sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Nhơn Vật Và Đoàn Thể Tiêu Biểu Cho Nước Trung Hoa Cổ Điển: Trung Thần Thông , Châu Bá Thông Và Phái Toàn Chân

Trong các tác phẩm của Kim Dung nói đến Võ Lâm Ngũ Bá, có nhiều dấu hiệu cho thấy rằng đệ nhứt bá là Trung Thần Thông và đoàn thể do ông lãnh đạo là phái Toàn Chân đã được dùng để tiêu biểu cho nước Trung Hoa cổ điển. Kim Dung là người Trung Hoa. Do đó, việc ông xem Trung Hoa là nước xứng đáng dẫn đầu các nước khác là việc tự nhiên. Thật sự thì trong thời cận đại, nước Trung Hoa không phải là cường quốc mạnh nhứt thế giới. Bởi đó, mặc dầu danh hiệu đệ nhứt bá võ lâm đã đạt được sau một cuộc tranh tài bằng võ nghệ, nó không phải được dùng để chỉ quốc gia cường thạnh nhứt mà để nói đến quốc gia có nền văn hoá đáng trọng vọng nhất.

1- Trung là ở ngay chính giữa. Từ ngàn xưa, người Tàu đã tự hào là mình sống ngay chính giữa địa cầu. Họ đã chánh thức gọi dân tộc họ là dân tộc Trung Hoa và nước họ là Trung Quốc. Các danh xưng trên đây đã cho thấy rõ quan niệm của họ về vấn đề này.

2- Về mặt tinh thần, người Trung Hoa lại theo đạo trung dung. Một số người thường lầm tưởng rằng trung dung là một thái độ ở nửa chừng trong mọi việc. Nhưng nếu hiểutrung dung như vậy thì khi phải chọn giữa hoà bình với chiến tranh, người đương nhiên phải theo chủ trương xung đột hạn chế, và khi phải chọn giữa việc làm người lương thiện với việc làm người ăn cướp thì người đương nhiên phải chấp nhận làm người ăn trộm. Sự chọn lựa máy móc như vậy không có gì khó khăn và cũng không có tánh cách đạo lý chút nào nên ta không hiểu đạo trung dung như vậy được. Thật sự trong Hán văn, chữ trung cũng đọc là trúng có nghĩa là đúng, hợp. Nó chỉ tư thế của một con người lúc nào cũng đứng trong vị thế quân bình, không nghiêng không lệch về phía nào, và trong mọi việc làm đều có thái độ thích ứng, vừa phải, không thái quá cũng không bất cập. Vì mọi việc trong đời đều biến đổi không ngừng nên việc theo đạo trung dung như thế không phải là dễ dàng. Nhưng nếu người cố gắng theo đạo trung dung được thì người trở thành sáng suốt, hiểu biết được mọi sự việc và có thể biến cải để ứng phó với mọi khó khăn, mọi trở lực, mọi địch thủ. Nói cách khác, người trở thành Thần Thông và có thể tự bảo vệ, đồng thời thực hiện được các nguyện vọng của mình.

3- Như thế, ngoại hiệu TRUNG THẦN THÔNG vừa gọi đúng danh hiệu, vừa nêu ra một quan niệm triết lý căn bản và khả năng đặc biệt của quốc gia Trung Hoa. Trong vũ trụ quan của người Trung Hoa từ ngàn xưa, ngũ hành cùng các phương hướng và các màu sắc có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Vị thế trung ương thuộc hành thổ và liên hệ với màu vàng. Bởi đó trong bộ VÕ LÂM NGŨ BÁ, Trung Thần Thông đã thường mặc áo vàng, mà trong tổ chức chánh trị cổ của Trung Hoa, màu vàng lại là màu dành cho nhà vua. Việc Trung Thần Thông thường mặc màu vàng xác nhận địa vị số một của ông ta trong võ lâm.

Địa vị số một của Trung Thần Thông trong võ lâm được gọi là điạ vị bá chủ. Nhưng mặc dầu đã tham dự cuộc tỷ thí để đoạt chức vị bá chủ võ lâm, Trung Thần Thông lại có một bản chất trái ngược lại tư tưởng bá chủ.

1. Trung Thần Thông vốn là một người họ Vương mà trong từ ngữ Trung Hoa, vươngcó nghĩa là vua. Trong Hán văn thì chữ vương gồm 3 nét ngang và 1 nét dọc. Lúc khởi thủy, có thể đây là hình vẽ cái búa mà nhà cầm quyền dùng để chặt đầu những kẻ trái lịnh hay phạm pháp. Nhưng khi đã có một nền văn hoá khá cao rồi, người Trung Hoa giải thích rằng trong chữ vương, 3 nét ngang tượng trưng cho Trời, Đất và Người, và nét dọc hàm ý nối liền ba nét ngang trên đây. Lối giải thích trên đây đã trở thành cổ điển. Nó biểu lộ rõ rệt quan niệm cho rằng quyền uy của một nhà vua xứng đáng với danh hiệu vua được xây dựng không phải trên võ lực mà trên đạo lý. Đạo lý mà nhà vua phải dựa vào được gọi là vương đạo. Nó đòi hỏi nhà vua phải hành động theo nhân nghĩa, và phải dùng những phương tiện chánh đáng để phục vụ nhơn dân. Chủ trương làm chánh trị theo vương đạo chính là chủ trương mà dân Trung Hoa đã chánh thức đề cao trong suốt mấy ngàn năm lịch sử.

2. Việc theo lý tưởng vương đạo của Trung Hoa đã được Kim Dung bộc lộ rõ rệt qua việc Trung Thần Thông nhứt quyết không dùng CỬU ÂM CHÂN KINH. Đó là một tác phẩm dạy các căn bản để luyện nội công. Người tập đúng mức và thành công có thể chữa cho kẻ bị đánh mang nội thương trầm trọng và chính mình thì có thể trường sanh bất lão. Nhưng CỬU CÂM CHÂN KINH lại bao gồm những phương pháp luyện công có cái ác độc dị thường. Công phu Cửu Âm Thần Trảo phải cần dùng một số lớn heo dê còn sống để người luyện tập dùng ngón tay thọc mạnh vào trong óc của chúng. Sự luyện tập này phải kéo dài cho đến khi năm ngón tay đủ sự cứng rắn và chánh xác cần thiết. Đã vậy, người luyện tập còn phải tẩm thêm chất độc trên ngón tay. Công phu Độc Hạp Thần Công thì chuyên luyện tập móng tay, luyện xong thì chỉ cần đụng vào thân một người nào là người ấy chết không phương cứu chữa. Công phu Tồi Tâm Chưởng thì có thể làm một quả tim của kẻ địch nát bấy và kẻ địch phải thổ huyết mà chết. Hai công phu Độc Hạp Thần Công và Tồi Tâm Chưởng cũng phải dùng thú vật như mèo chó để cho người luyện tập thí nghiệm.

1.Ta có thể nghĩ rằng Kim Dung đã dùng CỬU ÂM CHÂN KINH để chỉ các khoa học thực nghiệm. Các khoa học này nêu ra những nguyên tắc quan sát và suy luận có thể mở mang trí tuệ con người và giúp vào sự cải thiện đời sống của loài người về mọi phương diện. Nhưng nó cũng đồng thời bao gồm những cách thức làm việc trái với đạo nhân, như việc dùng các con thú làm vật thí nghiệm hay việc chế tạo các võ khí hại người quá độ như các chất nổ có sức tàn phá lớn lao, các võ khí hoá học hoặc võ khí hạch tâm.

Cứ theo hai bộ VÕ LÂM NGŨ BÁ và ANH HÙNG XẠ ĐIÊU thì Trung Thần Thông đã cố công tìm ra được bộ CỬU ÂM CHÂN KINH nhưng sau khi xem qua, ông đã quyết định không dùng nó mà còn nghiêm cấm môn đệ tập luyện theo nó. Trong bộ THẦN ĐIÊU ĐẠI HIỆP, Kim Dung cho biết rằng Trung Thần Thông đã phải áp dụng các nguyên tắc ông đọc được trong CỬU ÂM CHÂN KINH mới sáng chế được các thế võ có đủ khả năng thắng các đòn của phái Cổ Một vốn mang tánh cách chế khắc võ thuật của phái Toàn Chân. Mặt khác, các cao thủ võ lâm đều tìm CỬU ÂM CHÂN KINH để học và khi học được thì đều tiến bộ rất nhiều. Tuy nhiên, Trung Thần Thông vẫn duy trì quyết định không cho môn đệ ông học CỬU ÂM CHÂN KINH.

2. Kim Dung đã dùng các sự kiện này để chỉ thái độ của người Trung Hoa trước đây đối với khoa học thực nghiệm. Người Trung Hoa thời xưa đã có những phát minh khoa học cao diệu. Họ đã làm được kim chỉ nam, chế được thuốc súng, làm đồ gốm rất tốt và xây dựng được nhiều công trình kiến trúc vĩ đại, đặc biệt là các cầu mống không cần cột chôn ở giữa dòng sông để chống đỡ, khiến cho người Âu Châu hâm mộ. Đời Tam Quốc (thế kỷ thứ 3 sau CN), Hoa Đà đã biết giải phẩu và đã dám nghĩ đến việc mổ óc cho Tào Tháo. Nhưng các nhà lãnh đạo tinh thần của Trung Hoa từ thời xưa đã hướng dẫn dân tộc họ về việc tuyệt đối tôn trọng đạo đức mà quay lưng lại khoa học thực nghiệm. Đó là một quan điểm sai lầm tai hại mà hậu quả được nêu rõ trong các tác phẩm của Kim Dung nói đến Trung Thần Thông và phái Toàn Chân. Mặc dầu Trung Thần Thông đã đoạt được địa vị đệ nhứt bá võ lâm, các đệ tử kế vị ông để lãnh đạo phái Toàn Chân về sau, đã thua sút các cao thủ đã từng bị ông đánh bại.

1. Trong phái Toàn Chân, ngoài Trung Thần Thông, chỉ có Châu Bá Thông là đã từng học CỬU ÂM CHÂN KINH. Tuy nhiên, ông này bất đắc dĩ mới phải đọc nó và lại theo đúng lời dạy của vị Giáo Chủ họ Vương là sư huynh mình nên lúc đầu, ông đã không sử dụng các điều nó dạy. Dầu vậy, ông cũng gián tiếp nhờ nó mà có một tài nghệ kinh người không thua sút Đông Tà, Bắc Cái, Tây Độc và Nam Đế. Mãi đến lúc về già, Châu Bá Thông mới dùng chiêu số Đại Phục Ma Pháp của CỬU ÂM CHÂN KINH để luyện Không Minh Chưởng. Nhưng mặc dầu thông minh đỉnh ngộ, có tài sáng chế các môn võ và cuối cùng cũng có một võ công siêu tuyệt, Châu Bá Thông không phải là người lãnh đạo phái Toàn Chân, cũng không được xem là đệ nhứt bá võ lâm. Đã thế, ông còn bị gọi là Lão Ngoan Đồng, tức là ông già mà có tánh hay chơi đùa như trẻ con, vì tánh ông ham vui, không theo đuổi những công việc làm đứng đắn một cách liên tục được.

Trong phần kết cuộc bộ THẦN ĐIÊU ĐẠI HIỆP, Châu Bá Thông đã được chọn làm kẻ thay thế Trung Thần Thông làm một trong năm bá chủ võ lâm với ngoại hiệu là Trung Ngoan Đồng. Nhưng lúc ấy, phái Toàn Chân đã suy sụp mà Châu Bá Thông cũng không hề nghĩ gì đến phái ấy. Mặt khác, theo Kim Dung, vì ông tánh tình phóng dật không ưa giới luật câu nệ, nên ông không được các nhà lãnh đạo chánh thức của phái Toàn Chân mến chuộng. Vậy, Châu Bá Thông không được Kim Dung dùng để tượng trưng toàn diện cho Trung Quốc như Trung Thần Thông trước đó.

2. Với các chi tiết trên đây, chúng ta có thể nghĩ rằng Châu Bá Thông là người được dùng làm biểu tượng cho nền công nghệ cổ của Trung Quốc. Nền công nghệ này vốn dựa vào sự thực nghiệm. Nó đã sản xuất những công trình rất tinh xảo, không thua các công trình sản xuất ở bất cứ nước nào khác. Nhưng phần lớn các phát minh của nó nhờ thực nghiệm mà nó chỉ dùng vào việc mua vui hay vào hoạt động nghệ thuật, chớ không dùng vào việc tăng cường lực lượng quốc gia. Như thuốc súng chẳng hạn, đã được người Trung Hoa phát minh rất sớm, nhưng họ đã dùng nó để làm pháo bông nhiều hơn để làm đại pháo đánh thành phá lũy. Mặt khác, những người thợ khéo của xã hội cổ Trung Quốc không được trọng vọng như những người đồng nghề ở các nước khác, đặc biệt là các nước Tây Phương, vì công việc của họ chỉ được xem là việc dùng để cho vui tai đẹp mắt mà không hữu ích cho nền chánh trị vương đạo nên họ chỉ được xem là hạng phục dịch cấp dưới của nhà vua. Tuy vẫn nói rằng “nhứt nghệ tinh, nhứt thân vinh”, người Trung Hoa trước đây đã khinh thường người thợ khéo và đặt những người trong ngành công nghệ nói chung ở hạng thứ ba trong bốn hạng người của xã hội: dưới hai hạng sĩ và nông.

Từ khi nắm được toàn quyền lãnh đạo nước Trung Hoa, Đảng Trung Công đã đưa nước này vào một đường lối hoàn toàn mới. Bởi đó, nước Trung Hoa cổ điển kể như đã chấm dứt về mặt chánh trị và hiện nay, nó chỉ còn được người ta biết đến và hâm mộ nhờ các tác phẩm thuộc mọi loại nó còn để lại. Các điểm trên đây đã được Kim Dung ám chỉ qua việc phái Toàn Chân lần lần suy sụp sau cái chết của Trung Thần Thông và chỉ còn được kính trọng nhờ Châu Bá Thông, một nhơn vật võ nghệ cao siêu và tánh tình khả ái làm cho người ta mến phục, nhưng không có sự nghiêm chỉnh cần thiết để có thể đóng vai tuồng lãnh đạo hay đại diện cho môn phái của mình.

1- Về phần Trung Thần Thông thì sở dĩ ông luyện được một công lực siêu phàm là vì lúc nhỏ ông đã ngẫu nhiên ăn được cái nấm mọc trên chỗ đổ bã nhơn sâm từ mấy chục năm trước tích tụ lại. Nhơn sâm là một trân quí có khả năng bổ dưỡng con người. Bã của nó đã bị đem bỏ vì đã hết công dụng, nhưng lại làm nảy sanh được cái nấm qúi. Cậu bé họ Vương sau này là Trung Thần Thông đã ăn cái nấm đó và chết mất ba ngày. Người nhà đã sắp đem cậu đi chôn, chỉ nhờ có thầy là Thanh Hư Chơn Nhơn đến và giải cứu cho, cậu mới sống lại được. Đạo hiệu Trùng Dương mà thầy của Trung Thần Thông đặt cho ông bao hàm ý đã chết mà được sống trở lại.

2. Với câu chuyện trên đây, Kim Dung muốn mô tả tính cách cao quí nhưng rất cổ của nền văn hoá Trung Hoa. Nền văn hoá này đã được duy trì liên tục từ mấy ngàn năm. Do đó, mặc dầu có nhiều điểm hay và có công dụng tốt trong quá khứ, nó không khỏi có chỗ không còn thích ứng với đời sống hiện tại. Nền văn hoá Trung Hoa đã tạo cho nước ấy một sức mạnh tinh thần thâm hậu, nhưng cũng đã là một trở ngại lớn cho việc canh tân trong mấy thế kỷ sau này và suýt làm cho Trung Hoa bị liệt cường qua phân hay chinh phục, nghĩa là súyt bị loại luôn khỏi trường chánh trị quốc tế.

Xét về mặt văn hoá thì hệ thống tư tưởng Trung Hoa được người ngoại quốc biết đến nhiều nhứt là Nho Giáo, còn xét về mặt võ thuật thì môn phái Thiếu Lâm. Nhưng Trung Thần Thông lại được Kim Dung mô tả như là người theo Đạo Giáo. Đó là vì Nho Giáo chỉ chuyên về văn học mà không nghiên cứu về võ thuật, còn môn phái Thiếu Lâm có tiếng về võ thuật lại là một môn phái của Phật Giáo mà Phật Giáo vốn từ Ấn Độ truyền sang nên bị người Trung Hoa xem là một tôn giáo ngoại lai. Về phần Đạo Giáo, nó là một tôn giáo phát xuất từ Trung Quốc mà cũng có nghiên cứu về võ thuật. Bởi vậy, nó đã được Kim Dung dùng để biểu tượng cho tài nghệ của nước Trung Hoa.

Xu hướng trọng Đạo Giáo hon Phật Giáo đã có ở Trung Hoa từ thời trước. Trong quá khứ, khi theo nguyên tắc tam giáo đồng lưu, người Việt Nam ta đã xem Nho Giáo, Phật Giáo và Đạo Giáo như nhau, và có lúc đã chịu ảnh hưởng của Phật Giáo nhiều hơn hai tôn giáo kia. Người Trung Hoa, trái lại, lúc nào cũng đặt Nho Giáo lên trên hết, và tuy vẫn phải dung nạp Phật Giáo vì quần chúng sùng tín tôn giáo, các chánh quyền Trung Quốc hai đời Đường (618-907) và Tống (960-1276) đã trọng Đạo Giáo hơn Phật Giáo.

Vì truyền thuyết cho rằng một Giáo Tổ của Đạo Giáo là Lão Tử vốn họ Lý, mà vua nhà Đường cũng họ Lý, nên triều đại này đã nhận Lão Tử làm tiền nhơn của mình và đặc biệt ưu đãi Đạo Giáo. Năm 667, vua Đường Cao Tông đã phong Lão Tử tước Thái Thượng Huyền Nguyên Hoàng Đế. Đến năm 736, vua Đường Huyền Tông lại quyết định cho các đạo sĩ và nữ quan (tức là các phụ nữa theo học Đạo Giáo) thuộc sự quản trị của Tông Chánh Tự là cơ quan coi sóc các việt liên hệ đến những người trong tông thất,nghĩa là có họ hàng với nhà vua. Nói cách khác, từ đời vua này, những người theo Đạo Giáo được xem như là người trong hoàng tộc. Đối với Phật Giáo, chánh quyền quân chủ Trung Hoa trước đây đã nhiều lần áp dụng chánh sách chèn ép. Riêng đời nhà Đường thì năm 845, vua Võ Tông đã ra lịnh đàn áp Phật Giáo, phá hủy nhiều chùa và bắt một số tăng ni hoàn tục làm cho Phật Giáo bị suy.

Nhà Tống đã tiếp tục chánh sách của nhà Đường. Nhưng vì vốn họ Triệu nên các nhà vua Tống không thể nhận Lão Tử làm tiền nhơn của mình. Do đó, họ phải tạo ra một vì thần Đạo Giáo khác để tôn thờ làm tổ tiên. Đó là Triệu Công Minh, một vị thần cỡi cọp đen, cũng được gọi là Huyền Đàn Nguyên Soái.

Vậy, từ thế kỷ thứ 7, chánh quyền Trung Hoa đặc biệt tôn sùng Đạo Giáo và sang thế kỷ thứ 8, với việc xem đạo sĩ và nữ quan như là người trong hoàng tộc, tôn giáo này được nâng lên hàng quốc giáo. Kim Dung đã dựa vào các sự thật trên đây khi mô tả Trung Thần Thông, người biểu tượng của nước Trung Hoa cổ điển, như là một nhà lãnh tụ Đạo Giáo. Tác giả các bộ truyện võ hiệp nói đến Trung Thần Thông vốn không phải là người có ác cảm với Phật Giáo. Trái lại, ông đề cao tư tưởng Phật Giáo trong nhiều tác phẩm, nhứt là trong các bộ THIÊN LONG BÁT BỘ và LỤC MẠCH THẦN KIẾM. Nhưng vì có chủ ý dùng Trung Thần Thông để biểu tượng nước Trung Hoa cổ điển, ông đã phải hạ thấp giá trị Phật Giáo xuống về mặt võ thuật, mặc dầu môn phái Thiếu Lâm theo Phật Giáo đã nổi tiếng khắp nơi. Trong bộ VÕ LÂM NGŨ BÁ, ông cho thấy rằng Trung Thần Thông ngay từ lúc trẻ đã nhiều lần thắng một cách dễ dàng các nhà sư của chùa Thiếu Lâm trong các cuộc tỷ thí. Mặt khác, ta có thể nhận thấy rằng trong hai bộ VÕ LÂM NGŨ BÁ và ANH HÙNG XẠ ĐIÊU, không có vị cao tăng Trung Hoa nào có một vai tuồng siêu việt, đáng được tôn trọng.

Phái Đạo Giáo mà Vương Trùng Dương lãnh đạo tên là Toàn Chân. Đạo Giáo vốn đã được Trương Đạo Lăng sáng lập dưới đời Đông Hán (25-220) và đặt căn cứ chánh tại nơi họ Trương tu luyện là Long Hổ Sơn (trong tỉnh Giang Tây ngày nay). Nhưng từ lúc nước Đại Kim chiếm lấy phía bắc Trung Quốc, triều đình nhà Tống phải dời về phương nam, người theo Đạo Giáo ở Hà Bắc thuộc quyền cai trị của người Đại Kim đã tách ra và lập ba phái phân biệt nhau là Toàn Chân, Đại Đạo, Thái Ất. Trong ba phái này, Toàn Chân là phái mạnh nhất.

Toàn Chân vốn có nghĩa là sự thật đầy đủ, trọn vẹn. Môn phái Đạo Giáo này đã mang danh hiệu trên đây vì ngoài chủ trương riêng của Đạo Giáo, nó lại còn bao gồm những chủ trương của Nho Giáo và Phật Giáo. Các môn phái Đạo Giáo trước đó chỉ chuyên về việc luyện linh đơn và làm phù chú. Phái Toàn Chân đã thêm vào các công phu trên đây, việc theo đạo trung hiếu của Nho Giáo và các giới luật của Phật Giáo. Những người theo môn phái này đã gọi nó là Toàn Chân chính vì nó bao gồm trọn vẹn các chơn lý mà các tôn giáo lớn lưu hành ở Trung Quốc đã nêu ra. Nói chung lại thì tuy cốt là Đạo Giáo, phái Toàn Chân cũng chứa đựng cả giáo lý của Nho Giáo và Phật Giáo và điều này đã mô tả đúng tánh cách dung hợp của nền văn hoá Trung Hoa trước đây.

Cứ theo hai bộ VÕ LÂM NGŨ BÁ và ANH HÙNG XẠ ĐIÊU thì công phu lợi hại nhứt của Giáo Chủ phái Toàn Chân là Nhứt Dương Chỉ.

a. Chữ nhứt trước hết có nghĩa là qui tập hết các sự việc về một mối. Việc phái Toàn Chân tuy là theo Đạo Giáo nhưng đã bao gồm các giáo lý của Nho Giáo và Phật Giáo chính nó đã là một biểu lộ cho tinh thần qui tập các nguyên lý hay về một mối. Ngoài ra chúng ta còn có thể nhận thấy rằng các triết gia Trung Hoa khi nghiên cứu các dữ kiện có mối liên hệ với nhau thì thường có xu hướng tìm mẫu số chung của các dữ kiện ấy để làm bộc lộ tánh cách đồng nhứt của nó. Khi nói về KINH THI, Khổng Tử đã bảo rằng bộ sách nầy có 300 thiên, nhưng chỉ cần một lời là tóm được hết ý nghĩa của nó, ấy là “không nghĩ bậy” (THI tam bá, nhứt ngôn dĩ tế chi, viết: tư vô tà. – LUẬN NGỮ, Vi Chánh). Nói về mối đạo của mình, Giáo Tổ của Nho Giáo cũng bảo là nó có thể do nơi một lẽ mà thông suốt tất cả (Ngô đạo nhứt dĩ quán chi. LUẬN NGỮ, Lý Nhân). Cứ theo lời giải thích của Tăng Tử, đó là việc thành tâm thật ý để suy lòng mình ra lòng người. Sự cố gắng qui tập các sự việc về một mối nói trên đây phát xuất từ một quan niệm làm căn bản cho cả nền tư tuởng cổ của Trung Hoa. Đó là quan niệm xem trời, đất và vạn vật đều cùng chung một thể với nhau (thiên địa vạn vật nhứt thể).

Ngoài ý qui tập hết các sự việc về một mối, chữ nhứt còn có nghĩa là chuyên tâm vào một việc gì. Thiên Cao Dao Mô trong KINH THƯ đã bảo: “Nhơn tâm duy nguy, đạo tâm duy vi, duy tinh, duy nhứt, doãn chấp quyết trung”. Câu này hàm ý rằng vì mọi sự việc đều biến đổi không ngừng nên lòng người rất dễ bị nghiêng lệch và ở vào thế bất ổn (nguy) mà mối đạo thì tế nhị và ẩn ảo khó thấy rõ được (vi) cho nên người phải giữ cho lòng mình trong suốt (tinh) và chuyên nhứt thì mới giữ được cái trung. Như vậy, nhứtlà một điều kiện để đạt đạo trung.

b. Về chữ dương, nó chỉ là một nguyên tắc căn bản trong vũ trụ quan của người Trung Hoa. Nó được dùng để đối chiếu lại âm, vốn chỉ một nguyên tắc khác nó và thường được xem là phần nào chọi lại nó. Như sáng là dương mà tối là âm, nam phái là dươngmà nữ phái là âm, cõi sống là dương mà cõi chết là âm. Về mặt xử thế thì sự quang minh chánh trực thuộc dương, sự ám muội tà khúc thuộc âm. Về mặt võ nghệ thì cương thuật thuộc dương mà nhu thuật thuộc âm.

Tên Nhứt Dương Chỉ hàm ý rằng công phu lợi hại hơn hết của Trung Thần Thông dựa vào cương thuật tới mức tối đa và rất dũng mãnh. Kim Dung đã dùng hình ảnh này để cho thấy rằng nền chánh trị lý tưởng của Trung Hoa có tánh cách quang minh chánh trực và có mục đích thực hiện cảnh thế giới đại đồng làm cho cả thiên hạ sống yên vui hoà mục và dùng sự nhân nghĩa mà đối xử với nhau.

Tuy nhiên, trên đời không thể chỉ có dương mà không có âm. Vả lại, việc vào dương thuần tuý là điều trái với đạo trung. Bởi đó, Nhứt Dương Chỉ không phải là một công phu thường dụng. Theo Kim Dung, nó làm hao tổn rất nhiều nội lực và khi người dùng nó rồi thì nguyên khí và tinh lực trong người bị tiêu hao, phải tĩnh dưỡng nhiều ngày mới hồi phục lại công lực. Theo bộ ANH HÙNG XẠ ĐIÊU thì người dùng công phu Nhứt Dương Chỉ để chữa một nội thương trầm trọng của kẻ khác phải mất công lực trong 5 năm; nếu có học CỬU ÂM CHƠN KINH và luyện tập lại đúng mức thì cũng phải mất mấy tháng mới có công lực lại như xưa. Bởi đó, Trung Thần Thông bất đắc dĩ lắm mới dùng đến Nhứt Dương Chỉ.

Nếu xem Trung Thần Thông là tiêu biểu cho một quốc gia thì việc dùng Nhứt Dương Chỉ có thể xem như là việc huy động toàn quốc để thực hiện một công trình rất lớn lao. Sự tấn công kẻ địch bằng công phu Nhứt Dương Chỉ có thể so sánch với việc gây chiến tranh với quốc gia khác. Dầu có đem thắng lợi về cho mình, chiến tranh cũng làm cho quốc gia hao tổn nhơn lực, tài lực và quốc gia phải cần một thời gian mới khôi phục lại tình trạng bình thường. Với lối mô tả Nhứt Dương Chỉ, Kim Dung có ý cho biết rằng nước Trung Hoa cổ điển không chủ trương dùng chiến tranh làm phương pháp chánh yếu để giải quyết các vụ xung đột với nước khác như một số quốc gia hiếu chiến trên thế giới, và chỉ dùng đến chiến tranh một cách bất đắc dĩ thôi.

Trong tình trạng bình thường, Trung Thần Thông và người của phái Toàn Chân đã dùng Thái Cực Quyền trong các cuộc giao đấu. Thái Cực là tình trạng vũ trụ lúc còn là một khối hỗn mang chưa phân ra thành trời đất. Trong triết lý cổ Trung Hoa, nó dùng để chỉ một tình trạng thống nhứt nhưng bao gồm các yếu tố khác nhau. Do đó, Thái Cực hàm có lưỡng nghi là âm và dương và Thái Cực Quyền mà phái Toàn Chân thường sử dụng gồm có cả nguyên tắc cương và nhu. Về mặt nội công thì phái Toàn Chân đã luyện Thái Ất Huyền Công. Thái Ất hay Thái Nhứt vốn là tên của một ngôi sao tượng trưng cho một nguyên lý linh thiêng trong vũ trụ. Giữa Thái Ất và Thái Cực có sự liên hệ mật thiết với nhau. Thái Ất có thể xem nhu là sự thể hiện của Thái Cực và do đó mà cũng gồm cả hai nguyên tắc âm dương. Vì thế Thái Ất Huyền Công của phái Toàn Chân được Kim Dung mô tả như là một công phu vừa cương vừa nhu, khi vận chơn khí thì làm cho thân thể mềm xốp như bông gòn hay cứng như gang sắt. Điều này thích hợp với đạo trung và hàm ý rằng tùy theo vương đạo và hướng về việc dùng nhơn nghĩa, nền chánh trị Trung Hoa cũng gồm có việc dùng võ lực và hình phạt để trừng trị những kẻ làm bậy.

Ngoài kỹ thuật tranh đấu cá nhơn, phái Toàn Chân lại có một kỹ thuật tranh đấu tập thể làm bảo pháp trấn sơn là Thiên Cương Bắc Đẩu Trận. Theo kỹ thuật này, phải có bảy người ngồi theo vị thế của bảy ngôi sao trong chòm sao Bánh Lái, với sao Bắc Đẩu làm chủ chốt. Khi ngồi theo vị thế đó và tương ứng tương trợ nhau, bảy người trên đây họp tập được công lực của nhau và công lực này trở thành một sức mạnh lớn lao làm cho kẻ địch khó có thể thắng họ được.

Chữ cương theo nghĩa đen là sợi dây lớn làm giềng cho một cái lưới. Nó thường được dùng với chữ kỷ vốn có nghĩa là sắp xếp các sợi tơ, và hai chữ cương kỷ ghép lại dùng để chỉ một trật tự đã an bài. Theo khoa thiên văn của người Trung Hoa thời cổ, các ngôi sao trên trời được sắp xếp thành hai bộ phận: chòm sao Bắc Đẩu thuộc thiên cương, còn dải Ngân Hà thì thuộc địa kỷ. Ở thế gian thì từ ngữ cương kỷ dùng để nói đến trật tự và qui luật của một quốc gia và thiên cương là qui chế chánh trị đương hữu.

Vậy Thiên Cương Bắc Đẩu Trận mượn danh hiệu của một chòm sao trên trời, nhưng cũng ám chỉ nền chánh trị một nước. Ta nên lưu ý rằng nhà triết học được người Trung Hoa thờ làm thánh sư là Khổng Tử đã từng so sánh nên chánh trị dựa vào đạo đức với ngôi sao Bắc Đẩu, ở yên một chỗ mà các sao khác đều phải chầu về (LUẬN NGỮ, Vi Chánh). Như thế, việc bảy người phái Toàn Chân ngồi theo vị thế bảy ngôi sao của chòm sao Bánh Lái để chống địch và danh hiệu Thiên Cương Bắc Đẩu Trận của kỹ thuật tranh đấu tập thể này đã được Kim Dung dùng để nói đến chủ trương căn bản của người Trung Hoa lấy đạo đức làm nền tảng cho việc lãnh đạo xã hội và gây tinh thần đoàn kết giữa mọi người làm cho cộng đồng trở thành một lực lượng mạnh mẽ vô địch.

Nói chung lại thì trong hai bộ VÕ LÂM NGŨ BÁ và ANH HÙNG XẠ ĐIÊU, chúng ta đã tìm thấy nhiều dữ kiện làm cho chúng ta có thể tin rằng Kim Dung đã dùng nhơn vật Trung Thần Thông và phái Toàn Chân để ám chỉ nước Trung Hoa cổ điển. Theo sự mô tả của ông thì Trung Thần Thông chết, phái Toàn Chân suy sụp lần lần về cả hai mặt võ công lẫn đạo đức. Những người nối nghiệp Trung Thần Thông chẳng những không giữ được địa vị số 1 ông đã được, mà cuối cùng phái Toàn Chân do họ lãnh đạo còn gần như tan vỡ khi căn cứ của nó là Trùng Dương Cung ở Chung Nam Sơn bị đốt cháy. Sau Trung Thần Thông, người cao thủ của phái Toàn Chân có võ công siêu tuyệt ngang với các bá chủ võ lâm khác, đó là Châu Bá Thông. Nhưng ông này không phải là người lãnh đạo của môn phái và không nghĩ gì đến nó. Qua các sự kiện trên đây, Kim Dung đã có ý bảo rằng nước Trung Hoa cổ điển đã có nền văn hoá cao diệu nhứt thế giới, nhưng vì quá chú trọng đến đạo đức mà quay lưng lại khoa học thực nghiệm nên nó lần lần suy vi và cuối cùng đã sụp đổ với việc Cộng Sản nắm chánh quyền, thành ra chỉ còn tồn tại với các công trình công nghệ tuyệt xảo của mình.

Nếu muốn lấy một nhơn vật siêu việt trong lịch sử Trung Quốc thời Cộng Sản chưa nắm trọn chánh quyền để so sánh với Vương Trùng Dương thì ta có thể nêu ra hai người:

1. Trước hết là Khổng Tử (551-479 tr. CN). Ông là người được dân Trung Hoa thờ làm thánh sư trong hơn hai ngàn năm. Ông tập họp các trí thức thời ông để xây dựng một học thuyết làm nền tảng cho cả nền văn hoá và chánh trị cổ của Trung Quốc và học thuyết này bao gồm các đặc tánh mà chúng tôi đã phân tích trên đây về ý thức hệ của dân tộc Trung Hoa. Nhưng khi một môn đệ là Phàn Trì muốn học làm ruộng hay làm vườn thì Khổng Tử đã bảo nên đi tìm một ông lão làm vườn hay làm ruộng mà học. Sau đó ông còn chê trí Phàn Trì là chí khí nhỏ hẹp. Theo ông, đi học là học lễ, nghĩa và tín khiến cho dân chúng từ bốn phương xa lạ khâm phục và đai con đến để theo mình (LUẬN NGỮ, Tử Lộ). Vậy chính Khổng Tử là người đã dạy dân Trung Hoa chỉ nên hướng về đạo đức mà quay lưng lại khoa học thực nghiệm, cũng như Vương Trùng Dương đã nghiêm cấm môn đệ học CỬU ÂM CHƠN KINH.

2. Tuy nhiên, Khổng Tử là một nhơn vật quá cổ nên không thích hợp với khung cảnh chánh trị thời nay. Bởi đó, có lẽ nhà chánh trị Trung Hoa cận đại có thể so sánh với Vương Trùng Dương là Tôn Văn. Ông là người được cả dân Trung Hoa tôn trọng và gọi là Quốc Phụ. Tên tự ông là Dật Tiên, mà theo quan niệm Trung Hoa, tiên là một nhơn vật nhờ theo Đạo Giáo mà được trường sanh bất lão. Địa vị Quốc Phụ của Tôn Văn cũng giống như địa vị Giáo Chủ phái Toàn Chân của Trung Thần Thông.

Theo bộ THẦN ĐIÊU ĐẠI HIỆP thì trước khi đi tu làm đạo sĩ, Trung Thần Thông đã từng tổ chức cuộc tranh đấu để chống lại người Kim, và sau đó phái Toàn Chân do ông sáng lập là một đoàn thể có chủ trương chống lại người Mông Cổ. Phần Ông Tôn Văn thì đã làm cách mạng giải thoát nước Trung Hoa khỏi sự cai trị của nhà Thanh do người Mãn Châu xây dựng, để bắt đầu chánh sách tự tân tự cường. Điều đáng lưu ý là dân Mãn Châu chính là giống dân đã thành lập nước Đại Kim trước đây. Vậy, Tôn Văn với Trung Thần Thông đã có một quá trình tranh đấu chống sự xâm lược của dị tộc như nhau.

Mặt khác, ngoài tên húy là Văn và tên tự là Dật Tiên, họ Tôn lại còn có tên hiệu là Trung Sơn. Ta có thể nhận thấy rằng tên hiệu này có chữ trung bên trong như ngoại hiệu Trung Thần Thông của Vương Trùng Dương. Về mặt ý thức hệ, Tôn Văn đã chủ trương kết hợp ba hệ thống tư tưởng Dân Tộc, Dân Quyền và Dân Sinh gồm có tư tưởng Quốc Gia, Tự Do và Xã hội làm một mối trong chủ nghĩa Tam Dân, lại tìm cách dung hoà nền văn hoá cổ của Trung Hoa với những cái hay của nền văn hóa thế giới. Đường lối chánh trị của ông dựa trên tinh thần dân bản, lại hướng đến lý tưởng thế giới đại đồng. Những điểm trên đây có sự tương đồng với chủ trương đường lối phái Toàn Chân là một đoàn thể đã kết hợp giáo lý của Nho Giáo, Phật Giáo và Đạo Giáo và lấy Thiên Cương Bắc Đẩu Trận làm kỹ thuật tranh đấu trấn sơn.

Sau hết, lá cờ Thanh Thiên Bạch Nhựt Mãn Địa Hồng mà Tôn Văn và Trung Hoa Quốc Dân Đảng do ông lãnh đạo lấy làm quốc kỳ có hình mặt trời chói lọi tiêu biểu cho nền chánh trị dựa vào sự quang minh chánh trực và có thể so sánh với công phu Nhứt Dương Chỉ của phái Toàn Chân.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx