây đa phần phần đều là tinh binh, lính thủ thành tây tất sẽ là những lão tốt bản địa thiếu kinh nghiệm chiến đấu, những phú thân hào thương muốn thoát khỏi thành bị bao vây thì sẽ không tiếc tiền mua chuộc kẻ gác cổng để được thả ra, nếu như cho trốn chạy mấy hộ gia đình, chỉ cần người nhận được lợi không nói thì người bên cạnh cũng không biết, những chỗ tốt đó thấy lợi sáng mắt cũng chưa chắc không dám mạo hiểm. Chỉ là ta không ngờ rằng nhanh như vậy đã có người chạy thoát ra, xem ra Khánh Vương không được lòng người trong thành Ngân Châu rồi. Thái úy, từ miệng họ không chừng chúng ta có thể biết được một số tình hình hữu dụng”.

Dương Hạo liên tục gật đầu: “Không sai. Ngũ công tử nói có lý. Tiểu Lục, những người đó đâu?”.

Loan Đao Tiểu Lục nói: “Thiết Ngưu đang đẫn bọn họ tới đây, sắp tới rồi”.

Dương Hạo vội vàng nói: “Đi, chúng ta đến đó xem”.

Dương Hạo cùng đám người Chiết Duy Chính, Chiết Tử Du, Mộc Ân chạy như bay đi, từ xa đã nhìn thấy Thiết Ngưu dẫn một đoản người đi về phía họ, Dương Hạo vội vàng tăng tốc đến. Từ xa, nhìn thấy Dương Hạo, Thiết Ngưu liền lớn tiếng nói: “Đại ca, trong thành tổng cộng có năm hộ nhân gia tháo chạy ra, bảy mươi ba người, đều được đệ bắt về đây”.

Dương Hạo ghim đây cương. Vừa nghe thấy người này chính là chủ soái trong quân, đám người nam nữ già trẻ đều lần lượt quỳ xuống, khấu đầu cầu cứu nói: “Thái úy khai ân, thái úy tha mạng, chúng tôi đều là những gia đình lương thiện trong thành, không phải là đồng đảng của Khánh Vương, thái úy đại nhân minh giám...”.

Những người này đều quỳ lạy xin được giữ tính mạng, từ trong đám người đấy lại có một nữ tử thoát chạy ra từ sau, chần chừ muốn trốn sau lưng người khác, hành động như vậy lập tức đã dẫn tới sự cảnh giác của Dương Hạo. Đám người quỳ xuống, nữ tử đó liền ngẩn ra, tuy nàng ta phản ứng rất nhanh, lập tức cũng nhanh chóng quỳ xuống, nhưng Dương Hạo đã nhìn rõ được nàng ta.

Trong lòng Dương Hạo lộp tức bị chấn động: “Là nàng ta? Sao lại có thể là nàng ta?”.

Dưới chân ngựa có một đám người khấu đầu xin tha mạng, Dương Hạo chỉ chưa để ý tới, hắn dừng ngựa một lúc, đột nhiên dùng dây ngựa chỉ về phía nữ tử đứng sau cùng, cúi đầu thấp nhất trong đám người. Trầm giọng nói: “Cô, lại đây”.

*

* *

Bờ sông Hoàng Hà, Nhạc Thai, huyện Tuấn.

Lý Dục vác một bao cát, thở hổn hển bò lên đê, quàng bao cát xuống đất, ngồi phệt xuống. Trước mắt tối thui, tim đập như trống gõ. Hắn thật sự rất mệt, công việc phải dùng sức mà cả đời hắn làm kể cũng chưa hết mười đầu ngón tay. Hắn chỉ thường dùng đều xoa da mỹ nhân, chỉ dừng để chấm mực làm thơ. Trước đây hắn đều phải dùng những tấm nệm khô ráo nhất, mềm mại nhất mới có thể ngủ được, bây giờ từ đầu đến chân đều ướt đẫm bùn đất, nhưng chỉ cẩn một lúc là hắn có thể ngủ ngon như con lợn chết.

Nhưng hắn cũng không còn cách nào khác. Triệu Quang Nghĩa đang bước bước lớn đi qua người hắn, mỗi cánh tay đều kẹp ba bao cát, bước nhanh như bay, hình như cái sức lực không bao giờ dùng hết đã được bộc phát. Đương kim hoàng đế Đại Tống có thể đích thân đứng trên bờ đê, vượt mạo hiểm chống chọi với cơn hồng thủy bất kể lúc nào cũng có thể ập tới, cho dù người bên cạnh có thành chó chết cũng không ai có thể oán hận.

“Phịch!”.

Nguyên quốc chủ Kinh Hồ Chu Bảo Quyền trượt chân một cái, cái bờ đê chết tiệt này. Hắn cố sức mà bò dậy, từng bước đẩy hai bao cát lên bờ đê, sau đó ngồi dựa vào Lý Dục, thở hổn hển. Áo bào của hắn nhắn nhúm, toàn thân là bùn đất, ai nhìn cũng không thể tin được rằng đây lại là chủ của Kinh Hồ trước kia và là hữu vũ lâm thống quân sứ Chu Bảo Quyền. Lý Dục và Chu Bảo Quyền ngồi dựa vào nhau, mắt nhìn chăm chú, thấy Triệu Quang Nghĩa đang bước bước lớn tới trước mặt huyện lệnh, lớn tiếng quát hỏi: “Khám Tam Đạo, ngươi đã biết tội chưa?”.

“Thần... Tội đáng chết vạn lần”.

Khám Tam Đạo hai tay bắt chéo sau lưng, khom người chạm má xuống đất, liên tiếp dập ba cái: “Cầu quan gia ban chết!”.

“Được, được, được, ngươi biết tội là được rồi”. Triệu Quang Nghĩa ngẩng đầu lên trời cười ba tiếng, kiếm trong tay vung lên, bổ mạnh tay xuống.

Một thanh kiếm sắc bén “Xoẹt” một cái, chém đứt dây trói hai tay huyện lệnh Khám Tam Đạo. Dây trói bị đứt, cánh tay Khám Tam Đạo được thả lỏng ra, người hắn rung lên một cái, sau một hồi, hắn mới chần chừ động tay, từ từ di chuyển lên về phía trước, ngẩng đầu dậy, nhìn hai bàn tay của mình, lại ngẩng đầu lên đầy kinh ngạc nhìn Triệu Quang Nghĩa.

Triệu Quang Nghĩa thu kiếm lại, nói: “Con người đều có lòng sợ chết. Nhưng chết tuyệt đối không phải là chuyện đáng sợ nhất trên đời. Ngươi là một người học lễ nghĩa liêm sỉ, trung hiếu tiết nghĩa. Đã nhận trông giữ một phương thì nên coi bách tính của mình như con của chính mình, hết lòng yêu thương bảo vệ. Khám Tam Đạo, ngươi đã thấy hồng thủy ngập trời, tưởng rằng đê điều đã không thể thủ, nhưng trong lúc nguy cấp lại dẫn cha mẹ thê tử con cái bỏ chạy. Có thể thấy tuy ngươi sợ chết nhưng phân lượng cái chết trong lòng ngươi còn không quan trọng bằng tính mạng của người thân. Trẫm lần này không phạt tội ngươi, cũng không bãi chức quan của ngươi. Chỉ hy vọng ngươi có thể nhận được một sự giáo huấn, đem sự hiếu thuận với cha mẹ, sự yêu thương với thê tử con cái mà dành một ít cho dân chúng dưới quyền cai trị của ngươi và triều đình”.

Khám Tam Đạo kinh ngạc không thôi: “Quan gia...”.

Triệu Quang Nghĩa thu kiếm lại, nói: “Ngươi vẫn là huyện lệnh của huyện Tuấn, bây giờ đê điều tuy đã được thủ vững, nhưng chỉ có thể ứng phó tạm thời, làm thế nào đề tu bổ đê điều, mãi mãi duy trì được an toàn một phương thì ngươi cần phải cẩn thận tìm cách khắc phục”.

Khám Tam Đạo tìm được sự sống trong cái chết, không ngờ hoàng đế lại khoan hồng độ lượng như vậy, hắn cảm kích rơi nước mắt, đầu gục xuống đất, dập đầu, lớn tiếng khóc nói: “Quan gia, vi thần lập tức chuyển nhà lên đê ở, không tu sửa được tốt con đê này, đảm bảo sự bình an của dân chúng một phương, thì thần vĩnh viễn sẽ không rời khỏi con đê này, sống phải giữ được đê. Chết cũng phải chôn cốt ở đê, làm trung thần Đại Tống, làm trung thần của bệ hạ”.

“Bệ hạ lấy tấm thân chí tôn vì dân mà hộ đê, đó là đại nghĩa. Thần tử phạm tội khảng khái tha bổng, đó là đại nhân. Chi cổ hiền vương, tham hoàng ngũ đế cũng chưa từng như vậy. Đại Tống thật là có phúc”.

Lô Đa Tốn chắp hai tay, lớn tiếng nói. Triệu Quang Nghĩa cười nhạt, quay người nói: “Hồi thành!”.

Mộ Dung Cầu Túy đi sát theo người Triệu Quang Nghĩa. Triệu Quang Nghĩa bước nhanh như bay. Khóe miệng hé điệu cười như cười như không: “Hắn muốn làm trung thần thì sao trẫm có thể không cho hắn thỏa. Một đại trung thần đã đặt trẫm vào chỗ chết”.

Mộ Dung Cầu Túy lĩnh hội, vội vàng nói: “Thần hiểu, qua ba bốn tháng nữa, thần... Nhất định sẽ để cho hắn chết một cách vinh quang, làm một trung thần gương mẫu chịu sự giác ngộ của quan gia”.

Triệu Quang Nghĩa dẫn văn võ bách quan trở về thành Biện Lương, chuyến trở về thành này rất náo nhiệt, văn võ đầy triều nhưng phàm là những quan viên từ tứ phẩm trở lên đều bị hắn kéo tới bờ đê cùng sống cùng chết, người nhà của họ đều như ngồi trên đống lửa. Bây giờ cuối cùng cũng trở về rồi, tát cả gia quyến đều chạy ùa tới thành tây như nước lũ để nghênh đón.

Triệu Quang Nghĩa vừa tới thì tất cả đã quỳ xuống hô vạn tuế, lại có rất nhiều người chạy lên trước, tìm người thân trong đám người, gặp được nhau thì hoan hỉ rơi nước mắt. Triệu Quang Nghĩa ngồi trên cao, nghe thấy những tiếng hô vạn tuế vang ầm, lần đầu tiên hắn cảm nhận được sự vinh quang vô thượng ngoài quyền lực.

Quyền lực và vinh quang đều đã có được, cuộc đời như thế này cũng nên viên mãn rồi chứ? ừm... Không không không, vẫn còn có mây đen, vẫn còn có một đại công đại nghiệp mở rộng biên cương bờ vực. Đợi khi ta thu hết đất Tây Bắc, đoạt về mười sáu châu, lúc đó ta mới là nhất đế thiên cổ, ha ha ha...

Triệu Quang Nghĩa cười lệnh cho người cuộn rèm lên, cười vẫy tay với dân chúng phía dưới. Đột nhiên mắt hắn sáng lên, trong đám người hắn nhìn thấy một gương mặt như ngọc như hoa làm cho người ta nhìn một lần đã không thể quên. Hắn nhìn chằm chằm vào, nhưng nhìn kỹ thì mỹ nhân đó lại đang cầm tay, nước mắt như mưa và đang nói gì đó...

Trong lòng Triệu Quang Nghĩa đột nhiên nóng lên, chủ của thiên hạ phải chăng cũng nên có mỹ nữ vô song đi cùng?

“Vương Kế Ân!”.

“Có thần!”.

Vương Kế Ân bây giờ đã được phong làm thứ sử Hà Bắc tây đạo, cho nên hắn giờ xưng thần chứ không thể lại xưng nô tài. Đại thần bên cạnh đều có người thân đến đón, những đại thần đó vừa tới cổng thành cũng đã chủ động đi tìm người thân của mình, còn Vương Kế Ân trong thành lại không có người thân nào, cho nên hắn vẫn đi cạnh ngự giá của Triệu Quang Nghĩa, hắn giờ tuy đã mặc áo thần tử nhưng vẫn theo như thói quen cũ khó bỏ được, vẫn khom lưng cả chặng đường, đầy đáng vẻ của nô tài. Nghe thấy Triệu Quang Nghĩa, hắn liền bước lên trước đáp một tiếng, có điều chữ “thần” học được rất nhanh.

“Kế Ân này, tháng này thân quyến quan viên trong triều đến yến kiến hoàng hậu là ngày nào?”.

Vương Kế Ân nhẩm tính một lát rồi đáp: “Hồi bẩm quan gia, là ngày kia, quan gia sao lại...”.

“Ừ...”.

Ngự giá đi về phía trước, lệ ảnh nhìn một lần mà khó quên đó đã không còn thấy nữa. Hình ảnh lọt vào mắt đều là khuôn mặt tươi cười của sĩ thân trong thành. Triệu Quang Nghĩa mờ mịt cười, nói: “Lần này văn võ trong triều đều lên đê kháng thủy, thân quyến quan viên đều lo lắng sợ hãi, cũng đã ăn trái đắng, lần này khi quan thân quyến quan thần yết kiến nương nương, trẫm cũng sẽ đi gặp họ, thưởng cho họ để trấn an...”.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx