sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Nhơn Vật Và Đoàn Thể Tiêu Biểu Cho Liên Sô: Bắc Cái Và Cái Bang

Về phần Bắc-Cái, có nhiều dấu hiệu cho thẩy rằng Kim Dung đã dùng ông để biểu tượng cho Liên Sô và như vậy thì Cái Bang do ông lãnh đạo chính là Đảng Cộng Sản Quốc Tế. Ta nên lưu ý rằng trong thời kỳ viết các bộ VÕ LÂM NGŨ BÁ, ANH HÙNG XẠ ĐIÊU và THẦN ĐIÊU ĐẠI HIỆP, Kim Dung còn là một người thiên tả và có cảm tình với xã hội chủ nghĩa. Như chúng tôi sẽ trình bày trong Mục II của sách này, ông đã đổi quan điểm của ông đối với những người theo chủ nghĩa trên đây khi viết các bộ TIẾU NGẠO GIANG HỒ và LỘC ĐỈNH KÝ. Nhưng trong ba bộ VÕ LÂM NGŨ BÁ, ANH HÙNG XẠ ĐIÊU và THẦN ĐIÊU ĐẠI HIỆP, Kim Dung đã bộc lộ cảm tình nồng hậu của mình đối với Liên Sô và Đảng Cộng Sản Quốc Tế bằng cách mô tả Bắc-Cái như là một nhơn vật anh hùng và nghĩa hiệp rất đáng kính trọng.

1- Vị trí địa lý của Liên Sô đối với Trung Quốc.

Về mặt vị trí địa lý, Liên Sô có biên giới chung với Trung Quốc ở phía bắc và phía tây, nhưng vì hướng tây đã được dùng để chỉ các nước Âu Châu nói chung nên Kim Dung phải dùng hướng bắc để nói đến Liên Sô. Cứ theo vũ trụ quan của người Trung Hoa thì phương bắc liên hệ đến hành thủy và màu đen. Nếu Bắc-Cái chỉ là một nhơn vật võ lâm thông thường thì tác giả VÕ LÂM NGŨ BÁ, ANH HÙNG XẠ ĐIÊU và THẦN ĐIÊU ĐẠI HIỆP đã để ông mặc y phục màu đen và đưa ra những chi tiết liên hệ đến hành thủy khi nói đến tài nghệ của ông. Nhưng vì Bắc-Cái tượng trưng cho Liên Sô và Đảng Cộng Sản Quốc Tế nên khi mô tả ông, Kim Dung đã không theo qui tắc chung của các bộ tiểu thuyết võ hiệp Trung Hoa.

Trong các tác phẩm có nói đến Bắc-Cái, vật biểu tượng cho uy quyền Bang Chủ là cây gậy tre màu xanh lá cây, và riêng Bắc-Cái lại có một kỷ vật đặc biệt là cái hồ lô sơn màu đỏ đựng rượu. Đối với thế giới hiện đại, màu đỏ là màu của cuộc tranh đấu cách mạng, và riêng Đảng Cộng Sản Quốc Tế đã lấy nó làm tiêu biểu cho mình. Mặt khác, hệ thống tư tưởng cộng sản lúc đầu chỉ lấy thợ thuyền làm lực lượng nồng cốt cho cuộc tranh đấu cách mạng, đến Lenin lại xem nông dân là một lực lượng không kém thợ thuyền trong cuộc tranh đấu này. Cây gậy màu xanh lá cây tiêu biểu cho uy quyền Bang Chủ Cái Bang là một sản phẩm của đất đai chớ không phải của công nghệ. Ta có thể xem nó là tượng trưng cho nông dân. Cái hồ lô đỏ và cây gậy tre xanh lá cây xác nhận thêm là Kim Dung đã dùng Bắc-Cái và Cái Bang để ám chỉ Liên Sô và Đảng Cộng Sản Quốc Tế.

Mặt khác, Bắc-Cái là người họ Hồng. Chữ HỒNG ở đây có nghĩa là lớn rộng mênh mông như trong các từ ngữ hồng thủy, hồng phúc… nhưng nó đồng âm với chữ hồng là màu đỏ. Ngoài ra trong Hán văn, chữ Hồng là họ của Bắc-Cái gồm có hai phần, bên tả là bộ thủy còn bên hữu là chữ CỘNG y như chữ CỘNG trong từ ngữ Cộng Sản. Bắc-Cái là người trong Cái Bang là những kẻ ăn mày, không có nhà cửa, không có tài sản riêng. Họ sống bằng cách ăn xin và không trộm cướp, nhưng đối với hạng tham quan ô lại và cường hào ác bá bóc lột dân chúng và hạng làm giàu bất nhơn hay phi pháp, họ có quyền tự do cướp đoạt tiền của để dùng. Họ thường làm việc cướp đoạt trên đây và đã đem tiền của cướp đoạt được để cứu giúp người nghèo. Họ lại được tổ chức chặt chẽ và có một hệ thống cấp bực được ấn định rõ ràng. Trên hết là Bang Chủ, kế đó là các Trưởng Lão, rồi đến các cấp chỉ huy sắp theo thứ bực cao thấp được biểu thị bằng số túi mà họ mang trên lưng, và dưới hết là Bang chúng. Họ phải theo đúng môn qui và khi phạm kỷ luật thì bị trừng phạt nặng nề. Họ Hồng của Bắc-Cái hàm ý lớn rộng mênh mông, lại đồng âm vói chữ hồng là màu đỏ và viết ra chữ thì có chữ cộng bên trong, cũng như môn qui của Cái Bang đều cho thấy rõ hơn là Kim Dung đã dùng tổ chức này để nói đến Đảng Cộng Sản Quốc Tế là một thứ chánh đảng theo tư tưởng thế giới đại đồng và chủ trương làm một cuộc cách mạng thế giới trong đó lực lượng nồng cốt là người vô sản theo một kỷ luật nghiêm khắc.

1. Đả Cẩu Bổng Pháp, tiêu biểu cho chủ trương giai cấp tranh đấu.

Về mặt võ khí, cây gậy tre xanh tiêu biểu cho uy quyền Bang Chủ Cái Bang mang danh hiệu là Đả Cẩu Bổng, nghĩa đen là cây gậy đánh chó. Trong ngôn ngữ thông thường của những kẻ tay sai phục vụ cho người có thế lực hay tiền bạc thường được gọi là “chó săn”. Trong các tác phẩm của Kim Dung nói đến Bắc-Cái, bọn người làm việc hoặc bợ đỡ nịnh hót hạng hào phú, hạng ác bá hay bọn cường địch xâm lăng đất nước đều bị Cái Bang xem là chó. Cái Bang có môn võ đặc biệt hữu hiệu là Đả Cẩu Bổng Pháp để đối phó với cường địch, và cứ theo Kim Dung thì người của Cái Bang cầm cây Đả Cẩu Bổng có quyền đánh các nhà vua hôn ám, các quan lại gian nịnh và các cường hào ác bá. Qua chi tiết trên đây, ta có thể bảo rằng Kim Dung đã dùng phép gậy này để ám chỉ chủ trương giai cấp tranh đấu của người theo chủ nghĩa Marx nói chung và người Cộng Sản nói riêng. Như mọi người đều biết, chủ trương này chống lại các chánh quyền bảo thủ và các giai cấp bị cho là giai cấp bóc lột.

Riêng Bắc-Cái lại có môn võ đặc biệt của mình là Hàng Long Thập Bát Chưởng gồm 18 chiêu thức mạnh mẽ và vi diệu khôn lường. Tên của 18 chiêu thức này đều có chữ LONG ở trong. Đáng lưu ý hơn hết là các chiêu thức Tiềm Long Vật Dụng, Hiện Long Tại Điền, Phi Long Tại Thiên, Kháng Long Hữu Hối và Long Chiến Vu Dã hoặc Chiến Long Tại Dã, vì các tên này có dính dáng đến các hào trong Kinh Dịch.

a- Kinh Dịch

Bộ Kinh này nguyên là một tác phẩm tối cổ và tối ảo diệu của người Trung Hoa. Các nhà hiền triết đã cấu tạo nên nó có dụng ý dùng đồ biểu để diễn tả sự biến hoá vô cùng của vạn vật. Họ cho rằng trong vũ trụ, thường có hai nguyên tắc đối chiếu lại nhau, và có khi chọi lại nhau là dương và âm. Họ đã dùng vạch liền ____ để biểu tượng dương, và vạch đứt – – để biểu tượng âm, rồi ghép các biểu tượng dương và âm lại theo mô thức để diễn tả các tình thế có thể xảy ra trong vũ trụ bằng số lượng và vị trí của hai biểu tưởng dương và âm đối với nhau. Lúc đầu, họ ghép ba vạch lại làm một đơn vị gọi là Quái, tức là quẻ, và tạo ra cả thảy 8 quẻ: Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài gọi chung là Bát Quái.. Sau đó họ lại ghép các quẻ trên đây lại thành cặp nằm chồng lên nhau và tạo ra 64 quẻ kép. Mỗi quẻ kép như vậy có 6 vạch, mỗi vạch như vậy gọi là một hào và có một tên chung tùy theo vị trí của mình. Hào dương được gọi là Cửu, tức là số 9, hào âm được gọi là Lục, tức là số 6. Nếu ta đi từ dưới lên trên thì hào ở thấp nhứt gọi là Sơ, kế đó là Nhị, rồi Tam, Tứ, Ngũ và hào ở trên hết gọi là Thương. Hai chữ Sơ và Thương thì đặt trước, còn các chữ Nhị, Tam, Tứ, Ngũ thì đặt sau chữ Cửu hay chữ Lục. Quẻ kép gồm có cả thảy 64 cái, mà mỗi cái có 6 hào như vậy nếu tính chung lại thì có cả thảy 384 hào, mỗi cái trong 384 hào này biểu tượng cho một tình thế và đều có tên riêng cho mình.

Đáng để ý hơn hết trong 64 quẻ kép là quẻ Bát Thuần Càn gồm có 2 quẻ Càn ghép lại và Bát Thuần Khôn gồm có 2 quẻ Khôn ghép lại. Quẻ Càn gồm có ba vạch liền tượng trưng cho trời, quẻ Khôn gồm có ba vạch đứt tượng trưng cho đất. Vậy, Bát Thuần Càn gồm sáu vạch liền tượng trưng cho dương thuần túy và Bát Thuần Khôn gồm sáu vạch đứt tượng trưng cho âm thuần túy. Tên các chiêu thức Tiềm Long Vật Dụng, Hiện Long Tại Điền, Phi Long Tại Thiên, Kháng Long Hữu Hối trong Hàng Long Thập Bát Chưỏng đúng là tên các hào Sơ Cửu, Cửu Nhị, Cửu Ngũ và Thượng Cửu của quẻ kép Bát Thuần Càn. Trong quẻ kép Bát Thuần Khôn thì hào Thượng Lục có tên là Long Chiến Vu Dã rất gần với tên Chiến Long Tại Dã vì cả hai tên này đều hàm ý là rồng đánh nhau ở cánh đồng.

b- Kinh Dịch so với Biện Chứng Pháp Duy Vật.

Với việc dùng một số tên hào trong Kinh Dịch để đặt cho một số chiêu thức của Hàng Long Thập Bát Chưởng, chúng ta có thể nghĩ rằng khi nói đến pho chưởng pháp này Kim Dung đã có ý ám chỉ Duy Vật Biện Chứng Pháp. Như thế là vì Kinh Dịch và Duy Vật Biện Chứng Pháp có những nguyên tắc căn bản giống nhau. Cả hai đều cho rằng trên đời, mọi vật đều biến đổi không ngừng. Mặt khác, theo Kinh Dịch, sự biến đổi này phát xuất từ sự tương sanh tương khắc giữa âm và dương, còn Biện Chứng Pháp Duy Vật thì cho rằng sự biến đổi sở dĩ có là vì trong mọi sự vật đều có những yếu tố mâu thuẩn nhau. Vậy, Kinh Dịch và Biện Chứng Pháp Duy Vật đã có một quan điểm tương tự như nhau về nguyên nhơn sự biến đổi tất yếu của các sự vật.

Ngoài Đả Cẩu Bổng Pháp và Hàng Long Thập Bát Chưởng là các kỹ thuật tranh đấu cá nhơn, Cái Bang lại còn có một kỹ thuật tranh đấu tập thể gọi là Kiên Bích Trận. Theo kỹ thuật này, hàng mấy chục ngàn người nối liền nhau lại và góp sức nhau thành một khối vô cùng vững chắc. Hễ đằng đầu bị tấn công thì đằng đuôi tiếp cứu, hễ đằng đuôi bị tấn công thì đằng đầu tiếp cứu, hễ đoạn giữa bị tấn công thì hai đầu ứng phó liền. Kiên Bích Trận này có thể trở thành Xa Luân Kiên Bích Trận, gồm vô số người lan tràn khắp nơi, chỗ nào tiếp nối nhau tấn công kẻ địch trên khắp mặt chiến trường, cứ một đội bị đánh tan thì năm ba đội khác lại xuất hiện. Do đó, dầu có sức khoẻ dồi dào, võ công cực cao minh, đối thủ cũng khó lòng tránh khỏi bị thất bại. Kiên Bích Trận như mô tả trên đây có thể so sánh với lề lối tổ chức của Đảng Cộng Sản Quốc Tế, có mặt ở mọi nước và được phối trí để giúp đỡ cho nhau một cách hữu hiệu, nên dễ nắm phần thắng lợi trong các cuộc tranh đấu với kẻ địch.

Về tánh chất của công phu Bắc-Cái nói chung thì Kim Dung cho biết rằng nó thuộc cương tánh như công phu Tây Độc. Điều này phù hợp với chủ trương tranh đấu bạo tợn của Đảng Cộng Sản Quốc Tế, và hàm ý rằng lề lối tranh đấu của Cộng Sản bắt nguồn từ lề lối tranh đấu của các nước Âu Châu.

Vậy, trong các bộ truyện võ hiệp của Kim Dung có nói đến Võ Lâm Ngũ Bá, chúng ta có thể thấy nhiều dữ kiện chứng tỏ rằng Bắc Cái và tổ chức Cái Bang do ông lãnh đạo đã được tác giả dùng để ám chỉ Liên Sô và Đảng Cộng Sản Quốc Tế. Ngoài ra, một số dữ kiện khác làm cho chúng ta có thể nghĩ rằng Bắc Cái đã được dùng để biểu tượng riêng cho nhà lãnh tụ Cộng Sản Quốc Tế Lenin.

Trong các bộ truyện võ hiệp của Kim Dung, Bắc Cái còn có biệt hiệu là Cửu Chỉ Thần Cái tức là ông ăn mày thần có chín ngón tay. Ông cũng được gọi là Hồng Thất Công, dịch sát nghĩa chữ là Ông Bảy họ Hồng. Hai con số 9 và 7 trên đây rất đáng chú ý.

Chủ nghĩa Cộng Sản vốn do Karl Marx tung ra năm 1848. Đến năm 1864, những người theo chủ trương tranh đấu cho quyền lợi vô sản đã họp nhau lại lập thành một đoàn thể gọi là Quốc Tế Lao Động. Nhưng sau một thời gian hoạt động, đoàn thể này đã tan vỡ. Năm 1889, những người theo tư tưởng Karl Marx lại thành lập một đoàn thể khác gồm các Đảng Xã Hội hay Dân Chủ Xã Hội ở các nước. Đoàn thể này cho là mình kế tiếp công nghiệp của Quốc Tế Lao Động thành lập năm 1864 nên tự gọi là Đệ Nhị Quốc Tế. Lenin đã tham dự Quốc Tế này. Nhưng sau đó, ông cho rằng nó đã phản bội quyền lợi vô sản nên khi cướp chánh quyền ở Nga và thành lập năm 1917, ông đã tổ chức một đoàn thể mới gọi là Đệ Tam Quốc Tế gồm các Đảng Cộng Sản ở các nước. Lúc Lenin chết, Stalin và Trotsky đã tranh nhau quyền kế vị. Stalin nắm phần thắng lợi và trục xuất Trotsky khỏi Liên Sô. Trotsky ra ngoài Liên Sô rồi thì thành lập một đoàn thể Cộng Sản Quốc Tế khác chống lại Stalin và gọi đoàn thể này là Đệ Tứ Quốc Tế.

Hai bàn tay của Bắc Cái còn có 9 ngón vì ngón trỏ trên bàn tay mặt khi có hơi thơm của món ăn thì cứ giựt lên rần rật làm ông bực bội nên ông đã chặt bỏ nó đi. Ngón tay bị chặt này có thể kể như là tiêu biểu cho Quốc Tế Lao Động đầu tiên đã hoàn toàn tan vỡ. Chín ngón còn lại tiêu biểu cho ba đoàn thể hiện còn tồn tại là Đệ Nhị, Đệ Tam, Đệ Tứ Quốc Tế, vì đem cộng các số 2, 3 và 4 lại thì thành ra con số 9. Điều này ám chỉ rằng Lenin có liên hệ đến cả ba Quốc Tế này. Mặt khác, tên hiệu Hồng Thất Công của Bắc Cái ám chỉ rằng Lenin là thủy tổ của các phe Cộng Sản Đệ Tam và Đệ Tứ, vì hai con số 3 và 4 cộng lại thì thành ra 7.

Lenin thường hoạt động bí mật, thay đổi chỗ ở một cách bất thường để tránh sự theo dõi của thám tử các nước tư bản. Điều này cũng giống lối hành động của Bắc Cái là một nhơn vật thường được những người có cảm tình so sánh với con giao long, khi ẩn khi hiện không biết đâu mà lường.

Mặt khác, ta có thể nhận thấy rằng lúc Bắc Cái còn là Bang Chủ, trong Cái Bang đã có hai phe ăn mày: một phe áo lành, sạch và phe áo rách, dơ. Hai phe này tuy vẫn cộng tác với nhau, nhưng cũng có sự hiềm khích và chống chọi nhau. Phe áo lành và sạch gồm có ba vị Trưởng Lão, nhưng lại chỉ có hai phần mười Bang chúng. Trong khi đó, phe áo rách và dơ chỉ có một Trưởng Lão, nhưng lại nắm tám phần mười Bang chúng.

Ta có thể nghĩ rằng phe áo lành và sạch là biểu tượng cho phe của Trotsky trong Quốc Tế Cộng Sản: họ gồm có nhiều người lãnh đạo có tên tuổi và có khả năng, nhưng ít có đảng viên ở hạ từng cơ sở. Phe áo rách và dơ thì biểu tượng cho phe của Stalin: họ có ít người lãnh đạo có tên tuổi và có khả năng, nhưng lại gồm đa số đảng viên ở hạ từng cơ sở. Theo Kim Dung, sự xung đột giữa hai phe ăn mày trong Cái Bang không có thể dàn xếp được vì nó không phải phát xuất từ quyền lợi mà vì sự khác nhau về quan điểm nhơn sinh. Điều này ám chỉ việc hai phe Cộng Sản Đệ Tam và Đệ Tứ chống nhau không phải chỉ vì tranh quyền mà vì có lập trường lý thuyết khác nhau xa.

Cả hai phe ăn mày áo lành và ăn mày áo rách đều hết sức tôn kính và tùng phục Bắc Cái. Về phần Bắc Cái, ông cũng xem họ như nhau và để biểu lộ sự cư xử công bằng đối với họ, ông đã thay phiên, cứ một năm mặc áo lành thì một năm mặc áo rách. Điều này có mục đích cho thấy rằng Trotsky và Stalin đều chấp nhận sự lãnh đạo của Lenin, còn Lenin thì bao dung cả hai phe và không tỏ ra thiên về phe nào.

Về mặt tâm tánh, Bắc Cái là người cương trực và có tinh thần nghĩa hiệp binh vực kẻ nghèo yếu như Trung Thần Thông. Nhưng trái với Trung Thần Thông, ông không theo nếp sống thanh đạm mà lại thích các món ăn ngon, các thứ rượu qúi. Ông đã từng vào cung vua để thưởng thức các món được nấu cho nhà vua ăn, và đã ẩn núp trong hoàng cung vì mục đích này ngay trong khi ông đã mất công lực vì bị Tây Độc đánh.

Các chi tiết này đều thích ứng với Lenin. Ông theo lý tưởng thực hiện một xã hội không giai cấp, không có cảnh tượng người bóc lột người, nhưng không phải đặt nền tảng suy luận của mình trên chủ nghĩa duy tâm hay duy linh như một nhà lãnh đạo tôn giáo, mà lại theo chủ nghĩa duy vật. Chủ nghĩa này đã được Kim Dung ám chỉ bằng tánh thích ăn ngon. Sau khi lật đổ chế độ Nga Hoàng, Lenin đã vào ở điện Cẩm Linh là hoàng cung của nước Nga, và trong giai đoạn chót của đời ông, ông đã ngoạ bịnh nên không còn điều khiển được Đảng Cộng Sản Liên Sô một cách trực tiếp mặc dầu ông vẫn giữ chức Chủ Tịch của Đảng ấy.

Trong bộ ANH HÙNG XẠ ĐIÊU, Kim Dung có nói đến việc Bắc Cái truyền ngôi Bang Chủ cho Hoàng Dung một cách âm thầm khi ông bị mất công lực. Điều này có thể ám chỉ việc Stalin kín đáo chuẩn bị việc kế vị Lenin lúc ông này ngoạ bịnh. Một số dữ kiện liên hệ đến việc Hoàng Dung nối ngôi Bang Chủ của Bắc Cái có thể so sánh với các dữ kiện liên hệ đến cuộc tranh quyền kế vị trong Đảng Cộng Sản Liên Sô.

Hoàng Dung vốn là một phụ nữ, lại là con của Đông Tà và không khỏi bị ảnh hưởng của cha về mặt tinh thần. Do đó, tuy bản chất tốt và khôn ngoan, can đảm, bà vẫn có phần xảo trá và có tánh gian hùng, không kể tiếng thị phi. Bà rất đa nghi, lại dám có những thủ đoạn tàn độc trong những lúc cần thiết chớ không phải hoàn toàn nhân hậu như Bắc Cái. Stalin cũng là người khôn ngoan và can đảm. Nhưng tuy là người phái nam, ông lại gian hiểm, giảo quyệt, thường làm việc ban đêm và thích núp trong bóng tối để hành động. Theo quan niệm cổ của Trung Hoa, đó là tánh tình và lề lối làm việc của phái nữ vốn thuộc âm. Mặt khác, Stalin cũng rất đa nghi. Đã vậy, tuy trung thành với chủ nghĩa cộng sản và đã hoàn toàn làm chủ Liên Sô và Đảng Cộng Sản Quốc rế, ông không có được tài đức của Lenin và thường tỏ ra độc ác. Thêm nữa Stalin vốn là người của xứ Georgia. Vậy ông không phải là người Nga chánh gốc, mà thuộc một sắc tộc thiểu số ở Nga và điều này đã được Kim Dung nhắc khéo bằng sự kiện Hoàng Dung là con gái của Đông Tà, nhơn vật tiêu biểu cho nước Nhựt.

Lúc nhỏ, Hoàng Dung đã học một số võ thuật của cha. Sau đó nhơn gặp Bắc Cái bà mới dùng nghệ thuật nấu các món ăn ngon và mưu kế cùng lời lẽ khéo léo để làm cho Bắc Cái mến bà và vui lòng truyền dạy võ công cho bà và cho người tình của bà là Quách Tĩnh. Nhưng bà đã không được học Hàng Long Thập Bát Chưởng như Quách Tĩnh mà chỉ được học một môn võ ít lợi hại hơn là Yến Song Phi. Đến lúc trao quyền ngôi Bang Chủ cho bà, Bắc Cái mới dạy bà bí quyết sử dụng Đả Cẩu Bổng.

Cái tình tiết này có những chỗ tương tự với một số dữ kiện trong thân thế Stalin. Ông này lúc nhỏ đã theo Thiên Chúa Giáo Chánh Thống và đã vào học ở một chủng viện để làm giáo sĩ cho tổ chức tôn giáo này. Nhưng về sau, ông lại bỏ đạo, theo Đảng Cộng Sản và được chỉ định là Tổng Bí Thư của Đảng Cộng Sản Liên Sô. Lúc ông mới nắm giữ chức vụ đó, nó chưa có tầm quan trọng lớn lao như về sau này. Nhưng ông đã nhờ nó mà thân cận với Lenin và lấy danh nghĩa Lenin để điều khiển công việc nội bộ của Đảng, đồng thời gài người của mình vào bộ máy Đảng. Những điều này đã làm cho ông thật sự điều khiển được Đảng Cộng Sản Liên Sô lúc Lenin còn sống và nắm phần thắng lợi trong việc tranh quyền kế vị Lenin. Nhưng Stalin không phải là nhà lý thuyết giỏi thông thạo Duy Vật Biện Chứng Pháp như các nhà lãnh đạo cộng sản Đệ Tam Quốc Tế đồng thời. Ông chỉ giỏi trong việc tổ chức Đảng và điều khiển Đảng trong cuộc tranh đấu giai cấp.

so với cuộc tranh đấu của Stalin để nắm quyền Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản Liên Sô.

Trước khi ra mặt tranh đấu đề nắm quyền Bang Chủ Cái Bang, Hoàng Dung đã được cảm tình và sự giúp đỡ của phe ăn mày áo rách và bị sự thù ghét hãm hại của phe ăn mày áo lành. Khi đã ra mặt tranh đấu để nắm quyền Bang Chủ, Hoàng Dung lại cũng chỉ tỷ thí với các Trưởng Lão cầm đầu phe ăn mày áo lành. Và khi đã được toàn thể Cái Bang công nhận mình là Quyền Bang Chủ, bà đã phá bỏ lệ cũ, không để cho Bang chúng phun đàm dãi vào người như các Bang Chủ tiền nhiệm. Ngay sau khi được công nhận là Quyền Bang Chủ, bà đã trừng phạt Bành Trưởng Lão là một trong những người lãnh đạo phe ăn mày áo lành đã từng ám hại bà trước khi bà ra mặt tranh quyền Bang Chủ. Vị Trưởng Lão này đã bị hạ thấp cấp bực trong Cái Bang, và theo Kim Dung, sau đó, ông còn phạm tội lợi dụng võ công cao cường để bắt và mưu toan hãm hiếp Tần Nam Cầm là mẹ của Dương Quá. Về sau nữa, Bành Trưởng Lão đã âm mưu với người Mông Cổ để làm cho Cái Bang phân hóa thành nhiều chi.

Về phần Stalin thi từ lúc Lenin còn ngọa bịnh, ông đã phải trực tiếp đương đầu với Trotsky trong việc điều khiển Đảng Cộng Sản Liên Sô và sau đó, trong việc giành quyền kế vị Lenin. Nhờ dàn xếp để cho phe mình chiếm đa số trong các cơ cấu của Đảng nên trong Đại Hội bầu người lãnh đạo thay Lenin ông đã nắm phần thắng lợi mặc dầu đã bị phe Trotsky chống đối mãnh liệt. Sau khi cầm quyền điều khiển Đảng Cộng Sản Liên Sô, ông đã loại trừ và trừng phạt những người theo phe của Trotsky. Những người này về sau đã thành lập ra nhiều chi phái Đệ Tứ Quốc Tế khác nhau. Người theo phe Trotsky tại Liên Sô thì bị đưa ra Tòa Án vì những tội thường phạm hoặc vì bi tố cáo là làm gián điệp cho các nước tư bản. Việc Đệ Tứ Quốc Tế chia ra thành nhiều chi phái và các tội mà Stalin gán cho họ đều phù hợp với các chi tiết liên hệ đến Bành Trưởng Lão. Sau khi Stalin đã củng cố được quyền hành của mình bằng cách loại trừ hết phe Trotsky, các đảng viên cộng sản Liên Sô không ai cỏn dám phê bình chỉ trích người lãnh đạo tối cao của Đảng như thời Lenin còn sống. Thật đúng là hình ảnh của một Bang Chủ làm trái lại tinh thần căn bản của Cái Bang và không cho ai phun đàm dãi lên mặt vị Bang Chủ mới nhậm chức để nhắc cho ông ta nhớ rằng mình cũng là một người ăn mày như thuộc hạ và phải chịu nhuốc để thông cảm nỗi niềm khổ nhục của giới ăn mày.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx