sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Chương 3: Dông Tố Ở Miền Nam

Mặt trận ổn định. Triển vọng sẽ ra sao?- Những dự tính sai lầm. – Các sụ kiện ở Crưm. – Mức độ trách nhiệm. – Tấn công ở Khác-cốp. – Những đánh giá trái ngược nhau. – Hết tai họa này đến tai họa khác. – “Chiến đấu không phải bằng số lượng, mà bằng kỹ năng”. – Mệnh lệnh chộp được. – Trên hướng Vô-rô-ne-giơ. – Mây đen kéo đến dày đặc. – Phương diện quân mới: Xta-lin-grát.

Năm 1942, chúng tôi, những cán bộ của Bộ tổng tham mưu, không tổ chức đón mừng năm mới nhưng lòng ai cũng vui như tết phấn khởi trước những thắng lợi của bộ đội chúng ta ở Mát-xcơ-va. Ngày 23 tháng Hai, tinh thần mọi người còn lên cao hơn nữa. Nguyên nhân là vì có bản nhật lệnh của bộ trưởng Bộ dân ủy quốc phòng nhân dịp kỷ niệm 24 năm ngày thành lập Hồng quân. Trong bản nhật lệnh đó, I. V. Xta-lin tuyên bố trước toàn dân rằng, ngày Hồng quân đánh tan quân địch cũng chẳng còn bao xa, và trên toàn thể đất nước xô-viết, những lá cờ đỏ lại thắng lợi tung bay.

Song đến mùa xuân, mặt trận đã bình an và tới ngày 1 tháng Tư thì chạy dài từ Lê-nin-grát dọc theo sông Vôn-khôp, xếvề phía Đông Xta-rai-a Ru-xa ôm quanh lấy khu vực Đê-mi-an-xcơ ở phía Đông, kéo xa nữa tới Khôn-mơ, Vê-li-giơ, Đê-i-đốp, Bê-lưi, tạo nên chỗ lồi Rơ-giép – Vi-a-dơ-ma do địch còn chiếm giữ, bao gồm Ki-rôp, Xu-khi-ni-tsi, Be-lép, tiến sát tới Mơ-xen-xcơ, đểlại Nô-vô-xin, Tim, Vôn-tran-xcơ cho phía chúng ta, tạo nên chỗ lồi sang phía địch trong khu vực Ba-la-cơ-lây-a, Lô-dô-vai-a, Ba-rơ-ven-cô-vô, chạy qua Cra-xnưi Li-man, Đê-ban-xe-vô, Quy-bư-se-vô và trườn xuống phía Nam theo dọc sông Mi-út.

Bộ tổng tham mưu đã được tổ chức lại. Các tư lệnh phương diện quân và tập đoàn quân, hoặc cùng lắm thì các tham mưu trưởng liên binh đoàn, được chỉ định về làm chủ nhiệm khu vực mặt trận. Người ta cho rằng: các đồng chí ấy, do uy tín và kinh nghiệm của mình, sẽ biết tác động tốt hơn nữa đến các sự kiện và giữ được mối liên hệ linh hoạt hơn với bộ đội đang chiến đấu. Các đồng chí ấy được quyền trực tiếp đến báo cáo với Đại bản doanh. Còn trước đây, các chủ nhiệm khu vực mặt trận không được đến báo cáo trực tiếp ở Đại bản doanh.

It lâu sau chúng tôi thấy rõ được là: vì có sự cải tổ đó nên đã mất quá nhiều thời gian vô ích. Thời hạn đưa những số liệu và các tình huống lên Tổng tham mưu trưởng bị kéo dài. Trước đây, chúng tôi thường trực tiếp nhận các tin tức qua điện báo, ghi ngay những tình huống đó vào bản đồ, rồi lập tức báo cáo lên Tổng tham mưu trưởng. Còn bây giờ thì lại xuất hiện một khâu trung gian: các ông “phó”, tức là những cựu chủ nhiệm khu vực mặt trận, nhận tin tức qua điện báo, xong báo cáo lên đồng chí chủ nhiệm khu vực mặt trận hiện thời. Chủ nhiệm khu vực mặt trận nghiên cứu tin tức ấy xong rồi mới đi báo cáo lên Tổng tham mưu trưởng.

Cách làm việc nhiều cấp như vậy tất nhiên không nâng cao mà làm giảm sút tính năng động trong công tác. Người ta chờ đợi ở những chủ nhiệm khu vực mặt trận mới những kết luận và đề nghị đặc biệt nào đó về tình hình mà mãi vẫn chẳng thấy có. Theo tôi các đồng chí ấy chỉ tới Đại bản doanh báo cáo vẻn vẹn được có một lần, có thể là hai lần. Sau này, người ta đã thừa nhận rằng chế độ công tác cũ tốt hơn và chừng một tháng sau lại làm việc theo nền nếp cũ.

Gánh nặng chủ yếu của ban lãnh đạo Bộ tổng tham mưu đè nặng trên đôi vai đồng chí Bô-rít Mi-khai-lô-vích Sa-pô-sni-côp. Tuy bị ốm nặng, đồng chí vẫn hoàn thành được mọi công việc cần thiết ở Bộ tổng tham mưu và thêm vào đó còn giữ một vai trò không nhỏ trong Đại bản doanh. Lòng chúng tôi đau thắt lại mỗi khi nhìn thấy thủ trưởng của mình ho sù sụ mà vẫn phải ngồi còng lưng làm việc nhưng không bao giờ ta thán một lời nào cả. Hiển nhiên là sức chịu đựng và sự nhã nhặn của đồng chí đã chiến thắng.

Người trợ thủ số 1 của B. M. Sa-pô-sni-côp trên danh nghĩa và về thực chất là thượng tướng A. M. Va-xi-lép-xki, cục trưởng Cục tác chiến của chúng tôi, một con người cũng giống như Sa-pô-sni-côp: hiểu biết, kiên nghị, tốt bụng.

Cuộc cải tổ Bộ tổng tham mưu không liên quan gì đến những người thực hiện bình thường như chúng tôi – chúng tôi vẫn tiếp tục công việc của mình suốt ngày đêm, vẫn đều đặn tập hợp, phân tích các số liệu về tình hình, trình bày với thủ trưởng trực tiếp những kết luận và đề nghị của mình, tiến hành mọi việc dự tính, thông tin và các công việc khác. Chiến tranh đòi hỏi phải cống hiến toàn bộ sức lực và không để ai một phút nghỉ ngơi.

Nhưng chúng tôi không chỉ bị cuốn hút vào những công việc trước mắt. Tất cả các cán bộ Bộ tổng tham mưu đều không chỉ sống bằng âm hưởng của cuộc phản công ở Mát-xcơ-va, mà còn bằng sự chờ mong những biến đổi sắp tới. Có lẽ do tính chất của nhiệm vụ và do thiếu chi tiết kèm theo nó cho nên chỉ có các cán bộ Bộ tổng tham mưu chúng tôi mới hiểu rằng “trên” đang chuẩn bị mở một chiến dịch mới.

Những vấn đề hết sức quan trọng trong việc vạch kế hoạch chiến lược thì được thảo luận sơ bộ ở Đại bản doanh, trong phạm vi hẹp gồm các đồng chí I. V. Xta-lin, B. M. Sa-pô-sni-côp, Gh. C. Giu-cốp, A. M. Va-xi-lép-xki, N. Gh. Cu-dơ-nét-xốp. Thường lúc đầu thì đề ra giải pháp có tính nguyên tắc sau đó Ban chấp hành trung ương Đảng hoặc Hội đồng quốc phòng Nhà nước xem xét.

Chỉ sau đây thì Bộ tổng tham mưu mới bắt đầu vạch kế hoạch chi tiết và chuẩn bị chiến dịch hoặc hoạt động chiến lược. Đến giai đoạn này, có các tư lệnh phương diện quân và các chuyên gia tham gia vào việc vạch kế hoạch chiến lược, đó là chủ nhiệm hậu cần A. V. Khơ-ru-li-ôp, tư lệnh pháo binh Hồng quân N. N. Vô-rô-nốp, tư lệnh không quân A. A. Nô-vi-cốp, tư lệnh bộ đội thiết giáp I-a. N. Phê-đô-ren-cô và các đồng chí khác.

Đầu tháng Ba 1942, Đại bản doanh phân tích triển vọng triển khai các hoạt động tác chiến thành chiến dịch mùa hè. Cần nói rằng ngay từ đầu năm, I. V. Xta-lin đã ra lệnh chuẩn bị thảo bản chỉ thị đề ngày 10 tháng Giêng 1942 mà tất cả các tướng lĩnh lúc bấy giờ đều biết và đã tự mình đề ra những điều khoản cơ bản của bản chỉ thị đó. Trong chỉ thị này, ý đồ của kẻ địch và những nhiệm vụ của ta được đánh giá như sau:

“Sau khi Hồng quân đã làm tiêu hao nặng lực lượng quân đội phát-xít Đức thì đã chuyển sang phản công và đuổi bọn xâm lược Đức về phía Tây”.

Để ngăn chặn cuộc tiến công của ta, quân Đức đã chuyển sang phòng ngự và bắt đầu lập các tuyến phòng thủ – xây dựng chiến hào, hàng rào chướng ngại, công sự dã chiến. Quân Đức hòng bằng cách đó ngăn chặn cuộc tấn công của ta cho tới mùa xuân, để sau đó tập trung lực lượng và lại chuyển sang tấn công Hồng quân. Vì vậy, bọn Đức muốn tranh thủ thời gian và muốn có một khoảng thời gian tạm ngừng chiến.

Nhiệm vụ của chúng ta là không để cho bọn Đức có được khoảng thời gian đó, không ngừng đuổi chúng về phía Tây, buộc chúng phải tiêu hao lực lượng dự bị của chúng ngay trước mùa xuân; khi đó chúng ta sẽ có những lực lượng dự bị to lớn mới, còn quân Đức thì sẽ không còn lực lượng dự bị nữa, và như vậy sẽ đảm bảo hoàn toàn diệt tan quân đội Hít-le vào năm 1942”.

Khi mùa xuân đến, chắc lúc đó người ta đã tự hỏi không biết những luận điểm đó của Đại bản doanh đúng ở mức nào. Để trả lời cho câu hỏi đó, Bộ tông tham mưu không nhắm mắt bỏ qua thực tế. Và thực tế đã cho thấy rằng tình hình mặt trận rất phức tạp và không ổn định, còn khác xa với điều mong muốn của chúng ta.

Hiển nhiên là quân địch đã bị thất bại nặng nề ở gần Mát-xcơ-va và trong quá trình tồng tiến công của Quân đội Liên Xô vào mùa đông năm 1942. Song hiện thời cuộc tấn công của chúng ta ngày một giảm sút vì không có đủ lực lượng và phương tiện cần thiết để triển khai cuộc tấn công ấy. Kẻ địch hoàn toàn chưa bị đập tan. Hơn nữa, chúng đã củng cố trận tuyến và lợi dụng thời kỳ chiến sự tương đối tạm yên để bổ sung quân cho các đơn vị bị thiệt hại, vũ khí và các trang bị kỹ thuật quân sự.

Dĩ nhiên, thời gian cũng có lợi cho ta: nền kinh tế thời chiến của Liên Xô được ổn định và cung cấp cho tiền tuyến mọi trang bị và phương tiện kỹ thuật quân sự cần thiết. Tinh thần chiến đấu của các chiến sĩ xô-viết được tăng cường, góp phần to lớn vào tình hình đó là những thắng lợi ở Mát-xcơ- va, Ti-khơ-vin và Rô-xtôp. Con người được tôi luyện, tích lũy được kinh nghiệm chiến đấu, đánh địch giỏi hơn. Các cán bộ chỉ huy thì hoàn thiện được kỹ thuật điều khiển trận đánh của mình. Ở vùng sau lưng quân phát-xít Đức, chiến tranh du kích trở nên quyết liệt hơn.

Bộ tổng tham mưu không nghi ngờ rằng bộ chỉ huy Hít-le hiểu rất rõ việc kéo dài chiến tranh sẽ là một nguy cơ đối với chúng như thế nào. Vì vậy chúng cố sức không để cho Liên Xô có điều kiện đưa hoạt động của nền kinh tế thời chiến của mình đi vào ổn định, ra sức phá hoại việc chuẩn bị lực lượng dự trữ của ta. Ngoài ra, nước Đức còn cần củng cố vị trí quốc tế của nó, lôi kéo Nhật Bản, Thổ Nhĩ Kỳ và có thể là một số nước khác đứng về phía mình trong cuộc chiến tranh, duy trì ảnh hưởng đối với các chư hầu.

Người ta cho rằng có lẽ tắt cả những điều đó đã khiến cho bộ máy lãnh đạo quân sự phát-xít ráo riết hoạt động. Song không rõ là kẻ địch sẽ bắt đầu tấn công ở đâu, khi nào và với những lực lượng ra sao. Nhưng Bộ tổng tham mưu tin chắc rằng chúng không thể tấn công được cùng một lúc trên suốt độ dài mặt trận phía Đông: người ta cho rằng nước Đức Hít-le không có lực lượng cũng như phương tiện để làm việc đó. Hơn nữa, lực lượng vũ trang phát-xít Đức đã phải trả giá đắt cho kinh nghiệm của chúng hồi năm 1941, khi quân đội của chúng muốn xông lên trên khắp mọi hướng. Chúng không thể nào không tính đến kinh nghiệm đó, quân phát-xít Đức chắc sẽ chỉ ráo riết hoạt động trên một hướng chiến lược đặc biệt quan trọng nào đó mà thôi.

Khi đánh giá tầm quan trọng của các khu vực thuộc mặt trận chiến lược, cái đập vào mắt trước tiên là chỗ lồi Rơ-giép – Vi-a-dơ-ma. Nó giáp sát Mát-xcơ-va và do các đơn vị của cụm tập đoàn quân mạnh nhất của quân địch – Cụm tập đoàn quân “trung tâm” – chiếm giữ (cụm tập đoàn quân này có hơn 70 sư đoàn, trong đó có nhiều sư đoàn xe tăng và cơ giới). Khu vực hoạt động của nó trải dài từ Vê-li-ki-ê Lu-ki cho tới Nô-vô-xin.

Mặc dù sau lưng cụm tập đoàn quân địch này, quá về phía Tây – Nam Vi-a-dơ-ma, các đơn vị của các tướng P. A. Bê-lap Và M. G. Ê-phrê-mốp vẫn tiếp tục chiến đấu anh dũng trong điều kiện hoàn toàn bị bao vây vô cùng gay go, song chỗ lồi Rơ-giép dường như vẫn là nơi quân địch định thọc sâu vào Mát-xcơ-va.

Cần phải nói rằng ban lãnh đạo chiến lược của Liên Xô, đứng đầu là đồng chí I. V. Xta-lin, tin chắc rằng sớm muộn kẻ địch cũng sẽ lại đánh vào Mát-xcơ-va. Lòng tin đó của Tổng tư lệnh tối cao không chỉ dựa trên nguy cơ đang đe dọa từ chỗ lồi Rơ-giép. Chúng ta cũng nhận được những tin tức từ giới tuyến cho biết rằng bộ chỉ huy Hít-le hiện vẫn chưa từ bỏ ý đồ đánh chiếm thủ đô của chúng ta.

I. V. Xta-lin thừa nhận rằng địch có thể có nhiều phương án hoạt động khác nhau, song đồng chí vẫn cho rằng dù sao thì mục tiêu hoạt động của quân Đức và hướng tấn công chính của chúng vẫn sẽ là Mát-xcơ-va. Các thành viên khác của Đại bản doanh, Bộ tổng tham mưu và phần lớn các tư lệnh phương diện quân cũng đều có ý kiến như vậy. Xuất phát từ tình hình đó, người ta cho rằng số phận của chiến dịch mùa hè năm 1942, một chiến dịch quy định tiến trình tiếp sau của cuộc chiến tranh, sẽ được quyết định ở Mát-xcơ-va. Vì vậy, hướng trung tâm – hướng Mát-xcơ-va – sẽ trở thành hướng chính, còn các hướng chiến lược khác thì sẽ chỉ đóng một vai trò thứ yếu trong giai đoạn này của cuộc chiến tranh.

Như sau này đã cho thấy, Đại bản doanh và Bộ tổng tham mưu đã dự đoán lầm. Bộ chỉ huy Hít-le giao nhiệm vụ cho các lực lượng vũ trang của chúng là: ở khu vực mặt trận trung tâm thì duy trì tình hình, ở phía Bắc thì chiếm Lê-nin-grát và bắt liên lạc trên bộ với quân Phần Lan, còn ở sườn mặt trận phía Nam thì đột phá vào Cáp-ca-dơ. Để cụ thể hóa nhiệm vụ đó, đại bản doanh Hít-le trong chỉ thị số 41 đề ngày 5 tháng Tư 1942 có nêu rõ: “…trước hết phải tập trung mọi lực lượng hiện có để tiến hành chiến dịch chủ yếu ở khu vực phía Nam (do tôi gạch dưới. – X. S.) nhằm tiêu diệt địch ở phía Tây sông Đôn, để sau đó chiếm các vùng dầu mỏ ở Cáp-ca-dơ và vượt qua dãy núi Cáp-ca-dơ”.

Ý đồ đó thể hiện lợi ích của các tổ chức độc quyền Đức, khát vọng của chúng muốn chiếm các vùng công nghiệp và nguyên liệu giàu có nhất của đất nước xô-viết, đột nhập bằng đường bộ vào Cận Đông. Các tướng lĩnh Hít-le có mưu đồ cắt đứt liên lạc giữa ta với các đồng minh qua I-ran và xúi giục Thổ Nhĩ Kỳ tham chiến đứng về phía nước Đức phát-xít

Lẽ dĩ nhiên là do Đại bản doanh dự đoán sai mũi tấn công chủ yếu của quân địch cho nên cũng coi nhẹ khu vực mặt trận Nam. ở đây không bò trí các lực lượng dự bị của Đại bản doanh, phương tiện cơ bản để ban lãnh đạo chiến lược tác động tới tiến trình các chiến dịch quan trọng. Người ta cũng không nghiên cứu các phương án hành động phòng trường hợp tình huống thay đổi đột ngột. Về phần mình, do đánh giá không đúng mức vai trò của khu vực mặt trận Nam nên chúng ta cũng có thái độ dễ dãi đối với những thiếu sót của bộ tư lệnh phương diện quân Tây – Nam và phần nào của cả phương diện quân Nam nữa.

Mùa xuân năm ấy, Đại bản doanh xem xét các ý kiến về hoạt động của các Lực lượng vũ trang Liên Xô vào mùa hè năm 1942. Các ý kiến hoàn toàn không trùng hợp nhau. Mọi người đều cho rằng các lực lượng của ta hiện thời chưa sẵn sàng để mở cuộc tấn công quyết định, các lực lượng dự bị cần thiết mới đang được thành lập.

B. M. Sa-pô-sni-cốp và Gh. C. Giu-cốp kiên quyết chủ trương phòng thủ chiến lược tạm thời. Hai đồng chí cho rằng không nên tiến hành tấn công trên quy mô rộng lớn. Gh. C. Giu-côp nói rõ thêm rằng: theo đồng chí thì đầu mùa hè cần phải tiến hành một chiến dịch ở khu vực mặt trận trung tâm nhằm diệt tan cánh quân địch Rơ-giép – Vi-a-dơ-ma và thanh toán chỗ lồi nguy hiểm Rơ-giép.

I. V. Xta-lin đồng ý rằng đôi khi có lúc phải phòng thủ. Song đồng chí cũng nói rằng không được thụ động ngồi không mà phải phòng thủ một cách tích cực nhất. Đồng chí yêu cầu: đồng thời với việc phòng thủ chiến lược, phải tiến hành một loạt hoạt động tấn công bộ phận để củng cố những thắng lợi đã giành được hồi mùa đông, cải thiện tình hình chiến dịch chiến lược của bộ đội Liên Xô, phá tan việc chuẩn bị tấn công của kẻ địch và nhờ đó nắm chắc quyền chủ động chiến lược trong tay chúng ta.

Gh. C. Giu-cốp không đồng ý với quan điểm đó, đồng chí cho rằng những hoạt động tấn công mà Tổng tư lệnh tối cao đề nghị tiến hành sẽ nuốt hết những lực lượng dự bị của ta và việc chuẩn bị cho cuộc tổng tiến công sau đó sẽ trở nên vô cùng phức tạp. Song vì tiếng nói quyết định thuộc về Tổng tư lệnh tối cao cho nên mọi người cũng đồng ý với đồng chí ấy. Các hoạt động tấn công được dự định tiến hành ở Crưm, Lê-nin-grát và Đê-mi-an-xcơ, ở các hướng Xmô-len-xcơ và Lơ-gôp – Cuốc-xcơ.

Hoạt động tấn công phải được triển khai trên một số lớn khu vực, điều đó có nguy cơ gây ra tai họa: các đơn vị của ta bị thu hút vào những trận đánh mà kết quả còn rất đáng ngờ, lực lượng vốn đã ít ỏi lại bị phân tán. Góp phần vào biến chuyển bất lợi của các sự kiện lại có thêm những đề nghị khẩn khoản của Hội đồng quân sự khu vực mặt trận Tây – Nam xin mở một cuộc tấn công lớn ở gần Khác-côp bằng những lực lượng của các phương diện quân Bri-an-xcơ, Tây-nam và Nam, mà bộ tư lệnh khu vực mặt trận xin “lấy đầu ra để đảm bảo” cho thắng lợi của cuộc tấn công đó.

Hội đồng quân sự khu vực mặt trận Tây – Nam trình bày những đề nghị của mình trong một văn bản được gọi là “báo cáo tình hình khu vực mặt trận Tây – Nam cho tới giữa tháng Ba và những triển vọng tác chiến vào thời kỳ xuân – hè 1942”. Bản báo cáo được soạn thảo ngày 22 tháng Ba và viết tay làm hai bản.

Trong bản báo cáo này, tình hình địch được đánh giá như sau: “quân địch ráo riết hoạt động khiến cho bộ đội ta lâm vào tình trạng nếu không có thêm những lực lượng dự trữ chiến lược lớn và không được bổ sung thêm nhiều quân và một phần phương tiện vật chất thì không thể tiến hành những trận đánh nhằm mục đích quyết định được”.

Người ta cho rằng mặc dù bị thất bại ở gần Mát-xcơ-va, đến mùa xuân kẻ địch vẫn sẽ lại cố tìm cách đánh chiếm thủ đô Liên Xô. Người ta dự tính mũi tấn công chính của chúng sẽ bắt đầu từ các vùng Bri-an-xcơ và Ô-ri-ôn vòng qua phía Nam và phía Đông – Nam Mát-xcơ-va để ra sông Vôn-ga thuộc vùng Goóc-ki, bằng cách đó cô lập Mát-xcơ-va với Pô-vôn-giê và U-ran rồi sau đó sẽ chiếm thủ đô.

Ở phía Nam, bộ tư lệnh khu vực mặt trận Tây – Nam cho rằng rất có thể cánh quân địch ở đây, mặc dù rất lớn nhưng chỉ là thứ yếu, sẽ tấn công với nhiệm vụ chiếm vùng hạ lưu sông Đôn và xâm nhập vào Cáp-ca-dơ tới các nguồn dầu mỏ của ta. Một mũi tấn công phụ nữa mà người ta cho rằng có thể xảy ra, là từ Cuốc-xcơ vào Vô-rô-ne-giơ.

Bản báo cáo có dự tính lực lượng địch có thể có ở dải khu vực mặt trận Tây – Nam vào đầu thời kỳ chúng ráo riết hoạt động. Lực lượng đó rất lớn: 102 sư đoàn. trong đó có 9 sư đoàn xe tăng, 7 sư đoàn cơ giới, 3 sư đoàn SS, trên 3.100 xe tăng. gần 3.000 pháo, khoảng 1.000 máy bay chiến đấu.

Bản báo cáo có nói: “Mặc dù vậy, trong thời kỳ chiến cục xuân – hè. bộ đội khu vực mặt trận Tây – Nam vẫn sẽ cố gắng đạt được mục tiêu chiến lược cơ bản là đập tan các lực lượng phản kháng của kẻ địch và tiến tới vùng trung lưu sông Đni-ép-rơ (Gô-men, Ki-ép, Tréc-ca-xư) và sau nữa tới mặt trận Tréc-ca-xư, Pe-rvô-mai-xcơ, Ni-cô-la-ép” (do tôi gạch dưới. -X. S.).

Tiện thể tôi xin lưu ý rằng mãi đến mùa thu năm 1943, quân đội Liên Xô mới đạt được mục tiêu này. Ngoài ra, không thể nào không lưu ý thêm rằng cánh quân địch ở đây có một số lượng đông ghê gớm: 102 sư đoàn!

Song trên giấy tờ thì mọi việc có vẻ trôi chảy, kể cả kế hoạch hành động của bộ đội ta, mặc dù bộ tư lệnh khu vực mặt trận Tây – Nam có yêu cầu bổ sung thêm quân, vũ khí và các phương tiện vật chất. Tuy vậy, những kiến giải của họ vẫn gây nên sự hoài nghi trong Bộ tổng tham mưu và Đại bản doanh.

Đồng thời với việc soạn thảo kế hoạch tác chiến mùa xuân và mùa hè, Bộ tổng tham mưu còn được lệnh tiến hành những tính toán cần thiết có liên quan tới những đề nghị của bộ tư lệnh khu vực mặt trận Tây – Nam. Sự tính toán cho thấy rằng để thực hiện chiến dịch ở Khác-côp thì cần phải có những lực lượng và phương tiện dự trữ to lớn mà đất nước chưa có được.

Những dự tính được trình lên Tổng tư lệnh tối cao, đồng chí Tổng tư lệnh đồng ý với những dự tính đó và đích thân đề nghị tổng tư lệnh khu vực mặt trận là X. C. Ti-mô-sen-cô không nên tiến hành những chiến dịch có quy mô lớn như vậy và nên vạch kế hoạch mới.

Bất giác có thể nảy sinh ra câu hỏi: lẽ nào sau khi quân Hít-le đã tập trung lại rồi mà đến mùa xuân vẫn chưa thể rút ra được kết luận về hướng tấn công chủ yếu của chúng vào phía Nam ư? Lẽ ra phải như vậy? Nhưng chắc là I. V. Xta-lin cho rằng phần lớn cánh quân địch đó vẫn sẽ được tung vào Mát-xcơ-va. Và nếu như chiến dịch do X. C. Ti-mô-sen-cô đề xuất có thể làm tê liệt được các lực lượng của bọn Hít-le, làm suy yếu cuộc tấn công của chúng vào Mát-xcơ-va, thì vì lẽ gì mà lại không tiến hành?

Ngày 30 tháng Ba, kế hoạch mới được vạch xong và qua A. M. Va-xi-lép-xki chuyển lên cho I. V. Xta-lin. Đồng chí Tổng tư lệnh tối cao được báo cáo như sau:

“Theo chỉ thị của đích thân đồng chí, chúng tôi đã vạch một kế hoạch hành động chung cho các đơn vị bộ đội khu vực mặt trận Tây – Nam từ tháng Tư đến tháng Năm 1942.

1. Mục tiêu hoạt động cơ bản của các đơn vị bộ đội khu vực mặt trận Tây – Nam thời kỳ này là chiếm thành phô Khác-cốp sau đó tập hợp lại các đơn vị, từ phía Đông Bắc đánh chiếm Đni-ép-rô-pê-tơ-rốp-xcơ và Xi-nen-nhi-cô-vô, do đó làm cho kẻ địch bị mất hết những bến quan trọng nhất để vượt qua sông Đni-ép-rơ và mất đầu mối đường sắt Xi-nen-nhi-cô-vô. Trên độ dài mặt trận còn lại, các đơn vị bộ đội khu vực mặt trận Tây – Nam sẽ phòng thủ vững chắc các tuyến hiện đang chiếm giữ”.

Các đồng chí đề nghị tiến hành tấn công chỉ dùng các lực lượng phương diện quân Tây – Nam là phương diện quân cũng do X. C. Ti-mô-sen-cô chỉ huy.

Tiếp đó, là đến việc dự tính những lực lượng và phương tiện cần thiết đề đánh chiếm Khác-côp, trình bày ý đồ chiến dịch, những suy tính về việc tiến hành chiến dịch, về việc tập trung quân. Dự định ngày 20 tháng Tư sẽ là ngày mở đầu cuộc tấn công.

Khi xem xét kế hoạch đó, I. V. Xta-lin đã chấp thuận cái chiến dịch thoạt trông có vẻ hấp dẫn ấy, mặc dù khi đó cũng ngừa trước X. C. Ti-mô-sen-cô rằng chớ có trông mong vào những lực lượng dự bị của Đại bản doanh. Những mối hoài nghi của Bộ tổng tham mưu được “giải quyết” bởi mệnh lệnh: “…coi chiến dịch đó là công việc nội bộ của khu vực mặt trận và không được can thiệp vào bất cứ vấn đề gì của chiến dịch”.

Theo quyết định của I. V. Xta-lin, khu vực mặt trận Tây – Nam còn vạch ra một “Kế hoạch hành động của các đơn vị bộ đội phương diện quân Tây – Nam trong tháng Tư – tháng Năm 1942” đề ngày 10 tháng Tư 1942.

Trong kế hoạch đó có ghi: “sau đây là mục tiêu của từng phương diện quân: phương diện quân Tây – Nam thì diệt tan cụm quân địch ở Khác-côp và tiến tới tuyến Ni-ki-tôp-ca, Các-lôp-ca, Bu-dôp-ca để đảm bảo cho các hoạt động tiếp sau của các đơn vị phương diện quân Nam theo hướng Đni- ép-rô-pê-tơ-rôp-xcơ; phương diện quân Nam thì phòng thủ vững chắc các tuyến đang chiếm giữ và yểm trợ cho các hướng Rô-xtốp, Vô-rô-si-lốp-grát và khu vực Bác-ven-cô-vô, Xia-vi-an-xcơ, I-di-um”..

Đó là kế hoạch chiến dịch tiếp sau, một chiến dịch hết sức không thành công đối với chúng ta, mà dưới đây một chút chúng ta sẽ nói đến.

Vào tháng Năm, tại mặt trận Tây – Bắc, chúng ta đã nắm được yết hầu cánh quân địch Đê-mi-an-xcơ. Chúng ta đã dồn chúng vào khu hành lang hẹp và suốt ngày đêm bắt chúng phải co hẹp lại. Địch chống cự kịch liệt. Chiến dịch này đã thu hút những lực lượng lớn của ta, song tuy vậy địch vẫn giữ được trận địa của chúng mặc dù bị thiệt hại nặng nề.

Bắt đầu từ tháng Năm lại có những sự kiện làm tình hình trên mặt trận Xô – Đức thay đổi, không có lợi cho chúng ta. Những sự kiện này tôi nhớ rất rõ, vì chủ yếu đã diễn ra ở khu vực mặt trận tôi tham gia phụ trách. Trước hết, phương diện quân Crưm bị tổn thất nặng. Phương diện quân này được thành lập đầu năm 1942 nhằm giải phóng Crưm và tới tháng Năm thì phòng vệ bán đảo Kéc-tsơ ở chỗ hẹp nhất của nó trên những trận địa gọi là Ác – Mô-nai. Trong biên chế phương diện quân có các tập đoàn quân 44, 51, 47 và những phương tiện tăng cường. Tư lệnh phương diện quân là trung tướng Đ. T. Cô-dơ-lốp, ủy viên Hội đồng quân sự là chính ủy sư đoàn Ph. A. Sa-ma-nin, tham mưu trưởng phương diện quân là thiếu tướng Ph. I. Tôn-bu-khin.

Ngay từ cuối tháng Giêng, Đại bản doanh đã cử đại diện của mình là L. D. Mê-khơ-li-xơ xuống đó. Ở Bộ tổng tham mưu thì có thiếu tướng P. P. Vê-tsơ-nưi cùng đi với đồng chí ấy. Hai đồng chí có nhiệm vụ giúp bộ tư lệnh phương diện quân chuẩn bị và tiến hành chiến dịch giải tỏa Xê-va-xtô-pôn. Theo thói quen, Mê-khơ-li-xơ chưa giúp gì đã bắt đầu xáo trộn các cán bộ lãnh đạo. Trước hết đồng chí ấy thay tham mưu trưởng phương diện quân Tôn-bu-khin bằng thiếu tướng Vê-tsơ-nư.

Tháng Hai – tháng Tư, được sự chi viện của Hạm đội Biển Đen, phương diện quân Crưm đã ba lần tìm cách chọc thủng tuyến phòng ngự của địch nhưng đều không thành công mà lại bị buộc phải chuyển sang phòng ngự. Trong khi đó thì việc bố trí chiến dịch của phương diện quân lại không đáp ứng được nhiệm vụ phòng ngự. Các binh đoàn vẫn bố trí theo đội hình tiến công.

Sườn trái tiếp giáp với Biển Đen bị yếu, Tư lệnh bộ đội giải thích tình hình đó như sau: phương diện quân nhất định sẽ tiến công sau khi đã cải thiện được đôi chút các trận địa xuất phát của mình. Nhưng cuộc tấn công cứ bị hoãn lại mãi, còn tổ chức phòng ngự thì vẫn không được củng cố mặc dù đã có chỉ thị của Bộ tổng tham mưu. Ấy thế mà Mê-khơ-li-xơ lại chỉ đi tranh luận vụn vặt với tư lệnh phương diện quân.

Còn quân địch thì chuẩn bị tiến công, nhằm hất bộ đội Liên Xô ra khỏi bán đảo Kéc-tsơ, để rồi tập trung toàn bộ lực lương đột phá Xê-va-xtô-pôn đang anh dũng phòng ngự. Chúng đã xác định đúng chỗ yếu bên sườn phía ven biển của tập đoàn quân 44. Chúng sử dụng vào đây một lực lượng xe tăng và không quân rất lớn và chuẩn bị để đổ bộ từ biên lên. Việc đột phá tuyến phòng ngự của chúng ta tại đây, việc tiếp tục phát triển tiến công lên phía Bắc và Đông – Bắc cho phép quân thù tiến vào phía sau lưng các tập đoàn quân của phương diện quân Crưm.

Việc quân Đức chuẩn bị tiến công, chúng ta có biết. Trinh sát của phương diện quân còn xác định đúng được cả ngày quân địch chuyển sang hành động tích cực và đã thông báo cho bộ đội biết trước lúc địch khởi sự. Song, cả đại diện Đại bản doanh lẫn tư lệnh phương diện quân đều không áp dụng những biện pháp thích đáng để đẩy lùi cuộc tiến công ấy.

Rồi ngày 8 tháng Năm, quân Đức đột kích vào khâu yếu ven biển của phương diện quân, chọc thủng trận địa của ta và nhanh chóng phát huy thắng lợi. Tuyến phòng ngự của phương diện quân Crưm không có lực lượng dự bị trong tung thâm nên bị rối loạn, chỉ huy không điều khiển được bộ đội. Sau mười hai ngày tác chiến trong những điều kiện như vậy, phương diện quân Crưm mặc dù chiến đấu rất anh dũng nhưng bị tổn thất rắt nặng. Ngày 4 tháng Bảy 1942, thành phố Xê-va-xtô-pôn thất thủ, bán đảo Crưm hoàn toàn rơi vào tay giặc. Chỉ còn đội trú phòng ngầm dưới đất ở khu vực mỏ đá Át-gi-mu-scai là vẫn tiếp tục kháng cự vô song trong lịch sử chiến tranh và quân du kích vẫn chiến đấu trên núi.

Trong cuốn sử biên niên về cuộc Chiến tranh giữ nước vĩ đại còn bảo tồn hai văn kiện đầy ý nghĩa. Một trong hai văn kiện đó là bức điện đề ngày 8 tháng Năm 1942 của L. D. Mê-khơ-li-xơ gửi Tổng tư lệnh tối cao. Mê-khơ-li-xơ viết:

“Bây giờ không phải là lúc than phiền, nhưng tôi phải báo cáo để Đại bản doanh biết về tư lệnh phương diện quân. Ngày 7 tháng Năm, tức trước ngày quân địch tiến công, Cô-dơ-lôp đã triệu tập Hội đồng quân sự để thảo luận dự án chiến dịch sắp tới nhằm đánh chiếm Côi – A-xan. Tôi khuyến nghị: hoãn dự án đó lại và lập tức chỉ thị cho các tập đoàn quân về đợt tiến công sắp tới của quân địch.

Trong bản mệnh lệnh do tư lệnh phương diện quân ký, có một số đoạn hướng dẫn rằng ngày 10-15 tháng Năm địch mới tiến công, nên đề nghị hội đồng cứ làm việc cho tới ngày 10 tháng Năm, và cùng toàn thể cán bộ chủ trì, các tư lệnh binh đoàn, các cơ quan tham mưu nghiên cứu kế hoạch phòng ngự của các tập đoàn quân. Việc này được tiến hành vào lúc toàn bộ tình hình trong ngày vừa qua đã chứng tỏ rằng địch sẽ tiến công từ sáng.

Theo yêu cầu kiên quyết của tôi, việc hướng dẫn sai lầm về thời gian tiến công đã được sửa chữa. Cô-dơ-lốp còn phản đối việc điều lực lượng bổ sung cho khu vực của tập đoàn quân 44”.

Ý đồ muốn trốn trách nhiệm của đại diện Đại bản doanh không giấu nổi Tổng tư lệnh tối cao. Và đây là bức điện thứ hai, bức điện không kém phần đặc sắc, trả lời cho Mê-khơ-li-xơ:

“Đồng chí đã giữ thái độ kỳ dị của một quan sát viên xa lạ không nhận trách nhiệm về các việc làm của phương diện quân Crưm. Thái độ ấy rất tiện lợi, nhưng hoàn toàn thối tha. Trên mặt trận Crưm, đồng chí không phải là một quan sát viên xa lạ, mà là một đại diện của Đại bản doanh có trọng trách, chịu trách nhiệm về mọi thắng lợi và thất bại của mặt trận, và có bổn phận phải sửa chữa tại chỗ những thiếu sót của bộ tư lệnh.

Đồng chí cùng với bộ tư lệnh phải chịu trách nhiệm về việc sơ suất để yếu sườn trái của phương diện quân. Nếu như “toàn bộ tình hình đã chứng tỏ rằng địch sẽ tiến công từ sáng” mà đồng chí lại không áp dụng mọi biện pháp để tổ chức đánh trả, mà chỉ làm có mỗi việc là phê phán một cách thụ động, thì lại càng không hay cho đồng chí. Có nghĩa là đồng chí chưa hiểu rằng, đồng chí được cử đến phương diện quân Crưm không phải với tư cách là ủy viên thanh tra của Nhà nước mà là một đại diện có trọng trách của Đại bản doanh.

Đồng chí đòi hỏi chúng tôi thay thế Cô-dơ-lôp bằng một người nào đó vào loại Hin-đen-bua (Hin-đen-bua: Thống chế Đức, Tổng tư lệnh quân đội Đức trong Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918). Là một trong những người tổ chức can thiệp chống Xô-viết, đàn áp cuộc cách mạng tháng Mười một 1918 ở Đức. Năm 1925, được bầu làm tổng thống nước Đức. Năm 1933, Hin-đen-bua giao cho Hít-le lập chính phủ, chính thức giao quyền cho bọn phát-xít. – ND.). Nhưng đồng chí không thể không biết rằng, chúng ta không có những Hin-đen-bua như thế trong lực lượng dự trữ.

Công việc của đồng chí ở Crưm không phức tạp, đồng chí có thể tự cáng đáng được. Nếu như đồng chí sử dụng máy bay cường kích không phải để làm những việc thứ yếu, mà để chống lại xe tăng và sinh lực địch, thì địch không chọc thủng nổi mặt trận và xe tăng của chúng cũng không tiến qua được, không cần phải là Hin-đen-bua mới hiểu vấn đề đơn giản này, sau khi đã ngồi hai tháng ở mặt trận Crưm”.

Theo chỗ tôi biết thì bức điện này của Tồng tư lệnh tối cao là văn kiện đầu tiên xác định chức trách và mức độ trách nhiệm của đại diện Đại bản doanh. Cũng xin nói thêm rằng Mê-khơ-li-xơ đã lập tức bị nghiêm khắc trừng phạt vì thất bại của phương diện quân Crưm: bị cách chức thứ trưởng Bộ dân ủy quốc phòng, giáng cấp quân hàm và không bao giờ còn được cử xuống bộ đội làm đại diện Đại bản doanh nữa.

Tướng Cô-dơ-lốp và những người có trọng trách khác phạm lỗi để thua trận ở Kéc-tsơ cũng bị cách chức và giáng cấp. Còn các đơn vị còn lại của ba tập đoàn quân đã khó nhọc vượt qua eo biển tới bán đảo Ta-man. Sau đó, tập đoàn quân 47 bố trí phòng ngự ở đây, tập đoàn quân 51 được bổ sung và nhập vào biên chế của phương diện quân Nam, còn tập đoàn quân 44 thì được rút về khu vực Ma-kha-trơ-ca-la để chấn chỉnh lại.

Trên cơ sở khung của phương diện quân Crưm, ngày 20 tháng Năm 1942, đã thành lập phương diện quân Bắc Cáp-ca-dơ, do X. M. Bu-đi-on-nưi chi huy. Về phương diện tác chiến thì toàn bộ Hạm đội Biển Đen và Chi hạm đội A-dôp cũng được đặt dưới quyền Bu-đi-on-nưi. Phương diện quân này có nhiệm vụ phòng ngự bờ Đông biển A-dốp, eo biển Kéc-tsơ và bờ Biển Đen đến La-da-rép-xcai-a.

Lúc đang diễn ra các cuộc chiến đấu trên bán đảo Kéc-tsơ, thì các tập đoàn quân của phương diện quân Tây – Nam đã chuyển sang tiến công ở Khác-cốp. Bộ tổng tham mưu rất lo ngại theo dõi sự phát triển của chiến dịch này. Lúc đầu, tình hình tiến triển thuận lợi và Tổng tư lệnh tối cao chê trách Bộ tổng tham mưu đã có định kiến đối với một chiến dịch rất hay như vậy. Nhưng chẳng bao lâu mọi việc lại thay đổi đột ngột.

Trong khi bộ đội Liên Xô tiến công thì đồng thời, trái với dự đoán của ta, bộ chỉ huy quân Đức cũng bắt đấu mở chiến dịch chủ yếu của chúng trong năm 1942. Muốn đạt được những mục tiêu đã đặt ra, quân đội Đức phải tiêu diệt được phương diện quân Tây – Nam và phương diện quân Nam của ta và trước hết là phải thanh toán chỗ lồi Bác-ven-cô-vô là nơi mà từ đó cụm quân xung kích cánh trái của phương diện quân Tây – Nam tấn công vào Khác-côp. Chỗ lồi đó lại làm phân tán cánh quân phát-xít Đức đang đe dọa vùng Đôn-bát.

Trinh sát mặt trận của ta không nhận thấy cụm quân Clai-xtơ đã chuẩn bị tập trung 11 sư đoàn với một số lượng lớn xe tăng ở khu vực Cra-ma-toóc-xcơ. Vì vậy, tập đoàn quân 9 và toàn bộ phương diện quân Nam đều hoàn toàn bất ngờ trước đợt tấn công từ khu vực đó của địch vào sáng ngày 17 tháng Năm. Do trước đó đã bị suy yếu qua các trận đánh có tính chất địa phương nên tập đoàn quân này không thể đẩy lùi được cuộc tấn công ồ ạt của địch.

Trong một ngày một đêm chiến đấu, quân địch đã tiến thêm được 20 ki-lô-mét, trong khi đó sức tiến công của chúng không giảm sút, mà lại còn tăng thêm – địch ngày càng huy động thêm nhiều cụm quân xe tăng và bộ binh cơ giới. Mối đe dọa sau lưng tập đoàn quân 57 của ta xuất hiện rất nhanh chóng, tập đoàn quân này được bố trí ở phía Tây tập đoàn quân 9 và toàn bộ cánh quân xung kích của phương diện quân Tây – Nam đang tấn công vào Khác-côp từ phía Nam.

Lúc bấy giờ, các sự kiện đó được đánh giá trái ngược nhau. Hội đồng quân sự khu vực mặt trận Tây – Nam không lấy gì làm lo lắng lắm, mặc dù cũng đã trình bày với Đại bản doanh rằng cần phải lấy quân dự bị của Bộ tổng tư lệnh tối cao tăng cường cho phương diện quân Nam. I. V. Xta-lin đồng ý với ý kiến đó và điều một số đơn vị đi tăng cường, nhưng mãi đến ngày đêm thứ ba và thứ tư các đơn vị đó mới vào được vùng chiến sự. Do tình huống thay đổi nên tổng tư lệnh khu vực mặt trận bắt đầu – quả là thong dong – chuẩn bị cho các lực lượng của mình phản công, trong khi đó vẫn không đình chỉ cuộc tấn công vào Khác-cốp vì theo đồng chí ấy thì cuộc tấn công đó vẫn tiến triển bình thường.

Ngược lại, hoạt động của địch đã gây lo lắng trong Bộ tổng tham mưu. Nỗi lo lắng đó hoàn toàn có căn cứ. Các trợ lý tác chiến đều hiểu rằng kết hợp phòng ngự chiến lược với các hoạt động tiến công lớn thật khó biết chừng nào, huống hồ lúc đó ta lại chưa có đủ điều kiện cho một hình thức chiến đấu phức tạp như vậy. Chúng ta còn thiếu trang bị và phương tiện kỹ thuật quân sự, việc tổ chức và chủ yếu là huấn luyện quân dự bị còn chưa theo kịp sự phát triển của tình hình và những nhu cầu của chiến tranh. Tình hình hiện tại cũng rất nguy hiểm cho khu vực mặt trận Nam là nơi mà, như đã từng nói tới, Đại bản doanh hoàn toàn không có quân dự bị.

Tối ngày 17 tháng Năm 1942, A. M. Va-xi-lép-xki liên lạc với người bạn đồng sự cũ của mình ở Bộ tổng tham mưu là tướng A. Ph. A-ni-xốp, tham mưu trưởng tập đoàn quân 57. A-ni-xốp không hề giấu sự thật cay đắng và nói cho A-lech-xan-đrơ Mi-khai-lô-vích hiểu rằng tình hình ở mặt trận họ đang nguy ngập.

Báo cáo của A-ni-xốp khiến cho A. M. Va-xi-lép-xki vô cùng lo lắng, song đồng thời cũng cho phép đồng chí nhận định đúng cuộc tấn công địch đang triển khai là khúc dạo đầu cho những hoạt động có quy mô hết sức to lớn. Bộ chỉ huy Hít-le dự định trước hết thanh toán chỗ lồi Bác-ven-cô-vô rồi sau đó hoàn toàn tiêu diệt các đơn vị bộ đội Liên Xô ở Khác-cốp.

A-lêch-xan-đrơ Mi-khai-lô-vích sở dĩ vô cùng lo lắng cùng là vì còn có những lý do thuần túy cá nhân nữa: đã tròn một tuần kể từ khi đồng chí đảm nhận chức trách tổng tham mưu trưởng, như vậy là hoạt động của đồng chí trên cương vị nhà nước cao quý đó bắt đầu đúng vào lúc tình hình chiến sự cực kỳ bất lợi (do bệnh tình ngày càng nặng nên B. M. Sa-pô-sni-cốp buộc phải chuyển sang một công tác yên tĩnh hơn: chủ nhiệm Học viện quân sự cao cấp).

Các sĩ quan trong Bộ tổng tham mưu chuyên theo dõi khu vực mặt trận Cận Đông và các khu vực mặt trận kề cận khác được điều sang giúp sức cho các đồng chí làm việc với phương diện quân Tây – Nam và phương diện quân Nam.

Chỉ có thể ngăn chặn quân Hít-le bằng các lực lượng hiện có của phương diện quân Nam và phương diện quân Tây – Nam. Cần phải đình chỉ ngay cuộc tấn công vào Khác-cốp để đẩy lùi nguy cơ từ phía Nam. A. M. Va-xi-lép-xki đã lập tức kiến nghị với Tổng tư lệnh tối cao như vậy. I. V. Xta-lin trao đổi ý kiến qua máy Bô-đô với Hội đồng quân sự khu vực mặt trận Tây – Nam. Hội đồng quân sự vẫn nhìn nhận tình hình lạc quan như cũ và đoan chắc rằng tình hình phía Nam chẳng bao lâu nữa sẽ trở nên bình thường nhờ cuộc phản công của ta và vẫn một mực đề nghị tấn công.

Song tình hình không được cải thiện thêm, mà ngược lại ngày càng trở nên xâu đi. Ngày 18 tháng Năm, tình hình trở nên cực kỳ gay go: xuất hiện một mũi xe tăng của quân Đức thọc sâu vào lưng các tập đoàn quân 6, 57 và cụm quân của tướng L. V. Bôp-kin. A. M. Va-xi-lép-xki lại đề nghị Tổng tư lệnh tối cao dừng chiến dịch Khác-cốp và điều cánh quân xung kích của ta quay sang phía Nam để chống trả quân địch. Nhưng cả lần này nữa, I. V. Xta-lin cũng vẫn gọi giây nói yêu cầu Hội đồng quân sự khu vực mặt trận Tây – Nam cho biết ý kiến nhận định tình hình. Một lần nữa, Tổng tư lệnh X. C Ti-mô-sen-cô vẫn đáp lại bằng những lời đoan chắc khiến cho người ta có thể yên tâm và vẫn tiếp tục cuộc tấn công. Thời gian quý giá lại mất thêm một ngày một đêm.

Tình hình mỗi lúc một trầm trọng thêm. Cần phải lập tức tiến hành những biện pháp nhằm đẩy lùi quân địch. Sang nửa cuối ngày 19 tháng Năm, nguy cơ bị bao vây của bộ đội ta ở chỗ lồi Bác-ven-cô-vô trở nên rõ rệt. Chỉ khi đó, X. C. Ti-mô-sen-cô mới quyết định ngừng chiến dịch Khác-cốp và đưa các lực lượng của cánh quân Nam sang chống địch đang tấn công. Quyết định đó đã muộn: chỉ đến đêm các đơn vị mới bắt đầu thi hành được lệnh, lại mất đi một khoảng thời gian vô giá. Xe tăng địch làm thiệt hại nặng tập đoàn quân 9 và đánh bật tập đoàn quân này ra ngoài khu vực Bắc Đô-ne-txơ Sau đó địch ồ ạt tấn công vào sau lưng các tập đoàn quân 6, 57 và cụm quân tướng Bốp-kin. Các đơn vị này chẳng mấy chốc đã bị bao vây.

Chậm trễ trong việc quyết định đình chỉ tấn công, rút các tập đoàn quân đang tiến công của phương diện quân Tây – Nam và tổ chức đánh trả quân địch, – điều đó đã nhanh chóng dẫn tới những hậu quả nghiêm trọng. Do gián đoạn trong việc chỉ huy bộ đội ở chỗ lồi Bác-ven-cô-vô và do mất tính kế hoạch trong các hoạt động tác chiến, cho nên không giải vây được cho tập đoàn quân 57 và tập đoàn quân 6 cũng như cho cụm quân của tướng Bôp-kin. Phần lớn các đơn vị này, sau khi đã chiến đấu anh dũng suốt một tháng rưỡi trời và bắt địch phải trả giá rất đắt, đã hy sinh hoặc bị bắt làm tù binh. Tư lệnh tập đoàn quân 57 C. P. Pốt-lát, A. Ph. A-ni-xốp, L. V. Bốp-kin cùng nhiều tướng lĩnh và sĩ quan khác đã hy sinh trong chiến đấu.

Tình hình cũng không thuận lợi ở hướng Cu-pi-an-xcơ, nơi tập đoàn quân 28 của tướng Đ. N. Ri-a-bư-sép đang từ vùng Vôn-tsan-xcơ ở phía Bắc tấn công vào Khác-côp. Thắng lợi bước đầu của tập đoàn quân này cũng bị tê liệt ngay bởi những hoạt động phản kích của địch. Tập đoàn quân này có nguy cơ bị bao vây và có thể nói rằng đã rút lui một cách vô tổ chức vì không chỉ huy được các đơn vị.

Tất cả những điều đó đã buộc phương diện quân Tây – Nam và phương diện quân Nam phải nhanh chóng rút về tuyến sông Bắc Đô-ne-txơ và Ô-xcôn.

Song thất bại cũng vẫn không dừng lại ở đó. Tai họa này tiếp đến tai họa khác. Cơ quan tham mưu phương diện quân Tây – Nam không nghiên cứu trước kế hoạch hành động trong trường hợp buộc phải rút lui. Không thiết lập các phòng tuyến đệm. Không có kế hoạch yểm hộ việc rút lui, một kế hoạch được đảm bảo đủ lực lượng và phương tiện. Tất cả những việc đó đều phải ứng biến một cách vội vã.

Chẳng bao lâu người ta nhận thấy những.ròi loạn nghiêm trọng trong hoạt động của cơ quan hậu cần: các đơn vị thiếu đạn dược và nhiên liệu, mặc dù chúng nằm trong các kho của phương diện quân và tập đoàn quân. Quả là không kịp cung cấp chúng cho bộ đội. Về sau, những kho dự trữ đó không được kịp thời chuyển về phía Đông nên bị rơi vào tay giặc.

Ở khu vực phương diện quân Nam, tình hình không đến nỗi gay go như vậy. Tuy bị thiệt hại những lực lượng đáng kể, phương diện quân vẫn duy trì được sự chỉ huy đối với các đơn vị vẫn duy trì được tính tổ chức và khả năng phòng thủ kiên cường. Nhanh chóng nhận thấy điều đó, địch bèn bố trí lại quân và bắt đầu triển khai mũi tấn công chủ yếu của chúng ở khu vực phương diện quân Tây – Nam, tấn công ồ ạt không ngơi một ngày nào.

Tình hình ở cả các khu vực khác của mặt trận Xô – Đức cũng trở nên phức tạp.

Tháng Tư, địch bắt đầu siết gọng kìm bao vây cụm quân của P. A. Bê-lốp và M. G. Ê-phrê-môp tại khu vực Vi-a-dơ-ma. Rõ ràng chúng có ý đồ thanh toán các đơn vị bộ đội đang cùng với du kích đe dọa các con đường giao thông liên lạc giữa tập đoàn quân 9, tập đoàn quân xe tăng 3 và tập đoàn quân 4 của Đức.

Từ giữa tháng Tư, cụm quân này đã tiến hành những trận chiến đấu cực kỳ gay go để đột phá vòng vây. Một bộ phận quân, dưới sự chỉ huy của tướng P. A. Bê-lốp chuyển sang vùng Ki-rốp theo chỉ thị của bộ tư lệnh khu vực mặt trận Tây. Họ đi xuyên rừng, qua các vùng du kích, tránh các lực lượng lớn của địch, ở những nơi nào không thể tránh được các đòn tấn công của địch thì họ chiến đấu rất quyết liệt.

Ngày 18 tháng Bảy 1942, bộ phận này đột phá vào vùng đã định, tới được vị trí của phương diện quân Tây. Bộ phận kia cũng thoát được khỏi vòng vây và nhập vào với phương diện quân Ca-li-nin ở phía Tây – Bắc I-ác-txê-vô. Song không phải tất cả.

Trung tướng M. G. Ê-phrê-môp, người chỉ huy gan dạ và dũng cảm, tư lệnh tập đoàn quân 33, đã phải cố gắng quá sức sau khi vượt được một đoạn đường dài với những trận chiến đấu gay go và các chiến sĩ do đồng chí chỉ huy cũng đã vô cùng mệt mỏi. Đồng chí bèn xin phép vượt vòng vây ở con đường ngắn nhất nhưng cũng nguy hiểm nhất.

Đại tướng Gh. C. Giu-côp, Tổng tư lệnh khu vực mặt trận Tây không tán thành vì như vậy quá ư mạo hiểm. Nhưng Đại bản doanh thấy không còn sự lựa chọn nào khác nên đành đồng ý. Ngày 19 tháng Tư 1942, trong trận đánh gần làng Gia-rư thuộc tỉnh Xmô-len-xcơ, M. G. Ê-phrê-môp bị địch bao vây và bị thương nặng. Thà chết còn hơn bị bắt làm tù binh, đồng chí đã tự sát. Các bạn chiến đấu của Ê-phrê-mốp cũng hy sinh.

Đến cuối tháng Sáu, các đơn vị đã bị tiêu hao của phương diện quân Tây – Nam chiến đầu gian khổ ở gần Khác-côp: chọc thủng vòng vây, rút lui và phòng thủ trên các con đường vào sông Ô-xcôn. Còn các lực lượng quân địch thì vẫn tiếp tục được tăng cường. Bộ chỉ huy Hít-le tập trung ở miền Nam nước ta bốn tập đoàn quân dã chiến (2, 6, 11 và 17) và hai tập đoàn quân xe tăng (1 và 4). Ngoài ra, chúng còn đưa tới đây tập đoàn quân Hung-ga-ri 2, I-ta-li-a 8 và Ru-ma-ni 3.

Bộ máy chỉ huy quân Đức cũng được cải tổ lại đáng kể. Chúng thành lập 2 cụm tập đoàn quân: cụm “A” nhằm theo hướng hạ lưu sông Đôn và từ đó vào Cáp-ca-dơ. cụm “B” nhằm vào vùng trung lưu sông Đôn và vào vùng Xta-lin-grát.

Tinh hình luôn luôn cực kỳ căng thẳng. Địch khống chế trên không và tập trung tập kích bằng không quân vào các đơn vị bộ đội ta đang rút lui, không cho ta có điều kiện chuẩn bị và giữ thế phòng thủ một cách có tổ chức. Xe tăng và bộ binh địch, được pháo binh và không quân yểm trợ mạnh, tiến hành tấn công liên tục.

Tình hình phương diện quân Tây – Nam khiến cho Đại bản doanh và Bộ tổng tham mưu rất lo ngại. Các đơn vị phá vây bị thiệt hại đáng kể và không còn được chỉ huy chặt chẽ nữa. X. C. Ti-mô-sen-cô xin thêm quân tiếp viện, nhất là các sư đoàn bộ binh. Hiểu rõ tình hình, Tổng tư lệnh tối cao cho phương diện quân này bốn quân đoàn xe tăng 13, 22, 23 và 24, những quân đoàn này mới tới vùng chiến sự phía Tây Va-lui-ki hồi giữa tháng Sáu. Còn bộ binh thì Tổng tư lệnh tối cao từ chối:

- Chúng tôi không thể cho thêm các sư đoàn bộ binh được, đồng chí nói với Hội đồng quân sự khu vực mặt trận Tây – Nam như vậy khi trao đổi ý kiến qua đường dây trực tiếp ngày 13 tháng Sáu 1942, – vì chúng tôi hiện không có các sư đoàn đã được chuẩn bị sẵn. Cần phải đối phó với địch bằng lực lượng của bản thân mình, phải cải tiến việc chỉ huy bộ đội.

Vì X. C. Ti-mô-sen-cô nhiều lần viện dẫn rằng lực lượng xe tăng địch rất mạnh cho nên Tổng tư lệnh tối cao chỉ thị:

- Xe tăng của đồng chí nhiều hơn của địch. Tai họa là ở chỗ hoặc chúng vẫn đứng nguyên tại chỗ, hoặc là chúng xung trận một cách tản mát, chỉ có từng lữ đoàn lẻ tẻ. Đại. bản doanh đề nghị đồng chí tập trung hoạt động của các quân đoàn xe tăng 22, 23 và 13 ở một chỗ nào đó, có thể là ở khu vực Ve-li-ki Bua-lúc, và tấn công vào các cụm xe tăng địch. Nếu như các quân đoàn xe tăng của ta hoạt động một cách tập trung và thành từng cụm lớn thì có lẽ bức tranh hiện có sẽ không còn nữa.

I. V. Xta-lin đề nghị suy tính việc tập trung các lực lượng không quân và điều tướng G. A. Vô-rô-giây-kin ra mặt trận để giúp việc tổ chức đối phó với địch trên không; Vô-rô-giây-kin vẫn tài giỏi về việc này. Ngoài ra, Tổng tư lệnh tối cao còn yêu cầu đẩy mạnh hoạt động của phương diện quân Nam.

Tổng tư lệnh khu vực mặt trận nhận sẽ chấp hành lệnh, nhưng vẫn một mực xin thêm bộ binh và vũ khí. Một lần nữa, Tổng tư lệnh tối cao buộc phải trả lời những yêu cầu đó bằng những chữ như sau: “…Đại bản doanh không có những sư đoàn mới đã sẵn sàng chiến đấu… Các nguồn dự trữ vũ khí của ta có hạn, và đồng chí cần lưu ý rằng ngoài phương diện quân của đồng chí, chúng ta còn có các phương diện quân khác nữa.. Cần chiến đấu không phải bằng số lượng, mà bằng kỹ năng).

Ở Bộ tổng tham mưu, những ngày đầy công việc khẩn trương không phải là trôi đi, mà là chạy vụt đi. Mọi người đều chờ đợi Cụm tập đoàn quân “trung tâm” sắp bắt đầu ồ ạt tấn công vào Mát-xcơ-va. Nhưng thời gian trôi qua, mà ngoài những hành động chống các đơn vị của P. A. Bê-lốp đang phá vây ra, người ta không thấy có dấu hiệu gì khác chứng tỏ địch có ý định tấn công lại vào thủ đô Liên Xô.

Đêm 19 rạng ngày 20 tháng Sáu, từ mặt trận Tây – Nam báo tin: ta đã lấy được kế hoạch tác chiến của bộ chỉ huy quân Đức. Trong Bộ tổng tham mưu, mọi người đều hồi hộp: những chuyện như thế không thường xảy ra. Thì ra do thời tiết xấu nên một máy bay địch bị mất phương hướng, rơi vào tầm hỏa lực pháo cao xạ của ta và bị bắn rơi. Hai sĩ quan bị cháy thui chỉ có tên thiếu tá là còn sống. Hắn tìm cách thủ tiêu tài liệu và lẩn trốn, nhưng các chiến sĩ ta đã rượt theo kịp và hắn bị bắn chết khi hai bên nổ súng bắn nhau. Thế là ta vớ được tấm bản đồ trên có ghi rõ nhiệm vụ của quân đoàn xe tăng 40 và cả tập đoàn quân xe tăng 4 của Đức cùng nhiều tài liệu khác, trong đó có bản mật mã. Chúng ta đã nhanh chóng tìm ra được chìa khóa để giải bản mật mã đó.

Theo nguyên soái X. C. Ti-mô-sen-cô, những tài liệu ấy cho phép vạch trần những ý đồ của địch trong thời gian sắp tới: đánh bại các tập đoàn quân bên cánh phương diện quân Tây – Nam – tập đoàn quân 21 ở phía Bắc và tập đoàn quân 9 ở phía Nam, rồi sau đó tấn công vào trung tâm phương diện quân, phát triển thắng lợi theo hướng Vô-rô-ne-giơ từ tuyến Va-lui-ki, Cu-pi-an-xcơ.

A. M. Va-xi-lép-xki lập tức báo cáo những tài liệu đó cho Tổng tư lệnh tối cao, Tổng tư lệnh tối cao ngờ rằng địch chủ tâm giúi cho ta những giầy tờ ấy để đánh lừa không cho ta biết những ý đồ thực sự của bộ chỉ huy quân Đức, nên bèn gọi điện cho tư lệnh phương diện quân. Toàn bộ các ủy viên Hội đồng quân sự ở Va-lui-ki ra nghe máy điện thoại. X. C. Ti-mô-sen-cô trình bày ý kiến. Đồng chí quả quyết rằng những tài liệu đó không hề đáng ngờ và trình bày những kiến giải của mình về những ý đồ của địch cùng những biện pháp cần tiến hành.

I. V. Xta-lin yêu cầu giữ kín những điều chúng ta đã biết về các kế hoạch của bộ chỉ huy quân Đức. Đồng chí đọc cho điện báo viên phát đi như sau: “Có thể bản mệnh lệnh mà chúng ta vớ được chỉ cho biết một phần kế hoạch tác chiến của địch. Có thể cho rằng quân Đức đang cố sức giở trò gì đây nhân kỷ niệm một năm ngày nổ ra chiến tranh và bố trí các chiến dịch của chúng vào đúng ngày đó”.

Đồng chí chuẩn y những biện pháp của phương diện quân, thông báo rằng Đại bản doanh đang thi hành những biện pháp về chỗ nối giữa mặt trận Tây – Nam với mặt trận Bri-an-xcơ và nói rằng phương diện quân cần hết sức nhanh chóng cố gắng dùng không quân tiêu diệt sinh lực địch, xe tăng của chúng, các đầu mối thông tin liên lạc và các máy bay của chúng ở các sân bay. Ở đây cần phải hành động trước kẻ địch, máy bay của chúng rất mạnh.

X.C. Ti-mô-sen-cô hài lòng với cuộc nói chuyện, song tuy vậy khi sắp kết thúc đồng chí vẫn đề nghị: “giá như đồng chí có thể cho chúng tôi thêm một sư đoàn bộ binh ở khu vực Cô-rô-tra thì sẽ hay biết bao. Còn tất cả những điều khác mà đồng chí vừa trình bày là hợp ý chúng tôi, chúng tôi sẽ hoàn thành”. I. V. Xta-lin trả lời: “giá như ở chợ có bán các sư đoàn thì tôi sẽ mua ngay cho các đồng chí 5-6 sư đoàn, song đáng tiết là lại không có bán”.

Sang ngày hôm sau, 21 tháng Sáu 1942, Đại bản doanh thông qua quyết định giải tán khu vực mặt trận Tây – Nam. X.C. Ti-mô-sen-cô vẫn làm tư lệnh các đơn vị bộ đội phương diện quân Tây – Nam. A. M. Va-xi-lép-xki phải bay sang mặt trận này để xem xét tại chỗ tình hình cho tỉ mỉ hơn.

A. M. Va-xi-lép-xki đến Va-lui-ki vừa đúng lúc: lúc 3 giờ ngày 22 tháng Sáu, địch bắt đầu cho pháo bắn chuẩn bị ở các khu vực thuộc tập đoàn quân 38 và 9, sau đó bộ binh và xe tăng của chúng chuyển sang tấn công với số lượng rất đông. Theo báo cáo của phương diện quân, mỗi cụm xe tăng địch có từ 100-150 chiếc. Tuyến phòng thủ của ta bị chọc thủng ở một số nơi. Để tránh khỏi bị bao vây, ta phải rút bộ đội sang phía Đông, sang các tuyến dọc theo các sông Ô-xcôn và Bắc Đô-ne-txơ.

Ngay sau khi được biết những tin này, Bộ tổng tham mưu liền báo cáo lên Đại bản doanh. Tổng tư lệnh tối cao lập tức đánh điện yêu cầu X. C. Ti-mô-sen-cô báo cáo tình hình. Sau đó Xta-lin đề nghị A. M. Va-xi-lép-xki đánh giá tình hình. A. M. Va-xi-lép-xki báo cáo rằng địch đang tiến hành một chiến dịch với ý đồ bao vây và tiêu diệt 4 sư đoàn của tập đoàn quân 38 lúc này do tướng C. X. Mô-xca-len-cô chi huy.

Đại điện Đại bản doanh xác nhận việc tư lệnh phương diện quân quyết định rút các binh đoàn là đúng. Ở gần Vôn-tran-xcơ, cánh quân địch ngừng tập trung vào chính những khu vực đã dự kiến trong các tài liệu ta thu được trên chiếc máy bay Đức bị bắn rơi mới đây. Điều này cũng rất quan trọng: có nghĩa là trong những ngày sắp tới, cần phải tính đến những hoạt động quyết định của quân Hít-le ở cả các khu vực mặt trận khác.

Không nhận thấy có những sự khác nhau nào đó giữa đại điện Đại bản doanh và tư lệnh phương diện quân trong việc nhận định tình hình, Tổng tư lệnh tối cao chuẩn y việc rút quân tới các con sông Ô-xcôn và Bắc Đô-ne-txơ nhưng lại yêu cầu phải chặn địch lại ở đây “trong bất kỳ hoàn cảnh nào”.

Đồng chí cũng không bỏ qua ý kiến của A. M. Va-xi- lép-xki lưu ý đề phòng khả năng địch có thể mở một cuộc tấn công lớn và cuối cùng đồng chí nhắc ngắn gọn: “ngày mai hoặc ngày kia nếu như Va-xi-lép-xki về được Mát-xcơ-va thì tốt”. Hai người thỏa thuận với nhau là A-lếch-xan-đrơ Mi-khai-lô-vích không bay vào ngày mai, mà bay sau đó 1 ngày – 24 tháng Sáu.

10 ngày cuối cùng của tháng Sáu 1942 cũng rất quan trọng đối với địch. Chúng ngừng tập trung và triển khai 3 cánh quân xung kích lớn: một ở khu vực phía Đông – Bắc Cuốc-xcơ một ở phía Đông – Bắc Khác-côp (Bộ tổng tham mưu gọi cánh quân này là cánh quân Vôn-tran-xcơ), còn cánh quân thứ ba thì ở khu vực Cra-ma-toóc-xcơ. Các cánh quân này cũng có nhiệm vụ đánh chiếm Cáp-ca-dơ, chiếm vùng hạ lưu trung lưu sông Đôn và sông Vôn-ga. Để bổ sung lực lượng của chúng, bộ chỉ huy Hít-le đã điều thêm 28 sư đoàn cho riêng hướng Vô-rô-ne-giơ.

Hiện thời, ta biết đích xác là chiến dịch mang mật hiệu “xanh” của địch dự định diệt tan các đơn vị bộ đội Liên Xô ở sườn phía Nam mặt trận Xô – Đức làm 2 đợt. Trước hết, chúng định giành thắng lợi ở hướng Vô-rô-ne-giơ. Để làm việc đó chúng huy động cánh quân Cuốc-xcơ và cánh quân Vôn-tran-xcơ đánh vào chỗ nối giữa mặt trận Bri-an-xcơ và mặt trận Tây – Nam của ta, vì như mọi người đều biết, các chỗ nối bao giờ cũng là chỗ hiểm yếu nhất của mặt trận tác chiến – chiến lược.

Tới được sông Đôn, bộ chỉ huy quân địch dự tính sẽ đưa tập đoàn quân xe tăng 4 tiến dọc theo bờ Tây con sông xuống phía Nam và chặn đường rút lui về phía Đông của các lực lượng chủ yếu của phương diện quân Tây – Nam. Đến lúc đó cánh quân xung kích của Đức (trong đó có tập đoàn quân xe tăng 1) đang tấn công từ khu vực Cra-ma-toóc-xcơ sẽ đánh tan phương diện quân Nam của ta và tràn qua Rô-xtôp vào Cáp-ca-dơ.

Đồng thời, chúng cũng dự định đưa một phần lực lượng thọc qua các thảo nguyên Xan-xcơ và Can-mứt tiền tới vùng Hạ lưu sông Vôn-ga. Bằng cách ấy, các nhà chiến lược của Hít-le chuẩn bị tạo ra một vòng vây khổng lồ đối với các đơn vị bộ đội Liên Xô trong một vùng rộng lớn hết sức bất lợi cho việc phòng thủ của các đơn vị đó. Và sau đó, như người ta thường nói, mọi việc chỉ còn là vấn đề kỹ thuật: trên các vùng thảo nguyên mênh mông khô hạn, bị mặt trời miền Nam thiêu đốt, phẳng lì như mặt bàn, các cụm quân xe tăng và máy bay địch bắt đầu hoành hành.

Đáng tiếc là qua các tài liệu thu được từ chiếc máy bay bị bắn rơi của bộ chỉ huy quân Đức, người ta vẫn chưa biết rõ chúng sẽ giáng đòn chủ yếu vào chính chỗ nào. Cánh quân phát-xít Đức hiện thời vẫn giữ thái độ thụ động trên các cửa ngõ vào Mát-xcơ-va. Song điều đó hoàn toàn không có nghĩa là từ nay về sau chúng vẫn cứ xử sự như vậy, nhất là một khi quân Đức xông vào Vô-rô-ne-giơ, từ đó chúng có thể bắt đầu một sự cơ động vu hồi và cắt Mát-xcơ-va khỏi miền Nam và miền Đông đất nước. Tổng tư lệnh tối cao và Bộ tổng tham mưu vẫn cho rằng Mát-xcơ-va là mục tiêu chủ yếu của các kế hoạch của địch.

Ngoài những tài liệu thông thường về tình huống các mặt trận ra, Bộ tổng tham mưu còn chuẩn bị đặc biệt tỉ mỉ những tin tức hàng ngày về tình trạng các lực lượng dự bị, trước hết là các liên binh đoàn. Do các tập đoàn quân dự bị được thành lập ở những vùng đảm bảo nhanh chóng tập trung được các lực lượng đó tại Mát-xcơ-va, Vô-rô-ne-giơ và vùng trung lưu sông Đôn, cho nên Đại bản doanh đã không tiến hành bố trí lại các tập đoàn quân đó.

Ngày 28 tháng Sáu, từ mặt trận Bri-an-xcơ do tướng Ph. I. Gô-li-côp chỉ huy, báo về: địch đánh mạnh trên hướng Vô-rô-ne-giơ. Một ngày sau, chúng bắt đầu tấn công ào ạt vào phương diện quân Tây – Nam, lực lượng tấn công là tập đoàn quân 6 của Đức với một khối lượng lớn xe tăng. Chúng ta không thể đẩy lùi được các đợt tấn công.

Phòng tuyến tập đoàn quân 40 của M. A. Pác-xe-gốp tại mặt trận Bri-an-xcơ, phòng tuyến tập đoàn quân 21 của V. N. Goóc-đôp và phòng tuyến tập đoàn quân 28 của tướng Đ. I. Ri-a-bư-sép tại mặt trân Tây – Nam bị chọc thủng. Xe tăng và bộ binh cơ giới địch từ phía Tây thọc qua Ca-xtoóc-nôi-ê tràn vào Vô-rô-ne-giơ và từ phía Tây – Nam qua Vô-lô-cô-nôp-ca vào Cô-rô-tô-i-ác. Địch cũng tiến hành những trận tập kích dữ dội bằng không quân.

Sau khi các lực lượng xe tăng lớn của địch đột phá ở dải mặt trận Tây – Nam và tại đây chúng vượt qua sông Ô-xcôn – Tséc-ni-an-ca, thì tại chỗ nối với mặt trận Bri-an-xcơ hình thành một cụm quân xe tăng nguy hiểm, có thể đánh vào sau lưng phương diện quân này hoặc phương diện quân kia.

Đồng thời, cả ở dải mặt trận Bri-an-xcơ, cánh quân xe tăng mạnh của địch cũng đã tiền tới vùng Goóc-se-tsơ-nô-ê (cách Tséc-ni-an-ca 100 km về phía Bắc). Nếu như cánh quân này quặt xuống phía Nam, gặp được các đơn vị quân Đức đang đóng ở Tséc-ni-an-ca, thì các đơn vị thuộc tập đoàn quân 40 và tập đoàn quân 21 của ta có thể sẽ rơi vào vòng vây ở phía Tây sông Ô-xcôn. Ngoài ra, địch vẫn tiếp tục duy trì quyền tự do di động nhằm cắt đứt các con đường rút lui về phía Đông của các lực lượng chủ yếu thuộc hai phương diện quân của ta.

Bộ tổng tham mưu nhanh chóng xác định nguy cơ hình thành ở chỗ nôi giữa hai phương diện quân. N. Ph. Va-tu-tin lúc đó đang thừa hành chức trách cục trưởng Cục tác chiến Bộ tổng tham mưu, là người lo lắng trước tiên. Ni-cô-lai Phê-đô-rô-vích biết rằng tương quan lực lượng chung ở miền Nam – ở các khu vực hoạt động của các cụm tập đoàn quân “A” và “B” – hoàn toàn bất lợi cho ta.

Tính đến ngày 1 tháng Bảy 1942, địch có 900 nghìn lính và sĩ quan, trên 1.200 xe tăng, hơn 17 nghìn pháo và súng cối, 1.640 máy bay chiến đấu Để đối chọi lại, các phương diện quân Bri-an-xcơ, Tây – Nam và Nam chỉ có thể huy động được 655 nghìn quân, 740 xe tăng, 14.200 pháo và súng cối, khoảng 1.000 máy bay chiến đấu. Như vậy, quân ta thua kém địch về số lượng. Thêm vào đó, địch lại nắm trong tay quyền chủ động tác chiến – chiến lược. Trong hoàn cảnh ấy, đây là một ưu thế cực kỳ lớn đảm bảo cho bộ chỉ huy Hít-le quyền tự do lựa chọn hướng tấn công và khả năng tạo ra được một sự hơn hẳn, có tính chất quyết định, về lực lượng và phương tiện trên hướng đó.

Hiểu rõ việc di chuyển các lực lượng hiện có của các phương diện quân của ta trong điều kiện hiện tại thật phức tạp biết chừng nào, N. Ph. Va-tu-tin liền lập tức báo cáo với I. V. Xta-lin về tình hình nguy ngập đó. Tổng tư lệnh tối cao ra lệnh ưu tiên chuyển ngay bức điện sau đây:

“Gởi đồng chí Ti-mô-sen-cô, tư lệnh phương diện quân Tây – Nam.

Tại mặt trận của đồng chí, địch đã đột phá qua sông Ô-xcôn và đang tập trung lực lượng bên bờ Đông con sông, sau lưng phương diện quân Tây – Nam. Điều đó gây nên nguy vong cao cả phương diện quân Tây – Nam lẫn phương diện quân Bri an-xcơ.

Tôi yêu cầu đồng chí tiến hành những biện pháp khẩn cấp cần thiết để lấp kín chỗ thủng đó. Tôi đợi đồng chí cho biết những biện pháp cần tiến hành.

I. V. Xta-lin.

Ngày 2 tháng Bảy 42.16.05”.

Nhưng địch lại không bao vây các đơn vị bộ đội Liên Xô ở phía Tây sông ôõ-xcôn, mà lại thực hiện kế hoạch tác chiến của đại bản doanh của chúng là nhanh chóng triển khai cuộc tấn công vào Vô-rô-ne-giơ.

Bây giờ, I. V. Xta-lin đặc biệt chăm chú theo dõi khu vực Vô-rô-ne-giơ. Đồng chí cho rằng có thể sau khi đã chọc thủng được ở đây quân Đức sẽ vượt qua sông Đôn và bắt đầu đánh bọc vào sau lưng Mát-xcơ-va. Để củng cỏ vững chắc trận địa trên hướng Vô-rô-ne-giơ, Đại bản doanh ra lệnh đưa 3 tập đoàn quân tới bờ trái sông Đôn – các tập đoàn quân dự bị 3, 6 và 5, sau này được đổi tên tương ứng thành các tập đoàn quân 60, 6 và 63. Họ chiếm giữ phòng tuyến từ Da-đôn-xcơ cho tới Cli-ốt-xcai-a. Đồng thời, phương diện quân Bri-an-xcơ cũng được cấp thêm tập đoàn quân xe tăng 5, một tập đoàn quân vừa mới được thành lập, của viên tướng dũng cảm và giàu kinh nghiệm là A. I. Li-diu-côp để phản kích vào sườn phía Bắc của kẻ địch đang tấn công vào Vô-rô-ne-giơ.

Ban lãnh đạo chiến lược của Liên Xô và Bộ tổng tham mưu cho rằng nếu mở đợt phản công ngay tức khắc thì tập đoàn quân này cùng với quân đoàn xe tăng 17 của phương diện quân có thể làm thay đổi tình thế có lợi cho ta. Ngoài ra, Đại bản doanh còn cho phương diện quân thêm quân đoàn xe tăng 18 nữa.

Trong Bộ tổng tham mưu, mỗi người đều rất nóng lòng chờ đợi tin tức về việc mở cuộc phản công. Nhưng những tin ấy không đến. Tư lệnh phương diện quân cũng không giao nhiệm vụ cho các đơn vị xe tăng trong suốt cả ngày 3 tháng Bảy 1942. Việc đó khiến cho mọi người lo lắng. I. V. Xta-lin chỉ thị cho A. M. Va-xi-lép-xki phải bay tới mặt trận Bri-an-xcơ vào ngày 4 tháng Bảy để giúp việc nhanh chóng tổ chức chống trả quân địch ở Vô-rô-ne-giơ.

Mãi tới sáng ngày 6 tháng Bảy, cuộc phản công của phương diện quân Bri-an-xcơ mới bắt đầu. Song không có được một đợt tấn công dữ dội nào cả, các quân đoàn và lữ đoàn hoạt động phân tán, còn xe tăng địch thì ngay ngày hôm đó, thọc được vào phần phía Tây của Vô-rô-ne-giơ. Thực ra, bộ chỉ huy quân Đức đã buộc phải triển khai một phần lực lượng của chúng để đối phó với tập đoàn quân xe tăng 5. Ta không diệt tan được địch nhưng đã không để mất phần phía Đông của Vô-rô-ne-giơ vào tay chúng. Tuyến trận ở đây được thiết lập vững chắc.

Còn về phương diện quân Tây – Nam thì Đại bản doanh đã gấp rút điều các đơn vị thuộc 5 khu vực bố phòng tới tuyến phòng thủ xây dựng trong hậu tuyến ở đó. Nhưng do các đơn vị dã chiến không đảm bảo phòng thủ được ở mức độ thích đáng cho nên địch đã vượt qua được phòng tuyến ở phần phía Bắc. Các lực lượng cơ bản của phương diện quân Tây – Nam vẫn tiếp tục rút lui.

Vào những ngày ta rút lui gian nan như vậy thì ở phía Nam, việc rời bỏ Crưm cũng không có gì đáng phấn khởi. Sáng ngày 30 tháng Sáu, bộ tư lệnh phương diện quân Bắc Cáp-ca-dơ – các đồng chí X. M. Bu-đi-on-nưi, G. Ph. Da-kha-rốp, và I. X. I-xa-cốp – thông báo rằng những người chỉ huy phòng thủ Xê-va-xtô-pôn báo tình hình ở thành phố rất nguy ngập: từ hướng Bắc, địch đã tràn vào khu Cô-ra-ben-nai-a. Báo cáo của những người Xê-va-xtô-pôn chuyển cho Đại bản doanh có nói thẳng ra rằng: “các hoạt động chiến đấu bắt đầu mang tính chất những trận đánh trên đường phố…”

Địch tăng cường ghê gớm việc gây áp lực bằng không quân, xe tăng; nếu tính đến sức chiến đấu giảm sút đáng kể của ta thì hẳn phải cho rằng trong tình hình như vậy, ta sẽ chỉ giữ vững được tối đa là 2-3 ngày. Hội đồng quân sự phương diện quân xin phép rút quân và sơ tán dân, đồng thời vẫn tiếp tục chống cự với địch đến cùng.

Đại bản doanh chuẩn y những đề nghị đó và bắt đấu việc sơ tán và rút quân. Nhưng các chiến sĩ bảo vệ thành phố anh hùng vẫn tiếp tục chiến đấu trong từng khu vực cho đến 9- 12 tháng Bảy. Một bộ phận quân chuyển sang phương pháp chiến tranh du kích trên núi. Cuộc phòng thủ Xê-va-xtô-pôn anh hùng đã kết thúc.

Các chiến sĩ phòng thủ đã chôn chân cả một tập đoàn quân của lực lượng vũ trang Hít-le trong một thời gian dài, không cho địch sử dụng nổi căn cứ hải quân cực kỳ lợi hại cua chúng ở Biển Đen, không ngừng uy hiếp bên sườn và phía sau lưng chúng ở phía Nam. Nhờ vậy họ đã giải quyết được nhiệm vụ tác chiến – chiến lược lớn lao.

“Cuộc chiến đấu đầy hy sinh của những người Xê-va-xtô-pôn đã nêu một tấm gương về chủ nghĩa anh hùng cho toàn thể Hồng quân và nhân dân Liên Xô” – I. V. Xta-lin đã viết như vậy trong bức thư chào mừng các chiến sĩ thành phố bị phong tỏa. Trong biên niên sử về chủ nghĩa anh hùng thể hiện trong cuộc Chiến tranh giữ nước vĩ đại, đã xuất hiện một trang mới ghi thêm chiến công của thành phố Xê-va-xtô-pôn anh hùng…

Một mùi khét của lúa mì bị thiêu cháy, của sắt thép bị hun nóng và máu bao trùm lên các cánh đồng thân thuộc đối với tôi ở vùng sông Đôn. Trên bầu trời cao thẳm cuộn lên một màn khỏi bụi đen ngòm phủ lên các con đường rút lui khó khăn của ta… Xe tăng và các đơn vị cơ giới của quân Đức đã ở trong vùng Vô-rô-ne-giơ, còn bộ binh thì đang từng đoàn dài màu rắn lục trườn vào từ phía Tây. Các chiến sĩ ta vừa chiến đấu gay go liên tục, vừa rút về phía Đông dưới những trận tập kích của xe tăng và bộ binh địch, dưới những trận oanh tạc của máy bay địch.

Lúc này, gần các con đường quân sự là quê hương tôi – làng U-ri-u-pin-xcai-a. Tôi hình dung thấy cảnh những người vợ lính đáng thương ở nơi đó, vào những ngày gian truân của mùa hè năm 1942 ấy, bước ra sân, đưa tay lên che mắt cho khỏi nắng, lo lắng đăm đăm nhìn về phương xa, chăm chú lắng nghe tiếng ì ầm của trận đánh ở miền Tây…

Sau khi tới được Vô-rô-ne-giơ và đẩy lùi được cuộc phản công của ta, địch định điều tập đoàn quân xe tăng 4 xuống phía Nam. Nhưng chúng không tài nào nhanh chóng kịp thực hiện được ý đồ đó, vì các đơn vị bộ đội Liên Xô đã trói chặt tập đoàn quân này bằng các hoạt động phòng thủ của mình. Các đợt phản công kiên cường của ta đã phá vỡ mọi thời hạn mà bộ chỉ huy Hít-le đã dự định.

Như vậy, trên hướng Vô-rô-ne-giơ, tinh thần anh dũng của các chiến sĩ đã buộc địch phải trì hoãn cuộc tấn công, đã giúp cho các đơn vị bộ đội phương diện quân Tây – Nam thoát khỏi một tai họa lớn nữa. Chỉ sau một vài ngày, xe tăng địch, được sông Đôn che chở ở phía Đông, đã tới được vùng Rốt-xô-sơ. Mưu đồ của bộ chỉ huy quân Đức đã lộ rõ: bao vây các lực lượng chủ yếu của phương diện quân Tây – Nam tại khúc ngoặt lớn của sông Đôn.

Sau đó ít lâu, Đại bản doanh tách phương diện quân Bri-an-xcơ thành hai phương diện quân: Bri-an-xcơ và Vô-rô-ne-giơ. Điều đó đã cải tiến việc chỉ huy bộ đội một cách đáng kể, nhất là tướng C. C. Rô-cô-xốp-xki được bổ nhiệm làm tư lệnh phương diện quân Bri-an-xcơ, tướng N. Ph. Va-tu-tin làm tư lệnh phương diện quân Vô-rô-ne-giơ, lại là hai vị tướng xuất sắc của Liên Xô. Hai đồng chí này đã đẩy mạnh hoạt động của các đơn vị và tình hình tại hai phương diện quân này trở nên ổn định.

Trong hoàn cảnh căng thẳng tột độ đó, tính tổ chức trong việc rút lui bộ đội phương diện quân Tây – Nam, tính cứng rắn và linh hoạt trong việc chỉ huy bộ đội có tầm quan trọng đặc biệt. Quân địch hơn quân ta về tính cơ động, chúng đã thọc sâu được vào đội hình chiến đấu của ta, bao vây được từng binh đội và binh đoàn của ta. Còn việc chỉ huy bộ đội thì lẽ ra còn có thể tốt hơn nhiều.

Để tăng cường bộ máy lãnh đạo phương diện quân Tây – Nam, Tổng tư lệnh tối cao đã ra lệnh điều tướng Pa-ven I-va-nô-vích Bô-đin, một cán bộ tham mưu giàu kinh nghiệm và đã từng dày dạn trong chiến đấu, tới đó làm tham mưu trưởng. Song cả tư lệnh lẫn ủy viên Hội đồng quân sự phương diện quân đều không để ý tới viên tham mưu trưởng mới này, mặc dù Bô-đin rất biết việc và đã góp phần đáng kể vào việc cải tiến chỉ huy bộ đội. Sự bất đồng không có lợi cho công việc, hơn nữa, tình hình ở sườn phía Nam mặt trận Xô – Đức lại ngày càng nguy ngập.

Ngày 6 tháng Bảy 1942, tư lệnh phương diện quân Tây – Nam và ủy viên Hội đồng quân sự đi đến đài chỉ huy phụ ở Gô-rô-khốp-ca mà không hề báo cho tham mưu trưởng. Đài chỉ huy phụ này không được đảm bảo tốt các phương tiện thông tin liên lạc, ở đó cũng không có một cán bộ trợ lý nào. Chuyến đi khó hiểu của tư lệnh phương diện quân đã làm suy yếu đáng kể ảnh hưởng của đồng chí đó tới quá trình tác chiến. P. I. Bô-đin buộc phải gấp rút điều các phương tiện thông tin liên lạc và các sĩ quan trợ lý tới Gô-rô-khốp-ca.

Vào lúc rút lui hết sức gay go, suốt một ngày một đêm, Bộ tổng tham mưu không hề nhận được báo cáo tình hình của phương diện quân Tây – Nam. Còn địch thì đã tấn công ở Rat-xô-sơ nơi các đơn vị bộ đội ta đang tìm cách tổ chức phòng thủ dọc theo bờ Nam sông Trô-rơ-nai-a Ca-lít-va. Các trợ lý tác chiến Bộ tổng tham mưu chạy đi chạy lại đến rạc cẳng để tìm hiểu xem ta có chặn địch lại được không. Nếu như không chặn được và chúng vượt qua sông thì chúng có thể đột phá được vào Can-tê-mi-rốp-ca, khi đó, việc chúng đánh bọc từ phía Đông vào các lực lượng chủ yếu của phương diện quân Tây – Nam của ta sẽ trở thành một sự kiện với tất cả mọi hậu quả của nó.

Dĩ nhiên là sự mơ hồ như thế khiến cho ban lãnh đạo chiến lược hết sức bực mình. Từ mặt trận trở về, A. M. Va-xi-lép-xki được nghe hết những lời khiển trách bực tức của Tổng tư lệnh tối cao. Xta-lin yêu cầu Bộ tổng tham mưu phải nắm rõ tình hình tại các mặt trận, mặc dù bản thân chúng tôi đều biết rằng tình hình có nguy cơ trở nên cực kỳ gay go.

Do N. Ph. Va-tu-tin đi nhận công tác khác cho nên thiếu tướng P. G. Ti-khô-mi-rốp tạm thời được giao quyền cục trưởng Cục tác chiến Bộ tổng tham mưu. Quả là đồng chí không lúc nào rời máy Bô-đô vì phải luôn “moi” tin của đồng chí Bô-đin.

“Đồng chí hãy thi hành mọi biện pháp để nhanh chóng nắm rõ tình hình tại sườn bên phải của đồng chí, -Ti-khô- mi-rổp đánh điện cho Bô-đin như vậy vào sáng ngày 8 tháng Bảy. – Còn đây là một trong những vấn đề cơ bản mà Đại bản doanh băn khoăn. Vấn đề này, đồng chí Va-xi-lép-xki muốn nói trước hết với đồng chí. Đồng chí hy vọng khi nào bắt lại được liên lạc với đài chỉ huy phụ?”

Bô-đin điềm tĩnh trả lời: “Ngay sau khi bắt liên lạc được với đài chỉ huy phụ qua đường dây và biết rõ tình hình ở sông Trô-rơ-nai-a Ca-lít-va, tôi sẽ lập tức báo cáo với các đồng chí ngay… Tôi đã phái các sĩ quan liên lạc đi máy bay và ô-tô đến tất cả những nơi mà tôi cần nắm tin”.

Bộ tổng tư lệnh tối cao Liên Xô đã tập trung những cố gắng to lớn để kiên quyết chỉnh đốn lại tình hình ở mặt trận Tây – Nam. Ở đây có hai nhiệm vụ cấp thiết. Một là, bằng bất cứ giá nào phải lập được phòng tuyến vững chắc ở sườn bên phải và chặn địch lại, không cho chúng chọc được vào Can-tê-mi-rốp-ca. Có thể và cần phải thực hiện việc đó bằng những lực lượng của bản thân phương diện quân vì bị thiệt hại qua các đợt tấn công của địch, chủ yếu chỉ có hai tập đoàn quân bên sườn phải – tập đoàn quân 21 và tập đoàn quân 28, còn các tập đoàn quân khác thì đã được rút lui ít nhiều có kế hoạch. Hai là, cần phải đảm bảo thật chắc chỗ nối giữa mặt trận Tây – Nam và mặt trận Nam vì giữa các sườn của chúng có kẽ hở ở khu vực Min-đê-rô-vô và địch có thể lợi dụng chỗ hở đó để di động quân đánh vu hồi. Các đại diện của phương diện quân Tây – Nam và phương diện quân Nam tại Bộ tổng tham mưu phải nghiên cứu những nhiệm vụ đó.

A. M. Va-xi-lép-xki quả là bị giằng xé giữa Đại bản doanh và Bộ tổng tham mưu. Nghị lực của đồng chí thật không bao giờ cạn. Đồng chí yêu cầu, khuyến nghị, truyền đạt mệnh lệnh của đích thân Tổng tư lệnh tối cao. Chiều tối ngày 8 tháng Bảy, đồng chí báo cho phương diện quân biết rằng I. V. Xta-lin đã lưu ý tới những đề nghị của Hội đồng quân sự phương diện quân Tây – Nam và chuẩn y việc bổ nhiệm tướng Đ. N. Ni-ki-sép làm tư lệnh tập đoàn quân 57. Sau đó Va-xi-lép-xki ra lệnh:

“Đồng thời, đồng chí Xta-lin cũng hạ lệnh truyền đạt rằng “nhiệm vụ chủ yếu của Hội đồng quân sự phương diện quân lúc này là củng cố sườn phải của phương diện quân để, dù thế nào đi nữa, cũng phải tạm thời chặn đứng được bước tiến của địch xuống phía Nam, nếu không sẽ hình thành nguy cơ đặc biệt không những cho các tập đoàn quân thuộc phương diện quân Tây – Nam, mà còn cho cả phương diện quân Nam nói chung”. Nếu như không thực hiện được việc đó thì Đại bản doanh sẽ buộc phải thi hành những biện pháp hết sức kiên quyết, kể cả việc truy tố trước tòa án”.

Thái độ kiên quyết của Tổng tư lệnh tối cao không báo trước một điều gì tốt lành cả, song tình hình mặt trận vẫn không khá lên. Sáng ngày 9 tháng Bảy, A. M. Va-xi-lép-xki lại liên lạc với P. I. Bô-đin qua máy điện báo. Các tin tức đều không đáng hài lòng. Xe tăng và bộ binh địch đã đột phá vào giữa Rốt-xô-sơ và Ôn-khô-vát-ca, vượt qua sông Trô-rơ-nai-a Ca-lít-va tiến về phía Nam.

P. I. Bô-đin báo cáo tình hình cho Bộ tổng tham mưu ngay từ đài chỉ huy mới đặt ở Ca-la-trơ. Nguyên soái X. C. Ti-mô-sen-cô thì vẫn nằm tại đài chỉ huy phụ ở Gô-rô-khôp-ca, phải đi ô tô bốn tiếng rưỡi mới tới Ca-la-trơ. Bô-đin thậm chí còn than phiền rằng:

“Tôi không tài nào và không thể truyền đạt được toàn bộ tính chất phức tạp của tình hình đã chín muồi ở chỗ chúng tôi cho nguyên soái bằng mật mã qua vô tuyến điện hoặc qua sĩ quan liên lạc. Tôi đã trình bày những kiến giải của tôi cho đồng chí Khơ-rút-sôp. Chúng tôi đã đi tới kết luận là nguyên soái cần phải tới đài chỉ huy chính. Chúng tôi không được trả lời, nhưng qua các đồng chí từ chỗ nguyên soái tới thì chúng tôi được biết rằng nguyên soái chưa vội gì phải đi ngay tới đài chỉ huy chính cả. Sự vắng mặt của nguyên soái không cho phép tiến hành được những biện pháp khẩn cấp để thực hiện quyết định một cách dứt điểm và nhanh chóng cần thiết… Thời gian trôi đi, tình hình sẽ trở nên phức tạp hơn mặc dù mọi biện pháp đã được tiến hành mà chưa báo cáo với nguyên soái. Tôi thật sự đang lo rằng việc đó sẽ không kết thúc tốt đẹp. Tôi cho rằng Đại bản doanh cần phải ra những chỉ thị cần thiết”.

Để làm rõ thêm vấn đề chỗ nối giữa mặt trận Tây – Nam và mặt trận Nam, một lần nữa A. M. Va-xi-lép-xki quay trở lại những chỉ thị của Đại bản doanh: “…Hôm qua tôi đã truyền đạt những chỉ thị, hôm nay tôi xin nói lại… và một lần nữa nhắc lại rằng Đại bản doanh dứt khoát yêu cầu các đồng chí phải tiến hành những biện pháp hết sức kiên quyết để tăng cường sườn bên phải của các đồng chí, song thế ra đáng tiếc là cho đến lúc này các đồng chí vẫn chưa thực hiện. Các đồng chí còn cần những chỉ thị gì của Đại bản doanh nữa kia chứ?”

P. I. Bô-đin cam đoan là đã ra mọi chỉ thị về việc bố trí lại quân do tình hình mới. Sau đó, một lần nữa đồng chí nói rằng “để có lợi cho công việc, trong điều kiện hiện tại, nên chỉ huy phương diện quân từ đài chỉ huy chính thì thích hợp hơn, chứ đừng từ đài chỉ huy phụ. Về vấn đề này, tôi đề nghị bộ tư lệnh ra chỉ thị cho bộ tư lệnh phương diện quân”.

Va-xi-lép-xki trả lời: “đồng chí Bô-đin, nếu việc đó là cần thiết thì đồng chí có thể truyền đạt lại cho tư lệnh phương diện quân là Đại bản doanh cho rằng để thuận tiện cho việc chỉ huy, tốt hơn là tư lệnh phương diện quân nên ở tại đài chỉ huy chính”.

P. I. Bô-đin bèn truyền đạt ngay đề nghị của Đại bản doanh cho tư lệnh phương diện quân. Việc đó đã có tác dụng: đồng chí nguyên soái chuyển về Ca-la-trơ. Chỉ đến khi ấy, bộ tư lệnh phương diện quân mới tập trung ở đài chỉ huy thuận tiện cho việc chỉ đạo các đơn vị bộ đội phù hợp với sự phát triển của tình hình.

Trưa ngày 9 tháng Bảy, I. V. Xta-lin đích thân liên lạc bằng máy điện báo với đồng chí tư lệnh và yêu cầu cho biết tình hình sườn bên phải của phương diện quân, những suy tính về kế hoạch hành động và những đề nghị về sự chi viện có thể tiến hành từ phía phương diện quân Nam.

X. C. Ti-mô-sen-cô báo cáo tình hình và rút ra kết luận sau đây: “Theo tất cả những sự quan sát của quân báo và theo các tài liệu của không quân, địch đang điều mọi lực lượng xe tăng và bộ binh cơ giới của chúng tiến xuống phía Tây – Nam, có lẽ nhằm đánh vào các tập đoàn quân 28 và 38 đang giữ tuyến phòng thủ, do đó đe dọa đưa cánh quân của chúng thọc vào các hậu tuyến sâu của phương diện quân Tây – Nam và phương diện quân Nam”.

Đồng chí tư lệnh thừa nhận rằng như vậy, một mối nguy lớn đang đe dọa các đơn vị bộ đội Liên Xô. Đồng chí cho rằng dựa vào những khả năng của bản thân mình thì phương diện quân chỉ có thể tạm thời kìm chân quân địch trên hướng Can-tê-mi-rốp-ca Min-lê-rô-vô, chứ không thể hoàn toàn kháng cự được, và đồng chí xin thêm quân bổ sung, nhất là máy bay.

Ở mặt trận phía Nam, tình hình cũng ngày càng trở nên nghiêm trọng. Bộ chỉ huy Hít-le đã mở một đợt tấn công dữ dội vào các tập đoàn quân 37 và 12 ở sườn phải. Xe tăng và bộ binh cơ giới thuộc tập đoàn quân xe tăng 1 của tên thượng tướng Clai-xtơ tấn công như vũ bão; ngoài 2 quân đoàn bộ binh ra, tập đoàn quân này còn bao gồm 3 quân đoàn xe tăng nữa. Không quân yểm trợ cho chúng cũng rất mạnh.

Chẳng bao lâu, người ta thấy rõ rằng địch tập trung cố gắng của chúng vào chỗ nối giữa mặt trận Tây – Nam và mặt trận Nam, từ phía Bắc đi bọc quanh các khu công nghiệp đông dân cư của vùng Đôn-bát bất lợi cho hoạt động của xe tăng chúng. Lúc này, mưu đồ của bộ chỉ huy Hít-le đã hoàn toàn lộ rõ: chúng định không những tiến tới sau lưng phương diện quân Tây – Nam và phương diện quân Nam, mà còn xé lẻ các đơn vị bộ đội ta để sau đó tiêu diệt từng bộ phận.

Ta đã nắm rõ ý đồ của địch, song phương diện quân Nam không có những lực lượng rỗi để đương đầu với địch hay ít ra là ngăn chặn bước tiến của xe tăng và bộ binh cơ giới địch. Tướng R. I-a. Ma-li-nốp-xki chỉ huy phương diện quân Nam lúc đầu quyết định chặn quân phát-xít Đức ở tuyến Min-lê-rô-vô, Pê-tơ-rô-páp-lốp-ca, Tséc-cát-xcôi-ê, nhưng hầu như ngay lập tức đành phải từ bỏ quyết định đó vì các đơn vị cơ động hơn của địch đã tới tuyến ấy trước ta. Phương dân quân Nam phải lái cánh Bắc sang phía Đông để địch không thể đánh bọc được cánh đó và đột phá vào hậu tuyến.

Đồng chí tư lệnh yêu cầu Đại bản doanh mở những đợt tấn công từ phía mặt trận Tây – Nam để đánh lạc hướng địch, cấp thêm xe tăng và máy bay “Để vĩnh viễn đập tan ý đồ của địch muốn tiến vào các hậu tuyến sâu của tôi giữa sông Đôn và Đô-ne-txơ trong cái tham vọng chung của chúng là tiên tới Xta-lin-grát”.

Bộ tổng tham mưu biết rõ hướng phát triển chung của các chiến dịch và ý đồ của bộ chỉ huy Hít-le tại sườn phía Nam mặt trận Xô – Đức. Kẻ địch định tiến đến Xta-lin-grát, vào Bắc Cáp-ca-dơ và chia cắt tất cả các đơn vị bộ đội ta ở phía Nam – lúc này các vùng đó đã trở thành trung tâm của cuộc chiến đấu trên mặt trận Xô – Đức. Trong khi đó, việc nhanh chóng làm thay đối diến biến của các sự kiện có lợi cho ta cũng không phải là một việc giản đơn.

Theo ý kiến Bộ tổng tham mưu, sẽ là hợp lý nếu hợp nhất tất cả mọi lực lượng của ta hoạt động từ Li-xki cho tới của sông Đôn thành một phương diện quân và đặt nó dưới quyền chỉ huy của R. I-a. Ma-li-nốp-xki. Dĩ nhiên, phương diện quân này sẽ chiếm giữ một vùng rất rộng lớn, nhưng ở đây lại có một cơ quan tham mưu giàu kinh nghiệm, hoạt động giỏi, đứng đầu là tướng A. I. An-tô-nốp và không còn nghi ngờ gì nữa, đồng chí này có khả năng chỉ huy tốt các đơn vị.

A. M. Va-xi-lép-xki báo cáo những ý kiến của Bộ tổng tham mưu cho Tổng tư lệnh tối cao. Thì ra I. V. Xla-lin cũng nghĩ như vậy. Và khi trao đổi ý kiến, R. I-a. Ma-li-nốp-xki có nhắc đến Xta-lin-grát thì Tổng tư lệnh tối cao đã chỉ thị cho đồng chí:

“Trong tình hình hiện nay, quân Đức có nhiệm vụ chủ yếu là tiến vào Xta-lin-grát, cắt đứt tuyến đường sắt còn lại duy nhất là Xta-lin-grát-ti-khô-rét-xcai-a nối phía Bắc với phía Nam, bằng cách đó bổ đôi toàn bộ mặt trận của Liên Xô và cắt đứt đường giao thông liên lạc giữa phía Bắc với ba phương diên quân phía Nam, cụ thể là phương diện quân Tây – Nam, Nam và Bắc Cáp-ca-dơ. Hiện nay, đó là nguy cơ to lớn nhất” (do tôi gạch dưới.-X. S.).

Phương diện quân Tây – Nam không thể đẩy lùi được bước tiến của địch chủ yếu là vì ban chỉ huy phương diện quân bị mất liên lạc với các đơn vị và hơi bị rối về mặt tổ chức. Ban chỉ huy đó không liên lạc được và không chỉ huy được tập đoàn quân 9. Tập đoàn quân 21 thì đã qua bên kia sông Đôn và đang đi vào ổn định. Tại mặt trận chỉ còn lại hai tập đoàn quân: tập đoàn quân 28 và tập đoàn quân 38, cùng cụm quân của Ni-ki-sép, phương diện quân cũng không liên lạc được thường xuyên với họ.

Không thể để tiếp tục kéo dài như vậy. Chúng tôi cho rằng lúc này cần phải… hợp nhất các tập đoàn quân của phương diện quân Nam với các tập đoàn quân của phương diện quân Tây – Nam thành phương diện quân Nam dưới sự chỉ huy của đồng chí trên tổng độ dài tuyến trận từ Rô-xtôp tới sông Đôn ở khu vực Vê-sen-xcai-a.

Còn phương diện quân Tây – Nam, tức là cơ quan tham mưu và bộ mảy của nó, thì chúng tôi định điều về Xta-lin-grát phụ trách tập đoàn quân dự bị 5, tập đoàn quân dự bị 7 đang đóng ở Xta-lin-grát và tập đoàn quân dự bị 1 sắp chuyển về Xta-lin-grát, để cả ba tập đoàn quân này cùng với tập đoàn quân 21 lập thành phương diện quân Xta-lin-grát với nhiệm vụ không để cho địch tiến tới sông Đôn thuộc khu vực Xta-lin-grát”.

Tiếp sau đó, A. M. Va-xi-lép-xki truyền đạt chó R. I-a. Ma-li-nốp-xki Chỉ thị Số 170495 của Đại bản doanh nêu rõ: nhiệm vụ của phương diện quân Xta-lin-grát, kề bên phương diện quân Nam, như sau: “…giữ vững tuyến Xta-lin-grát ở phía Tây sông Đôn và trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng không được để cho địch đột phá ở phía Đông tuyến đó vào hướng Xta-lin-grát”. Chỉ thị được truyền đạt vào hồi 2 giờ 45 phút ngày 12 tháng Bảy 1942.

Các đồng chí cũng ra chỉ thị cho cả phương diện quân Tây- Nam. Trong phần đầu bản chỉ thi, ý đồ của địch cũng được cắt nghĩa rõ như khi Tổng tư lệnh tối cao giải thích cho R. I-a. Ma-li-nốp-xki, nhưng còn chỉ rõ thêm rằng: “..Đại bản doanh đặc biệt lưu ý rằng không được để cho địch đột phá vào Xta-lin-grát”.

Vậy là phương diện quân Xta-lin-grát đã được thành lập. Biên chế của nó bao gồm ba tập đoàn quân dự bị mà chúng ta đã nói tới và tập đoàn quân 21. Sau đó, nó được bổ sung thêm các tập đoàn quân 28, 38 và 57, tập đoàn quân không quân 8 và Chi hạm đội Vôn-ga. Kể từ ngày 23 tháng Bảy, tướng V. N. Goóc-đôp bắt đầu tham gia chỉ huy phương diện quân thay X. C. Ti-mô-sen-cô; ủy viên Hội đông quân sự là N. X. Khơ-rút-sôp; tướng P. I. Bô-đin vẫn làm tham mưu trưởng.

Lúc này, tôi có nhiệm vụ phải chăm chú theo dõi gấp ba sự tiến triển của tình hình: chiến sự có thể sắp lan sang Cáp-ca-dơ. Tổng tham mưu trưởng lưu ý Tổng tư lệnh tối cao rằng địch có thể xuất hiện ở Bắc Cáp-ca-dơ và đi qua vùng Rô-xtôp: vượt sông Đôn ở nơi nào đó gần làng Véc-khơ- ne – Cuốc-mô-i-ác-xcai-a hoặc quá về phía Tây một chút.

I. V Xta-lin ra lệnh giao cho phương diện quân Bắc Cáp-ca-dơ phòng thủ bờ trái sông Đôn từ làng đó cho tới cửa sông. Nhưng các đơn vị của phương diện quân này đã bị yếu đi sau khi người ta gấp rút chuyển giao các trường bộ binh Oóc-giô-ni-kít-dê và Gi-tô-mia, trường súng máy – súng cối ở Cra-xnô-đa vào khu vực mặt trận Xta-lin-grát nguy hiểm hơn. Các đồng chí ở Bắc Cảp-ca-dơ còn có nhiều nhiềm vụ khác nữa, nảy sinh do cuộc rút lui của các đơn vị bộ đội phương diện quân Xta-lin-grát.

Đề phòng trường hợp xảy ra tình hình đặc biệt, Bộ tổng tham mưu đã tính đến những lực lượng có thể huy động được để phòng thủ Cáp-ca-dơ, nghiên cứu những phương án tiến quân có thể có và những tuyến thuận lợi để triển khai các đơn vị, những khả năng có thể huy động được của vùng và nói chung là tất cả những gì có liên quan tới việc tổ chức chống trả địch ở Cáp-ca-dơ.

Các sự biến vẫn tiếp tục phát triển bất lợi cho ta. Chẳng bao lâu, các lực lượng chủ yếu của tập đoàn quân xe tăng Đức 4 từ phía Đông đánh bọc các tập đoàn quân 38 và 9 của ta. Địch tiến qua Mô-rô-dôp-xcai-a tới chỗ qua sông Đôn ở Txim-li-an-xcai-a, nơi đây chúng vấp phải sự kháng cự yếu ớt của các đơn vị bộ đội đã được bổ sung thuộc tập đoàn quân 51 của ta. Đông thời, xe tăng cùng với bộ binh cơ giới địch đã từ phía Bắc đột ngột quặt vào Li-khai-a, Sa-khơ-tư và Nô-vô-tséc-cát-xcơ, cắt rời các lực lượng cơ bản của phương diện quân Nam ở Đôn-bát.

Tình hình mặt trận này ngày càng trở nên gay go và ngày 16 tháng Bảy, A. M. Va-xi-lép-xki, theo chỉ thị của Đại bản doanh, đã thông báo cho tư lệnh phương diện quân Bắc Cáp-ca-dơ biết rằng “vào những ngày sắp tới phương diện quân Nam sẽ bắt đầu rút khỏi mặt trận đang chiếm giữ về tuyến bờ Nam sông Đôn từ Véc-khơ-ne – Cuốc-mô-i-ác-xcai-a và tiếp theo cho tới suốt khu vực bố phòng Rô-xtap”. Trách nhiệm giữ tuyến sông Đôn được dành cho phương diện quân Bắc Cáp-ca-dơ.

Trong lúc đó, bộ chỉ huy Hít-le vẫn tiếp tục dùng những khối lượng lớn xe tăng và bộ binh thuộc tập đoàn quân Đức 6 của tướng Pao-lút để gây sức ép dữ dội đối với tập đoàn quân 62 của phương diện quân Xta-lin-grát (Theo chỉ thị của Đại bản doanh, từ ngày 12 thảng Bảy 1942, các tập đoàn quân dự bị 1, 5 và 7 được đổi tên tương ứng thành các tập đoàn quân 64, 63, 62 và từ 6 giờ cùng ngày hôm đó, được đưa vào biên chế của phương diện quân Xta-lin-grát.) tại khúc ngoặt lớn của sông Đôn ở phía Tây Ca-la-trơ.

Địch có mưu đồ đánh bọc hai sườn của tập đoàn quân 62, bao vây và tiêu diệt tập đoàn quân này ở phía Tây sông Đôn. Nếu như mưu đồ đó thành công thì địch sẽ dọn được đường tới ngưỡng cửa Xta-lin-grát, cắt đứt giao thông đường sắt của Xta-lin-grát với phía Bắc. Ngay lập tức, nhiều vấn đề được đặt ra trước ban lãnh đạo chiến lược của Liên Xô: chặn địch tại các cửa ngõ xa của Xta-lin-grát, giáng trả địch tại vùng hạ lưu sông Đôn, rút các tập đoàn quân thuộc phương diện quân Nam khỏi cuộc tấn công, chặn các con đường vào Cáp-ca-dơ của địch.

Bắt đầu thiên anh hùng ca Xta-lin-grát và cuộc phòng thủ Cáp-ca-dơ anh hùng.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx