Dêm hôm đó trời mưa bão sớm chớp đùng đoàng. Nhưng thứ đánh thức tôi dậy không phải là sấm hay chớp, mà là Winn-Dixie. Nó luôn miệng rên rỉ và đập đầu vào cánh cửa phòng ngủ.
“Winn-Dixie,” tôi gọi. “Mày đang làm gì vậy?”
Nó không để ý đến tôi, mà cứ tiếp tục đập đầu vào cửa, kêu la, rên rỉ. Tôi bước xuống khỏi giường, tiến đến gần và đặt tay lên đầu nó, nó run rẩy đến mức khiến tôi sợ hãi. Tôi quỳ xuống vòng tay ôm lấy nó, nhưng Winn-Dixie không quay lại nhìn tôi hay mỉm cười hay hắt hơi hay vẫy đuôi hay bất cứ thứ gì bình thường nó vẫn hay làm; nó chỉ đập đầu vào cửa, rên rỉ và run rẩy.
“Mày muốn mở cửa à?” tôi hỏi. “Sao? Có phải mày muốn thế không?” Tôi đứng dậy mở cửa và Winn-Dixie lao ngay ra ngoài như thể có gì đó rất to lớn, xấu xa và độc ác đang đuổi theo nó vậy.
“Winn-Dixie,” tôi huýt gió, “quay trở lại đây.” Tôi không muốn nó đánh thức ngài mục sư dậy.
Quá muộn rồi! Winn-Dixie đã ở đầu bên kia xe moóc, ngay trong phòng ngài mục sư. Tôi có thể nói cái âm thanh soàn soạt phát ra chắc chắn là do Winn-Dixie đã nhảy lên giường, và rồi tiếng kêu của ngài mục sư cho thấy ông đang hết sức kinh ngạc. Nhưng nó diễn ra không lâu, bởi Winn-Dixie đã lại lao ra khỏi phòng ông, thở hổn hển và phi như điên. Tôi cố gắng tóm lấy nó, nhưng nó chạy quá nhanh.
“Opal?” ngài mục sư kêu lên. Ông đứng ở cửa phòng ngủ với mái tóc rối tung rối mù. Ông nhìn quanh như thể ông không chắc mình đang ở đâu vậy. “Opal, chuyện gì xảy ra vậy?”
“Con không biết,” tôi trả lời. Nhưng rồi ngay lúc đó nổ ra một tiếng sấm kinh hoàng, to đến mức làm lay chuyển toàn bộ cái xe moóc, và Winn-Dixie lại lao ra khỏi phòng tôi, chạy vụt qua tôi. Tôi hét lên, “Cha, cẩn thận!”
Nhưng ngài mục sư vẫn còn đang bối rối. Ông đứng ngây ra đấy trong khi con chó lăn xả tới như thể nó là một quả bóng bowling và ngài mục sư là con ky duy nhất còn sót lại. Ầm! Cả hai ngã nhào xuống đất.
“Ôi,” tôi kêu lên.
“Opal?” ngài mục sư gọi. Ông nằm úp bụng xuống sàn nhà và Winn-Dixie đang ngồi trên ông, vừa rên rỉ vừa thở hổn hển.
“Dạ,” tôi trả lời.
“Opal,” ông gọi tôi một lần nữa.
“Dạ,” tôi trả lời to hơn.
“Con biết nỗi sợ hãi bệnh lý là gì không?”
“Không ạ.”
Ngài mục sư giơ tay lên bóp nhẹ cái mũi. “Chà,” ông ngưng lại một phút, “nó là nỗi sợ hãi còn lớn hơn những sợ hãi thông thường, một nỗi sợ mà con không thể gọi tên hay lý giải được.”
Ngay lúc đó lại có một tiếng sấm vang lên và Winn-Dixie dựng thẳng người trong không khí như thể ai đó vừa gí lửa vào người nó vậy. Khi chạm sàn nhà, nó bắt đầu chạy. Nó chạy trở lại phòng ngủ của tôi, và tôi thậm chí còn không cố gắng giữ lấy nó; chỉ lặng lẽ tránh đường cho nó.
Ngài mục sư nằm xuống sàn nhà, bóp nhẹ cái mũi. Cuối cùng, ông cũng ngồi dậy. Ông nói, “Opal, ta tin rằng Winn-Dixie mắc chứng sợ hãi bệnh lý đối với dông tố.” Và ngay khi ông vừa kết thúc câu nói, Winn-Dixie lại lao tới chạy thoát thân. Tôi nhanh chóng đỡ ngài mục sư dậy, tránh ra khỏi đường chạy của nó vừa kịp lúc.
Có lẽ chúng tôi chẳng thể làm gì cho Winn-Dixie để khiến nó cảm thấy dễ chịu hơn, nên chúng tôi chỉ ngồi đó nhìn nó chạy qua chạy lại, hãi hùng và hổn hển. Và cứ mỗi khi có một tiếng sấm khác, Winn-Dixie lại hành động như thể đấy là tận cùng thế giới.
“Cơn bão sẽ không diễn ra lâu nữa đâu,” ngài mục sư nói với tôi. “Khi nó kết thúc, hẳn là Winn-Dixie sẽ bình thường trở lại.”
Một lúc sau, bão cũng kết thúc: mưa ngừng rơi, chớp ngừng lóe sáng và sấm chớp đùng đùng cũng tan biến. Winn-Dixie cũng thôi không chạy tới chạy lui nữa mà tiến đến chỗ tôi và ngài mục sư đang ngồi, nghiêng nghiêng cái đầu như thể đang dò hỏi: “Hai người đang làm cái quái gì ở đây vào lúc nửa đêm thế này?”
Rồi nó trườn lên đi văng theo cung cách buồn cười vốn dĩ của nó, đẩy mình tiến từng centimet một, gần như là đang trượt vào ghế, trong khi mắt vẫn ngó lơ đi nơi khác, giả bộ như mọi chuyện diễn ra hoàn toàn tình cờ, cứ như nó không hề có ý định trèo lên đi văng vậy. Và rồi thật bất ngờ, nó lại ở trên ghế.
Cả ba chúng tôi ngồi ở đó. Tôi xoa đầu Winn-Dixie và gãi phía sau tai nó như nó vẫn thích. “Mùa hè Florida dông bão rất nhiều,” ngài mục sư nói.
“Vâng,” tôi trả lời, lo sợ ông sẽ nói rằng chúng tôi không thể giữ một con chó luôn lên cơn hoảng loạn do một nỗi sợ hãi tâm lý mỗi khi trời nổi sấm.
“Chúng ta sẽ phải để ý tới nó,” ông vòng một tay ôm lấy Winn-Dixie. “Chúng ta phải đảm bảo không để nó ra ngoài trong cơn bão. Nó có thể sẽ đi mất. Chúng ta phải đảm bảo nó sẽ được an toàn.”
“Vâng,” tôi lặp lại câu trả lời một lần nữa. Đột nhiên tôi không biết phải nói như thế nào. Tôi yêu ngài mục sư. Tôi yêu ông bởi ông cũng yêu Winn-Dixie. Tôi yêu ông bởi ông đã tha thứ cho sự sợ hãi của Winn-Dixie. Nhưng hơn tất thảy, tôi yêu ông bởi ông đã đưa tay ra ôm Winn-Dixie như thế, như thể ông đang cố gắng giữ cho nó được an toàn.
@by txiuqw4