sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Chương 1: Trước Chiến Tranh

Con đường tôi không chọn. – Các thầy giáo và bạn đồng học trong Học viện Bộ tổng tham mưu. – Cuộc hành binh giải phóng vào miền Tây U-crai-na. – Thực tập ở Cục tác chiến. – Nhận công tác ở Bộ tổng tham mưu. – Tháng Năm – tháng Sáu 1941. – Một đêm bất hạnh. – Những suy nghĩ về trình độ sẵn sàng chiến đấu của chúng ta. – Tình trạng bộ đội cơ giới. – Không quân. – Hải quân. – Những vấn đề thường không có giải đáp.

Sau khi tốt nghiệp Học viện mô-tô cơ giới của Hồng quân công nông, trong hai năm tôi đã chỉ huy tiểu đoàn xe tăng hạng nặng độc lập dùng cho huấn luyện ở Khác-cốp và sau đó ở Gi-tô-mia. Chúng tôi đã tự hào về những chiếc xe bọc thép T-35 và T-28 của mình mà hàng năm chúng tôi vẫn đưa đi tham dự các cuộc duyệt binh ở Mát-xcờ-va, trong đội ngũ lữ đoàn xe tăng hạng nặng thuộc Quân dự bị Bộ tổng tư lệnh.

Tăng T-35 có năm ụ tháp, được trang bị 3 khẩu pháo và 5 súng máy, nặng 50 tấn. Biên chế của nó gồm 10 người, trong đó có 2 cán bộ chỉ huy trung cấp. Đội ngũ chỉ huy trong toàn tiểu đoàn, gồm chừng 100 cán bộ, là một tập thể thân ái, đoàn kết chặt chẽ.

Tôi rất vừa lòng với công tác và đem hết nhiệt tình phục vụ nó, chỉ có một mơ ước là được chỉ huy cái đơn vị yêu dấu này càng lâu càng hay. Nhưng bỗng nhiên có điện của quân khu chỉ định tôi và tham mưu trưởng lữ đoàn (bạn cùng học với tôi ở học viện), thiếu tá N. N. Rát-kê-vích, đi học tại Học viện Bộ tổng tham mưu. Cả đồng chí ấy lẫn tôi, đặc biệt là tôi, đều không mảy may có mong ước rằng mình lại được sớm cử đi học như vậy, nên cả hai đều tính chuyện bàn lùi

Tôi đã gặp may. Trong khi làm chủ tịch hội đồng quân khu sát hạch những học viên lớp một năm của trung đoàn huấn luyện bạn, tôi phải trực tiếp báo cáo kết quả lên chủ nhiệm bộ đội xe tăng của quân khu Ki-ép, lữ đoàn trưởng I-a. N. Phê-đô-ren-cô. Nhân dịp này, tôi đã chọn lúc thuận lợi và đề nghị đồng chí Phê-đô-ren-cô cử một đồng chí khác đến học viện thay cho tôi. Không ngờ đồng chí chấp nhận ngay đề nghị của tôi và tuyên bố dứt khoát:

- Đồng chí cứ yên tâm công tác. Đồng chí sẽ không đi đâu hết.

Lúc ấy là vào tháng Tám 1938. Sang tháng Chín, khi tôi đang làm đạo diễn cuộc diễn tập dã ngoại trong lữ đoàn đồng chí M. E. Ca-tu-cốp, thì được triệu tập cấp tốc về ngay địa điểm công tác và được lệnh bàn giao lại tiểu đoàn, vì Mát-xcơ-va kiên quyết đòi tôi phải tựu trường gấp. Ba ngày sau, tôi cùng Rát-kê-vích lên đường.

Hóa ra, trong số những người được chọn đến học viện, những tâm trạng giống như tâm trạng chúng tôi cũng không phải là hiện tượng cá biệt. Một số người tự ý tuyên bố với ủy ban kiểm tra giấy giới thiệu là xin không học, vì lo rằng học xong sẽ không được chỉ huy đơn vị nữa. Hồi đó, những người có trình độ trong Học viện Bộ tổng tham mưu còn ít ỏi nên chúng tôi cho rằng từ đây con đường công tác của mình chỉ là các cơ quan tham mưu mà thôi.

Tất cả đều bị từ chối hết. Chỉ riêng có đại đá X. X. Bi-ri-u-dốp là được toại nguyện. Chắc là nhờ có sự giúp đỡ của thứ trưởng E. A. Sa-đen-cô, đồng chí đã được ra đi và sau đồng chí giữ chức chỉ huy sư đoàn.

Đến thời gian ấy, Học viện Bộ tổng tham mưu đã có sức tự lực vững vàng. Việc thành lập trường huấn luyện quân sự cao cấp này là một đòi hỏi của thời đại. Hồng quân hoàn toàn hiện đại về mọi mặt, nhưng còn thiếu những cán bộ cần thiết, có trình độ chiến dịch, chiến lược cao sâu. Cho tới năm 1936, đội ngũ cán bộ khâu chiến dịch mới chỉ được đào tạo ở hệ một năm trong Học viện mang tên M. V. Phrun-dê. Đôi khi như vậy là tốt, nhưng trong nửa cuối những năm ba mươi, cuộc sống cấp bách đòi hỏi chúng ta phải chỉnh đốn lại việc đào tạo cán bộ chỉ huy quân sự một cách đông đảo và sâu rộng hơn. Hơn nữa, chúng ta phải phát triển lý luận về nghệ thuật chiến dịch: Học viện mang tên M. V. Phrun-dê, do phạm vi huấn luyện của mình, không thể đảm nhiệm được công việc đó ở mức cần thiết.

Học viện Bộ tổng tham mưu tập hợp toàn bộ tinh hoa trong số những nhà lý luận quân sự thời kỳ đó, như các đồng chí: V. A. Mê-li-cốp, Đ. M. Các-bư-sép, N. N. Sva-rơ-txơ, A. I. Gô-tốp-xép, G. X. Ít-xe-rơ-son, A. V. Kiếc-pít-nhi-cốp, N. A. Lê-vít-xki, N. I. Tơ-ru-bét-xcôi, Ph. P. Sa-pha-lô-vích, E. A. Si-lốp-xki, P. P. I-ô-nốp..

Tôi cảm thấy đồng chí Đơ-mi-tơ-ri Mi-khai-lô-vích Các-bư-sép, kỹ sư và bác học, là người được lòng đám học viên chúng tôi nhất. Đồng chí ấy biết truyền đạt cái môn học tựa như “khô khan” ấy một cách rất ý nhị và dùng những phương pháp đơn giản, độc đáo giúp chúng tôi nhớ được những phép tính kỹ thuật phức tạp.

Tôi ghi nhớ suốt đời cái công thức thực hành của đồng chí để tính lực lượng và những phương tiện thiết bị trận địa bằng hàng rào dây thép gai: một tiểu đoàn, một giờ, một ki-lô-mét, một tấn, một hàng rào. Và đám anh em hay pha trò, châm biếm đã cải biên công thức ấy thành: một công binh, một búa rìu, một ngày, một gốc cây. Chuyện bông đùa ấy tới tai Các-bư-sép, nhưng đồng chí không hề bực mình. Và, ngay chính đồng chí ấy cũng thích khôi hài, nếu có dịp. Có lẽ, không một bài giảng nào của đồng chí lại vắng cái môn đó cả.

Tôi có thể nói rằng các bài giảng của đồng chí G. X. Ít-xe-rơ-son về nghệ thuật chiến dịch và chiến lược, cũng như các bài giảng của đồng chí A. V. Gô-lu-bép về chiến thuật của những binh đoàn lớn, có giọng nói nghiêm khắc hơn, “học viện” hơn nhưng cũng sâu sắc và xúc tích. Những giáo viên có tài như: A. V. Kiếc-pít-nhi-cốp, V. C. Moóc-dơ-vi-nốp, E. A. Si-lốp-xki, X. N. Cra-xin-nhi-cốp cũng để lại nhiều kỷ niệm tốt trong chúng tôi. Tất cả đều tinh thông bộ môn của mình và đều là những nhà phương pháp học rất xuất sắc

Đội ngũ sử gia quân sự cũng là một đội ngũ rất mạnh trong học viện. Các đồng chí biết xây dựng bài giảng sao cho học viên không những hiểu rõ được đường lối chung phát triển quân đội và những phương thức hoạt động chiến tranh, mà còn có thể biết rút ra những cái gì của quá khứ để vận dụng trong hiện tại.

Nổi nhất về mặt này là đồng chí V. A. Mê-li-cốp, người giảng và cũng là người say mê lịch sử Chiến tranh thề giới thứ nhất. Đôi khi, đồng chí mê mải đến nỗi ngồi quay lưng lại học viên, mắt dán vào bản đồ căng trên giá mà kể chuyện lịch sử một cách kỳ thú, hấp dẫn. Đã có chuông nghỉ giải lao nhưng bài giảng vẫn cứ tiếp tục, ngay cả những chàng nghiện thèm thuốc quá cũng không rời chỗ của mình. Chỉ tới khi giảng viên khác bước vào lớp, chúng tôi mới ngừng theo dõi trận đánh ở vùng Mác-na (Trận đánh lớn nhất giữa Pháp và Đức trong cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất, xảy ra trên khu vực sông Mác-na, đất Pháp. Năm 1914 và 1918 quân Đức đã bị thất bại nặng trong trận này. – N. D.) hoặc các sự kiện bị thảm trong những khu rừng Tháng Tám (Trong khu rừng Tháng Tám (Đông Phổ), năm 1915 đã xảy ra một chiến dịch phá tan kế hoạch của bộ chỉ huy Đức nhằm bao vây và tiêu diệt một cụm quân lớn của Nga.).

Giáo sư N. A. Lê-vít-xki giảng về chiến tranh Nga – Nhật cũng có một nhiệt tình như vậy. Đồng chí trình bày bài giảng một cách thoải mái và cũng chinh phục được học viên bằng những tình tiết và kết cấu của chiến dịch hoặc của trận chiến đấu tái tạo rõ ràng cảnh đấu trí và đấu tài của những người chỉ huy quân sự.

Trong số giáo viên cũng có những đồng chí cùng lứa tuổi và ngang cấp với chúng tôi. Ví dụ như: thiếu tá I. X. Glê-bốp, giáo viên pháo binh; trung tá C: Ph. Xcô-rô-bô-gát-kin, giáo viên hóa học. Cả hai đồng chí đều tốt nghiệp chính học viện này cũng trong năm 1938 ấy. Còn các đồng chí phụ trách các nhóm và chịu trách nhiệm hướng dẫn chúng tôi về mặt chiến thuật là các đại tá I. Kh. Ba-gra-mi-an, V. V. Cu-ra-xôp, A. I. Ga-xti-lô-vích. Phải nói rằng, ngay hồi đó chúng tôi đã cảm thấy biệt tài của những đồng chí này. Các đồng chí được toàn thể học viên kính trọng, một là vì có kiến thức rộng, hai là vì khéo kết hợp được tính đòi hỏi cao với quan hệ đồng chí đối với chúng tôi.

Cuối tháng Tám 1939, nhiều học viên trong đó có tôi được triệu tập ngay giữa giờ học tới gặp chủ nhiệm lớp – đại tá V. I-a. Xê-mi-ô-nôp. Băn khoăn chưa hiểu việc đó có ý nghĩa gì, chúng tôi tới phòng làm việc của đồng chí và ở đây chúng tôi được biết rằng hôm sau tất cả chúng tôi đều phải có mặt ở Cục tác chiến Bộ tổng tham mưu. Đồng chí Xê-mi-ô-nốp không giải thích lý do và mục đích của việc đó. Có thể, chính đồng chí ấy cũng không biết.

Thời gian này thật đáng lo ngại. Loài người căm phẫn còn vừa mới biết đến việc chủ nghĩa phát-xít bóp nghẹt nước Cộng hòa Tây Ban Nha, còn chưa nguôi phẫn nộ trước bạo lực thô bạo của Mút-xô-li-ni đối với nước A-bít-xi-ni nhỏ bé thì Hít-le đã xâm chiếm Áo, Tiệp Khắc, vùng Clai-pê-đa của Lít-va và âm mưu biến vùng này thành căn cứ tiến công Ba Lan. Các dân tộc phản kháng những hành động chuyên quyền chưa từng thấy này, song những nhà hòa giải ở Muy-ních (Những nhà hoạt động nhà nước Anh – Pháp, những kẻ thi hành một chính sách dung túng cho nhũng tham vọng xâm lược của nước Đức phát-xít nhằm đưa quân sang đánh Liên Xô. Năm 1938, tại Muy-ních (Đức) đã ký kết một hiệp ước mở đường cho nước Đức đánh chiếm Tiệp Khắc và góp phần làm nổ ra cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai.), về thực chất đã khuyến khích bọn đầu sỏ phát-xít gây thêm những tội ác mới.

Biên giới phía đông đất nước ta cũng không yên. Ở đây, chúng ta đã phải hai lần đọ súng với bọn quân phiệt Nhật: lúc đầu ở hồ Kha-xan và sau đó ở Khan-khin – Gôn (Hồ Kha-xan ở khu Pri-mô-ri-ê của nước Cộng hòa Liên bang Nga. Tại khu vực hồ Kha-xan, từ ngày 29 tháng Bảy đến ngày 11 tháng Tám 1938, bộ đội Liên Xô đã chiến đấu ngoan cường, đẩy lùi và đánh tan quân Nhật xâm nhập vào lãnh thổ Liên Xô. Sông Khan-khin – Gôn chảy qua Trung Quốc và Mông Cổ. Tháng Tám 1939, quân đội Liên Xô – Mông Cổ đã bao vây và tiêu diệt những lực lượng lớn của bọn xâm lược Nhật Bản xâm nhập vào lãnh thổ Mông Cổ hồi tháng Năm mà không hề tuyên chiến.).

Thất bại của cuộc đàm phán giữa các phái đoàn quân sự Anh, Pháp, Liên Xô, do những kẻ không có thiện ý với chúng ta ngầm ngấm gây ra từ trước, càng làm cho chúng ta tăng cường cảnh giác. Tóm lại, bầu trời đã nổi giông tố và chúng tôi đến Bộ tổng tham mưu với tư thế sẵn sàng trước mọi tình thế.

Lữ đoàn trưởng A. Ph. A-ni-xốp, cục phó Cục tác chiến, tiếp chúng tôi. Đồng chí báo tin Đặc khu Ki-ép sắp mở những cuộc diễn tập lớn và chúng tôi cần tham gia những cuộc diễn tập ấy.

Cuối cùng, đồng chí A-ni-xốp tuyên bố:.

- Đây vừa có ích cho công việc, vừa là một chuyến đi thực tập đối với các đồng chí.

Lúc trở về học viện, chúng tôi được biết thêm là Đặc khu Bê-lô-ru-xi-a cũng có những cuộc diễn tập như vậy và một tổ học viên khác của học viện cũng sẽ tới đấy.

Nhóm chúng tôi thường hay bàn luận về những tình hình đang diễn biến và tìm mối liên hệ giữa chúng với đời sống riêng, với tương lai sắp tới của mình. Chúng tôi đã hình thành thói quen phân tích các sự kiện, kể cả các sự kiện thế giới, vì kề vai sát cánh với chúng tôi có nhiều đồng chí đã từng được ngửi mùi thuốc súng ở Tây Ban Nha và Viễn Đông.

Được giáo dục theo tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, chúng tôi còn nhớ rất sâu cuộc bao vây của bọn tư bản. Đương nhiên, người nào trong chúng tôi cũng đều hiểu rằng tất cả các kế hoạch 5 năm của chúng ta đều nhằm mục đích xây dựng chủ nghĩa cộng sản ở Liên Xô, đồng thời nhằm tạo cơ sở, kinh tế bảo đàm cho chúng ta giành được thắng lợi nếu buộc phải chiến đấu.

Đất nước ta đã xây đựng được nhiều ngành công nghiệp mới, tiên tiến, như công nghiệp ô-tô, máy kéo, hàng không. Ngành khai thác và chế biến dầu hỏa đã phát triển nhanh chóng. Trang bị và kỹ thuật của Quân đội Liên Xô đã được cải tiến về chất lượng và phát triển về số lượng. Chúng tôi được biết rằng, những kiểu xe tăng mới nhất của Liên Xô – KV và T-34 – rất ưu việt, sẽ được đem trang bị cho bộ đội trong những năm tới. Máy bay, chiến hạm và nhất là tàu ngầm Liên Xô, ngày càng tốt hơn, pháo binh và các phương tiện thông tin được cải tiến triệt để

Và hẳn là chúng tôi cũng đều biết việc tăng tổng quân số nhất là các binh chủng kỹ thuật. Trong vòng tám – chín năm ấy, bộ binh đã tăng gấp đôi, còn bộ đội xe tăng và cơ giới phát triển tới 1,2 lần.

Thể thức bổ sung các Lực lượng vũ trang đã thay đổi. việc tổ chức những đơn vị quân địa phương được bãi bỏ. Tiếp đó, Luật nghĩa vụ quân sự phổ cập đã được ban hành. Như vậy là nguyên tắc chính quy trong xây dựng quân đội và hạm đội đã trở thành duy nhất và độc tôn. Đồng thời, thời hạn làm nghĩa vụ quân sự tại ngũ cũng kéo dài. Đảng và chính phủ đã làm mọi việc để Quân đội tiên xô có thể bảo vệ được Tổ quốc trong những giờ phút hiểm nguy.

Lòng tràn đầy tin tưởng vào sức mạnh của đất nước, chúng tôi lên đường đi diễn tập. Chuyến đi công tác bất ngờ này rất hợp ý chúng tôi. Nó hứa hẹn một cuộc thực hành thú vị trong việc vận dụng những hiểu biết đã thu hoạch trong năm học. Tất cả chúng tôi đều phấn khởi lên tàu đi Ki-ép.

Nhưng lúc chúng tôi đang ở trên đường đi Ki-ép, đã xảy ra một chuyện không thể không làm buồn lòng mọi người: sáng 1 tháng Chín 1939, bọn phát-xít Đức đã tiến công Ba Lan. Qua các báo địa phương mua được ở các ga, chúng tôi không hiểu được điều gì sâu hơn cả. Song, bản thân sự xâm lược này và tốc độ tiến quân rất nhanh của Đức trên lãnh thổ Ba Lan cũng đã buộc người ta phải suy nghĩ kỹ về những hậu quả rất nghiêm trọng của nó.

Trong những năm ấy, các cán bộ chỉ huy Quân đội Liên Xô có chú ý nghiên cứu và đã hiểu khá rõ tình trạng lực lượng vũ trang Ba Lan. Xét theo trang bị kỹ thuật và trình độ huấn luyện bộ đội, quân đội của nước Ba Lan quý tộc còn lâu mới đạt đến trình độ mà người ta có thể gọi là hiện đại. Trong quân đội đó, rất nhiều thứ còn mang tính chất hào nhoáng bề ngoài. Tuy nhiên, chúng tôi cũng không có khuynh hướng đánh giá quá cao những khả năng của quân đội Đức. Vì cho đến lúc ấy, quân Đức còn chưa tiến hành các hoạt động chiến tranh thực sự.

Chúng tôi triền miên suy nghĩ theo tiếng động của bánh xe lăn. Tình hình ở biên giới phía Tây vô tình cứ liên kết với Kha-xan và Khan-khin – Gôn. Nhờ đó, chúng tôi đã hiểu rõ hơn vì sao cấp trên lại cử chúng tôi đến tham gia các cuộc diễn tập lớn ở các Đặc khu giáp biên giới.

Tới Ki-ép, chúng tôi đến trình diện đồng chí N. Ph. Va-tu-tin, tham mưu trưởng quân khu, và được phân công ngay về các phòng. Tôi là sĩ quan xe tăng nên được giao cho đồng chí I-a. N. Phê-đô-ren-cô, chủ nhiệm xe tăng quân khu sử dụng.

Chúng tôi nhanh chóng làm quen với hoàn cảnh mới và những con người mới. Các đồng chí không giấu chúng tôi rằng sự phát triển của chiến sự ở Ba Lan mang tính chất cực kỳ xấu. Họ nói rằng nếu tình hình cứ tiếp tục phát triển như vậy thì cũng chẳng loại trừ mối đe dọa đối với đất nước chúng ta và đòi hỏi Quân đội Liên Xô phải có những “biện pháp đặc biệt”.

Ở Mát-xcơ-va, Xô-viết tối cao Liên Xô họp khóa bất thường từ ngày 1 tháng Chín. Khóa họp này đã thông qua Luật nghĩa vụ quân sự phổ cập.

Ngày 3 tháng Chín, Anh và Pháp tuyên chiến với Đức. Và quân khu đã nhận được điện của bộ trưởng Bộ dân ủy quốc phòng, yêu cấu hoãn giải ngũ các quân nhân đã quá thời hạn phục vụ, đình chỉ việc đi phép của các sĩ quan. Trong 7 quân khu – Lê-nin-grát, Ka-li-nin, Mát-xcơ-va, Khác-cốp, Ô-ri-ôn, hai Đặc khu Ki-ép và Bê-lô-ru-xi-a, tất cả các đơn vị và binh đoàn, toàn bộ hệ thống thông tin liên lạc được lệnh sẵn sàng chiến đấu.

Việc tham chiến của Anh và Pháp tất nhiên đã thúc đẩy Hít-le thanh toán nhanh Ba Lan. Rồi còn gì nữa? Đức sẽ tung quân sang phía Tây, hay… tiến sang phía Đông?

Qua hai ngày nữa, ta đã có thể nói chắc rằng chủ lực của quân đội Ba Lan tư sản tại sườn phía Nam mặt trận Ba Lan – Đức sẽ bị đánh tan và các binh đoàn xe tăng của phát-xít Đức sẽ thẳng tiến vào Vác-sa-va. Bộ tham mưu quân khu Ki-ép được chỉ thị tập huấn bộ đội, các cơ quan quân sự và triệu tập cả những quân nhân dự bị nữa. Ngày 7 tháng Chín được ấn định làm ngày mở đầu lớp tập huấn.

Mặt trận Ba Lan tiếp tục tan vỡ. Chính phủ quý tộc Mốt-xít-xki bỏ chạy. Ngày 7 tháng Chín, Tổng tư lệnh quân đội Ba Lan Rứt-xmi-glư bỏ Vác-sa-va. Cuối ngày hôm sau, người ta được biết rằng xe tăng Đức đã tiến hành chiến đấu ngay ở chân tường thủ đô Ba Lan. Nhân dân lao động kiên cường phòng thủ Vác-sa-va nhưng ở những nơi khác trên khắp đất nước, tình hình rất nặng nề. Tình cảnh những người U-crai-na và Bê-lô-ru-xi-a sinh sống ở Ba Lan vốn đã phức tạp lại càng phức tạp hơn.

Bộ trưởng Bộ dân ủy quốc phòng báo trước cho tư lệnh quân khu chuẩn bị hành binh vào miền Tây U-crai-na. Quân khu Ki-ép được triển khai thành phương diện quân U-crai-na do X. C. Ti-mô-sen-cô – tư lệnh quân khu cấp 1 – làm tư lệnh. Quân khu bạn Bê-lô-ru-xi-a do M. P. Cô-va-lép – tư lệnh quân khu cấp 2 – chỉ huy cũng.được tổ chức lại thành phương diện quân.

Từ lúc ấy, chúng tôi làm việc không nghỉ cả ngày lẫn đêm: đi kiểm tra việc triển khai bộ đội, việc trang bị vũ khí, kỹ thuật và việc điều quân tới những khu vực xuất phát. Quân đoàn bộ binh độc lập 15 tập trung ở khu vực Péc-ga, Ô-lép-xcơ, Bê-lô-cô-rô-vi-tri; tập đoàn quân 5 ở khu vực Nô-vô-grát – Vô-lưn xki, Xla-vu-ta, Sê-pê-tôp-ca; tập đoàn quân 6 ở khu vực Cu-pen, Xa-ta-nôp, Prô-xcu-rốp; tập đoàn quân 12 ở khu vực Gu-xi-a-tin, Ca-mê-nét – Pô-đôn-xki, Nô-vai-a U-si-xa, I-a-rơ-mô-lin-xư. Tập đoàn quân 13, không nằm trong biên chế của phương diện quân U-crai-na, đóng ở vùng biên giới Ru-ma-ni. Bộ tham mưu phương diện quân chuyển tới Prô-xcu-rốp. Đến lúc này, tôi được điều động sang công tác dưới quyền V. M. Dơ-lô-bin, trưởng ban tác chiến.

Chúng tôi được biết là chính phủ Ba Lan đã chạy trốn sang đất Ru-ma-ni của bọn địa chủ – quý tộc. Sự việc này làm sáng tỏ thêm tình huống: từ nay chẳng còn chút hy vọng ở sự chống cự đáng kể nào của Ba Lan trước các đạo quân của Hít-le đang từ phía Tây tiến công sang. Nhà nước Ba Lan tư sản và quân đội của nó đã không thể bảo đảm an ninh cho nhân dân nước mình.

Trong giờ phút cực kỳ quan trọng này, Chính phủ Liên Xô đã thông qua quyết định bảo vệ cuộc sống hòa bình của nhân dân miền Tây U-crai-na và Tây Bê-lô-ru-xi-a. Quyết định ấy được công bố cho toàn thế giới biết. Và, chính phủ còn tuyên bố rằng: về phía mình, Liên Xô sẽ làm tất cả những gì có thể làm được để giải thoát toàn thể nhân dân Ba Lan khỏi cuộc chiến tranh độc ác này.

Quyết định của Chính phủ Liên Xô được bảo đảm bằng nhiều biện pháp quân sự. Phương diện quân U-crai-na được lệnh: đến hết ngày 16 tháng Chín, bộ đội phải sẵn sàng kiên quyết tiến công và 17 tháng Chín sẽ vượt biên giới quốc gia. Binh đoàn Sê-pê-tốp-ca do I. G. Xô-vết-nhi-cốp chỉ huy được lệnh tiến công Rô-vơ-nô, Lút-xcơ và đến hết ngày thứ hai phải chiếm được Lút-xcơ. Binh đoàn Vô-lô-tsi-xcơ, do Ph. I. Gô-li-cốp chỉ huy, tiến về Téc-nô-pôn, Lơ-vốp, và đến hết ngày 18 tháng Chín phải chiếm được Bu-xcơ, Pê-rê-mư-sli-a-nư, tức là phải tiến sát tới Lơ-vốp. Binh đoàn Ca-mê- nét – Pô-đôn-xki, do I. V. Ti-u-lê-nép chỉ huy, phải vận động đến Tre-rơ-tơ-cốp và hôm sau phải chiếm được Xta-ni-xláp. Các đơn vị được lệnh sẽ không sử dụng vũ khí nếu như quân Ba Lan không dùng vũ khí để kháng cự. Song vẫn phải chuẩn bị đối phó với tình thế xấu hơn.

Từ biên giới Ba Lan có báo cáo về: dọc đường cái Lơ-vốp đi Téc-nô-pôn, các đơn vị Ba Lan đã bị đánh tan tác đang lũ lượt rút về phía Đông và phía Ru-ma-ni; các đơn vị còn lại thì không có chỉ huy, thiếu vũ khí; quân Đức đã tiến gần đến Lơ-vốp và đang đe dọa thành phố này từ phía Nam, còn ở phía Bắc thành phố thì đang có những trận chiến đấu ở phía Tây Búc. Song, căn cứ vào tình hình, mọi người đều cảm thấy ngay: cả trong những điều kiện ấy, quân Ba Lan đã có những biện pháp đề phòng trường hợp quân đội Liên Xô hoạt động tích cực. Gần biên giới Liên Xô xuất hiện những đơn vị kỵ binh nhẹ Ba Lan. Có súng máy đặt ở những trạm kiểm soát vùng Pốt-vô-lô-tri-xcơ.

Đêm 16 rạng ngày 17 tháng Chín, tôi ở đài quan sát của tập đoàn quân 6. Ở đây, mọi người đều làm việc rất khẩn trương như thường khi sắp có những sự kiện lớn. Phút chốc lại có chuông điện thoại, các liên lạc viên từ các sư đoàn nối tiếp nhau xuất hiện và ra đi. Nhưng vẫn cảm thấy thời gian kéo dài một cách chậm chạp khó tả.

Cuối cùng, thời hạn vượt biên giới quy định trong mệnh lệnh đã đến. Đúng 5 giờ, lệnh phát ra và bộ đội xuất quân. Những yêu cầu báo động đầu tiên. Từ lãnh thổ Ba Lan đã gửi về những báo cáo đầu tiên:

- Không đâu thấy sự kháng cự có tổ chức…

- Bộ đội đang tiến quân thắng lợi. Ở Pốt-vô-lô-tri-xcơ, trong nhà ga đã bắt được nhiều binh lính và sĩ quan quân đội Ba Lan, súng máy và những trang bị khác…

- Khắp mọi nơi, từng đoàn người đi lánh nạn, trong đó có nhiều quân nhân…

Ít lâu sau, cơ quan tham mưu tập đoàn quân 6 cũng tiến lên phía trước. Còn tôi, đến gần cuối ngày hôm đó, đã về cơ quan tham mưu phương diện quân ở Prô-xcu-rởp báo cáo tình hình.

Tôi chưa kịp ăn cơm chiều thì được đồng chí Dơ-lô-bin gọi lên gặp.

- Cần thay đổi đôi chút nhiệm vụ của binh đoàn Sê-pê-tốp-ca.

Đồng chí chỉ trên bản đồ những chỗ cần thay đổi và cho biết là cơ quan tham mưu binh đoàn đang đóng ở Rô-vơ-nô. Đồng chí giao mệnh lệnh viết tay để trong phong bì dán kín, rồi nhắc nhở:

- Đồng chí cần nghiên cứu kỹ đường đi. Lấy ở binh trạm biên giới một người dẫn đường tin cậy và lực lượng bảo vệ. Sáng hôm sau phải tới vị trí.

Tôi ra đi bằng chiếc xe Pho loại nhỏ và chẳng bao lâu sau đã đến Xla-vu-ta, tới đội biên phòng. Các đồng chí hộ tống tôi từ đó tới binh trạm, ở đây, một đồng chí chuẩn úy có mang theo súng máy, được phái theo tôi làm người dẫn đường, và chính tôi cũng được nhận một khẩ tiểu liên, rồi mỗi người còn được trang bị thêm 3 trái lựu đạn nữa. Cảnh giác cao vẫn không phải là thừa! Vì dọc đường có rất nhiều toán kỵ binh nhẹ hỗn loạn, cũng có thổ phỉ nữa.

Không để mất thời gian, đồng chí chuẩn úy đã đặt súng máy lên phía trước xe rồi ngồi bên cạnh người lái. Tôi cầm tiểu liên ngồi phía sau. Chúng tôi vượt biên giới trong đêm tối. Tới đây mới biết rõ rằng người dẫn đường cho tôi chỉ biết đường trong vòng 3-4 ki-lô-mét phía bên kia sông Gô-run. Chúng tôi tiếp tục đi theo bản đồ chẳng bao lâu thì bị lạc. Tôi nhớ thuộc lòng đường đi, nhưng trên thực địa, đường sá hầu như nhiều gấp đôi số đường ghi trong bản đồ. Hơn nữa, lúc đó lại là đêm tối. Chúng tôi mò mẫm trên đường, tưởng chừng như đúng, rồi đi, cứ thế đi mãi… và đột nhiên bỗng đụng phải một trang trại nào đó, âm u và dường như không có người ở. Chung quanh chẳng có ai hết.

Tôi chẳng còn mấy thời gian. Tình thế thật đến khó chịu: có thể tôi chuyển giao chậm bản mệnh lệnh này. Ở nước ta, chúng tôi đã quen với những làng lớn, lúc nào cũng tìm được người thông thạo đường sá. Nhưng ở đây không có làng, mà cũng chẳng thấy người.

Tôi quyết định dù sao cũng phải tìm cho ra một người nào đấy trong các ấp trại này và hỏi đường tới Rô-vơ-nô. Chúng tôi tiến tới một cái ấp. Chúng tôi gọi và gõ cửa nhưng không có ai trả lời cả. Chúng tôi tới ấp bên, thấy trong cửa sổ có ánh lửa lờ mờ. Nhưng khi chúng tôi vừa tới gần thì lửa tắt. Trước mặt chúng tôi là rào cao, cổng lớn và một ngôi nhà gỗ ghép, tựa một pháo đài, chỉ có độc một cửa sổ trông ra đường.

Chúng tôi gõ cổng. Vắng lặng. Chúng tôi lại gõ. Không ai đáp lại.

Tôi ra lệnh cho đồng chí chuẩn úy:

- Ta trèo lên cửa sổ

Cửa sổ mở tung. Tôi chiếu đèn bấm vào trong nhà: không có một ai. Chúng tôi bắt đầu gọi, nhưng lại vắng lặng.

- Ta cứ trèo vào, – tôi nhắc lại.

Nhưng chúng tôi chưa kịp trèo vào thì thấy một cụ già hiện ra bên ngưỡng cửa, hai tay run run giơ lên, im lặng.

Tiếng Ba Lan tôi không thạo, vì mới học được có mấy tháng mùa đông trong nhóm nghiên cứu của Câu lạc bộ Hồng quân sư đoàn kỵ binh 3 mang tên Cô-tôp-xki. Vả lại học cũng đã khá lâu rồi, từ năm 1931. Tôi cố nhớ lại những từ Ba Lan đã quên đến phần nửa. Nhưng oái oăm là tôi không nhớ lại được những từ cần thiết. Dù sao, tôi cũng đại khái nói cho cụ già hiểu được là chúng tôi đang tìm đường đến Rô-vơ-nô.

Cụ già hơi trấn tĩnh lại. Cụ già nói nhanh, dùng xen lẫn tiếng U-crai-na với tiếng Ba Lan, tay làm hiệu. Cụ không hiểu bản đồ, tôi không hiểu cụ, còn thời gian thì cứ trôi qua.

Tôi mời cụ già đi cùng với chúng tôi. Không hiểu sao ông cụ lại trèo vào cửa sổ. Tôi với đồng chí chuẩn úy liền nắm tay cụ lại dìu cụ ngồi vào xe và khoảng bốn mươi phút sau, chúng tôi cũng đã vượt qua được mấy quãng vòng rắc rối ở trong rừng, rồi ra được đường cái đi Rô-vơ-nô. Chúng tôi cho cụ già xuống xe, cụ chào và cảm ơn chúng tôi; chúng tôi cũng chào lại và cảm ơn ông cụ.

Đi độ hai tiếng đồng hồ nữa, chúng tôi tới Rô-vơ-nô. Tôi tìm ra cơ quan tham mưu đóng tại ngôi nhà của một trường trung học cũ. Nhiệm vụ đã được hoàn thành đúng thời hạn.

Chúng tôi quay về lúc mặt trời mọc. Đi ban ngày mới dễ chịu làm sao! Mọi vật cứ hiện ra rành rành trước mắt. Bản đồ vẽ đúng và số đường đi lối lại tựa hồ như ít hơn. Đến trưa, tôi đã có mặt ở cơ quan tham mưu phương diện quân.

Song, tôi không có thì giờ để nghỉ. Đồng chí trưởng ban tác chiến lại triệu tập tôi và đại tá Va-rơ-ma-skin, phó chủ nhiệm bộ đội xe tăng, lên nhận công tác. Chúng tôi phải tới Téc-nô-pôn tổ chức việc tiếp xăng cho các xe tăng đến tăng cường cho binh đoàn. Ngoài ra, chúng tôi còn được lệnh cho các đơn vị đi vòng qua ngoài thành phố và không để cho các đơn vị và cơ quan hậu cần đóng lại trong thành phố.

Chúng tôi đến Téc-nô-pôn khi các đơn vị phái đi trước vừa mới hành quân qua. Đi liền sau các đơn vị này là sư đoàn kỵ binh 5, dưới quyền chỉ huy của sư đoàn trưởng I-a. X. Sa-ra-bu-rơ-cô, rất nổi tiếng hồi đó. Chúng tôi không cho sư đoàn này vào thành phố. Có to tiếng với nhau. Đồng chí sư đoàn trưởng nổi khùng với chúng tôi. Va-rơ-ma-skin rút giấy ủy nhiệm chìa ra trước mũi đồng chí ấy. Nhưng, dù có giấy ủy nhiệm, chúng tôi cũng cảm thấy bất lực trước chàng kỵ sĩ bướng bỉnh này. Mãi tới khi chúng tôi nhắc đến tên X. C. Ti-mô-sen-cô thì đồng chí ấy mới nguýt nguôi và sư đoàn mới chịu đi vòng qua ngoài thành phố.

Ngay lúc đó, đoàn xe tăng tiến đến, mà chúng tôi vẫn chưa tìm thày đoàn xe chở xăng dầu. Đồng chí chỉ huy đoàn xe tăng cáu kỉnh với chúng tôi về mọi thứ, đòi nhiên liệu. Cuối cùng, đồng chí đại úy chỉ huy đoàn xe chở xăng dầu đến trình diện. Thì ra, trên đường hành quân, đoàn xe đã bị ùn lại và vì vậy nhiên liệu được chở đến chậm mất hai tiếng.

Xe tăng ăn dầu và chúng tôi chuyển sang thực hiện nhiệm vụ thứ hai của mình là đưa các đơn vị hậu cần ra khỏi thành phố. Công việc này thật rất khó. Đêm xuống và không ai muốn rời khỏi thành phố trước lúc trời sáng.

Bất thình lình, từ ngôi nhà thờ Ba Lan ở giữa thành phố, súng máy bắn ra dày đặc khắp phố. Ngựa hí, người chạy. Có tiếng súng bắn trả lại. Trước lúc trời sáng, không thể nào dập tắt được cuộc đấu súng này. Thỉnh thoảng lác đác có tiếng súng, lúc ở khu vực này, lúc ở khu vực kia trong thành phố. Sáng ra, chúng tôi phát hiện thấy trong ngôi nhà thờ nhiều đống vỏ đạn, nhưng không tóm cổ được kẻ đã bắn súng đêm qua. Người ta nói rằng tên cha cố Ba Lan đã bắn vào chúng tôi và hắn đã kịp bí mật trốn thoát được rồi…

Chúng tôi ở Téc-nô-pôn một ngày đêm nữa, rồi trở về cơ quan tham mưu phương diện quân. Ít lâu sau, cơ quan tham mưu phương diện quân chuyển đến Lơ-vốp và đóng trụ sở trong một ngôi nhà của trường võ bị cũ.

Thành phố tề chỉnh, thanh lịch theo kiểu của nó. Những biệt thự giàu có, sang trọng vươn cao theo dọc các đường phố lát đá. Còn ở vùng nông thôn, cách Lơ-vôp vẻn vẹn chừng 10-12 ki-lô-mét, thì đã là vương quốc của cảnh nghèo khó, nếu không nói được là vương quốc của cảnh khốn cùng.

Sau khi chúng tôi đến đó được hai – ba ngày, trẻ em nông thôn đã bắt quen với chúng tôi. Cũng như ở khắp mọi nơi, các em đều cởi mỏ, cả tin. Chúng tròn mắt nhìn bộ đội đi qua, rồi bỗng trồng lộn đầu xuống đất và cứ như vậy suốt dọc hai bên đường. Lúc đầu, chúng tôi thắc mắc, không hiểu việc ấy có ý nghĩa gì. Sau đó mới biết rằng các em làm như vậy là có ý muốn xin những cây bút chì. Thế là, những đoàn viên Côm-xô-môn chúng tôi có bao nhiêu bút chì “chiến thuật”, kẻ cả số bút chì dự trữ, đều đưa ra tặng các em hết. Đến nỗi, một số Cơ quan tham mưu chẳng còn cái gì để ghi tình huống lên bản đồ nữa cả.

Cuộc tiến quân của bộ đội chúng ta trên lãnh thổ Ba Lan hồi đó đã dừng lại trên tuyến Cô-ven, Vla-đi-mia – Vô-lưn-xki, phía Tây Lơ-vốp, Tư-scốp-nít-xa, sông Xtơ-rưi, Đô-li-na. Ban tác chiến vội chuẩn bị báo cáo về các hoạt động của bộ đội thuộc phương diện quân U-crai-na làm nhiệm vụ giải phóng miền Tây U-crai-na. Lúc báo cáo đã viết xong, N. Ph. Va-tu-tin liền gọi tôi đến và giao nhiệm vụ mang báo cáo về Bộ tổng tham mưu.

Đồng chí nói:

- Đồng chí đáp máy bay tới Ki-ép, rồi từ đó đi xe lửa đến Bộ tổng tham mưu. Đồng chí chịu trách nhiệm hoàn toàn về cặp tài liệu và bản đồ này. đến Bộ tổng tham mưu, phải giao tất cả những thứ này đến tận tay lữ đoàn trưởng Va-xi-lép-xki.

Khi tôi tới sân bay thì đã có một chiếc máy bay Po-2 đợi sẵn, người lái chiếc máy bay này là một trung úy phi công trẻ tuổi.

- Đồng chí biết đường bay chứ? – Tôi hỏi.

- Biết, – đổng chí trả lời chắc gọn.

Để đề phòng mọi trường hợp bất trắc, tôi đã kiểm tra bản đồ của đồng chí. Tất cả đều rất hoàn hảo: đường bay đã được vạch sẵn, có ghi từng ki-lô-mét và bảng tính thời gian. Có thể bay được.

Nửa giờ sau, máy bay chúng tôi rơi vào một đám mây mù. Phải thoát khỏi đám mây này, chúng tôi bay lên độ cao một nghìn mét. Bầu trời ở đây quang đãng, nhưng không nhìn thấy đất đâu nữa.

- Chúng ta bay có đúng hướng không? – Tôi băn khoăn hỏi.

- Đúng theo đường bay! – Phi công báo cáo.

Khoảng hai mươi phút sau, đất liền lại trải rộng dưới tầm mắt chúng tôi, nhưng không thấy con đường mà chúng tôi đã bay theo trước đây. Nó biến đâu mất rồi!

- Nó ở quá về phía bắc chừng hai mươi ki-lô-mét, – đồng chí phi công làm cho tôi yên tâm trở lại.

- Được, bay tới đó…

Nhưng đến đày cũng chẳng thấy gì hết và chúng tôi liền quay ngược lại phía nam. Cũng chẳng thấy con đường ấy đâu cả. Tôi băn khoăn: không khéo lại sa vào tay bọn Đức ở bên kia giới tuyến.

Cuối cùng, chúng tôi mới phát hiện thấy cái con đường sắt mất hút đó. Chúng tôi bay dọc theo nó tới nhà ga thứ nhất. Máy bay sà xuống thấp, chúng tôi đọc thấy: “Na-rơ-ke-vi-tri”. Có nghĩa là chúng tôi đang ở giữa Téc-nô-pôn và Prô-xcu-rôp, ở đây không có bọn Đức.

Từ đó trở đi, mọi chuyện đều tốt đẹp. Chúng tôi lấy thêm nhiên liệu ở Prô-xcu-rôp và bay tiếp tới Ki-ép một cách an toàn. Sang ngày hôm sau, tôi đã ở Mát-xcơ-va và trao cặp tài liệu cho đồng chí A. M. Va-xi-lép-xki. Đồng chí cho biết, tôi không phải trở lại cơ quan tham mưu phương diện quân nữa; tất cả học viên của Học viện Bộ tổng tham mưu đều được lệnh rời các đơn vị về tiếp tục học tập.

Chúng tôi học thêm được vài tháng thì lại được lệnh gọi về Bộ tổng tham mưu. Chiến dịch Phần Lan đã bắt đầu.

Nhiều học viên đã được điều về tăng cường cho Cục tác chiến Bộ tổng tham mưu. Tôi cũng ở trong số đó.

Nhiệm vụ chúng tôi là thu thập những số liệu về các tình huống, phân tích những số liệu ấy, ghi tình huống tác chiến trên bản đồ, viết thông báo chiến sự, truyền đạt cho các đơn vị bộ đội những chỉ thị và mệnh lệnh. Nói tóm lại, chúng tôi đang tham gia vào công việc tác chiến rộng lớn và nhiều hình nhiều về.

Thoạt tiên, tôi được giao nhiệm vụ theo dõi tập đoàn quân 9, hiện đang tác chiến trên hướng Xu-ô-mút-san-mi và về sau lại theo dõi thêm tập đoàn quân 14 trên hướng Pét-xa-mô. Như mọi người đều biết, cả hai hướng này đều là hướng phụ. Những sự kiện chủ yếu đang diễn ra trên eo đất Ca-rê-li-a và ở vùng hồ La-đô-ga.

Vì công việc phải được tiến hành liên tục, nên chúng tôi chia thành hai kíp. Mỗi kíp làm việc suốt một ngày đêm. Chúng tôi giao ban lúc 19 giờ và lập tức đi ngủ ngay. Hồi ấy, chúng tôi không sợ cái từ “ngủ” nên cũng chẳng thay nó bằng cái từ “nghỉ” tế nhị hơn.

Thường cả ngày hôm sau, chúng tôi học ở học viện rồi đến tối lại nhận nhiệm vụ trực ban suốt một ngày đêm tại Bộ tổng tham mưu. Công việc thật nặng nề nhưng chúng tôi chẳng hề ca thán: công tác hứng thú, và lại đang chiến tranh mà! Hồi ấy chúng tôi còn trẻ, đầy sinh lực và chúng tôi thấy mọi việc như vậy cũng chưa thấm vào đâu cả.

Mùa đông năm 1940 rét buốt thịt, buốt xương. Băng đóng dày đặc. Lớp tuyết phủ dày đã gây nhiều hạn chế đối với hoạt động của bộ đội. Tập đoàn quân 9 và tập đoàn quân 14 rải quân khắp dọc đường và hành tiến chậm chạp, vì phải đánh lui các tiểu đoàn trượt tuyết Phần Lan tập kích vào phía sau lưng. Mặt trận chỉ còn liên tục ở vùng eo đất Ca-rê-li-a, nơi tập đoàn quân 7 và 13 đang tác chiến dưới quyền chỉ huy của K. A. Mê-rét-xcôp và V. Đ. Gren-đan.

Phải nói thắng ra rằng: hồi này bộ đội chúng ta chưa thích ứng mấy với việc tiến hành chiến tranh trong những điều kiện của chiến trường Phần Lan. Rừng rú, ao hồ, không có đường sá và tuyết phủ là những chướng ngại nghiêm trọng đối với bộ đội. Đặc biệt, sư đoàn bộ binh 44 đã gặp rất nhiều khó khăn, vì mới từ U-crai-na đến thì bị vây hãm ngay ở Xu-ômút-san-mi. Chỉ huy sư đoàn này là đồng chí A. I. Vi-nô-grát-đốp.

Theo chỉ thị của Xta-lin, L. D. Mê-khơ-li-xơ (D. Mê-khơ-li-xơ năm 1941 làm Chủ nhiệm Tổng cục chính trị, thứ trưởng Bộ dân ủy quốc phòng Liên Xô. – ND.) được phái đến tập đoàn quân 9 để xem xét tình hình và giúp đỡ đơn vị bị bao vây. Nhiều báo cáo của đồng chí thường được chuyển qua chỗ tôi và luôn luôn để lại trong tâm hồn một cái gì cay đắng: các báo cáo đều đen tối như màn đêm vậy. Sử dụng quyền hạn to lớn của mình, đồng chí ấy đã cách chức chỉ huy của hàng chục cán bộ, thay thế họ bằng những người gắn bó với mình. Đồng chí ấy yêu cầu xử bắn sư đoàn trưởng Vi-nô-grát-đốp vì đã không chỉ huy được sư đoàn. Sau này, tôi có nhiều dịp gặp gỡ Mê-khơ-li-xơ, và tôi dứt khoát tin rằng đồng chí ấy bao giờ cũng thiên về các biện pháp cực đoan.

Chiến tranh Phần Lan kết thúc. Ngày 12 tháng Ba 1940, các học viên Học viện Bộ tổng tham mưu lại quay về với công việc thường ngày.

Đến tháng Năm, bộ phận chủ yếu của ban chúng tôi lên đường đi Tơ-bi-li-xi. Có một số cán bộ nữa, lấy ở những ban khác, được cử đến tăng cường cho chúng tôi. Cùng đi với chúng tôi có đại tá X. I. Gu-nhê-ép, trung tá G. V. I-va-nốp, các thiếu tá V. Đ. Út-kin và M. A. Cra-xcô-vét. Gần trước lúc lên đường, chúng tôi mới được biết rằng cả Tổng tham mưu trưởng lẫn Phó tổng tham mưu trưởng đều không thể đến tham dự được và những cuộc diễn tập này sẽ được tiến hành dưới quyền điều khiển của các đồng chí tư lệnh quân khu: đồng chí Đ. T. Cô-dơ-lốp ở quân khu Da-cáp-ca-dơ, đồng chí X G. Tơ-rô-phi-men-cô ở quân khu Trung Á. Song, sau khi chúng tôi đến Tơ-bi-li-xi được một ngày thì trung tướng Cô-dơ-lốp được cấp tốc triệu tập về Mát-xcơ-va. Chúng tôi cảm thấy ở Mát-xcơ-va đang có chuyện gì hoàn toàn không bình thường.

Thành ra thiếu tướng M. N. Sa-rô-khin phải lãnh đạo cuộc diễn tập và tôi được phân công làm tham mưu trưởng của ban chỉ đạo; trung tướng P. I. Ba-tốp, phó tư lệnh quân khu, chỉ huy phương diện quân và thiếu tướng Ph. I. Tôn-bu-khin làm nhiệm vụ tham mưu trưởng phương diện quân ấy.

Sau khi tổng kết cuộc diễn tập ở quân khu Da-cáp-ca-dơ, chúng tôi đi tàu thủy từ Ba-cu tới Cra-xnô-vốt-xcơ, rồi từ đó đi xe lửa đến Ma-rư. Thiếu tướng M. I. Ca-da-cốp, tham mưu trưởng quân khu Trung Á, đã đợi chúng tôi ở đấy. Chúng tôi được biết là tướng X. G. Tơ-rô-phi-men-cô, tư lệnh quân khu, đang bị ốm. Thành thử cuộc diễn tập ở đây do đồng chí M. N. Sa-rô-khin điều khiển.

Trong thời gian diễn tập, tôi được dịp cùng với đồng chí Sa-rô-khin và đại tá Tréc-nư-sê-vích trưởng ban tác chiến của cơ quan tham mưu quân khu Trung Á, đi dọc biên giới từ Xê-rác đến A-skha-bát và xa hơn nữa qua Ki-dưn – A-tơ-rếch đến Ga-xan – Cu-li nhằm mục đích nghiên cứu chiến trường.

Chúng tôi trở về Mát-xcơ-va, lòng thanh thản. Các cuộc diễn tập đầu được tiến hành tốt.

Sáng ngày 21 tháng Sáu, đoàn xe lửa chở chúng tôi đến ga Ca-dan tại thủ đô. Trong ngày hôm ấy, chúng tôi trình bày và nộp các tài liệu. M. N. Sa-rô-khin xin phép cho những người đã tham gia diễn tập được nghỉ hai ngày: chủ nhật – ngày 22 và thứ hai – ngày 23 tháng Sáu.

Nhưng không ai được nghỉ cả. Đêm 21 rạng ngày 22 tháng Sáu đúng 2 giờ sáng, đồng chí liên lạc đến nhà riêng của tôi và truyền lệnh báo động. Nửa giờ sau, tôi đã có mặt ở Bộ tổng tham mưu.

Chiến tranh đã bắt đầu..

Cái đêm nặng nề ấy đã xa cách chúng ta hàng chục năm rồi, nhưng hiện nay vẫn còn có nhiều ý kiến rất khác nhau trong việc đánh giá tình hình lúc đó của các Lực lượng vũ trang chúng ta.

Một số người nói rằng, chúng ta hoàn toàn không sẵn sàng để đánh lui cuộc tiến công của quân địch, rằng quân đội của chúng ta được giáo dục theo tinh thần dễ dàng giành thắng lợi. Và, những ý kiến thuộc loại này tuy thường do những người không phải là quân nhân nêu ra, song lại thường được rào đón kín bằng đầy dẫy những thuật ngữ chuyên môn phức tạp. Thí dụ, họ đã khẳng định rằng: dường như vì hiểu không đúng về tính chất và nội dung của thời kỳ đầu chiến tranh nên chúng ta đã huấn luyện bộ đội không đúng theo các hoạt động chiến đấu trong chính thời kỳ này.

Lối khẳng định đó mang tính cách táo bạo thì ít, mà mang tính cách ngu dốt thì nhiều. Bởi vì khái niệm “thời kỳ đầu chiến tranh” là một phạm trù chiến dịch – chiến lược, không hề có ảnh hưởng quan trọng là bao đối với việc huấn luyện cho người chiến binh, cho đại đội, trung đoàn và thậm chí cả sư đoàn nữa.

Từ người chiến binh cho đến đại đội, trung đoàn và sư đoàn, nói chung đều hành động một cách giống nhau trong bất kể thời kỳ nào trong chiến tranh. Họ phải kiên quyết tiến công, ngoan cường phòng ngự và khôn khéo dùng mưu trí trong mọi trường hợp, bất kể cuộc chiến đấu xảy ra vào lúc nào: vào thời kỳ đầu hay thời kỳ cuối của cuộc chiến tranh. Trong các điều lệnh, không hề bao giờ thấy có một sự phân biệt nào về điểm này cả. Và, ngay hiện nay cũng không có những sự phân biệt ấy.

Người ta lại thường bàn tán rằng, chúng ta đánh giá thấp nguy cơ chiến tranh với Đức. Để bảo vệ những ý kiến không đúng này, có lúc người ta đã đưa ra những lý lẽ thật nực cười về cái gọi là sự bố trí quân đội sai lầm trong các quân khu có nhiệm vụ yểm hộ và phòng vệ những biên giới phía tây. Tại sao lại sai lầm? Vì theo họ, những binh lực lớn thuộc biên chế các quân khu biên giới đã được bố trí không phải ở ngay biên giới, mà ở cách xa biên giới.

Về vấn đề này, thực tiễn và lý luận từ lâu đã chứng minh rằng trong bất kỳ hình thức tác chiến nào, lực lượng chủ yếu cũng nhất thiết phải được bố trí thành nhiều tuyến trong tung thâm. Cần bố trí ở đâu nhiều lực lượng hơn, và nên bố trí các tuyến theo chiều sâu như thế nào là một vấn đề rất phức tạp. Vấn đề này tùy thuộc vào tình huống và tùy thuộc vào ý định của người chỉ huy.

Có lẽ vì chưa hiểu hết những điều sơ đẳng trong công tác quân sự, nên có một số đồng chí tuyên bố rằng: cái nguyên tắc mọi người đều biết trong điều lệnh hồi trước chiến tranh của Quân đội Liên Xô về vai trò phụ thuộc của phòng ngự đối với tiến công là nguyên tắc không đúng. Những đồng chí ấy cần nhớ rằng: ngay hiện nay, nguyên tắc này cũng vẫn có hiệu lực như thường.

Tóm lại, chúng tôi nghĩ rằng: trong nhiều trường hợp, những người đang bàn cãi về chiến tranh đã đi theo con đường không đúng, vì họ không chịu thực sự bỏ công nghiên cứu thực chất của vấn đề mà họ định phê phán. Rốt cuộc, khát vọng đáng khen của họ “muốn phân tích những nguyên nhân thất bại của chúng ta trong năm 1941” lại biến thành mặt đối lập và gây ra tình trạng lầm lẫn có hại. Những khái niệm và hiện tượng hoàn toàn không giống nhau lại bị đánh lộn phèo làm một, ví như: việc không quân sẵn sàng xuất kích chiến đấu, việc pháo binh sẵn sàng phát huy hỏa lực, việc bộ binh sẵn sàng đánh lui cuộc tiên công của quân địch đã bị đánh lộn phèo với việc đất nước và quân đội nói chung sẵn sàng tiến hành chiến tranh với một kẻ địch mạnh.

Nhân đây tôi muốn phát biểu quan điểm của mình, tất nhiên không phải với kỳ vọng rằng các ý kiến của tôi đều đã hoàn hảo và độc đáo, mà chỉ nói theo đúng những sự kiện lịch sử mọi người đều biết, theo đúng những ý nghĩ lành mạnh và kinh nghiệm công tác trong Bộ tổng tham mưu.

Đất nước chúng ta có đủ khả năng tiềm tàng để tiến hành chiến tranh chống lại một kẻ địch mạnh không? Đúng, có! Ngoài quân thù ra, ai có thể phủ nhận rằng: hồi đầu những năm bốn mươi, Liên Xô đã từ một nước lạc hậu về kinh tế trở thành một cường quốc xã hội chủ nghĩa thực sự hùng mạnh?

Do kết quả của việc thực hiện những kế hoạch năm năm phát triển kinh tế quốc dân, đất nước chúng ta đã có mọi tiên đề vật chất – kỹ thuật cần thiết để đánh bại bất kỳ kẻ thù nào, và chiến tranh đã xác nhận điều đó. Chúng ta đã xây dựng được ngành luyện kim mạnh so với thời kỳ ấy, và đã đuổi sát nút Đức về mặt sản xuất thép và gang. Năm 1940, Liên Xô luyện được hơn 18 triệu tấn thép, còn Đức: quá 19 triệu tấn một ít; chúng ta sản xuất được khoảng 15 triệu tàn gang, và Đức: chỉ được có 14 triệu tấn.

Đế chế thứ ba vượt chúng ta về sản xuất điện lực (bọn chúng sản xuất được khoảng 63 tỷ ki-lô-oát giờ, còn chúng ta: 48 tỷ), nhưng lại thua xa chúng ta về mặt khai thác dầu lửa. Ngành công nghiệp chế biến dầu lửa của chúng ta đã lớn mạnh, không có nó thì xe tăng và máy bay Liên Xô có lẽ sẽ trở thành vô dụng. Ta đã xây dựng được các ngành chế tạo cơ khí, chế tạo máy bay, máy kéo, thiết bị dụng cụ của mình.

Nông nghiệp đã được căn bản tổ chức lại trên cơ sở tập thể hóa toàn bộ. Những thành tựu văn hóa của chế độ xô-viết thật là cực kỳ vĩ đại, nó cho phép chúng ta đào tạo được một đội ngũ cán bộ làm kinh ngạc toàn thế giới: đội ngũ các nhà bác học, các nhà chế tạo, các kỳ sư, kỹ thuật viên, công nhân và tất nhiên cả đội ngũ chiến sĩ – từ người chiến binh đến vị nguyên soái nữa.

Trong những năm trước chiến tranh, công cuộc xây dựng một quân đội chính quy đông hàng triệu người đã được triển khai rất mạnh. Chỉ một quân đội như thế mới có khả năng đánh trả quân địch một cách đích đáng. Đến giữa năm 1941, chúng ta đã có hơn 5 triệu quân. Đồng thời, quân đội đã được trang bị lại, cả hải quân và không quân cũng vậy. Toàn thể các Lực lượng vũ trang Liên Xô đã được xây dựng theo những yêu cầu của cuộc chiến tranh hiện đại cả về mặt tổ chức lẫn về mặt kỹ thuật.

Đặc biệt là bộ đội xe tăng của chúng ta đã ngày càng thêm mạnh. Có thể khẳng định điều đó, dù chỉ nêu lên rằng: trong năm 1940, chúng ta đã xây dựng được 9 quân đoàn cơ giới. Trong tháng Hai – tháng Ba 1941, ta đã bắt đầu thành lập thêm nhiều quân đoàn cơ giới mới nữa (mỗi quân đoàn có 2 sư đoàn xe tăng và 1 sư đoàn mô tô). Nhịp độ sản xuất xe tăng tăng lên. Trong năm 1941, công nghiệp đã có thể cung cấp cho chúng ta 5.500 chiếc. Tuy nhiên, lúc đầu chiến tranh, chúng ta còn kém địch khá nhiều về số lượng xe tăng hiện đại

Chúng ta chưa kịp hoàn thành việc đổi mới trang bị kỹ thuật cho bộ đội, chưa có nhiều xe tăng có uy lực mạnh loại KV và T-34 để bổ sung đầy đủ cho những quân đoàn cơ giới đã thành lập từ trước và những quân đoàn cơ giới đang thành lập, nhất là ở những quân khu biên giới quan trọng: quân khu Pri-ban-tích, Đặc khu phía Tây và Đặc khu Ki-ép, quân khu Ô-đét-xa. Những quân khu này đã phải chịu đòn đột kích chủ yếu của nước Đức phát-xít, nhưng lại không có nhiều xe tăng hiện đại. Những kiểu xe tăng cũ không thể có ảnh hưởng quyết định tới quá trình tác chiến sắp tới, đã thế lại không có đủ phần nửa số lượng định trong biên chế.

Điều không may của chúng ta là bộ đội có ít xe tăng loại KV và T-34. Nhưng, nếu nói về những khả năng của Liên Xô trong việc phát triển bộ đội xe tăng thì chúng ta có đủ những khả năng ấy để vượt hơn địch trong quá trình Chiến tranh giữ nước vĩ đại.

Có thể nói rằng bắt đầu từ năm 1939, Liên Xô đã áp dụng nhiều biện pháp khẩn cấp nhằm củng cố cơ sở sản xuất của ngành công nghiệp hàng không, mở rộng những cơ quan thiết kế để chế tạo các loại máy bay chiến đấu mới và tổ chức việc sản xuất hàng loạt các loại máy bay đó. Trong chừng mực nào đày, tình hình không quân của chúng ta hồi gần xảy ra chiến tranh cũng giống như tình hình xe tăng vậy. Công nghiệp cung cấp cho chúng ta một số lớn máy bay, nhưng về mặt tính năng chiến thuật – kỹ thuật, những máy bay này phần thì đã lỗi thời, phần thì không đáp ứng được các đòi hỏi của chiến tranh. Chúng ta đã ham chuộng quá đáng các máy bay ném bom bay êm, nhưng có tầm bay xa không đủ mức cần thiết và về thực chất, không có sức tự vệ chống lại máy bay tiêm kích.

Vì đã có cái chủ yếu (nền công nghiệp hàng không khá hoàn hảo so với thời kỳ bấy giờ) nên Nhà nước xô-viết cần đổi mới cơ số máy bay trong một thời hạn ngắn. Nhưng điều không may lại vẫn là: chúng ta không có đủ thời gian, mặc dầu đã đưa nhịp độ sản xuất lên rất cao. Năm 1940, ta chỉ mới chế tạo được có 64 máy bay tiêm kích loại I-ắc- 1 và 20 máy bay tiêm kích loại Mích-3, vẻn vẹn có 2 máy bay ném bom bổ nhào Pe-2. Trong nửa đầu năm 1941, chúng ta chế tạo được: 1946 máy bay tiêm kích hiện đại nhất loại I-ắc-1, Mích-3, LAGG-3, 458 máy bay ném bom Pe-2, 249 máy bay cường kích IL-2, tổng cộng hơn 2.650 chiếc.

Tháng Bảy 1940, Ban chấp hành trung ương Đảng và Hội đồng bộ trưởng dân ủy Liên Xô đã thông qua một quyết định quan trọng “Về việc cải tổ lực lượng không quân của Hồng quân”. Quyết định này xác định kế hoạch trang bị lại các đơn vị không quân, thành lập những trung đoàn không quân mới, thể thức huấn luyện các phi công điều khiển kỹ thuật mới. Không nghi ngờ gì nữa, văn kiện này đã đẩy nhanh công cuộc chuẩn bị cho các Lực lượng không quân đi vào chiến tranh.

Từ lâu, trước lúc có chiến tranh, đất nước xô-viềt đã có quân đổ bộ đường không, đây là loại quân chủng mới, chưa có trong quân đội của một nước nào khác trên thế giới bấy giờ. Những thành tựu của đất nước chúng ta trong lĩnh vực này đã được biểu dương trong các cuộc thao diễn ở Ki-ép năm 1935, rồi ở Bê-lô-ru-xi-a và đã làm cho các quan sát viên nước ngoài sửng sốt không ít. Đến năm 1940, số lượng quân đổ bộ đường không đã tăng lên gấp đôi.

Hải quân cũng đã tiến lên được một bước lớn. Trong vòng hai kế hoạch 5 năm, những xí nghiệp đóng tàu của chúng ta đã đóng hơn 500 chiến hạm các loại. Đội ngũ chiến đấu của Hải quân đã phát triển đặc biệt nhanh lúc gần xảy ra chiến tranh. Khi nước Đức Hít-le tiến công chúng ta, các Lực lượng hải quân đã có 3 thiết giáp hạm, 7 tuần dương hạm, 54 khu trục hạm và lãnh hạm, 212 tàu ngầm, 287 tàu phóng lôi và hơn 2.500 máy bay.

Chỉ hạm đội thành lập ở phía bắc từ ngày 25 tháng Sáu năm 1933 đã được cải tổ lại thành Hạm đội Bắc trước ngày 11 tháng Năm 1937. Do kết quả của việc đẩy nhanh công việc đóng tàu, nên đến lúc bắt đầu cuộc Chiến tranh giữ nước vĩ đại, Hạm đội Bắc – hạm đội trẻ nhất trong số các hạm đội của chúng ta – đã có một đoàn tàu chiến hùng hậu và đã tiếp tục phát triển vững chắc lực lượng của mình.

Những hạm đội có từ lâu của chúng ta, đặc biệt là Hạm đội Ban-tích Cờ đỏ, cũng được hoàn thiện và phát triển. Hạm đội Ban-tích đã có nhiều căn cứ mới: Tan-lin, Khan-cô và những căn cứ khác, mỗi căn cứ đều đã đóng vai trò tích cực của mình trong quá trình đấu tranh vũ trang trên chiến trường mặt biển này.

Các Lực lượng vũ trang Liên Xô dựa được vào nền khoa học quân sự tiên tiến. Lý luận về chiến dịch có chiều sâu, sử dụng một số lớn xe tăng, máy bay, pháo binh, quân đổ bộ đường không, đã được nghiên cứu ở nước ta trước các nước khác. Ngay lúc bắt đầu những năm 30, ta đã có cơ sở của lý luận này. Và học thuyết quân sự của chúng ta cũng là một học thuyết tiên tiến, nhằm bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và quy định việc tiến hành chiến tranh với những mục đích quyết định, bằng mọi nỗ lực thống nhất của toàn thể các quân chủng và binh chủng. Vai trò của các quân chủng, binh chủng và những nguyên tắc sử dụng tác chiến những quân chủng, binh chủng đó đã được quy định một cách đúng đắn về cơ bản.

Thật vậy, trong quá trình Chiến tranh giữ nước vĩ đại, có một số điểm nào đó phải được chuẩn xác lại, có một số điểm thì phải bỏ đi: thực tiễn luôn luôn bổ sung cho lý luận. Nhưng, nói chung, học thuyết quân sự và khoa học quân sự của chúng ta vẫn bền vững và làm cơ sở tốt cho việc đào tạo một đội ngũ cán bộ quân sự có nghệ thuật hơn hẳn các tướng lĩnh và bọn sĩ quan phát-xít Đức.

Tất nhiên, điều đáng tiếc cho quân đội và đất nước chúng ta nói chung là: trước lúc chiến tranh, chúng ta đã bị mất nhiều cán bộ chỉ huy quân sự đầy kinh nghiệm. Lớp cán bộ trẻ đã gặp khó khăn, đã tích lũy được những kinh nghiệm cần thiết trong quá trình chiến đấu và thường phải trả giá khá đắt để có được những kinh nghiệm đó. Nhưng dầu thế nào chăng nữa, rốt cuộc lớp cán bộ trẻ cũng đã học được cách đánh bại quân thù và thắng lợi đã thuộc về chúng ta.

Cuối cùng, còn một vấn đề nữa thường được đặt ra cho chúng ta – những quân nhân, nhưng không hiểu tại sao chúng ta cứ hay lảng tránh, không chịu giải đáp: chúng ta có biết khả năng Đức sẽ tiến công vào Liên Xô trong năm 1941 hay không và trên thực tế chúng ta có làm gì để đánh lui cuộc tiến công ấy hay không? Vâng, chúng ta có biết! Đúng! Chúng ta có làm!

Hiệp ước không tiến công lẫn nhau, ký kết năm 1939 theo đề nghị của Đức, không làm cho chúng ta có ảo tưởng. Rõ ràng đó chỉ là kế hoãn binh và rồi sớm muộn, nước Đức phát-xít được các giới đế quốc ở các cường quốc phương Tây cổ vũ, sẽ xông về phía Đông. Vì thế cho nên Đảng cộng sản và Chính phủ Liên Xô đã tiến hành những biện pháp kiên quyết để tăng cường khả năng phòng thủ của đất nước.

Chúng ta hãy bắt đầu từ kế hoạch tác chiến. Đó là kế hoạch tập trung và triển khai các Lực lượng vũ trang trong trường hợp xảy ra chiến tranh. Các đồng chí trong Bộ tổng tham mưu thường gọi kế hoạch này là kế hoạch đẩy lùi sự xâm lược, ở đây chính nước Đức Hỉt-le đã được chỉ rõ rất có thể là kẻ thù chủ yếu. Chúng ta cũng cho rằng đứng về phía Đức chống Liên Xô còn có Phần Lan, Ru-ma-ni, Hung-ga-ri và I-ta-li-a. Dưới sự chỉ đạo của đồng chí B. M. Sa-pô-sni-cốp, trực tiếp tham gia vạch kế hoạch có các đồng chí N. Ph. Va-tu-tin, A. M. Va-xi-lép-xki, V. Đ. I-va-nốp, A. Ph. A-ni-xốp và sau này có thêm cả đồng chí Gh. C. Ma-lan-đin nữa.

Ngày 5 tháng Mười 1940, kế hoạch được bộ trưởng dân ủy X. C. Ti-mô-sen-cô và đồng chí Tổng tham mưu trưởng mới là K. A. Mê-rét-xcốp trình lên đồng chí I. V. Xta-lin. Kế hoạch thấy trước rằng ngay từ ngày đầu của cuộc chiến tranh sắp tới, hoạt động tác chiến của tất cả các quân chủng trên bộ, trên biển và trên không sẽ mang tính chất vô cùng gay go và phức tạp.

Kế hoạch cũng dự tính là cuộc tấn công của các binh đoàn xe tăng và bộ binh của địch sẽ đi đôi với những trận oanh tạc của không quân vào các đơn vị bộ đội Liên Xô và các cơ sở hậu cần có tầm quan trọng to lớn về quân sự. Kế hoạch xuất phát từ chỗ quân đội Liên Xô hoàn toàn được chuẩn bị sẵn sàng đánh lui kẻ địch và có thể bẻ gãy những đợt công kích của chúng bằng lực lượng và phương tiện của các quân khu biên giới trên vùng biên cương. Tiếp nữa, kế hoạch còn dự tính cuộc tấn công quyết định của ta, trong đó có sự tham gia của các đơn vi bộ đội được điều từ sâu trong nội địa.

Mọi bộ phận cấu thành của kế hoạch đều gắn bó chặt chẽ với nhau và với hoạt động của nền kinh tế quốc dân, của giao thông vận tải, thông tin liên lạc. Tiếp đó, trên cơ sở kế hoạch của Bộ tổng tham mưu, chúng ta đã xây dựng các phương án triển khai bộ đội các quân khu.

Như vậy, kế hoạch tác chiến đã xác định rõ tính chất của cuộc chiến tranh có thể xảy ra, đã giải quyết đúng đắn vấn đề kẻ địch là ai và hướng hoạt động của chúng ở chỗ nào.

Dựa vào dẫn chứng của đồng chí K. A. Mê-rét-xcốp, đồng chí I. V. Xta-lin đã bày tỏ ý kiến cho rằng nước Đức không tập trung sức cố gắng chủ yếu của nó ở khu vực phía Tây như đã ghi nhận trong kế hoạch, mà là ở khu vực phía Tây – Nam để trước hết chiếm những khu công nghiệp, những vùng nông nghiệp và nguyên liệu giàu có nhất Liên Xô. Đồng chí bộ trưởng Bộ dân ủy quốc phòng vừa ở khu vực phía Tây – Nam về chắc cũng tán thành quan điểm đó. Dù sao đi nữa thì cả đồng chí lẫn Bộ tổng tham mưu đều không phản đối kết luận đó của đồng chí Xta-lin.

Bộ tổng tham mưu được lệnh sửa đổi lại kế hoạch. Sỏ dĩ phải làm như vậy là vì cụm quân chủ yếu của quân đội Liên Xô sẽ không tập trung ở khu vực phía Tây như đã dự tính trước đây nữa, mà là ở khu vực phía Tây – Nam.

Như các sự kiện của cuộc Chiến tranh giữ nước vĩ đại đã cho thấy, dự đoán đó là sai lầm. Song dù sao Hít-le cũng vẫn giáng đòn chủ yếu ở khu vực phía Tây và bộ chỉ huy Liên Xô phải sửa lại dự tính sai lầm đã mắc phải và tập trung lực lượng chủ yếu ở khu vực phía Tây, tức Xmô-len-xcơ – Mát- xcơ-va. Việc đó đã gây nên một tình trạng rối loạn nhất định vì một số đơn vị bộ đội đã đổ bộ không đúng nơi mà sau này họ có nhiệm vụ chiến đấu ở đó, và làm mất đi một số thời gian quý giá.

Tiếp theo, cần nhắc lại rằng ngay trước lúc bắt đầu chiến tranh, chúng ta đã hết sức bí mật điều động quân bổ sung đến những quân khu biên giới. Năm tập đoàn quân từ phía sâu trong đất nước đã được điều ra phía Tây: tập đoàn quân 22 dưới quyền chỉ huy của tướng Ph. A. Éc-sa-cốp, tập đoàn quân 20 của tướng Ph. N. Rê-me-dốp, tập đoàn quân 21 của tướng V. Ph. Ghê-ra-xi-men-cô, tập đoàn quân 19 của tướng I. X. Cô-nép, và tập đoàn quân 16 của tướng M. Ph. Lu-kin.

Tất cả có 28 sư đoàn được điều động. Binh đoàn chiến dịch được điều từ quân khu Mát-xcơ-va đến Vin-ni-txa, sau này trở thành ban chỉ huy mặt trận phía Nam. Bộ dân ủy Hải quân đã hạ lệnh tăng cường trinh sát và cảnh giới trên các hạm đội, cho chuyển một phần lực lượng của Hạm đội Ban-tích Cờ đỏ từ Li-ba-va và Tan-lin đến các vị trí an toàn hơn. Và ngay trước lúc chiến tranh, Hạm đội Ban-tích, Hạm đội Bắc và Hạm đội Biển Đen đã được lệnh tăng cường sẵn sàng chiến đấu. Làm sao lại có thể quên được tất cả những chuyện ấy?

Làm sao lại có thể bỏ qua không tính đến toàn bộ công tác to lớn mà đảng và chính phủ đã tiến hành trước lúc chiến tranh, nhằm chuẩn bị cho đất nước và quân đội sẵn sàng đánh trả quân thù? Còn vì thiếu thời gian mà chúng ta không giải quyết được hoàn toàn đầy đủ các nhiệm vụ được đặt ra cho mình, thì đó lại là một vấn đề khác. Chẳng hạn như nhiệm vụ thành lập các quân đoàn cơ giới và các trung đoàn không quân mới, nhiệm vụ trang bị cho các khu vực bố phòng ở các vùng ven biên giới mới v.v..

Như đã từng nói tới, đến tháng Sáu 1941, đất nước chưa có khả năng trang bị đầy đủ vũ khí và phương tiện kỹ thuật mới cho bộ đội, vì vậy không phải tất cả các sư đoàn Liên Xô đều đã được bổ sung đầy đủ và nhiều sư đoàn còn thiếu những trang bị đó, thiếu xe quân sự, phương tiện vận tải, phương tiện thông tin liên lạc. Thêm vào đó, tính năng của các vũ khí và thiết bị kỹ thuật quân sự cũ lại lạc hậu so với những đòi hỏi của chiến tranh.

Cũng cần chú ý tới một điều là từ lâu kẻ thù đã chuyển toàn bộ nền kinh tế của chúng vào quỹ đạo chiến tranh. Chúng sử dụng toàn bộ tiềm lực công nghiệp – quân sự hầu như của cả Tây Âu và về mặt này, đã giành được ưu thế đáng kể so với đất nước xô-viết. Quân đội của chúng đã được động viên toàn bộ và sẵn sàng hành động. Vì vậy, tỷ lệ vũ khí mới và thiết bị kỹ thuật mới cũng như trình độ cơ giới hoá của quân Đức cao hơn của chúng ta.

Cuối cùng, cần phải nói rằng nước Đức phát-xít đã lợi dụng được yếu tố bất ngờ. Kẻ xâm lược ấy đã tấn công Liên Xô sau khi đã phá mọi kỷ lục về sự phản trắc. Tình thế lại càng trở nên phức tạp hơn, do chỗ không kịp thời ban bố lệnh hoàn toàn sẵn sàng chiến đấu, thống nhất cho toàn thể các Lực lượng vũ trang. Vì thế nên bộ đội (trừ hải quân và các binh đoàn thuộc quân khu Ô-đét-xa) không kịp chiếm lĩnh các trận địa phòng thủ đã dự kiến trong kế hoạch, không kịp đổi sân bay, đưa máy bay rời khỏi trường bay, thực hiện những biện pháp cần thiết khác trong hoàn cảnh đó.

Chúng ta cũng chớ quên những sai lầm trong việc xác định phương thức hoạt động và lực lượng đột kích ban đầu của kẻ địch. Bộ tư lệnh tối cao Liên Xô cho rằng kẻ địch sẽ không lập tức dốc toàn bộ lực lượng trên khắp mặt trận Xô – Đức và điều đó cho phép chúng ta kiềm chế chúng khi sử dụng cái gọi là quân yểm trợ. Song chiến tranh lại không tiến triển như vậy: bọn xâm lược Hít-le đã tung ra các binh đoàn xung kích trên suốt độ dài biên giới phía Tây nước ta. Chúng ta không thể đẩy lùi cuộc tấn công đó bằng những lực lượng đóng ở vùng biên giới vốn chưa hoàn toàn sẵn sàng hành động nhanh chóng.

Những dự tính sai lầm và những sơ suất trong việc chuẩn bị cho bộ đội sẵn sàng đánh lui đợt tấn công đầu tiên của bọn xâm lược phát-xít Đức, rõ ràng đã khiến cho tình hình của ta thêm gay go hơn khi bước vào cuộc đọ sức với bộ máy quân phiệt khổng lồ của nước Đức Hít-le có chỗ dựa là các nguồn dự trữ kinh tế và quân sự của nhiều nước châu Âu. Nhưng dù có như vậy đi nữa, quân đội phát-xít cũng đã lập tức bắt đầu phải chịu nhiều tổn thất to lớn và chỉ nửa năm sau, các quân đoàn và sư đoàn tinh nhuệ của chúng đã bị đánh tan tác ở gần Mát-xcơ-va. Từ đây bắt đầu một bước ngoặt cơ bản trong quá trình chiến tranh.

Những bài học lịch sử là như thế đó và ta phải luôn luôn nhớ đến.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx