sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Chương 5: Bước Ngoặt

Mối nguy đối với Cáp-ca-dơ. – Báo cáo đầu tiên của tôi ở Đại bản doanh. – Chuyến đi công tác ở Da-cáp-ca-dơ. – Đóng kín các đèo. – Lá chắn ở vùng ven Biển Đen. – Địch bị chặn lại. – Những điềm báo trước cuộc tấn công vào Bắc Cáp-ca-dơ. – Bộ tổng tư lệnh tối cao tập trung sự quan tâm của mình vào Cụm Biển Đen. – Không nên thành lập tập đoàn quân kỵ binh ư?- Kế hoạch “Núi” và kế hoạch “Biển” – Căn cứ bàn đạp Ta-man. – Hai cuộc đổ bộ ở Nô-vô-rô-xi-xcơ. – Nguyên soái Gh. C. Giu-cốp tới Cu-ban. – Sụ phá sản của “phòng tuyến xanh”.

Đồng chí A. M. Va-xi-lép-xki lên nhận chức Tổng tham mưu trưởng đã có ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến công tác của Cục tác chiến. Trong vòng nửa năm, đã có mấy đồng chí thay nhau làm cục trưởng. Giữ chức vụ này lần lượt là các đồng chí P. I. Bô-đin, A. N. Bô-gô-liu-bôp (hai lần làm cục trưởng), V. Đ. I-va-nốp. Các đồng chí P. G. Ti-khô-mi-rốp, P. P. Vê-tsơ-nưi, S. N. Ghê-nhi-a-tu-lin tạm thời quyền cục trưởng trong những thời gian chưa có cục trưởng mới.

Vì theo lệnh của Tổng tư lệnh tối cao, đồng chí A. M. Va-xi-lép-xki đã dùng phần lớn thời gian tại các mặt trận, nên lãnh đạo Bộ tổng tham mưu trong lúc vắng đồng chí Va-xi-lép-xki là chính ủy Ph. E. Bô-côp, một con người rất tốt, một cán bộ đảng cừ khôi, nhưng không được đào tạo để thực hiện những chức năng có tính chất tác chiến thuần túy.

Việc Tổng tham mưu trưởng hay đi xuống các mặt trận trong từng thời gian dài và việc luôn luôn thay đổi cục trưởng tác chiến đã gây nên một không khí căng thẳng trong chúng tôi. Vì vậy tính xác định trong công tác thường hay bị vi phạm. Trong một-hai tháng phụ trách cục, không ai kịp đi sâu vào công việc, nắm vững tình hình và vì vậy không thể vững tâm mỗi lần lên Đại bản doanh báo cáo. Cho nên, “để phòng xa”, các đồng chí ấy đều phải đem theo bên mình các chủ nhiệm khu vực mặt trận để nhỡ khi có gì cần thiết phải báo cáo rõ thêm. Phòng khách của cục trưởng Cục tác chiến (chúng tôi thường gọi là “phòng chuẩn bị tắm”) lúc nào cũng đầy những người là người. Một số cố tìm cách làm được một việc gì đó ngồi nghiên cứu các tài liệu nào đó, còn phần lớn đều để phí thời gian vô ích …

Tình trạng đó lại càng đáng tiếc hơn khi tình hình lại trở nên cực kỳ căng thẳng, đòi hỏi tất cả chúng tôi phải có những hoạt động đặc biệt dứt khoát.

Khi đã rõ là quân phát-xít Đức nhất định sẽ tràn xuống phía Nam dọc theo ven biển Ca-xpi-en và vượt qua dãy núi Cáp-ca-dơ, một vấn đề mới không sao tránh khỏi được đặt ra rất gay gắt trước mắt chúng tôi: liệu Thổ Nhĩ Kỳ có ủng hộ chúng không? Nếu ở I-ran, mọi việc lúc này đều tương đối thuận lợi thì vấn đề Thổ Nhĩ Kỳ lại có khác. Hồi giữa năm 1942, không ai có thể cam đoan rằng Thổ Nhĩ Kỳ không đứng về phía Đức. Không phải vô cớ mà hồi đó có tới 26 sư đoàn Thổ Nhĩ Kỳ đã được tập trung ở sát biên giới Da-cáp-ca-dơ xô-viêt.

Phải khóa chặt biên giới Liên Xô – Thổ Nhĩ Kỳ và dùng lực lượng tập đoàn quân 45 bảo vệ miền biên giới, phòng mọi sự bất trắc. Để ngừa trường hợp quân Thổ đi qua I-ran tiến công vào Ba-cu, ta đã áp dụng những biện pháp đề phòng cần thiết cả trên biên giới I-ran – Thổ Nhĩ Kỳ. Thời gian này, quân đoàn kỵ binh 15 được tăng cường một sư đoàn bộ binh và một lữ đoàn xe tăng đang đóng ở đây.

Cần lưu ý rằng kế hoạch yểm hộ Da-cáp-ca-dơ đã có từ thời bình. Năm 1941, sau khi bộ đội ta tiến vào I-ran, kế hoạch này đã được chuẩn xác thêm, song vẫn chưa được coi trọng đến mức cần thiết. Tới cuối năm 1941, khi quân Đức đã chiếm được Rô-xtôp rồi và lần đầu tìm cách tràn vào Cáp-ca-dơ thì thấy cần phải cơ bản tu chỉnh lại kế hoạch này, vì phải yểm hộ chắc vùng Da-cáp-ca-dơ, không chỉ từ phía Thổ Nhĩ Kỳ mà từ cả phía Bắc nữa. Vả lại, trong những điều kiện bây giờ, hướng Bắc vẫn được coi là hướng chủ yếu.

Được thành lập từ năm 1941, biên chế phương diện quân Da-cáp-ca-dơ lúc đầu có tập đoàn quân 45, 46 và bộ đội đang đóng ở I-ran, đến tháng Sáu 1942, lại có thêm tập đoản quân 44 sau khi tập đoàn quân này đã được chấn chỉnh, bổ sung xong ở khu vực Ma-kha-trơ-ca-la. Bộ đội của phương diện quân Bắc Cáp-ca-dơ cũng có nhiệm vụ yểm hộ cho Da-cáp-ca-dơ. Nhưng toàn bộ sồ lực lượng này rõ ràng vẫn không đủ để làm nhiệm vụ đó. Theo đề nghị của Bộ Tổng tham mưu, nhiều đơn vị bộ đội đã được cấp tốc điều từ Trung Á và các nơi khác sang miền này.

Ngày 23 tháng Sáu, Hội đồng quân sự Phương diện quân Da-cáp-ca-dơ đệ trình lên Mát-xcơ-va kế hoạch phòng thủ Da-cáp-ca-dơ dưới dạng mới, đã được tu chỉnh. Ngay trong kế hoạch này, mọi thiếu sót đã bộc lộ ra còn rõ rệt hơn. Tất nhiên, tình trạng thiếu lực lượng đã có ảnh hưởng đến kế hoạch sử dụng bộ đội.

Bộ tư lệnh phương diện quân đã hoàn toàn đúng khi chủ trương điều tập đoàn quân 44 ra tuyến sông Tê-rếch để củng cố hướng Ba-cu, song đã để cho cả triền núi Cáp-ca-dơ chính hầu như không được bảo vệ. Nhiệm vụ này được giao cho tập đoàn quân 46 có số quân rất ít đảm nhiệm. Do đó, ở đèo ngang Ma-rúc-xki chẳng hạn, chỉ vẻn vẹn có một đại đội bộ binh cùng một trung đội súng cối và một trung đội công binh phòng giữ, còn đèo ngang Clu-kho-rơ thì được hai đại đội bộ binh và một trung đội công binh yểm hộ.

Với những lực lượng như vậy, tất nhiên không thể mong giữ được các đèo ngang. Sau khi vạch cho tư lệnh phương diện quân thấy những thiếu sót ấy trong kế hoạch, Bộ tống tham mưu liền bắt tay đi tìm những lực lượng dự bị có thể dùng để củng cố tuyến phòng thủ Da-cáp-ca-dơ. Trong tháng Tám, hai quân đoàn bộ bình cận vệ 10, 11 và mười một lữ đoàn bộ binh độc lập đã được điều thêm đến vùng này.

Để thuận tiện cho việc chỉ huy, các đơn vị phòng ngự trên các tuyến sông U-rúc và Tê-rếch đã hợp thành cái gọi là Cụm chiến dịch phía Bắc do I. I. Ma-xlen-ni-cốp làm tư lệnh, gồm có tập đoàn quân 44, cụm quân của tướng V. N. Cu-rơ-đi-u-mốp đã nhập vào tập đoàn quân 9 và sau nữa có thêm cả tập đoàn quân 37 rút từ Đôn-bát và sông Đôn về. Tướng Ma-xlen-ni-cốp được giao nhiệm vụ yểm hộ vững vàng cho hướng Ba-cu và tuyến đường chủ yếu chạy qua dãy núi Cáp-ca-dơ: tuyến đường quân sự Gru-di-a.

Nhiều biện pháp tổ chức lớn đã được tiến hành trong phương diện quân Bắc Cáp-ca-dơ. Ngay từ ngày 28 tháng Bảy, các tập đoàn quân của phương diện quân Nam bị giải thể và rút lui về đây được hợp nhất vào phương diện quân Bắc Cáp-ca-dơ, ở đây thành lập ra hai cụm chiến dịch: cụm chiến dịch sông Đôn do trung tướng R. I-a. Ma-li-nôp-xki làm tư lệnh và cụm chiến dịch miền Duyên hải do thượng tướng I-a. T. Trê-rê-vi-tsen-cô chỉ huy.

Cuối tháng Bảy và suốt mười lăm ngày đầu tháng Tám đã diễn ra những trận chiến đấu phòng ngự ác liệt trên cánh đồng Cu-ban. Bộ binh Liên Xô đã anh dũng chiến đấu, nhưng địch vẫn tiến từng bước lên phía trước và trong những ngày 20 tháng Tám, chúng đã tới Tê-rếch. Tại đây, cụm chiến dịch phía Bắc của phương diện quân Dá-cáp-ca-dơ đã bước vào chiến đấu. Điểm yếu của cụm chiến dịch này là tình trạng trang bị rất kém. Ví như sư đoàn bộ binh 417, theo hiện tình ngày 10 tháng Tám, chỉ vẻn vẹn có 500 súng trường. Chỉ một nửa sô quân của sư đoàn 151 được trang bị, mà lại trang bị bằng súng trường nước ngoài. Một trong những lữ đoàn bộ binh chỉ có 30% số quân được trang bị vũ khí và hoàn toàn không có súng máy, đại bác.

Tất cả những tình hình trên đã gây nên mối lo ngại to lớn. Mà cũng phải lẽ thôi. Quân địch đã chiếm được đèo ngang Au-kho-rơ sau một trận đột phá bất ngờ và ngắn. Mãi ba ngày sau, cơ quan tham mưu của tập đoàn quân 46 mới biết tin này.

Những kỷ niệm của tôi về lần đầu tiên lên Đại bản doanh báo cáo, mật thiết gắn liền với công cuộc phòng ngự Da-cáp-ca-dơ. Chuyện ấy như sau.

Một đêm nọ, đồng chí Ph. E. Bô-cốp từ điện Crem-li gọi điện thoại đến lệnh cho đại tá K. Ph. Va-xin-tren-cô, người thay đại tá I. I. Bôi-cốp, và tôi mang ngay bản đồ công tác đến Đại bản doanh báo cáo. Có xe đến đón và chúng tôi ra xe lên đường.

Đến Crem-li, một trung tá tôi không quen ra đón và dẫn chúng tôi lên tầng hai, đến phòng khách của Xta-lin. Cả hai chúng tôi đều hồi hộp, vì biết sẽ phải trả lời về tình hình trên các khu vực mặt trận chúng tôi phụ trách. Ít phút sau, chúng tôi được triệu tập đến văn phòng của Tổng tư lệnh tối cao, ở đó, ngồi sau chiếc bàn lớn kê cạnh tường, một bên là các đồng chí Mô-lô-tốp, Ma-len-côp, Mi-côi-an và một bên là các đồng chí Ph. E. Bô-cốp, cục trưởng Cục tác chiến mới được bổ nhiệm, P. I. Bô-đin và I-a. N. Phê-đô-ren-cô. Xta-lin đi đi lại lại trong phòng. Chúng tôi trình diện.

Xta-lin hỏi chúng tôi:

- Các đồng chí có thể báo cáo tình hình ở Xta-lin-grát và ở miền Nam không?

Cả hai chúng tôi đồng thanh trả lời:

- Xin sẵn sàng!

K. Ph. Va-xin-tren-cô báo cáo trước về tình hình ở Xta-lin-grát. Tổng tư lệnh tối cao rất chú ý tới tình hình và tình trạng bộ đội: đơn vị nào rút về tuyến nào, những đơn vị đang rút lui sẽ phối thuộc vào đơn vị nào, thê đội hai bố trí ở đâu, các lực lượng dự bị ở đâu, tình hình cung cấp vật chất ra sao. Va-xin-tren-cô nắm được hết và báo cáo rất rành rọt.

Sau đến lượt tôi. Tôi mở bản đồ và báo cáo: những đơn vị nào đang phòng ngự ở Tê-rếch, còn có thể bố trí thêm những đơn vị nào nữa, hướng Ba-cu và tuyến đường quân sự Gru-di-a được yểm hộ như thế nào. Tôi không quên nói về tình trạng sức yểm hộ còn yếu ở những đèo ngang qua dãy núi Cáp-ca-dơ, chính mối nguy cơ trên các hướng Nô-vô-rô-xi-xcơ và Tu-áp-xe và về sự cần thiết phải đẩy nhanh việc xây dựng các tuyến phòng ngự.

Xta-lin lắng nghe, không ngắt lời tôi. Chỉ khi tôi báo cáo xong, đồng chí mới hỏi:

- Ở Da-cáp-ca-dơ còn có những đơn vị nào nữa?

Tôi báo cáo.

- Có thể điều thêm những đơn vị nào từ Trung Á đến đây?

- Sư đoàn bộ binh núi 83 do thiếu tướng Lu-trin-xki làm tư lệnh. – Tôi trả lời và liền nói thêm: – Bố trí sư đoàn này trên hướng Tu-áp-xe thì tốt hơn. Và, còn có thể lấy thêm một sư đoàn nữa.

- Có thể rút bao nhiêu đơn vị ở I-ran? – Tổng tư lệnh tối cao hỏi.

- Từ một đến hai sư đoàn, chứ không thể hơn. – Và tôi nói rõ tại sao.

- Phải đặc biệt chú ý hướng Ba-cu. – Xta-lin nói, quay về phía P. I. Bô-đin.

Tổng tư lệnh tối cao xử sự rất giản dị. Những lúng túng ban đầu của chúng tôi dần dần mất đi. Báo cáo gần xong, cả Va-xin-tren-cô lẫn tôi đều cảm thấy hoàn toàn thoải mái.

- Lúc đi, cần đem những đại tá này theo, – Tổng tư lệnh tối cao nói và không hướng vào ai cả.

Đến đây, mọi việc đã giải quyết xong, chúng tôi được phép ra về. Cách mấy ngày sau, kể từ hôm được triệu tập đến Đại bản doanh, đúng ngày 21 tháng Tám, P. I. Bô-đin nói với tôi:

- Đồng chỉ hãy chuẩn bị, đúng 4 giờ sáng mai chúng ta ra sân bay. Hãy mang theo một nhân viên mật mã và một số cán bộ trợ lý theo dõi các khu vực mặt trận.

Lúc này hầu như tôi không cần phải chuẩn bị gì nữa, vì mọi tin tức, tình huống của khu vực mặt trận, tôi như đã thuộc lòng: tôi đã sống và làm việc ở đây, ở phố Ki-rôp. Sáng sớm hôm sau, đúng giờ đã định, tôi lên xe của Bô-đin đi tới sân bay Trung tâm. Máy bay Xi-47 đang đợi chúng tôi ở đó. Đại tá V G. Gra-trép, người lái máy bay, tới trình diện Bô-đin.

Chúng tôi bay qua Trung Á tới Tơ-bi-li-xi. Bọn Đức đã chặn mất con đường bay thẳng tới đây. Chúng tôi hạ cánh xuống Cra-xnô-vôt-xcơ lúc chiều tối, đến khi trời tối hẳn chúng tôi vượt qua biển Ca-xpi-en tới Ba-cu, Tơ-bi-li-xi.

Chúng tôi đến Tơ-bi-li-xi lúc gần nửa đêm và từ sân bay chúng tôi đi thẳng tới cơ quan tham mưu phương diện quân. Thành phố vẫn còn chưa đi ngủ. Nhiều đường phố còn rực sáng và rất đông người.

P. I. Bô-đin lập tức nghe báo cáo của tham mưu trưởng phương diện quân A. I. Xu-bôt-tin và giải thích nhiệm vụ chúng tôi khi tới đó: chuẩn xác tình huống ngoài thực địa, định ra những biện pháp bổ sung nhằm tăng cường phòng ngự Da-cáp-ca-dơ và áp dụng những biện pháp đó, xây dựng các đội dự bị lấy từ những đơn vị đã và đang rút từ phía Bắc về Da-cáp-ca-dơ và những người của địa phương mới động viên, cuối cùng đẩy nhanh việc chuẩn bị các tuyến phòng ngự, trước hết là tuyến phòng ngự trên hướng Ba-cu.

Lúc kết luận, Bô-đin nói với tư lệnh phương diện quân:

- Các nước đồng minh đang muốn lợi dụng tình thế khó khăn của chúng ta trên các mặt trận và mưu toan bắt ta phải đồng ý để cho quân đội Anh tiến vào Da-cáp-ca-dơ. Đồng chí có biết thế không? Tất nhiên, chúng ta không thể để cho họ làm như vậy. Hội đồng quốc phòng Nhà nước coi việc bảo vệ Da-cáp-ca-dơ là nhiệm vụ quan trọng nhất của nhà nước và chúng ta phải dùng mọi biện pháp nhằm đánh lui cuộc tiến công của quân địch, tiêu hao rồi tiêu diệt chúng. Phải chôn vùi mọi hy vọng của Hít-le và mọi thèm muốn của những nước đồng minh…

Hoạt động thực tiễn của chúng tôi ở đây bắt đầu từ ngày 24 tháng Tám, khi Da-cáp-ca-dơ ban bố tình trạng chiến tranh. Tát cả những đơn vị bộ đội đã rút một cách có tổ chức từ phía Bắc về đều được bố trí phòng ngự ở Tê-rếch, vùng ven dãy núi Cáp-ca-dơ, trên các hướng Tu-áp-xe và Nô-vô- rô-xi-xcơ. Còn những đơn vị và binh đoàn nào đã bị tiêu hao trong các trận chiến đấu trước đây, bị mất các cơ quan chỉ huy hoặc trang bị, thì được rút về phía sau. Trên hướng chủ yếu, hướng Ba-cu ngày 28 tháng Tám bắt đầu thành lập tập đoàn quân 58. Ở khu vực Ki-dơ-h-a-rơ đã tập trung quân đoàn kỵ binh hỗn hợp.

Sau khi chúng tôi đã tỉ mỉ nghiên cứu xong tình huống thì có quyết định xây dựng các khu phòng ngự ở những vùng trung tâm chiến dịch quan trọng. Có tất cả ba khu như vậy: đặc khu Ba-cu, khu Grô-dơ-nưi và khu Vla-đi-cáp-ca-dơ. Tư lệnh các khu phòng ngự này đồng thời làm phó tư lệnh các tập đoàn quân phòng vệ những vùng cửa ngõ của các khu trên.

Nhiệm vụ bảo vệ tuyến đường quân sự Gru-di-a được hoàn toàn giao cho một sư đoàn bộ binh. Lực lượng chủ yếu của sư đoàn chôt chặt lối tiến vào khu vực Oóc-giô-ni-kít-dê. Và khu vực này còn có thêm một sư đoàn nữa điều từ Gô-ri tới.

Hướng Ba-cu đang có nhiều việc bận rộn. Khi tới nơi, chúng tôi phát hiện thấy việc xây dựng các tuyến phòng ngự đang được tiến hành rất chậm. Rõ ràng là không đủ lực lượng để đảm nhiệm công việc này. Ngày 16 tháng Chín, Hội đồng quốc phòng Nhà nước, theo đề nghị của chúng tôi, đã ra một nghị quyết đặc biệt về việc huy động mỗi ngày chín mươi nghìn dân địa phương tham gia xây dựng phòng ngự ở các khu vực Ma-kha-trơ-ca-la, Đéc-ben-tơ và Ba-cu. Sau đó, mọi việc đều hoàn toàn trôi chảy.

Suốt ngày đêm, ta đã khẩn trương xây dựng công sự, hào chống tăng và bố trí các chướng ngại chống tăng. Ngoài ra, ngày 29 tháng Chín, Đại bản doanh đã ra lệnh thực hiện ở đây một loạt biện pháp nữa nhằm củng cố phòng ngự và đã điều 100 xe tăng tới để tăng cường lực lượng phòng ngự.

Công cuộc phòng ngự trên hướng quan trọng khác, hướng Tu-áp-xe, cũng được đặc biệt chú ý. Từ đầu tháng Tám, Bộ tổng tham mưu đã luôn luôn quan tâm đến trận tuyến này. Nếu đột phá vào Tu-áp-xe, địch sẽ từ phía Bắc tiến vào hậu tuyến các đơn vị bộ đội phòng ngự Da-cáp-ca-dơ và sẽ chiếm lấy con đường tiếp cận thuận lợi nhất ở dọc ven biển Xô-tri và Su khu-mi. Địch rất kiên quyết nhưng không sao thực hiện được ý định ấy.

Ngày 5 tháng Tám, Đại bản doanh đã ra chỉ thị đặc biệt về việc này và sau đó, qua mười ngày chiến đấu ác liệt ta đã chặn đứng được quân địch trên sườn phía Bắc dãy núi Cáp-ca-dơ chính, cách Tu-áp-xe 50 ki-lô-mét. Tuy nhiên, sau đây tình hình ở đây vẫn căng thẳng đến tột độ.

Trên bán đảo Ta-man và ở Nô-vô-rô-xi-xcơ, nơi có các căn cứ của hải quân ta, tình huống cũng không kém phần nghiêm trọng. Địch có ý định từ đây góp phần đột kích vào Tu-áp-xe và chúng đã đạt được nhiều kết quả quan trọng hơn. Cuối tháng Tám – đầu tháng Chín, chúng đã chiếm được bán đảo này và phần lớn miên Nô-vô-rô-xi-xcơ. Tập đoàn quân 47 và các đơn vị hải quân phòng ngự cái hải cảng lớn nhất này của vùng ven Biển Đen đã lâm vào tình the thật hiểm nghèo. Chỉ có sự kiên cường của bộ đội, nghệ thuật và lòng dũng cảm của các cấp chỉ huy, tính hợp lý của các quyết tâm cần có và thái độ kiên quyết thực hiện những quyết tâm đó mới quyết định được kết cục của trận giao tranh này.

Chúng tôi cho rằng: khu vực này trước hết cần tổ chức chỉ huy bộ đội cho thật vững. Ngày 1 tháng Chín, trên cơ sở của phương diện quân Bắc Cáp-ca-dơ, đã thành lập Cụm Biển Đen trực thuộc phương diện quân Da-cáp-ca-dơ. Mấy ngày sau, trung tướng I. E. Pê-tơ-rôp, người anh hùng của cuộc phòng thủ Xê-va-xtô-pôn, đến nhận nhiệm vụ tư lệnh cụm chiến dịch này, Hội đồng quân sự phương diện quân đề nghị cử thiếu tướng A. A. Grê-xcô làm tư lệnh tập đoàn quân 47 và toàn khu vực phòng ngự Nô-vô-rô-xi-xcơ, cử phó đô đốc hải quân X. G. Goóc-scốp Chỉ huy phòng ngự thành phố Nô-vô-rô-xi-xcơ. Đại bản doanh đã phê chuẩn đề nghị ấy. Kết quả liền được thể hiện ra ngay. Ngày 10 tháng Chín, bộ đội Liên Xô đã chặn đứng được quân địch ở phần phía Đông Nô-vô-rô-xi-xcơ, giữa các nhà máy xi-măng, và buộc chúng phải chuyển sang phòng ngự.

Dãy núi Cáp-ca-dơ chính không nằm trong phạm vi hoạt động của Cụm Biển Đen và Cụm phía Bắc. Tập đoàn quân 46 phòng ngự dãy núi này đúng ra phải trực thuộc bộ tư lệnh phương diện quân. Nhưng, về sau trực thuộc cơ quan tham mưu phương diện quân đã có một cơ quan đặc biệt mang tên “cơ quan tham mưu các đơn vị phòng ngự dãy núi Cáp-ca-dơ”. Đứng đầu cơ quan này là tướng G. L. Pê-tơ-rốp trong Bộ dân ủy nội vụ. Phải nói thẳng ra rằng đây là một cấp trung gian giả tạo và hoàn toàn không cần thiết. Trong thực tế, cơ quan tham mưu này đã thay thế cơ quan chỉ huy của tập đoàn quân 46.

Việc phòng ngự dãy núi này không được tổ chức chặt chẽ. Bộ tư lệnh phương diện quân đã đánh giá quá cao tính hiểm hóc bất khả xâm phạm của miền này và vì vậy đã để mất đèo ngang Clu-kho-rơ ngày 15 tháng Tám. Trong tình hình ấy đèo ngang Ma-rúc-xki cũng có thể bị chiếm và do đó có nguy cơ quân Đức có thể tiến xuống phía Nam, tới Biển Đen.

Những sai lầm phạm phải đã được gấp rút sửa chữa. Nhiều đội quân gồm những người trèo núi và nhân dân vùng rẻo cao đã cấp tốc được thành lập và điều tới bảo vệ các đèo ngang. Ngoài ra, còn điều thêm nhiều đơn vị chính quy tới vùng này. Ở khu vực Cra-xnai-a Pô-li-a-na, sư đoàn bộ binh núi 20 do đại tá A. P. Tua-trin-xki chỉ huy, trung đoàn biên phòng 23 và trung đoàn cơ giới 33 của Bộ dân ủy nội vụ chặn đường ra biển của địch ở Xô-tri. Còn ở quá phía Đông khu vực này thì có một đơn vị lớn của đại tá I. I. Pi-ia-sép đảm nhiệm nhiệm vụ phòng ngự. Tiếp nữa là các đơn vị thuộc sư đoàn bộ binh 394 của trung tá I. G. Can-ta-ri-a và các đơn vị khác.

Nhiều đội công nhân vũ trang cũng đã được điều tới các mỏm núi. Toàn bộ đại gia đình các dân tộc miền Cáp-ca-dơ đã đứng lên chống địch. Cuộc đấu tranh sinh tử với những người khách không mời mà đến đã diễn ra quyết liệt trên các tuyến chiến đấu và ở phía sau quân địch. Tình hữu nghị anh em giữa các dân tộc đã vượt qua mọi thử thách. Mọi tính toán của bọn chiếm đóng trông đợi vào sự suy yếu của mối tình hữu nghị ấy, đã hoàn toàn sụp đổ

Chính trong thời gian này đã diễn ra những sự kiện ở khu vực đèo ngang Ma-rúc-xki. Trong những điều kiện rất khó khăn, các chiến sĩ bảo vệ đèo ngang đã anh dũng đánh bại mọi mưu toan của các đơn vị miền núi Đức nhằm đánh chiếm đèo ngang và đột phá vào đây qua dãy núi Cáp-ca-dơ chính. Các đồng chí đã hoàn thành nhiệm vụ quang vinh của những quân nhân cho đến phút cuối cùng.

Những trận chiến đấu ác liệt đã diễn ra ở Tê-rếch. Tập đoàn quân xe tăng 1 bao gồm 2 quân đoàn bộ binh và 3 quân đoàn xe tăng địch tiến công ta ở đây. Mũi đột kích của chúng nhằm cùng một lúc tiến ra tới tận bờ biển Ca-xpi-en lẫn tuyến đường quân sự Gru-di-a. Song, quân Đức không hề thu được kết quả gì ở cả hai nơi trên.

Những trận chiến đấu tại những cửa ngõ vào Oóc-giô-ni-kít-dê và Grô-dơ-nưi đã hoàn toàn thất bại và làm cho chúng bị tổn thất nặng. Dù cố sức đến mấy, chúng cũng không sao tới được vùng dầu lửa Grô-dơ-nưi và Ba-cu. Và, ý đồ của địch nhằm mở đường sang Cận Đông thế là cũng tan vỡ nốt.

Quân Đức cũng thoát khỏi cảnh tượng ấy trên hướng Biển Đen, mặc dù chúng đã đặc biệt tích cực hoạt động, nhất là ở Tu-áp-xe. Từ cuối tháng Chín, sau khi đã chuyển quân tập kết nhiều binh lực lớn, chúng một lần nữa mở các cuộc tiến công, rõ ràng nhằm bao vây và tiêu diệt chủ lực của tập đoàn quân 18. Vùng ven biển lại bị uy hiếp một lần nữa. Trong điều kiện ấy, Đại bản doanh và Hội đổng quân sự phương diện quân đã điều động nhiều lực lượng mới đến tăng cường cho tập đoàn quân và đến giữa tháng Mười thì cư tướng A. A. Grê-xcô làm tư lệnh tập đoàn quân này.

Cả công tác chính trị cũng đã được đẩy mạnh. Trong quá trình chiến đấu ác liệt bộ đội xô-viết đã bị cột chặt vào dãy núi cuối cùng trên đường vào Tu-áp-xe, nhưng đã không để cho quân địch vượt qua được. Những đợt phản kích tiếp sau mới hắt được chúng sang phía bên kia sông Pơ-si-sơ.

Trên cái tuyến quan trọng này đối với chúng ta, lực lượng hai bên lúc đầu tương đương nhau, nhưng về sau chúng ta có ưu thế hơn đôi chút. Vì vậy đến giữa tháng Mười một, khi bọn Hít-le cố sức đột phá lần thứ ba vào Tu-áp-xe, thì mọi cố gắng của chúng đều phí công; hơn nữa, một phần lực lượng tiến công của quân địch lại bị bao vây rồi bị tiêu diệt hoàn toàn.

Sau đó, trên hướng Tu-áp-xe, quân đội phát-xít Đức không còn chuyển sang tiến công được nữa. Bọn chúng cũng không vượt qua được dãy núi Cáp-ca-dơ, mặc dầu đã sử dụng quân đoàn bộ binh núi thiện chiến. Còn ở sườn Bắc En-brút, quân địch chỉ chiếm được “trạm số 11” của những người leo núi, nhưng cũng không tiến được xa hơn nữa.

Khi công tác ở Da-cáp-ca-dơ, chúng tôi luôn luôn dựa chắc vào các sĩ quan trong Bộ Tổng tham mưu được đặc phái xuống bộ đội. Các đồng chí đó liên hệ mật thiết với chúng tôi trong nhiều khâu công tác, giúp chúng tôi nghiên cứu các tin tức tình huống, chuẩn bị báo cáo hàng ngày gửi về Đại bản doanh, tích cực tham gia vào những biện pháp tổ chức của chúng tôi. Đặc biệt, tôi còn giữ được nhiều kỷ niệm tốt về các đồng chí N. Đ. Xan-tư-cốp, A. N. Tam-ra-dốp và nhiều đồng chí khác.

Một tháng sau, chúng tôi trở về Mát-xcơ-va. Mặc cho bộ chỉ huy Cụm tập đoàn quân “A” của Đức tuyên bô huênh hoang rằng sức kháng cự của bộ đội xô-viết sấp bị bẻ gấy, tình hình ở Da-cáp-ca-dơ đã an định lại. Riêng trung tướng P. I. Bô-đin, tham mưu trưởng phương diện quân thì không còn nữa. Đồng chí giữ cương vị cao này chưa được bao lâu. Ngày 1 tháng Mười một, Bô-đin đã hy sinh ở khu vực Oóc-giô-ni-kít-dê. Trong một vụ oanh tạc của không quân Đức, đồng chí không chịu ẩn nấp, vì vậy đã hy sinh.

Ngay khi về Mát-xcơ-va, chúng tôi đã được đọc vở kịch “Tiền tuyến” của A. E. Coóc-nây-trúc. Vở kịch ấy đột nhiên được đăng trên báo “Sự thật” và đã làm xúc động toàn thể hàng ngũ sĩ quan trong quân đội. Tuy hồi ấy trong Bộ tổng tham mưu chúng tôi phải tính từng phút một, nhưng cả những đồng chí bận nhất cũng đã tìm đọc hết. Chúng tôi đã toàn tâm toàn ý ủng hộ anh thanh niên Ô-gơ-nhép và phản đối Gô-rơ-lap.

Nhưng, như người ta thường nói, không có nguyên tắc nào lại không có ngoại lệ. Cả ở trong lẫn ở ngoài Bộ Tổng tham mưu, thậm chí trong số những người lãnh đạo quân sự có công lao, đã có những người coi vở kịch “Tiền tuyến” là một hành động đặc biệt phá hoại Hồng quân. Có một số điện gửi về Đại bản doanh đề nghị đình chỉ việc cho in vở kịch đó trên báo “Sự thật” và cấm đem nó ra trình diễn trên sân khấu vì đó là một cái gì “tuyệt đối có hại”. Đồng chí Tổng tư lệnh tối cao đã trả lời một trong số những bức điện ấy như sau:

“Các đồng chí đã đánh giá vở kich đó không đúng. Vở kịch sẽ có một tác dụng giáo dục to lớn đối với Hồng quân và đội ngũ cán bộ chỉ huy. Vở kịch đã nêu lên một cách đúng đắn những thiếu sót của Hồng quân và nếu cứ nhắm mắt làm lơ trước những thiếu sót đó thì thật không đúng. Cần phải dũng cảm thừa nhận thiếu sót và có biện pháp trừ bỏ chúng. Đó là con đường duy nhất để cải tiến và hoàn chỉnh Hồng quân”.

Về phần mình, lớp thanh niên trong Bộ Tổng tham mưu – đều có thể gọi những cán bộ trung cấp, tuổi tác chưa nhiều như thế, chúng tôi đã coi vở “tiền tuyến) như là sự thể hiện chính sách của Đảng, là lời Đảng kêu gọi nâng cao trình độ nghệ thuật quân sự và trình độ lãnh đạo quân đội.

Ngày 2 tháng Hai 1943, cánh quân chủ yếu của quân đội Hít-le bị bao vây ở Xta-lin-grát từ ngày 23 tháng Mười một 1942 đã hoàn toàn bị tiêu diệt. Hệ quả gần nhất của thắng lợi Xta-lin-grát là sự kiện giải phóng Bắc Cáp-ca-dơ mà tôi có quan hệ trực tiếp, do chức trách công tác lúc đó trong Bộ Tổng tham mưu.

Xta-lin-grát đã ràng buộc A. M. Va-xi-lép-xki trong một thời gian lâu. Cuối năm 1942 và đầu năm 1943, A. M. Va-xi-lép-xki hầu như bám sát không rời khu vực chủ yếu này của mặt trận Xô – Đức.

Vì Tổng tham mưu trưởng đi vắng nên Tổng tư lệnh tối cao thường hay gọi dây nói trực tiếp với Cục tác chiến, hỏi tình hình, đọc mệnh lệnh. Chúng tôi luôn luôn phải trực sẵn, ngày đêm không rời vị trí công tác. Vả lại, thời kỳ này, tôi cùng đang giữ chức quyền cục phó Cục tác chiến (Ngày 2 tháng Tư 1943. X. M. Stê-men-cô được cử giữ chức vụ này. BT.).

Trong một số trường hợp cá biệt, I. V. Xta-lin gọi điện cho trực ban của Bộ Tổng tham mưu là một viên tướng và truyền đạt mệnh lệnh qua đồng chí này, không có viên tướng nào chuyên trách làm việc này cả. Khi còn B. M. Sa-pô-sni-cốp ở đây thì đồng chí ấy đảm nhận việc đó. Các tướng lĩnh thuộc các cục vụ khác nhau của Bộ tổng tham mưu lần lượt thay nhau thừa hành chức trách này. Các trợ lý Bộ Tổng tham mưu lập bản danh sách đặc biệt ấn định phiên trực của từng người. Trưởng trực ban có nhiệm vụ phải ghi bản đồ và bao giờ cũng phải nắm chắc tình hình tại các phương diện quân và công việc của các cục vụ chủ yếu ở Bộ Tổng tham mưu.

Địch vẫn lồng lộn tiến quân và bộ đội Liên Xô cũng dốc toàn lực để chặn chúng lại. Đại bản doanh và Bộ tổng tham mưu đã cân nhắc kỹ những kế hoạch tiến công sắp tới, đặt nền móng cho những chiến dịch quyết định nhằm tiêu diệt quân địch ở cả Xta-lin-grát lẫn ở Bắc Cáp-ca-dơ. Tôi còn nhớ bản chỉ thị của Tổng tư lệnh tối cao ngày 15 tháng Mười năm 1942. Giữa lúc đang chiến đấu phòng ngự quyết liệt ở Tê-rếch, thì bản chỉ thị đã nhắc bộ tư lệnh phương diện quân Da-cáp ca-dơ lưu ý đến Cụm Biển Đen:

“Thấy các đồng chí hay lui tới quan sát bộ đội ở Cụm phía Bắc và dồn phần lớn binh lực cho cụm này. Đại bản doanh cho rằng các đồng chí đã đánh giá thấp ý nghĩa của Cụm Biển Đen và vai trò chiến dịch – chiến lược của bờ Biển Đen”.

Là người trực tiếp chấp hành văn kiện này, trong đó có đoạn trích dẫn trên, tôi hiểu khá rõ rằng cơ sở của nó là sự quan tâm đến cuộc tiến công sắp tới. Vào 10 ngày cuối tháng ấy tôi lại có dịp thấy rõ thêm rằng Đại bản doanh ngày càng đi sâu quan tâm đến việc này. Một đêm, Ph. E. Bô-cốp triệu tập tôi đến và lệnh cho tôi báo cáo những ý kiến có liên quan đến việc thành lập tập đoàn quân kỵ binh ở Bắc Cáp-ca-dơ.

Đồng chí nói thêm:

- Xta-lin đang chú ý theo dõi việc này.

Đề nghị cải tổ quân đoàn kỵ binh cận vệ 4 thành tập đoàn quân kỵ binh là do I. V. Ti-u-lê-nép, tư lệnh phương diện quân Da-cáp-ca-dơ nêu lên. Dự kiến sẽ hợp nhất vào tập đoàn quân này bảy sư đoàn kỵ binh: hai sư đoàn kỵ binh cận vệ Cu ban 9 và 10, hai sư đoàn kỵ binh cận vệ sông Đôn 11 và 12 và các sư đoàn 30, 63, 110.

Xta-lin ngày càng quan tâm đến vấn đề ấy.

- Trên thực tế, lẽ nào không thành lập được tập đoàn quân kỵ binh ư?-Xta-lin hỏi Bô-cốp và liền ra lệnh cho Bộ tổng tham mưu nghiên cứu vấn đề này.

Ngoài ra, Tổng tư lệnh tối cao còn đích thân hỏi ý kiến tướng N. I-a. Ki-ri-tren-cô, tư lệnh quân đoàn kỵ binh cận

Ý kiến này thật hấp dân, ở miền Bắc Cáp-ca-dơ dường như có đủ điều kiện để thực hiện ý định ấy: có ngựa, có cả những kỵ sĩ ưu tú người Cô-dắc vùng Cu-ban và vùng sông Đôn và cả một không gian rộng đủ bảo đảm cho những đội kỵ binh lớn được tự do vận động. Thêm nữa, tất cả chúng tôi vẫn nuôi dưỡng sự khâm phục sâu sắc đối với quá khứ anh hùng của kỵ binh đó.

Tuy nhiên, vì những điều kiện của cuộc Chiến tranh giữ nước vĩ đại đã căn bản khác với những điều kiện của cuộc nội chiến, nên cần phải suy tính kỹ.

Có một số quan điểm khác nhau về vai trò của kỵ binh trong chiến tranh hiện đại, về tổ chức và phương pháp sử dụng kỵ binh. Một số người cho rằng kỵ binh đã hết thời, kỵ binh không thể tiến công hiên ngang và đột nhập sâu vì nó khó chống lại hỏa lực của súng tự động, vì địch có nhiều xe tăng, vì khó tiếp tế cỏ khô cho ngựa và còn vì nhiều nguyên nhân khác. Những người này còn vạch ra rằng trong chiến tranh hiện đại thường gặp những trường hợp phải chuyển sang phòng ngự, song kỵ binh nếu không có bộ binh, xe tăng và pháo binh thì không thể tổ chức phòng ngự vững chắc được. Do đó, đòi hỏi phải tăng cường kỵ binh bằng những binh chủng khác và như vậy kỵ binh nhất định sẽ mất tính năng mạnh nhất của nó là tính cơ động. Đã thế thì, nói chung, có kỵ binh cũng chẳng có ý nghĩa gì.

Một số người khác có khuynh hướng cho rằng, nên sử dụng kỵ binh phối hợp với xe tăng và bộ đội cơ giới dưới hình thức những liên binh đoàn kỵ binh – cơ giới lâm thời trong điều kiện có không quân chi viện đầy đủ. Theo ý kiến của Bộ Tổng tham mưu, cách giải quyết vấn đề kỵ binh như vậy đúng đắn hơn. Nó cho phép sử dụng rộng rãi việc kết hợp các binh chủng một cách thích đáng hơn với tình huống thực tế.

Cuối cùng, còn có những người chủ trương xây dựng kỵ binh dưới “dạng thuần túy của nó”. Những quan điểm này mâu thuẫn với kinh nghiệm thực tiễn đã có, mà kinh nghiệm thực tiễn như mọi người đều biết, luôn luôn là tiêu chuẩn của chân lý. Nếu sử dụng kỵ binh mà không có phương tiện tăng cường cho nó thì kỵ binh sẽ bị tổn thất rất lớn và cũng chỉ thu được những kết quả hết sức hạn chế (dù có tiến hành những cuộc đột kích hết sức anh dũng). Ngoài ra, còn trường hợp phải chi viện cho kỵ binh (kể cả trường hợp phải dùng máy bay chuyển thóc cho ngựa ở vùng sau lưng địch) mà những binh đoàn kỵ binh ấy cũng không thể tự mình rút ra được.

Tất cả những điều đó đều được đem ra cân nhắc lúc xem xét vấn đề thành lập tập đoàn quân kỵ binh. Cuối cùng, Bộ Tổng tham mưu đã kết luận là không nên thành lập vì cho rằng cái tổ chức kềnh càng này sẽ rất dễ bị đánh từ hai phía: dưới đất và trên không và sẽ không đáp ứng được những hy vọng gửi gắm vào nỏ. Tổng tư lệnh tối cao đã tán thành những ý kiến của chúng tôi.

Tháng Chạp 1 942, sau khi ta đánh tan đoàn quân của tướng Man-stai-nơ, tình hình ở miền Bắc Cáp-ca-dơ đã hoàn toàn thay đổi có lợi cho chúng ta. Lúc bấy giờ, phương diện quân Nam (phương diện quân Xta-lin-grát cũ) có đủ khá năng trực tiếp tiến vào phía sau Cụm tập đoàn quân “A” của Đức đang đóng tại Tê-rếch, ở trên núi Cáp-ca-dơ và ở Nô-vô-rô-xi-xcơ và chiếm lại những con đường nhất thiết chúng sẽ phải theo khi rút lui qua sông Đôn về Đôn-bát. Ngày 29 tháng Chạp ta đã giải phóng được vùng dân cư Cô-ten-ni-cô-vô. Và từ đây trong mùa đông, có những con đường qua cánh đồng cỏ, dẫn thẳng tới Ba-tai-xcơ và Rô-xtôp. Đã đến lúc bắt đầu những chiến dịch tiến công lớn tại mặt trận Da-cáp-ca-dơ.

Dự kiến trước những sự kiện trên, Bộ Tổng tham mưu đề nghị phương diện quân Nam tập trung cố gắng chủ yếu vào hướng Rô-xtôp và có dự kiến đưa một phần lực lượng đi hoạt động ở Ti-khô-rét-xcai-a. Chiếm được Ti-khô-rét-xcai-a sẽ cắt cánh quân địch đóng ở Cáp-ca-dơ ra khỏi Rô-xtôp và sẽ đưa được bộ đội Liên Xô vào phía sau tập đoàn quân xe tăng 1 của Đức. Đại bản doanh đã thông qua đề nghị ấy. Kế hoạch hoạt động tiếp sau của bộ đội phương diện quân Nam được phê chuẩn trong đêm giao thừa sang năm mới 1943.

Cũng trong thời gian này, chúng ta đã áp dụng nhiều biện pháp không cho địch rút từ Bắc Cáp-ca-dơ sang bán đảo Ta-man, vì ở đây có bến vượt sang Crưm. Thực hiện ý định trên, Cụm Biển Đen của phương diện quân Da-cáp-ca-dơ có nhiệm vụ đột kích vào Cra-xnô-đa, Ti-khô-rét-xcai-a rồi tiến ra gặp bộ đội của phương diện quân Nam. Cụm phía Bắc giữ vai trò đơn giản hơn: buộc địch phải giao chiến trên tuyến chúng đang chiếm lĩnh, không cho chúng thoát ra ngoài và gây trở ngại cho cuộc hành quân của ta.

Như vậy là đến đầu năm 1943, trong Đại bản doanh đã dứt khoát hình thành ý định cô lập địch ở Bắc Cáp-ca-dơ nhằm sau này sẽ tiêu diệt chúng. Những hoạt động ở đây chỉ là một trong những khâu của cả chuỗi dài những chiến dịch tiến công của các Lực lượng vũ trang Liên Xô từ Vô-rô-ne-giơ đến Mô-dơ-đôc.

Chiến thắng Xta-lin-grát đã mở ra những triển vọng rộng lớn cả cho những phương diện quân khác. Phương diện quân Vô-rô-ne-giơ được giao nhiệm vụ đánh vào Khác-cốp, Phương diện quân Tây – Nam đánh vào Li-xi-tran-xcơ, Cra-xnô-ác-mây-xcôi-ê, Ma-ri-u-pôn. Phương diện quân Nam đánh vào Sa-khơ-tư, vu hồi qua Rô-xtốp.

Chủ trương mở những trận đột kích phối hợp chặt với nhau về thời gian như vậy nhằm phá vỡ mặt trận quân địch trên nhiều khu vực, tạo nên mối uy hiếp vào phía sau các cánh quân chủ yếu của chủng, buộc bộ chỉ huy phát-xít Đức phải phân tán lực lượng và phải hành động cô lập trên nhiều hướng cùng một lúc.

Thực hiện quyết tâm của Đại bản doanh, phương diện quân Da-cáp-ca-dơ đã vạch các kế hoạch chiến dịch Cra-xnô-đa và Nô-vô-rô-xi-xcơ của Cụm Biển Đen. Chiến dịch Cra-xnô-đa chủ yếu do lực lượng tập đoàn quân 56 tiến hành, chiến dịch Nô-vô-rô-xi-xcơ do tập đoàn quân 47 và hạm đội tiến hành.

Nhân chủ trương này, chúng tôi đã có nhiều lúc hồi hộp. Bộ Tổng tham mưu nhận được nhiều tin tức báo rằng, địch đã biết việc ta chuẩn bị chiến dịch ở Nô-vô-rô-xi-xcơ. Hình như thậm chí chúng còn biết rõ ta sẽ tấn công chủ yếu theo hướng qua đèo ngang Nhe-be-rơ-gia-ép-xki và đồng thời sẽ đổ bộ từ biển lên. Nếu quả thật như vậy thì phải cấp tốc thay đổi kế hoạch. Song, ta đã điều tra lại và khẳng định rằng ý định của ta không bị lộ và chiến dịch vẫn được tiếp tục chuẩn bị.

Nhưng, quân địch đã không chờ cho chúng ta thực hiện xong những kế hoạch ấy. Đúng vào lúc Đại bản doanh ra lệnh đột kích vào Ti-khô-rét-xcai-a, bộ chỉ huy phát-xít Đức đã cho tập đoàn quân xe tăng 1 rút từ Tê-rếch sang Tây – Bắc, vì phía sau chúng đang có nguy cơ bị Phương diện quân Nam uy hiếp. Chẳng cần phải có tài nhìn xa thấy rộng của các tướng soái cũng hiểu được những sự kiện này rồi sẽ phát triển tới đâu

Tập đoàn quân xe tăng 1 của địch cố tìm cách khép chặt sườn với tập đoàn quân xe tăng 4 thuộc cụm tập đoàn quân Man-stai-nơ, nhằm chặn đường tiến công của bộ đội phương diện quân Nam tại thung lũng Ma-nư-tsơ không để cho chúng ta tiến đến Rô-xtốp. Trên thực tế, địch đã tạo nên một chiến lũy thép bằng hai tập đoàn quân xe tăng của chúng. Và xe tăng, như ta đã biết, có thể dễ dàng cơ động trên các cánh đồng cỏ và trong một thời gian ngắn có thể tạo thành cụm cơ động mạnh và đánh những đòn đột kích mãnh liệt.

Hơn nữa là ở đây ngoài những đơn vị của tập đoàn quân xe tăng 1, hồi đó địch còn có một binh đoàn đặc chủng được đặc biệt đào tạo để tiến hành chiến tranh trên các sa mạc và đồng cỏ, gọi là quân đoàn “Ph” (Quân đoàn “Ph” do tướng Phen-mi thành lập. Chữ cái đứng đầu là tên họ của viên tướng này dược dùng làm tên gọi của quân đoàn. – Sr.). Trong biên chế của nó có ba tiểu đoàn mô-tô cơ giới, một tiểu đoàn xe tăng, một tiểu đoàn công binh, nhiều phân đội pháo cường kích và một đội máy bay. Lúc này, chúng ta có tương đối ít xe tăng và phải phối hợp xe tăng với kỵ binh để trong một chừng mực nào đó làm giảm ưu thế của quân địch.

Chủ lực tập đoàn quân xe tăng 1 của địch bứt được khỏi Cụm phía Bắc của chúng ta. Việc truy kích quân địch đang rút lui đã được tiến hành một cách thiếu tổ chức và chậm chạp. Các phương tiện thông tin tỏ ra chưa được chuẩn bị đầy đủ cho việc điều khiển những hành động tiến công. Do đó, ngay trong ngày truy kích đầu tiên, nhiều đơn vị đã lẫn lộn mất vị trí của mình. Các cơ quan tham mưu không biết được chính xác tình hình và trạng thái bộ đội của mình. Tập đoàn quân 58 đi sau đơn vị bạn, và dường như tiến trong thê đội hai. Quân đoàn kỵ binh cận vệ sông Đôn 5 và xe tăng không thể vượt lên trước bộ binh. Bộ tư lệnh phương diện quân ra sức duy trì trật. tự, nhưng cũng không kết quả lắm.

Song, bên phía Cụm Biển Đen lại không thấy hiện tượng địch rút chạy. Ở đây, chúng ngoan cố đề kháng, gắng sức cố thủ các tuyến chúng đang chiếm lĩnh. Chúng hiểu được nguy cơ gì sẽ đến với chúng khi bộ đội Liên Xô đột phá vào Cra-xnô-đa. Ti-khô-rét-xcai-a và bán đảo Ta-man.

Chính bộ tư lệnh phương diện quân Da-cáp-ca-dơ đã không đánh giá tình huống được thật chính xác. Các đồng chí ấy vẫn chú ý nhiều tới những hành động của Cụm phía Bắc như cũ, mặc dầu việc truy kích trên chính diện rõ ràng chỉ đẩy lùi được địch. Những triển vọng rất lớn đã hiện ra trong khu vực của Cụm Biển Đen. Song ở đây, bộ tư lệnh phương diện quân vẫn không áp dụng một biện pháp căn bản nào.

Ngày 4 tháng Giêng, lúc 13 giờ 30 phút, Xta-lin gọi dây nói tới Bộ Tổng tham mưu.

- Đồng chí ghi lại và chuyển cho phương diện quân. – Xta-lin nói với tôi và bắt đầu đọc chỉ thị. Đồng chí đọc chậm rãi, chắc là vừa đọc vừa cân nhắc nội dung:

“Một. Địch vừa rút khỏi Bắc Cáp-ca-dơ vừa đốt cháy kho tàng và phá hoại đường sá. Cụm phía Bắc của Ma-xlen-ni-côp sẽ trở thành cụm dự bị, có nhiệm vụ truy kích địch, đẩy địch ra khỏi Bắc Cáp-ca-dơ là không có lợi cho chúng ta. Kìm địch lại để cho Cụm Biển Đen thực hiện đột kích hợp vây chúng thì có lợi hơn. Do đó, trọng tâm chiến dịch của phương diện quân Da-cáp-ca-dơ đang chuyển sang khu vực của Cụm Biển Đen, điều này cả Ma-xlen-ni-cốp lẫn Pê-tơ-rốp đều không hiểu.

Hai. Phải điều ngay quân đoàn bộ binh 3 ra khỏi khu vực của Cụm phía Bắc và tiến nhanh về khu vực của Cụm Biển Đen. Ma-xlen-ni-cốp có thể tung tập đoàn quân 58 đang thảnh thơi làm đội dự bị ra hoạt động và khi tình hình tiến công của chúng ta có kết quả, tập đoàn quân đó có thể đem lại những lợi ích lớn.

Nhiệm vụ thứ nhất của Cụm Biển Đen: tiến tới Ti-khô-rét-xcai-a và ngăn địch không cho chúng chuyên chở khí tài về phía Tây. Tập đoàn quân 51 và có thể cả tập đoàn quân 28 sẽ chi viện cho các đồng chí làm nhiệm vụ ấy.

Nhiệm vụ thứ hai và chủ yếu của các đồng chí là tách một thê đội mạnh ra khỏi đội ngũ Cụm Biển Đen, chiếm Ba-ta-xcơ và A-dôp, rồi luồn vào Rô-xtôp từ phía Đông, và do đó bao vây chốt Cụm Bắc Cáp-ca-dơ của địch nhằm bắt chúng làm tù binh hoặc tiêu diệt chúng. Cánh trái phương diện quân Nam của Ê-ri-ô-men-cô đang có nhiệm vụ tiến ra phía Bắc Rô-xtốp sẽ chi viện cho các đồng chi làm nhiệm vụ này…”

Đến đây, Xta-lin ngừng lại khá lâu, rồi lại tiếp tục:

“Ba. Các đồng chí ra lệnh cho Pê-tơ-rốp mở đầu đợt tiến công đúng hạn, không được trì hoàn một giờ nào hết và cũng không đợi tất cả các đội dự bị phải tới đủ. Pê-tơ-rốp trước nay vẫn phòng ngự nên chưa có nhiều kinh nghiệm tiến công. Giải thích kỹ cho Pê-tơ-rốp rõ rằng phải chuyển sang hoạt động tiến công và phải biết quý từng ngày, từng giờ”.

Cuối cùng, Tổng tư lệnh tối cao bổ sung thêm một điểm, yêu cầu bộ tư lệnh phương diện quân phải rời ngay sang khu vực hoạt động của Cụm Biển Đen. Như vậy là: lại một lần nữa xác định rằng, những cố gắng chủ yếu của phương diện quân Da-cáp-ca-dơ phải tập trung vào chính nơi đây. Bây giờ không còn là dự đoán nữa, chính tình huống đã gợi lên phương pháp hoạt động hợp lý nhất này.

Song, việc chuyển trọng tâm chiến dịch vào khu vực của Cụm Biển Đen tuyệt nhiên không cho phép làm giảm tính tích cực của Cụm phía Bắc. Dầu sao, cụm cũng đã tiến hành truy kích địch và tình hình cho phép ta hy vọng vào kết quả khả quan của chiến dịch.

Cánh phải của Cụm phía Bắc tiến được 20 ki-lô-mét ở trên tuyến Xô-gu-li-a-kin. Tại đây, quân đoàn kỵ binh cận vệ 4 của chúng ta đang gặp sức chống cự của quân đoàn “Ph” của địch. Tập đoàn quân 44 đã đánh tan những đơn vị yểm hộ của hai sư đoàn xe tăng Đức 3 và 13, đã tiến quá phía Tây Xun-gien-xki được 20 ki-lô-mét.

Trong dải hoạt động của tập đoàn quân 44 còn có quân đoàn kỵ binh cận vệ 5 và binh đoàn xe tăng của tướng G. P. Lô-ba-nốp (3 lữ đoàn xe tăng, 1 trung đoàn xe tăng, 1 tiểu đoàn xe tăng độc lập, 2 trung đoàn tiêm kích chống tăng, tổng cộng có 106 xe tăng và 24 xe bọc thép).

Ở phía giữa, tập đoàn quân 58 đã đánh tan các đơn vị ở hai sư đoàn bộ binh 111 và 50 Đức, chiếm được Mô-dơ-đôc ngày 3 tháng Giêng và tiến chậm trên hướng Prô-khơ-lát-nưi. Ở bên trái, tập đoàn quân 9 đã đánh tan sư đoàn bộ binh 370 và sư đoàn dã chiến cơ động đường không 5 của địch, đã tiến được hơn 30 ki-lô-mét trong một ngày đêm.

Trong khu vực của tập đoàn quân 9 còn có binh đoàn xe tảng của V. I. Phi-líp-pốp (ba lữ đoàn xe tăng và hai tiểu đoàn xe tăng, cộng tất cả 123 xe tăng và còn có một lữ đoàn bộ binh, hai trung đoàn tiêm kích chống tăng). Bên cánh trái, trong lúc truy kích các đơn vị thuộc quân đoàn của Xtanh-bao-e-rơ, tập đoàn quân 37 đã chiếm được Nan-tríc và đang tiến công trên hướng Tây – Bắc.

Phía trước cánh phải Cụm phía Bắc là đồng cỏ, nơi các đơn vị cơ động có thể hoạt động thuận lợi. Còn ở giữa và bên cánh trái, theo ý kiến của Bộ Tổng tham mưu, có thể chia cắt địch bằng cách dùng tập đoàn quân 37 đột kích trên hướng Pi-a-ti-goóc-xcơ, đồng thời dùng tập đoàn quân 9 tiến công vào Ghê-oóc-ghi-ép-xcơ. Như vậy, sẽ tiêu diệt được lực lượng chủ yếu dùng để yểm hộ của địch, rồi đẩy nhanh được tốc độ những hoạt động tiến công tiếp sau. Việc tiến đến Ne-vin-nô-mư-xcơ đã mở ra khả năng cho Cụm phía Bắc thọc vào phía sau lưng quân Đức đang đóng trên dãy núi Cáp-ca-dơ chính.

Lúc này, chúng tôi nhận ra rằng các đơn vị cơ động của Cụm phía Bắc không đủ sức đánh quặp sườn địch và lại càng không thể tiến vào phía sau những lực lượng chủ yếu của địch. Các quân đoàn kỵ binh của ta đã bị suy yếu nhiều. Ví dụ như lúc bắt đầu truy kích, sư đoàn kỵ binh cận vệ 10 có trong biên chế: dưới 2.000 người, 2 khẩu pháo 76 mi-li-mét, 4 khẩu pháo 45 mi-li-mét và 4 khẩu đại liên. Sư đoàn kỵ binh cận vệ 9 có trong đội ngũ: 2.317 người, 7 khẩu pháo các loại, 8 khẩu đại liên. Còn các sư đoàn khác thì có khá hơn về mặt này, song ở đơn vị nào ngựa cũng bị kiệt sức, đến nỗi không thể đi quá 20-25 ki-lô-mét trong một ngày đêm. Không có xe tăng và máy bay yểm hộ: những sư đoàn đó tất nhiên không thể giữ vai trò quan trọng trong chiến đấu với tập đoàn quân xe tăng 1 và quân đoàn “Ph” của địch.

Đồng thời, chúng ta rất muốn áp dụng những biện pháp để nếu như không tiêu diệt được toàn bộ thì cũng tiêu diệt được một phần lực lượng địch và chiếm lấy những khí tài của chúng, phải tạo được một quả đấm đột kích mạnh nào đó bên sườn phải. Bộ Tổng tham mưu đề nghị tăng cường xe tăng cho quân đoàn kỵ binh và sử dụng những lực lượng này trên các đường rút của địch.

Những ý kiến trên của Bộ Tổng tham mưu đã được gửi tới Hội đồng quân sự phương diện quân, gọi là để tham khảo ý kiến trong lúc đang tìm kiếm cách giải quyết hợp lý nhất. Song, những ý kiến đó không được coi trọng đúng mức. Ý định tác chiến của Cụm phía Bắc gửi lên Đại bản doanh ngày 6 tháng Giêng mà bộ tư lệnh phương diện quân chắc đã đồng ý có nhiều thiếu sót quan trọng. Nói chung, kế hoạch ấy vẫn tiếp tục giữ đường lối đẩy lùi địch như cũ, làm phân tán những cố gắng của bộ đội ta, đặc biệt là của các quân đoàn kỵ binh, xe tăng và có tính chất cơ động quá phức tạp, do đó kìm hãm cuộc tiến quản của các đơn vị bộ đội ta.

Một kế hoạch tác chiến như vậy tất nhiên không được Đại bản doanh phê chuẩn. Bộ Tổng tham mưu được lệnh phân tích tỉ mỉ những hành động của Cụm phía Bắc, rồi gửi những bản phân tích đó tới tư lệnh Cụm phía Bắc và tư lệnh phương diện quân Da-cáp-ca-dơ. Chúng tôi đã làm việc này.

Trong thư ngày 7 tháng Giêng, Bộ tổng tham mưu nhận xét rằng các nhiệm vụ giao cho cụm đều rất không thực tế về chiều sâu ví như; giao cho quân đoàn kỵ binh Cu-ban nhiệm vụ đến ngày 9 tháng Giêng phải chiếm được thành phố Vô-rô-si-lốp-xcơ (Xta-vrô-pôn), ở cách xa vị trí của quân đoàn những 200 ki-lô-mét; tập đoàn quân 58 phải vừa chiến đấu vừa tiến được trên 100 ki-lô-mét trong hai ngày. Và, những nhiệm vụ của tập đoàn quân 44 cũng không thiết thực. Trong khi đó tập đoàn quân 9 có sức tiến quân nhiều nhất thì theo kế hoạch, lại bị kìm tại chỗ trong ba ngày và chuyển sang làm nhiệm vụ dự bị.

Bộ Tổng tham mưu đề nghị: tập đoàn quân 9 tiếp tục tiến công vào Ghê-oóc-ghi-ép-xcơ, Mi-ne-ran-nư-e Vô-dơ vì đang có ở phía trước ba lữ đoàn xe tăng; chủ lực của bộ đội cơ động chuyển sang hoạt động bên sườn phải và sử dụng những lực lượng ấy trên các đường địch đang rút lui ở khu vực Ne-vin-nô-mư-xcơ hoặc ở sâu hơn nữa; còn bên sườn trái chỉ để lại một lực lượng tối thiểu nhằm ghìm địch ở lại chân dãy núi Cáp-ca-dơ chính và tránh được những cuộc điều động xáo trộn thừa sau này. Tập đoàn quân 58 làm nhiệm vụ của thê đội hai.

Nhân đây, có nhấn mạnh thêm sự cần thiết phải căn cứ vào những khả năng thực tiễn mà lập kế hoạch chiến dịch, tổ chức cho hợp lý việc chỉ huy vững chắc và bảo đảm tiếp tế cho bộ đội.

Cần phải nêu lên rằng: đúng trong ngày những ý kiến của chúng tôi được gửi đi, tại sườn phải Cụm phía Bắc lại đứt liên lạc với các đơn vị xe tăng và kỵ binh. Các cơ quan tham mưu không nắm được chính xác tình hình của các đơn vị ấy

Sau khi đọc báo cáo tổng kết tác chiến ngày 7 tháng Giêng của phương diện quân Da-cáp-ca-dơ, lúc 3 giờ 55 phút ngày 8 tháng Giêng, Xta-lin lại đọc một bức điện phẫn nộ gửi cho I. I. Ma-xlen-ni-cốp và đồng gửi cho I. V. Ti-u-lê-nép:

“…Các đồng chí đã xa rời và mất liên lạc với bộ đội của mình. Nếu trong đội ngũ Cụm phía Bắc vẫn cứ mất trật tự và mất liên lạc như vậy thì các đơn vị cơ động của các đồng chí sẽ bị rơi vào vòng vây …

Tình hình ấy không thể dung thứ được.

Tôi ra lệnh cho các đồng chí phải khôi phục liên lạc với các đơn vị cơ động của Cụm phía Bắc và ngày hai lần báo cáo đều đặn lên Bộ Tổng tham mưu về tình hình trên mặt trận của các đồng chí …

Trách nhiệm thuộc về các đồng chí…”

Trong những ngày sau đó, việc chỉ huy bộ đội ở Cụm phía Bắc đã được cải thiện đôi chút và việc truy kích được tiến hành có kế hoạch hơn, nhất là khi truy kích dọc theo con đường sắt tới Ác-ma-via. Tuy nhiên, ta vẫn không đạt được bước chuyển biến căn bản trong quá trình chiến dịch: quân địch không để cho ta đánh chiếm phía sườn của chúng, hoặc để cho các đơn vị cơ động của ta đột phá vào phía sau Cụm tập đoàn quân “A”. Song, địch cũng không chặn nổi cuộc tiến công của ta. Các trận đánh diễn ra hết sức ác liệt.

Phải kiên quyết chấn chỉnh bộ tư lệnh Cụm Biển Đen, hiện nay đang trở thành điểm tập trung những cố gắng chủ yếu của phương diện quân. Vấn đề là: từ khoảng giữa tháng Mười một 1942, ở đây đã chuẩn bị cho cái gọi là chiến dịch Mai-côp. Thời gian ấy, tổ chức chiến dịch này là hợp lý và Đại bản doanh đã chuẩn y.

Trên hướng Mai-cốp, ta đã triển khai công việc mở rộng đường sá, xây dựng các kho dự trữ, tập trung bộ đội. Nhưng đến tháng Giêng 1943, nhu cầu mở chiến dịch ấy không còn nữa. Tình huống đã thay đổi và đòi hỏi ta phải tiến công trên hướng Cra-xnô-đa và Nô-vô-rô-xi-xcơ, điều đó buộc ta phải thay đổi tất cả và phải thay đổi rất gấp.

Theo chỉ thị của Xta-lin, bộ tư lệnh phương diện quân đã đến sở chỉ huy của Cụm Biển Đen ở Mô-lô-đe-giơ-nôi-e (gần Tu-áp-xe), cùng với I. E. Pê-tơ-rôp nghiên cứu ý định mở hai chiến dịch mới (lấy tên là “Núi”) và “Biển”. Trong lúc này, bộ đội và đặc biệt là pháo binh, đã bắt đầu kéo về hướng Cra-xnô-đa và Nô-vô-rô-xi-xcơ. Việc tập trung bộ đội dọc theo những đường núi ở đây gặp nhiều khó khăn lớn.

Kế hoạch mở hai chiến dịch của Cụm Biển Đen đã được đệ trình lên Đại bản doanh và ngày 8 tháng Giêng đã được đem ta xét duyệt.

Theo kế hoạch “Núi”, thì tập đoàn quân 56 giữ vai trò chủ yếu. Quyền chỉ huy tập đoàn quân này được giao cho tướng A. A. Grê-xcô. Đồng chí đã nổi tiếng là xuất sắc khi chỉ huy khu vực phòng ngự Nô-vô-rô-xi-xcơ, rồi chỉ huy tập đoàn quân 18 ở Tu-áp-xe; tại đây địch đã bị chặn đứng trong những ngày phòng ngự ác liệt ở Cáp-ca-dơ. Tập đoàn quân 56 có một lực lượng đáng kể: 5 sư đoàn bộ binh, 7 lữ đoàn bộ binh, xe tăng và những phương tiện tăng cường khác.

Chiến dịch gồm hai giai đoạn rõ rệt. Giai đoạn một (ngày 14-18 tháng Giêng), dự định đánh tan số đơn vị địch đang chống lại tập đoàn quân 56, chiếm Cra-xnô-đa và những bến vượt qua Cu-ban. Giai đoạn hai (ngày 19-30 tháng Giêng), sẽ tiến công từ khu vực Cra-xnô-đa tới Ti-khô-rét-xcai-a và chiếm tuyến Ti-khô-rét-xcai-a, Ca-nép-xcai-a. Trong kế hoạch không thấy nhắc đến việc sau đó sẽ tiến ra Ba-tai-xcơ.

“Sẽ rầy rà đây” – chúng tôi nghĩ vậy, mặc dù thành thật mà nói, chính chúng tôi cũng không tin rằng Cụm Biển Đen có thể tiến được tới Ti-khô-rét-xcai-a, chứ đừng nói tới được đến Ba-tai-xcơ, vì quân địch đang bị Cụm phía Bắc truy kích sẽ rút về đây và tất nhiên sẽ đến đây trước bộ đội ta. Nhưng, Tổng tư lệnh tối cao nói rõ Ba-tai-xcơ là mục tiêu đột kích cuối cùng. Đồng chí không bao giờ quên chỉ thị của mình và không cho phép người khác quên các chỉ thị ấy.

Chiến dịch “Biển” sẽ được tiến hành hiệp đồng với Hạm đội Biển Đen qua 3 giai đoạn. Trong giai đoạn một (ngày 12-15 tháng Giêng), tập đoàn quân 47 của trung tướng Ph. V. Căm-cốp phải chọc thủng tuyến phòng ngự của quân địch ở khu vực A-bin-xcai-a và chiếm làng Crưm-xcai-a, do đó tạo ra những điều kiện thuận lợi để từ đất liền đánh chiếm Nô-vô-rô-xi-xcơ rồi phát triển tiến công vào bên trong bán đảo Ta-man. Giai đoạn hai (ngày 16-25 tháng Giêng) quy định phải giải phóng bến cảng và thành phố Nô-vô-rô-xi-xcơ bằng mũi đột kích của tập đoàn quân 47 từ đất liền vào và của đội đổ bộ đường biển từ Nam Ô-de-rây-ca lên. Trong giai đoạn ba, sẽ giải phóng bán đảo Ta-man và giai đoạn này được trù tính tiến hành đến ngày 1 tháng Hai.

Nếu kế hoạch “Biển” được Đại bản doanh phê chuẩn mà không có một lời chê nào, thì kế hoạch “Núi” gặp nhiều rắc rối. Như chúng tôi đã phỏng đoán, Tổng tư lệnh tối cao đã thắc mắc không hiểu vì sao kế hoạch lại không nói đến cuộc tiến công vào Ba-tai-xcơ. Hồi 14 giờ ngày 8 tháng Giêng, Xta-lin lại gọi dây nói tới Bộ Tổng tham mưu, và tôi đã ghi bản chỉ thị sau đây gửi cho bộ tư lệnh phương diện quân Da-cáp-ca-dơ và Cụm Biển Đen:

“Một. Đã nhận được kế hoạch chiến dịch của các đồng chí. Kế hoạch mới phản ánh hai giai đoạn của chiến dịch: giai đoạn một – tiến ra tuyến Cra-xnô-đa, giai đoạn hai – tiến ra tuyến Ti-khô-rét-xcai-a. Nhưng trong kế hoạch, không thấy các đồng chí nói đến giai đoạn ba của chiến dịch như đã nói trong chỉ thị của tôi: tiến tới Ba-tai-xcơ.

Đề nghị cho biết vì lý do gì các đồng chí đã cắt bỏ giai đoạn ba.

Hoàn toàn chắc chắn rằng do có cuộc tiến công của phương diện quân Nam và phương diện quân Tây – Nam, sẽ hình thành một tình huống thuận lợi để cho một bộ phận bộ đội Biển Đen tiến tới Ba-tai-xcơ. Nếu bây giờ các đồng chí không chuẩn bị cho công việc đó, thì tình huống sẽ làm các đồng chí bị bất ngờ.

Vì vậy tôi yêu cầu các đồng chí báo cho Bộ Tổng tham mưu biết những lực lượng các đồng chí định dành cho việc thực hiện giai đoạn ba của chiến dịch.

Hai. Chuẩn y giai đoạn một và giai đoạn hai kế hoạch chiến dịch của các đồng chí”.

Sau đó, hình như nhớ lại bức điện mới gửi đêm qua cho I. I. Ma-xlen-ni-côp về việc không chỉ huy được bộ đội, Xta-lin lệnh viết thêm điểm ba, gửi riêng cho Hội đồng quân sự phương diện quân:

“Các đồng chí cần lưu ý đến Ma-xlen-ni-côp, đồng chí ấy đã xa rời bộ đội mình, không chỉ huy được họ và đang bơi trong cảnh mất trật tự”.

Chẳng bao lâu, phần còn thiếu trong kế hoạch “Núi” đã được đệ trình lên Đại bản doanh và ngày 11 tháng Giêng, Đại bản doanh đã phê chuẩn toàn bộ kế hoạch đó.

Mọi việc điều động, tập trung bộ đội trong khu vực của Cụm Biển Đen đã được tiến hành rất gấp. Sở dĩ phải như vậy không những vì tập đoàn quân xe tăng 1 của quân Đức đang tiếp tục rút chạy mà còn vì ngày 5 tháng Giêng, quân Đức đã bắt đầu rút khỏi các đèo ngang ở dãy núi Cáp-ca-dơ chính.

Phương diện quân đã áp dụng mọi biện pháp có thể có để kết thúc việc chuẩn bị chiến dịch đúng thời hạn quy định trong kế hoạch nhưng không sao làm được. Thời tiết quá xấu, trời mưa và có tuyết. Bộ đội và vật tư bị mắc nghẽn trên đường. Gặp khó khăn nhất là pháo binh. Bộ tư lệnh phương diện quân đã báo cáo lên trên về tình hình đó.

Lần này, Xta-lin có thái độ khoan dung. Ngày 13 tháng Giêng, lúc 11 giờ 50 phút, đồng chí chuyển qua tướng X. X. Brô-nhép-xki, thường trực tác chiến của Bộ Tổng tham mưu, bức điện trả lời tư lệnh phương diện quân như sau:

“Không nên coi thời hạn bắt đầu và tiến hành chiến dịch là một đại lượng tuyệt đối và bất biến. Nếu thời tiết xấu, có thể bắt đầu mở chiến dịch “Núi” hoặc chiến dịch “Biển” chậm lại một-hai ngày sau”.

Dựa vào bức điện trên, các tập đoàn quân 56 và 47 bắt đầu tiến công ngày 16 tháng Giêng, tuy vẫn chưa tập trung được đầy đủ bộ đội. Tiếp tục trì hoãn nữa cũng không được, vì tình huống có một vài biến đổi đột ngột ở phía trước chính diện của Cụm Biển Đen và các đơn vị bạn bên phải là các tập đoàn quân 46 và 18.

Vấn đề là ở chỗ tập đoàn quân 46 đã bắt đầu tiến công ngay từ ngày 11 tháng Giêng. Tập đoàn quân có nhiệm vụ: đột kích vào Nê-phte-goóc-xcơ, Ap-sê-rôn-xki và Mai-cốp làm cho địch không chú ý tới hướng chính. Song, tập đoàn quân lại hành động mạnh đến mức đã buộc các đơn vị quân địch đang kháng cự ở hướng Bắc phải rút lui và đã tạo nên mối uy hiếp đối với số quân địch đang phòng ngự ở bên trái tập đoàn quân 18. Quân địch ở đây cũng bắt đầu rút.

Tập đoàn quân 18 chuyến sang truy kích, kéo chính diện quay lên Tây – Bắc. Và, tình hình đó có lợi cho cuộc tiến công của tập đoàn quân 56. Ngày 16 tháng Giêng, tập đoàn quân 56 bắt đầu tiến công địch và sau bảy ngày chiến đấu quyết liệt đã chọc thủng được tuyến phòng ngự của chúng trên hướng Cra-xnô-đa, rồi tiến đến các cửa ngõ tiến vào Cra-xnô-đa và tới sông Cu-ban.

Tập đoàn quân 47 giáng đòn đột kích chủ yếu vào Crưm-xcai-a nhưng không thu được kết quả. Và, ngay trong dải tiến công của tập đoàn quân 56, sức kháng sự của địch cũng ngày một tăng lên và chẳng bao lâu trở nên khó mà vượt qua được Tương quan lực lượng cân bằng, thậm chí có chiều hướng thay đổi có lợi cho địch.

Ở đây các quy luật biện chứng tất nhiên của chiến tranh đã tự thân nổi lên: tình hình nguy ngập chung của quân đội phát-xít Đức, nhất là ở Ba-tai-xcơ và Rô-xtôp, đã buộc bộ chỉ huy của chúng phải sử dụng mọi khả năng để củng cố phòng ngự trên các hướng Cra-xnô-đa và Nô-vô-rô-xi-xcơ và dù bất cứ giá nào cũng phải giữ cho bằng được con đường rút về Đôn-bát và Crưm.

Vì, trong lúc Cụm Biển Đen đang chiến đấu tại những cửa ngõ tiến vào Cra-xnô-đa thì tập đoàn quân cận vệ 2 và các tập đoàn quân 51, 28 của phương diện quân Nam đã ở cách Ba-tai-xcơ khoảng 8 ki-lô-mét, còn bộ đội Cụm phía Bắc của phương diện quân Da-cáp-ca-dơ đã tiến tới khu vực Pê-xtra-nô-ô-côp-xcôi-ê, Crô-pôt-kín, Ác-ma-vi. Như vậy là đã hình thành tình thế chứa đầy nguy cơ của một “Xta-lin-grát” mới đối với quân địch. Nên tất nhiên, bọn chúng đã cố tìm cách thoát khỏi cảnh đó và có các biện pháp đối phó lại.

Ngày 23 tháng Giêng, Bộ Tổng tư lệnh tối cao Liên Xô đã: ra một chỉ thị đặc biệt, chỉ cho phương diện quân Nam thấy rõ vai trò chủ yếu của mình trong việc bao vây quân địch ở Bắc Cáp ca-dơ.

Chỉ thị viết: “việc bộ đội ta chiếm được Ba-tai-xcơ có một ý nghĩa lịch sử to lớn. Chiếm được Ba-tai-xcơ, chúng ta sẽ vây kín quân địch ở Bắc Cáp-ca-dơ, không cho 24 sư đoàn Đức và Ru-ma-ni rút về khu vực Rô-xtốp, Ta-gan-rô-gơ, Đôn-bát.

Quân địch ở Bắc Cáp-ca-dơ phải bị bao vây và tiêu diệt cũng như chúng đã bị vây và tiêu diệt ở Xta-lin-grát.

Bộ đội của phương diện quân Nam cần cắt 24 sư đoàn địch ở Bắc Cáp-ca-dơ ra khỏi Rô-xtôp, còn bộ đội của Cụm Biển Đen của phương diện quân Da-cáp-ca-dơ có nhiệm vụ khép chặt lối rút của các sư đoàn này về bán đảo Ta-man.

Ở đây phương diện quân Nam đóng vai trò chủ yếu: phải cùng Cụm phía Bắc của phương diện quân Da-cáp-ca-dơ bao vây, bắt làm tù binh hoặc tiêu diệt quân địch ở Bắc Cáp-ca-dơ”.

Đại bản doanh lệnh cho phương diện quân Nam điều ngay sang Ba-tai-xcơ những lực lượng chủ yếu đang bố trí ở khu vực sông Ma-nư-tsơ và ở phía Nam sông Đôn, chiếm Ba-tai-xcơ và A-dốp. Mệnh lệnh được đem ra thi hành. Song, nhiều đợt xung phong của bộ đội ta ở khu vực Ba-tai-xcơ đã bị đầy lùi, chủ yếu bởi xe tăng và không quân địch, lực lượng của phương diện quân Nam rõ ràng không đủ sức đánh cánh quân Ba-tai-xcơ của địch và chặn các con đường chúng rút chạy về Rô-xtốp.

Trong thời gian này, ở phương diện quân Da-cáp-ca-dơ, tình huống cũng có những biến đổi quan trọng. Các đơn vị cơ động của Cụm phía Bắc thuộc phương diện quân đã bắt liên lạc được với tập đoàn quận 28 ở sườn bên trái phương diện quân Nam và đã tiến tới tuyến Xrét-nhe – E-gô-rơ-lức, Pê-xtra-nô-ô-cốp-xcôi-ê, còn các tập đoàn quân 44, 58, 9 và 37 đã tiến đến của ngõ tiến vào Ti-khô-rét-xcai-a.

Lúc này, việc tập trung những cố gắng của Cụm Biển Đen vào đây không còn có tác dụng gì nữa. Nhiệm vụ này trước đây giao cho Cụm Biển Đen rõ ràng đã lỗi thời rồi. Tình hình đòi hỏi phải có những giải pháp mới khác. Và trên thực tế đã có những giải pháp ấy. Ngày 23 tháng Giêng, Cụm Biển Đen nhận được chỉ thị:

“1) Tiến tới khu vực Cra-xnô-đa, bám chắc lấy sông Cu-ban, phát triển dọc theo cả hai bờ sông, còn chủ lực hướng sang đánh chiếm Nô-vô-rô-xi-xcơ và bán đảo Ta-man, nhằm khép kín lối quân địch rút về bán đảo Ta-man, cũng như phương diện quân Nam phải khóa lối rút của quân địch ở gần Ba-tai-xcơ và A-dốp.

2) Tiếp sau, nhiệm vụ chủ yếu của Cụm Biển Đen là đánh chiếm bán đảo Kéc-tsơ”.

Cũng trong ngày 23 tháng Giêng ấy, A. M. Va-xi-lép-xki đến Mát-xcơ-va theo lệnh triệu tập của Đại bản doanh. Căn cứ vào báo cáo của đồng chí về tình hình các mặt trận mà đồng chí đã phối hợp các hoạt động và hình dung được tình hình tại Bắc Cáp-ca-dơ, Đại bản doanh đã quyết định chuyển Cụm phía Bắc của phương diện quân Da-cáp-ca-dơ thành phương diện quân độc lập Bắc Cáp-ca-dơ. Trong biên chế của phương diện quân có các tập đoàn quân 9, 37, 44 và 58, các quân đoàn cận vệ Cu-ban, sông Đôn và tất cả những binh đoàn, đơn vị, cơ quan trước đây nằm trong Cụm phía Bắc. Tư lệnh phương diện quân vẫn là I. I. Ma-xlen-ni-côp. Chỉ thị của Đại bản doanh ngày 24 tháng Giêng gởi cho đồng chí như sau:

“1. Điều tập đoàn kỵ binh cơ giới cơ động của trung tướng Ki-ri-tsen-cô sang Ba-tai-xcơ để đột kích vào phía sau cụm quân địch đóng ở Rô-xtốp – Ba-tai-xcơ và làm nhiệm vụ hiệp đồng với cánh trái của phương diện quân Nam tiêu diệt địch và đánh chiếm Ba-tai-xcơ, A-dôp, Rô-xtốp.

2 Các tập đoàn quân 44 và 58 đang tiến công trên hướng Ti-khô-rét-xcai-a, Cu-tsép-xcai-a có nhiệm vụ tiêu diệt các đơn vị thuộc tập đoàn quân xe tăng 1 của địch đang rút lui và tiến tới tuyến Ba-tai-xcơ, A-dốp, Ây-xcơ. Tiếp sau, sẽ tiến công qua vịnh Ta-gan-rô-gơ và tiến ra bờ Bắc vào khu vực Cri-vai-a Cô-xa, Bu-đi-on-nôp-ca.

3. Tập đoàn quân 9 đột kích vào Ti-ma-sép-xcai-a, tập đoàn quân 37 vào Cra-xnô-đa, có nhiệm vụ hiệp đồng với Cụm Biển Đen của phương diện quân Da-cáp-ca-dơ, bao vây, tiêu diệt địch hoặc bắt chúng làm tù binh”.

Nhìn vào hoạt động của phương diện quân Da-cáp-ca-dơ hồi tháng Giêng 1943, người ta thấy nổi bật vai trò chỉ đạo hàng ngày của Đại bản doanh và cơ quan công tác của nó là Bộ Tổng tham mưu. Không có một tình huống nào biến đổi mà không được chú ý tới, không có một sai sót nào đáng kể mà không được uốn nắn. Xác nhận cho điều đó là những chỉ thị và mệnh lệnh viết tay chủ yếu đã nói trên.

Thêm vào đó, ngoài việc mỗi ngày vài lần thu thập tin tức về tình hình và hoạt động của ta cũng như của địch tại các mặt trận, các đồng chí còn phải tiến hành trao đổi trực tiếp chuẩn xác các chi tiết tình huống v. v. và làm việc đó với tất cả các phương diện quân. Đó là một công việc vô cùng to lớn căng thẳng, được một tập thể đông đảo của Bộ Tổng tham mưu tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đại bản doanh Bộ tổng tư lệnh tối cao.

Những ngày đầu tháng Hai, trong dải tiến công của phương diện quân Bắc Cáp-ca-dơ, địch đã bị đánh bật ra khỏi những cánh đồng cỏ phía Tây – Bắc và phía Tây Ti-khô-rét-xcai-a và bị đánh bật ra khỏi miền duyên hải A-dốp, từ A-dốp đến Pri-moóc-xcơ – Ác-ta-rơ-xcai-a. Bộ đội chúng ta đã chiếm được khu vực Tre-pe-ghin-xcai-a và tiến đến Cô-re-nốp-xcai-a. Song, vẫn chưa chiếm được Ba-tai-xcơ. Ở đây trên những cửa ngõ vào Rô-xtốp, địch vẫn dựng lên tấm mộc thép độc đáo như trước kia.

Ở Nô-vô-rô-xi-xcơ, ta cũng không thu được kết quả, cuộc tiến công của tập đoàn quân 47 trên hướng làng A-bin-xcai-a và Crưm-xcai-a đã không được chuẩn bị kỹ: chưa tập trung được đầy đủ lực lượng, không tổ chức được một cách thích đáng đòn đột phá và các đợt xung phong chẳng bao lâu đã bị đánh bật trở lại. Còn việc đổ bộ quân trong khu vực Nam Ô-de-rây-ca cũng không làm được vì có bão biển.

Tình hình chiến đấu của các tập đoàn quân bên sườn phải của Cụm Biển Đen có tốt hơn đôi chút: đã truy kích địch có kết quả và gây cho chúng nhiều thiệt hại nặng. Tập đoàn quân 46 sau khi vượt sông Cu-ban, đã chiếm làng U-xtơ- La-bin-xcai-a. Tập đoàn quân 18 hất địch về Cu-ban, tập đoàn quân 56 đã ngoan cường chiến đấu trên những cửa ngõ vào Cra-xnô-đa và sau đó theo lệnh của Đại bản doanh đã đến chi viện cho tập đoàn quân 47, đột kích bên sườn hướng Nô-vui Bơ-gie-gô-nai, Lơ-vốp-xcai-a và Crưm-xcai-a. Hai ngày sau, mũi đột kích này lại được tăng cường thêm cả tập đoàn quân 18 nữa. Nhưng cũng không xong.

Ta cũng không đạt được mục tiêu đề ra trên sườn phải của cụm Biển Đen. Một lần nữa, đó lại là vì ta không có đủ phương tiện vật chất và không có đủ thời gian chuẩn bị tiến công. Nhưng nguyên nhân chính là vì bọn Đức đã tung những lực lượng chủ yếu của tập đoàn quân 17 của chúng tới đây và đã xây dựng được tuyến phòng ngự đặc biệt vững chắc từ trước. Kết quả là đến tháng Hai 1943, chúng đã xây dựng được cái gọi là căn cứ bàn đạp Ta-man mà sau này ta phải tốn mất nhiều công sức để trục nó đi.

Chúng tôi trong Bộ Tổng tham mưu đã nhiều lần tự đặt cho mình câu hói: vì sao căn cứ bàn đạp này lại có ý nghĩa quan trọng? Đó là biện pháp bị bắt buộc hay là hành động có sẵn ý định từ trước? Đương nhiên, bộ đội của tập đoàn quân 17 của địch vì chưa thể rút sang phía bên kia sông Đôn và bị những mũi đột kích của chúng ta uy hiếp nên buộc phải rút về bán đảo Ta-man.

Nhưng mặt khác, bọn Đức không thể không coi trọng ý nghĩa chiến dịch của bán đảo này. Trụ lại được ở đây bọn chúng sẽ uy hiếp phía sau bộ đội chúng ta ở hạ lưu sông Đôn và Cáp-ca-dơ, gây khó khăn cho hoạt động của hạm đội Liên Xô ở biển A-dốp. Sau nữa, căn cứ bàn đạp Ta-man yểm hộ cho Crưm từ phía Đông chống lại những cuộc đổ bộ đường biển. Nếu xét vấn đề trong khía cạnh này thì thấy rõ rằng địch đã có sẵn ý định chiếm giữ Ta-man.

Trong bất kỳ trường hợp nào, chúng tôi cũng ngày càng thiên về cách xem xét vấn đề như vậy và đi tới kết luận rằng địch sẽ ngoan cố phòng ngự căn cứ Ta-man và thanh toán được bọn chúng ở đây quả không phải là chuyện đơn giản.

Trong quá trình tác chiến trước đó, phương diện quân Bắc Cáp-ca-dơ và phương diện quân Da-cáp-ca-dơ đã tiếp giáp sườn bên nhau và cùng hướng chủ lực vào căn cứ bàn đạp Ta-man. Để bộ đội hoạt động ở đây thuộc quyền hai bộ tư lệnh phương diện quân nhưng cũng làm chung một nhiệm vụ thì thật là vô nghĩa. Vì vậy, từ ngày 5 tháng Hai, Đại bản doanh đã chuyển Cụm Biển Đen sang cho phương diện quân Bắc Cáp-ca-dơ và đặt Hạm đội Biển Đen thuộc quyền phương diện quân này về mặt chiến dịch. Nhưng ngược lại đã rút tập đoàn quân 44 và cụm cơ động của Ki-ri-tsen-cô ra khỏi biên chế của phương diện quân Bắc Cáp-ca-dơ vì về mặt chiến dịch và phạm vi hoạt động, hai tập đoàn trên đã xích lại gần phương diện quân Nam.

Thế là phương diện quân Bắc Cáp-ca-dơ sẽ tập trung toàn lực vào việc tiêu diệt cụm quân địch đóng ở Ta-man. Còn phương diện quân Da-cáp-ca-dơ có nhiệm vụ phòng ngự như cũ trong phạm vi Da-cáp-ca-dơ.

Nhưng, trước lúc cải tổ biên chế như vậy, ta lại tiến hành chiến dịch Nô-vô-rô-xi-xcơ. Ý định chiến dịch về cơ bản vẫn như trước, không thay đổi: bao vây và tiêu diệt địch ở khu vực Nô-vô-rô-xi-xcơ bằng những hoạt động phối hợp của tập đoàn quân 47 và quân đổ bộ đường biển. Bộ binh từ phía Tây – Bắc đánh vu hồi vào thành phố, còn quân đổ bộ đường biển sẽ đổ bộ lên hai nơi: chủ yếu – đổ bộ vào khu vực Nam Ô-de-rây-ca và thứ yếu – vào khu vực Xta-ni-tsơ-ca. Thời gian đổ bộ phụ thuộc vào hành động của tập đoàn quân 47: sẽ thực hành đổ bộ sau khi bộ binh chọc thủng được tuyến phòng ngự của địch ở phía Bắc Nô-vô-rô-xi-xcơ và chiếm được đèo ngang Ma-rơ-cốt-khơ…

Ngày 1 tháng Hai, tập đoàn quân 47 chuyển sang tiến công, nhưng không thu được kết quả. Tuy nhiên, tư lệnh phương diện quân Da-cáp-ca-dơ vẫn ra lệnh đổ bộ đường biển. Ý định này được thực hiện ngày 4 tháng Hai mà không được chuẩn bị thích đáng. Vì sự hiệp đồng giữa các hạm tàu và quân đổ bộ tổ chức kém, nhưng chủ yếu là vì pháo trên các chiến hạm không chế áp được những phương tiện hỏa lực của địch, nên đã dẫn đến những kết quả đáng trách.

Ở khu vực Nam Ô-de-rây-ca, chỉ một phần nhỏ của đội đổ bộ chủ yếu (khoảng 1.400 người) là đổ bộ được. Tất nhiên, đơn vị ấy không thể giữ nổi bàn đạp và đã bị tổn thất nặng, buộc phải cố thọc ra khu vực Xta-ni-tsơ-ca, nơi đổ bộ của đội đổ bộ thứ yếu. Mấy chục người trong biên chế của đội này được xuồng chở ra khỏi bờ.

Đội đổ bộ trên hướng thứ yếu có gần 900 người do thiếu tá Tx. L. Cu-nhi-cốp chỉ huy đã lên bờ được trọn vẹn. Sở dĩ được như vậy một phần là nhờ hoạt động được tổ chức tốt của đội tàu đổ bộ (do trung úy thuyền trưởng N. I. Xi-pi-a-ghin chỉ huy). Trên đất liền, bộ đội đổ bộ chiến đấu rất táo bạo và linh hoạt. Cơ quan tham mưu của bộ đội đổ bộ đứng đầu là Ph. E. Cô-ta-nôp, một đại úy giàu kinh nghiệm, hoạt động rất cừ. Về sau đồng chí này lên thay Cu-nhi-côp bị tử thương.

Cần ghi công trung tá A. V. Xvéc-đlốp, tham mưu trưởng căn cứ hải quân Nô-vô-rô-xi-xcơ, người được giao nhiệm vụ chỉ huy toàn bộ lực lượng đổ bộ thứ yếu từ đài chỉ huy tiền tiêu. Lực lượng đổ bộ đã đánh chiếm và giữ được tốt vị trí đầu cầu nhỏ. Sau đó, mấy lữ đoàn bộ binh và thủy quân lục chiến cùng cơ quan chỉ huy của quân đoàn bộ binh 16 cũng đã đổ bộ tiếp lên đấy. Các đơn vị này mở rộng bàn đạp đến tận dãy núi Mứt-kha-cô, đã thu hút được hầu hết lực lượng của năm sư đoàn địch về phía mình, đã làm nổi danh quân đội Liên Xô.

Một chiến dịch tiến công khác ở khu vực Cra-xnô-đa đã diễn ra gần như đồng thời với những sự kiện trên, từ ngày 9 đến 22 tháng Hai. Hoạt động bên sườn phải khu vực này là các tập đoàn quân 58 và 9, ở giữa là các tập đoàn quân 37 và 46, còn bên cánh trái, ở phía Bắc Nô-vô-rô-xi-xcơ, vẫn là tập đoàn quân 47. Các mũi đột kích đều hướng vào làng Va-re-nhi-cốp-xcai-a. Các tập đoàn quân 18 và 56, đóng quân ở ngay phía trước Cra-xnô-đa, đang tiến công nhằm bao vây và tiêu diệt quân địch phòng ngự ngay trong thành phố.

Địa hình không thuận lợi cho chúng ta. Tập đoàn quân 47 phải vượt qua một dãy núi, còn các tập đoàn quân 58, 9 và 37 phải tiến công vượt qua các ao hồ, sình lầy, vùng đất trũng, thấp, bãi sú, trong thời gian này lại đầy nước. Còn đường sá thì chỉ nghĩ đến đã thấy sợ; có thể nói đó là những luống bùn nhầy nhụa cầm chân cả bộ binh lẫn pháo binh, nhất là các đơn vị hậu cần. Còn địch, chúng đóng trên các điểm cao khống chế, lợi dụng từng giờ để rúc sâu thêm xuống đất, bổ sung thêm những chướng ngại tự nhiên trên đường tiến quân của chúng ta bằng những chướng ngại vật tự tạo, đặc biệt bằng những bãi mìn.

Bộ tư lệnh phương diện quân lúc này đứng trước một tình trạng khó xử: hoặc phải chuẩn bị thêm để tiến hành đột phá theo đúng mọi quy tắc, nhưng sẽ mất thời gian và địch sẽ lợi dụng số thời gian ấy để củng cố công sự thêm vững chắc, hoặc tiếp tục tiến công không ngừng lại lâu để không cho địch có khả năng tăng cường phòng ngự. Các đồng chí đã chọn phương án sau: chỉ dành vẻn vẹn có năm ngày để chuẩn bị chiến dịch.

Ngày 9 tháng Hai, bộ đội của phương diện quân Bắc Cáp-ca-dơ đã đột kích từ tuyến sông Bây-xúc và Cu-ban. chọc thủng phòng tuyến phòng ngự của quân Đức ở khu vực Cô-rê-nôp-xcai-a, và tập đoàn quân 37 của chúng ta sau hai ngày chiến đấu đã tiến sâu về phía Tây được 25-30 ki-lô-mét. Bên sườn phải tập đoàn quân 18 trong khu vực Pa-sơ-cốp xcai-a, quân ta đã vượt qua Cu-ban và tiến được đôi chút.

Dựa vào thắng lợi của các đơn vị bạn, tập đoàn quân 46 cũng tiến lên phía trước. Ngày 12 tháng Hai, các đơn vị này đã cùng nhau phối hợp cố gắng và đánh bật địch ra khỏi Cra-xnô-đa và cả ngày hôm sau tiếp tục truy kích địch sâu thêm đến 50 ki-lô-mét. Do đó, tình hình bên sườn phải và Tây – Nam Cra-xnô-đa đã được chỉnh đốn lại chút ít. Còn ở khu vực Nô-vô-rô-xi-xcơ, các mũi đột kích của tập đoàn quân 41 và của các chiến sĩ anh dũng ở Mứt-kha-cô đã bị đánh lui

Trong suốt nửa cuối tháng Hai, tháng Ba và nửa đầu tháng Tư, các cuộc chiến đấu tiến công vẫn tiếp diễn nhưng không thu được kết quả lớn. Quân địch bị đẩy ra tuyến sông Cu-rơ-ca và Cu-ban đến Pri-cu-ban-xki, ra sông A-đa-gum đến Cra-xnưi ra các cao điểm ở vùng Crưm-xcai-a, Ne-be-rơ-gia-ép-xcai-a, nhưng chúng vẫn chưa bị đánh bại hẳn. Sở dĩ như vậy là do nhiều nguyên nhân và đặc biệt là do ta có nhiều thiếu sót trong việc chỉ huy bộ đội. Nên ta thấy cần phải có những biện pháp tổ chức bổ sung.

Ngay ngày 16 tháng Ba, Đại bản doanh đã giải thể cơ quan chỉ huy của Cụm Biển Đen và lấy số cán bộ ở đây tăng cường cho cơ quan tham mưu của phương diện quân Bắc Cáp-ca-dơ. Trước đó mấy ngày, cơ quan chỉ huy của tập đoàn quân 18 chuyển sang bố trí ở khu vực Nô-vô-rô-xi-xcơ và hợp nhất các đơn vị bộ đội đang hoạt động ở bán đảo Mứt-kha-cô và ở núi Đôn-gai-a. Còn các sư đoàn còn lại trong khu vực Cra-xnô-đa thì nhập vào các tập đoàn quân 46 và 56.

Trong lúc này, bản thân quân địch cũng tăng cường hoạt động cả trên bộ lẫn trên không và ngoài biển. Tháng Tư, chúng đã tăng cường quân đội ở khu vực Nô-vô-rô-xi-xcơ và phản kích cực mạnh vào các chiến sĩ bảo vệ đất nhỏ và cả vào phía Đông thành phố. Không còn nghi ngờ gì nữa, bọn Đức đang mưu toan thủ tiêu căn cứ đầu cầu của chúng ta.

Bọn chúng còn đột kích cả vào những tập đoàn quân khác của chúng ta. Từ ngày 15 tháng Tư, quân địch phản kích trên hướng chủ yếu chống lại tập đoàn quân 56. Không quân Đức từ các sân bay Ta-man, Crưm và cả từ các sân bay U-crai-na bay tới đây. Bọn chúng cố tìm cách giành quyền khống chế trên không, rất nhiều trận không chiến đã diễn ra trên bầu trời Cu ban, trong đó các máy bay tiêm kích mới nhất của Đức Me-109 G-2 và Me- 109 G-4 đã tham chiến.

Hoạt động chiến đấu của không quân ta rõ ràng có thấp hơn. Ví như ngày 9 tháng Tư, quân địch đã xuất kích hơn 750 lần chiếc, chúng ta – 307; ngày 12 tháng Tư, bọn chúng – 862, chúng ta – 300; ngày 15 tháng Tư, bọn chúng – 1.560, chúng ta – 447; ngày 17 tháng Tư, bọn chúng – 1.560, chúng ta – 538. Ngoài biển, quân địch phong tỏa vịnh Gê-len-gích.

Như vậy là tình hình không thuận lợi cho chúng ta. Đại bản doanh đã chăm lo tăng cường cho phương diện quân Bắc Cáp-ca-dơ. Nhiều đơn vị mới thuộc bộ đội không quân và súng cối phản lực cùng những thê đội bổ sung và nhiên liệu đạn dược đã được điều động đến khu vực ấy. Tập đoàn quân 47, hai quân đoàn bộ binh và một sư đoàn được đưa đến làm đội dự bị của phương diện quân này. Các tập đoàn quân cũng thành lập những đội dự bị. Công tác hậu cần cũng đã được chấn chỉnh lại.

Sau khi đã phân tích tỉ mỉ tình huống ở Bắc Cáp-ca-dơ, ngày 17 tháng Tư, Bộ Tổng tham mưu đã báo cáo lên đồng chí Tổng tư lệnh tối cao các kết luận của mình và kế hoạch sử dụng binh lực hiện có của phương diện quân Bắc Cáp-ca-dơ và những binh lực sắp được điều tới đây. I. V. Xta-lin hội ý với Gh. C. Giu-cốp mới ở Bên-gô-rat về. Giu-cốp không loại trừ việc bộ chỉ huy Đức muốn sử dụng tập đoàn quân 17 của chúng đang đóng ở Ta-man vào các chiến dịch tiến công trong mùa xuân và mùa hè năm 1943. Đồng chí cho rằng cần phải nhanh chóng thủ tiêu căn cứ bàn đạp Ta-man của địch và đẩy lùi chúng tới Crưm.

Đồng chí Tổng tư lệnh tối cao suy nghĩ một lúc về ý kiến này, xong nói với Giu-côp:

- Đồng chí đích thân nghiên cứu các vấn đề này tại chỗ thì tốt hơn. Thời gian gần đây, ở Ma-xlen-ni-côp có chuyện gì đó không ổn. Những cố gắng của phương diện quân không đem lại kết quả đáng kể… Đổng chí mang Stê-men-cô trong Bộ tổng tham mưu cùng đi, và các đồng chí đích thân tới đấy…

Ngay lúc ấy, đồng chí Tổng tư lệnh tối cao cho phép sử dụng sư đoàn đặc biệt thuộc Bộ dân ủy nội vụ, trong lực lượng dự bị của Đại bản doanh vào những trận chiến đấu ở Ta-man. Tư lệnh sư đoàn là đại tá Pi-ia-sép mà bạn đọc đã biết. Binh đoàn này trong thời gian ấy được kiện toàn đầy đủ nhất: nó có đến 11 nghìn ngươi.

Sáng ngày hôm sau, 18 tháng Tư, chúng tôi đáp máy bay đến Cra-xnô-da. Gh. C. Giu-côp mời tư lệnh không quân A. A. Nô-vi-cốp và bộ trưởng dân ủy hải quân N. Gh. Cu-dơ-nét-xôp cùng tham gia chuyến đi công tác này.

Chúng tôi đỗ xuống Rô-xtôp lấy nhiên liệu và từ đó bay là thấp tới Cra-xnô-đa, vì trên trời Cu-ban máy bay địch hoành hành rất dữ và đang diễn ra những trận không chiến ác liệt. Bay như vậy cũng đáng ngại. Phía dưới, vườn tược đang nở đầy hoa, đồng ruộng rực rỡ một màu xanh.

Ma-xlen-ni-cốp ra đón chúng tôi tại sân bay Cra-xnô-đa và đưa chúng tôi về cơ quan tham mưu của phương diện quân. Các tư lệnh các tập đoàn quân 58, 9 và 37 đã được triệu tập đến đấy. Bộ đội của các tập đoàn quân này đang hoạt động trong vùng sình lầy, rải ra đến hơn 6 ki-lô-mét. Những con đường hẹp vắt ngang qua vùng sình lầy đều bị bọn địch kiềm chế. Chỉ những đơn vị tương đối không lớn, được trang bị đặc biệt, hoạt động ở đây mới có lợi.

Sau khi nghe các tư lệnh tập đoàn quân báo cáo, Giu-cốp nói:

- Chúng ta sẽ tìm cách giải quyết vấn đề phía Nam Cu-ban. Ngày mai ta sẽ đến tại chỗ.

Tình hình phía Nam Cu-ban như sau: tập đoàn quân 56 đang tiến công trên hướng chủ yếu. Mũi đột kích chính vu hồi từ phía Nam vào rừng Crưm-xcai-a, còn mũi phụ vu hồi từ phía Bắc vào. Quân địch đã tung nhiều lực lượng bộ binh mới, xe tăng và một số lớn máy bay vào chiến đấu. Do đó tập đoàn quân 56 chỉ tiến gần được đến Crưm-xcai-a, song không thể đánh chiếm được vùng này. Các sư đoàn tiến công rất thiếu đạn dược. Không đủ pháo binh và xe tăng. Tập đoàn quân 18 cũng gặp nhiều khó khăn. Chiến đấu suốt hai ngày, tập đoàn quân này đã đánh lui được những đợt xung phong cực mạnh của địch ở khu vực Mút-kha-cô.

Sáng ngày 19 tháng Tư, chúng tôi đã đến sở chỉ huy của tập đoàn quân 56, đóng ở làng A-bin-xcai-a. Trong lúc báo cáo tình hình, A. A Grê-xcô, tư lệnh tập đoàn quân tuyên bố thẳng rằng cuộc tiến công dự định cho ngày mai chưa được chuẩn bị. Gh. C. Giu-cốp đồng ý với ý kiến đó và hoãn cuộc tiến công của tập đoàn quân lại năm ngày, tức là đến 25 tháng Tư.

Trong thời gian đó, tập đoàn quân sẽ được bổ sung thêm đạn dược, nhiên liệu, chờ pháo binh của lực lượng dự bị của Bộ Tổng tư lệnh tối cao và điều quan trọng nhất là sẽ có thể sử dụng được toàn bộ số máy bay, kể cả số máy bay mới đến, nhằm chiếm lại quyền khống chế trên không. Và sư đoàn của đồng chí Pi-ia-sép cũng phải đến đây trong thời hạn đó.

Cũng đã dự định rút bớt số pháo binh và súng cối phản lực từ những khu vực khác trong mặt trận về tăng cường cho tập đoàn quân 56. Ngoài ra, Giu-côp còn muốn đích thân tới các quân đoàn và sư đoàn, trực tiếp tận mặt xem xét mọi việc trước lúc bắt đầu tiến công.

Đồng chí ra lệnh đào ngay trong khu vực sở chỉ huy của tập đoàn quân 56 cho chúng tôi một số hầm, để chúng tôi có điều kiện bám sát được bộ đội đang hoạt động trên hướng chủ yếu và không mất thời gian vô ích để đi về Cra-xnô-đa. Gh. C. Giu-côp còn yêu cầu cả Ma-xlen-ni-cốp cũng lập đài quan sát của mình ngay tại tập đoàn quân này.

Trong những ngày tiếp sau, phần lớn thời gian chúng tôi đã ở dưới các đơn vị, làm quen với các tư lệnh quân đoàn và sư đoàn, nghiên cứu mọi chi tiết của tình hình, tổ chức hiệp đồng ngay tại thực địa. Từ đài quan sát của tư lệnh tập đoàn quân cách tiền duyên chừng hai ki-lô-mét, chúng tôi đã ấn định sẽ đưa sư đoàn đặc biệt của Bộ dân ủy nội vụ bước vào chiến đấu ở đâu và như thế nào.

Đồng thời với việc chuẩn bị cho cuộc tiến công của tập đoàn quân 56, đồng chí đại diện Đại bản doanh còn rất quan tâm đến việc củng cố phòng ngự của đội đổ bộ đường biển của tập đoàn quân 18 ở Mút-kha-cô, bảo đảm cho nó được vững chắc và được liên tục cung cấp mọi thứ cần thiết. Ngày 20 tháng Tư, ta đã hai lần dùng máy bay ào ạt đột kích địch ở trước chính diện của đội đổ bộ đường biển. Trong mỗi đợt đột kích, ta đã dùng tới 200 máy bay, sau đó địch đã phải đình chỉ ngay cuộc tiến công của chúng và bắt đầu chui xuống đất. Theo chỉ thị của Gh. C. Giu-cốp, hạm đội đã tách thêm nhiều phương tiện để chuyển vào đất nhỏ, pháo binh của tập đoàn quân 18 trong khu vực vịnh Xe-mét-xcai-a được tăng cường thêm hệ thống hỏa lực pháo binh đã cải thiện.

Đêm 20 rạng ngày 21 tháng Tư, không quân hoạt động tầm xa, phương diện quân Bắc Cáp-ca-dơ và Hạm đội Biển Đen đã chung sức cố gắng phối hợp đột kích vào các sân bay của địch ở A-na-pa, vào những phần đất còn bị địch chiếm ở Nô-vô-rô-xi-xcơ và vào cả đội hình chiến đấu của quân đội phát xít Đức. Những đòn đột nhập này đã tỏ ra rất có hiệu lực.

Trong số những biện pháp tổ chức thuần túy đã thực biện trong những ngày ấy, có lẽ chỉ có hai biện pháp đáng được nhắc lại ở đây: điều động cơ quan chỉ huy của tập đoàn quân 58 tới miền duyên hải biển A-dốp, đồng thời chuyển giao các sư đoàn trong biên chế của tập đoàn quân này cho tập đoàn quân 9 và đưa ba sư đoàn bộ binh cân vệ của tập đoàn quân 56 vào quân đoàn bộ binh cận vệ 11.

Một hôm, đã quá nửa đêm, tôi viết xong báo cáo thường lệ gửi về Mát-xcơ-va và mang sang lấy chữ ký của Giu-côp. Đồng chí ngồi trong căn hầm của mình và đang chăm chú suy nghĩ trên tấm bản đồ trải rộng, đồng chí ký báo cáo, không bổ sung gì thêm, rồi hỏi theo thói quen:

- Thế đồng chí định làm gì bây giờ?

- Thưa, tôi đi gửi báo cáo rồi đi nằm nghỉ, – tôi trả lời và tính nhẩm: chẳng còn mấy nữa thì trời sáng.

- Nên thế, đúng đấy …

Đến đây, chúng tôi chia tay nhau.

Gửi báo cáo cũng chóng thôi. Nửa giờ sau, tôi đã trở về tới chỗ của mình, vừa ngả lưng thì nghe thấy tiếng đàn bai-an vọng tới. Có người nào đấy đang dạo một bản nhạc buồn mà hồi đó ai cũng biết. Tôi ngó ra cửa và thây Gh. C. Giu-cốp. Đồng chí ngồi trên ngưỡng cửa hầm, đang chậm rãi kéo đàn. Hết bản nhạc thứ nhất, tiếp đến bản nhạc thứ hai, thứ ba – toàn là những bản nhạc nồng nhiệt cả. Đó là những bài hát hay ngoài mặt trận của chúng tôi. Người chơi đàn chưa có trình độ giỏi lắm nhưng đã chơi đàn với một nhiệt tình đầy hấp dẫn. Tôi ngồi lâu bên cửa, lặng lẽ nghe.

Từ sáng ngày 21 tháng Tư, chúng tôi đã ở tập đoàn quân 18. Đơn vị này đang phòng ngự trong khu vực Nô-vô-rô-xi-xcơ Chúng tôi nghe báo cáo của tư lệnh tập đoàn quân C N. Lê-xe-lít-de, đi sâu nghiên cứu những đề nghị của đồng chí ấy. Chúng tôi hứa chi viện cho tập đoàn quân bằng không quân mà Lê-xe-lít-de rất ca ngợi. Cũng ở đây, lần đầu tiên tôi bắt quen với L. I. Brê-giơ-nép, chủ nhiệm chính trị tập đoàn quân này.

Đến tối, trên đường về, chúng tôi đã ghé vào đài quan sát của A. A. Lu-trin-xki, tư lệnh quân đoàn bộ binh 3. Quân đoàn này bố trí bên sườn trái tập đoàn quân 56. Đứng trên đài quan sát của Lu-trin-xki, nhìn thấy rất rõ những cứ điểm Ne-be-rơ-gia-ép-xcai-a của địch. Máy bay Đức ném bom vào các trận địa ta, sau đó đánh cả vào đài quan sát. Chờ cho địch bắn phá xong, chúng tôi bắt đầu chuẩn xác kế hoạch hành động của quân đoàn, quyết định sử dụng quân đoàn tiêu diệt địch ở khu vực Ne-be-rơ-gia-ép-xcai-a và bảo đảm phía Nô-vô-rô-xi-xcơ cho toàn chiến dịch tiến công.

Ngày 22 tháng Tư, đại diện Đại bản doanh làm việc với các tư lệnh sư đoàn thuộc tập đoàn quân 56. Các đồng chí này được giải thích rõ rằng tập đoàn quân 56 sẽ hành động trên hướng chủ yếu của mặt trận, có nhiệm vụ trước mắt là phá vỡ tuyến phòng ngự của địch ở khu vực Crưm-xcai-a và đánh chiếm trung tâm đề kháng này, sau đó sẽ tiến công Glát-côp-xcai-a và Ve-lơ-khơ-ne – Ba-can-xki tại phía sau cánh quân phát-xít Đức ở Nô-vô-rô-xi-xcơ. Cũng tại đây, dự định sẽ sử dụng những lực lượng chủ yếu của không quân và trước hết sẽ chở đạn dược tới đây.

Nhiệm vụ của các tập đoàn quân khác cũng đã được xác định. Đảm nhiệm sườn phải của phương diện quân, tập đoàn quân 9 do C. A. Cô-rô-tê-ép chỉ huy hoạt động ở khu vực Đông – Bắc Sa-po-rơ-xki, phải tiến công vượt sông Cu-ban và đánh chiếm Va-le-nhi-cop-xcai-a, rồi sau đó phát triển thắng lợi vào sâu trên bán đảo Ta-man tới Gi-gin-xcôi-ê và đưa một bộ phận lực lượng tới Tem-ri-úc.

Tập đoàn quân 37 của tướng P. M. Cô-dơ-lốp có nhiệm vụ đột kích lừ Pri-cu-ban-xki và Re-me-khốp-xki thẳng sang phía Tây, cũng nằm trong hướng chung với Va-re-nhi-cốp-xcai-a; còn tập đoàn quân 18 phải khôi phục lại tình hình tại Mứt-kha-cô đã bị địch phá rối trước đây.

Đại bản doanh phê chuẩn kế hoạch chiến dịch này mà không thêm bớt gì cả. Nhưng thực tiễn đã tu chỉnh kế hoạch ấy: cuộc tiến công phải lui lại mấy ngày tức là đến 29 tháng Tư. Chỉ đến thời gian ay, mọi lực lượng và khí tài mới được hoàn toàn chuẩn bị xong.

Những ngày ấy nắng ấm. Từ sớm đến tận đêm khuya, chúng tôi làm việc ở các sư đoàn và trung đoàn, đi sâu nghiên cứu tỉ mỉ mọi chi tiết, cố gắng không bỏ sót một vấn đề gì. Quá nửa đêm, chúng tôi mới về chỗ ở của mình. Như thường lệ, sau khi ăn tối xong, tôi ngồi viết ngay báo cáo gửi về Đại bản doanh, còn Gh. C. Giu-côp, trong lúc chờ đợi tôi viết xong báo cáo, nói chuyện bằng điện thoại với các tư lệnh tập đoàn quân. Trước lúc đi ngủ, đồng chí thường chơi đàn bai-an, đồng chí chỉ chơi đàn sau khi đã làm xong mọi việc và còn lại có một mình.

Cuối cùng, ngày 29 tháng Tư đã đến. Chúng tôi ở trên đài quan sát của tư lệnh tập đoàn quân 56. Đúng 7 giờ 40 phút, bắt đầu pháo bắn chuẩn bị. Toàn bộ pháo binh của phương diện quân cùng với không quân pháo kích 100 phút vào tuyến phòng ngự của quân địch.

Rồi pháo chuyền làn bắn vào sâu trong trận địa địch, bộ binh xông lên xung phong. Đứng tại đài quan sát nhìn thấy rất rõ các mũi từ phía Bắc và phía Nam đang đánh quặp lấy Crưm-xcai-a. Đây là trung tâm đề kháng chủ yếu của địch. Chúng đang phòng ngự một cách tuyệt vọng.

Đi đôi với những trận đánh đẫm máu trên mặt đất, còn có những trận không chiến sôi nổi. Có đến hàng trăm máy bay xuất hiện càng một lúc trên bầu trời. Các phi công xuất sắc của chúng ta: A. I. Pô-crư-skin, G. A. Re-trơ-ca-lốp, hai anh em Đơ-mi-tơ-ri và Bô-rít Glin-ca, đã tham gia chiến đấu ở đây.

Rõ ràng bọn địch đã phát hiện được đài quan sát của A. A. Grê-xcô nên đã dồn hỏa lực pháo binh của chúng vào đấy. Mấy chiếc ô-tô đậu cách hầm chúng tôi 600-700 mét bị phá tan, nhưng hầm chúng tôi vẫn nguyên vẹn thậm chí không bị hư hại gì. Chúng tôi ở đây hơn một ngay đêm liền và đến ngày 1 tháng Năm cũng ở tại đây. Sau đó, đến 14 giờ, chúng tôi chuyển qua sở chỉ huy của tập đoàn quân, nơi A. A. Grê-xcô đã tổ chức một bữa ăn, tuy đạm bạc nhưng vẫn có hương vị của ngày lễ lớn.

Các trận chiến đấu quyết liệt trong dải tiến công của tập đoàn quân 56 tiếp diễn mây ngày liền. Quân địch đã nhiều lần ngoan cố phản xung phong, đặc biệt là ở bên sườn phải, ở đây mỗi ngày ta phải đánh lui từ 6 đến 8 lần phản xung phong của chúng. Tốc độ tiến quân trung bình trong một ngày đêm của bộ đội không vượt quá một ki-lô-mét rưỡi đến hai ki-lô-mét.

Tới ngày thứ năm của chiến dịch, ta quyết định đưa sư đoàn đặc biệt của Pi-ia-sép vào chiến đấu. Gh. C. Giu-cốp đặt nhiều hy vọng vào sư đoàn này và ra lệnh phải giữ vững máy liên lạc điện thoại trực tiếp với Pi-ia-sép. Đông chí ủy nhiệm tôi đích thân nói chuyện với Pi-ia-sép trong quá trình chiến đấu.

Sư đoàn tiến vào thê đội một của tập đoàn quân trong đêm và đã tiến công từ sáng ở phía Nam Crưm-xcai-a, nhưng liền bị không quân địch đánh phá mạnh. Các trung đoàn đã dừng lại tìm nơi ẩn nấp.

Gh. C. Giu-cốp có mặt ở tập đoàn quân 56 với bí danh là Côn-xtan-ti-nốp, truyền lệnh cho tôi:

- Lệnh cho Pi-ia-sép tiến công? Cớ sao dừng lại ẩn nấp?

Tôi gọi dây nói tới tư lệnh sư đoàn:

- Côn-xtan-ti-nôp đòi không được ngừng tiến công.

Kết quả thật không ngờ, Pi-ia-sép nổi nóng:

- Lại ông nào nữa đây? Ai cũng đòi chỉ huy thì chẳng được cái tích sự gì sất đâu. Mặc xác ông ta…

Giu-côp hỏi:

- Pi-ia-sép nói gì thế?

Tôi trả lời, sao cho tư lệnh sư đoàn cũng nghe được:

- Thưa đồng chí nguyên soái, Pi-ia-sép đang áp dụng những biện pháp cần thiết.

Thề là đủ. Đại tá đã hiểu Côn-xtan-ti-nôp là ai và sau đó đã tuyệt đối chấp hành mọi chỉ thị của đồng chí.

Đến hết ngày 4 tháng Năm, do bị hai mũi giáp công, quân địch đã bị đánh bật ra khỏi Crưm-xcai-a. Chúng tôi liền đến ngay đó để xem xét cách bố trí phòng ngự của bọn Đức. Đó thật là một trung tâm đề kháng không thể bị phá vỡ một cách đơn giản. Không kể hệ thống dày đặc những hào chiến đấu, hào giao thông, công sự và hầm hố, chúng còn lấy xi-măng ở Nô-vô-rô-xi-xcơ, biến các tầng hầm những nhà gạch thành lô-cốt. Ngoài ra, chúng còn dùng nhiều xe tăng đặt ngầm dưới đất yểm hộ các cửa ngõ vào Crưm-xcai-a.

Những ngày tiếp sau, cuộc tiến công cũng gặp nhiều khó khăn như vậy. Gặp nhiều khó khăn nhất là bộ đội ta ở các khu vực Ki-ép-xcôi-e và Môn-đa-van-xcôi-e. Không sao đánh chiếm được những cứ điểm này. Tất cả đã dừng lại trên tuyến các sông Cu-rơ-ca và Cu-ban, Ki-ép-xcôi-ê, Môn-đa-van-xcôi-e và Ne-be-rơ-gia-ép-xcai-a. Trinh sát báo cáo rằng phía trước chúng ta là một phòng tuyến mới, mạnh của địch với số đơn vị vừa rút lui về và nhiều lực lượng dự bị vừa được điều tới.

Đó chính là cái gọi là “Phòng tuyến xanh”. Mọi cố gắng định đột phá phòng tuyến đó trong lúc hành tiến đều không đem lại kết quả. Nếu cứ tiếp tục cố đánh thì cũng không có tác dụng gì. Và, ngày 15 tháng Năm, ta đã kết thúc chiến dịch. Muốn đột phá dải phòng ngự mới này, ta phải tổ chức một chiến dịch mới, và như vậy phải có thời gian và phương tiện.

Đại diện Đại bản doanh không có việc gì để ở lại đây nữa. Gh. C. Giu-cốp và tất cả chúng tôi trở về Mát-xcơ-va. Trên đường về, chúng tôi không thấy vui lắm. Nhiệm vụ quét sạch địch ra khỏi bán đảo Ta-man chưa được hoàn thành. Chúng tôi biết trước rằng Xta-lin sẽ không hài lòng và chuẩn bị chịu khiển trách. Nhưng mọi việc đã trôi qua một cách tương đối thuận lợi. Tổng tư lệnh tối cao chỉ quyết định thay đổi tư lệnh phương diện quân: cử I. E. Pê-tơ-rốp thay I. I. Ma-xlen-ni-cốp. Dưới sự lãnh đạo của Pê-tơ-rốp, trong vòng năm tháng, bộ đội Liên Xô đã quét sạch địch ra khỏi bán đảo Ta-man.

Phương diện quân Bắc Cáp-ca-dơ đã dành cả tháng Tám và đầu tháng Chín năm 1943 để chuẩn bị tiến tới tiêu diệt địch trên “Phòng tuyến xanh”. Lần này, X. C. Ti-mô-sen-cô làm đại diện của Đại bản doanh ở đây.

“Phòng tuyến xanh” cấu trúc phức tạp, thành những tuyến tăng cường hình cánh cung nối tiếp nhau thành lớp chắn ngang bán đảo Ta-man, dựa vào những cao điểm khống chế và những chướng ngại thiên nhiên khác như: sông, bãi sú, sình lầy. Khu vực Nô-vô-rô-xi-xcơ có thể là cứ điểm then chốt của toàn bộ tuyến phòng ngự. Đánh chiếm được cứ điểm này, bộ đội ta sẽ có khả năng tiến vào phía sườn và phía sau một số tuyến phòng ngự và trung tâm đề kháng của địch cấu trúc ở những vùng dân cư Ki-ép-xcôi-ê Môn-đa-van-xcôi-e, Ne-be-rơ-gia-ép-xcai-a, Vê-rơ-khơ-ne – Ba-can-xki, nơi chủ lực của địch đóng.

Kế hoạch chiến dịch tiến công mới quy định phải tiêu diệt cánh quân địch đóng tại Nô-vô-rô-xi-xcơ, bằng những cố gắng phối hợp của tập đoàn quân 18, Hạm đội Biển Đen, Chi hạm đội A-dốp và không quân, tiếp sau sẽ phát triển thắng lợi vào phía sau các đoàn quân phát-xít Đức đang bố trí ở Va-re-nhi-cốp-xcai-a, Ki-ép-xcôi-ê và Môn-đa-van-xcôi-ê.Trong lúc đó, các tập đoàn quân 9 và 56 phải từ phía Đông tiến công thẳng vào chính diện chủ lực địch, chia cắt chúng, buộc chúng phải chiến đấu và bị tiêu diệt từng bộ phận một. Các mũi đột kích của cả ba tập đoàn quân cuối cùng đều phải dồn chĩa vào Ta-man.

Kế hoạch này được bắt đầu thực hiện vào đêm 9 rạng ngày 10 tháng Chín 1943, bằng những hoạt động oanh tạc ráo riết của không quân và pháo binh vào những địa điểm sẽ có đổ bộ đường biển. Sau đấy, tiếp đến những hành động táo bạo của Hạm đội Biển Đen và tập đoàn quân 18 ở khu vực Nô-vô-rô-xi-xcơ. Hải quân của ta được không quân và pháo mặt đất chi viện đã đột phá vào vịnh Xe-mét-xcai-a, đổ quân lên bờ và đánh chiếm miền duyên hải vịnh này, công phá vào các khu phố trong thành phố. Tập đoàn quân 18 từ phía đường cái lớn Tu-áp-xe và đất nhỏ tiến công vào phía Bắc thành phố, chi viện cho đội đổ bộ đường biển.

Ngày hôm sau, tập đoàn quân 9 ở bên sườn phải làm nhiệm vụ tập đoàn xung kích của phương diện quân đã chuyển sang tiến công, thu hút được các lực lượng dự bị của địch về phía mình, nhằm không để cho địch có khả năng sử dụng chúng trên các khu vực khác.

Ngày 14 tháng Chín, tập đoàn quân 56 đột kích thẳng vào các trung tâm đề kháng của địch ở Ki-ép-xcôi-e và Môn-đa-van-xcôi-e. Những đơn vị tiền tiêu của chúng ta đã thọc sâu vào tuyến phòng ngự ở đấy của quân đội phát-xít Đức.

Các đợt tiến công của bộ binh thuộc phương diện quân Bắc Cáp-ca-dơ, của các chiến hạm thuộc Hạm đội Biển Đen và của không quân, tuy tiến hành trong những thời gian và không gian khác nhau nhưng được phối hợp với nhau rất tốt đã là những đòn tiến công mãnh liệt và chớp nhoáng, khiến bọn phát-xít Đức không sao chống đỡ nổi.

Ngày 16 tháng Chín, các sư đoàn của tướng Lê-xe-lít-de hiệp đồng với hạm đội đã đánh tan quân địch ở Nô-vô-rô-xi-xcơ, hoàn toàn giải phóng thành phố, thành phố này năm 1973 được phong tặng danh hiệu cao quý: thành phố anh hùng.

Bộ đội Liên Xô bắt đầu chiến đấu nhằm chiếm đèo ngang Ne-be-rơ-gia-ép-xki, cách Tây – Bắc áng chừng 8-10 ki-lô-mét. Tình hình này trở thành mối uy hiếp rõ rệt từ phía sau lưng đối với chủ lực của quân địch đang phải phòng ngự trước sức tiến công của các tập đoàn quân 9 và 56, buộc bộ chỉ huy phát-xít Đức phải cho rút quân của chúng ra khỏi “Phòng tuyến xanh”. Phương diện quân Bắc Cáp-ca-dơ chuyển sang truy kích, đè bẹp sức kháng cự đang bị yếu dần của quân địch trên các tuyến giữa.

Những đội đổ bộ đường biển mới lại đổ bộ lên phía sau lưng quân địch, làm cho các đơn vị địch đang rút lui mất những căn cứ để dựa vào đó mà tổ chức rút chạy. Trên không, các phi công Liên Xô độc chiếm bầu trời. gây tổn thất lớn không những cho bộ binh quân Đức mà cho cả những chiến hạm địch đang chở tàn quân của tập đoàn quân 17 rút chạy sang Crưm.

Ngày 9 tháng Mười 1943, những loạt đạn cuối cùng đã ngưng hẳn trên bán đảo Ta-man. Sau một tháng chiến đấu quyết liệt riêng số tù binh địch bị ta bắt được ở đây đã lên tới gần 4 000 lên. Về chiến lợi phẩm, bộ đội ta thu được: 1300 khẩu pháo và súng cối, 92 xe tăng. Chúng ta đã tước khỏi tay quân thù lưỡi dao găm sẵn sàng thọc vào lưng các phương diện quân chủ yếu của chúng ta đang tiến về Đni-ép-rơ. Bộ Tổng tham mưu bắt đầu suy nghĩ đến việc chuyển những hành động chiến đấu sang vùng Crưm.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx