sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Tập 3 - Thanh Gươm Huyền Bí - Chương 1 - Con Mèo Và Cây Trăn

Will vừa kéo mạnh tay mẹ vừa giục, “Đi nào, đi mà mẹ…” Nhưng mẹ cậu vẫn còn do dự. Trong ánh sáng buổi chiều, Will hết nhìn lên lại nhìn xuống con phố hẹp dọc theo những dãy nhà nhỏ. Phía trước mỗi ngôi nhà đều có một mảnh vườn tí hon với hàng rào xung quanh. Ánh nắng mặt trời đang tắt dần trên những khung cửa ở một bên và để lại bên kia chìm vào bóng tối. Lúc này không còn nhiều thời gian nữa. Mọi người có thể đang dùng bữa tối và chẳng mấy chốc những đứa trẻ khác sẽ quay quần lại, nhìn ngó thức ăn, rồi bình luận và cả nhận xét nữa. Chờ đợi lúc này quả là quá mạo hiểm nhưng tất cả những việc cậu có thể làm là thuyết phục mẹ như thường lệ.

“Mẹ à, mình hãy vào gặp bà Cooper đi,” cậu bé nói. “Mẹ nhìn này, hai mẹ con mình sắp tới được đó rồi.”

“Bà Cooper?” bà mẹ hỏi lại đầy nghi ngờ.

Nhưng cậu bé đã rung chuông cửa. Để làm được vậy cậu phải đặt chiếc túi xuống vì một tay cậu vẫn còn phải ôm mẹ. Bất cứ ai nhìn thấy một cậu bé mười hai tuổi đang ôm mẹ như thế cũng đều thấy ái ngại, nhưng cậu bé biết điều gì sẽ xảy ra nếu không giữ lấy.

Cánh cửa bật mở, xuất hiện dáng người gù gù của bà giáo già dạy đàn piano, với mùi nước hoa oải hương đặc trưng như cậu vẫn nhớ.

“Ai đó? Là William đấy ư?” bà giáo hỏi. “Phải hơn một năm rồi ta không gặp cháu ấy nhỉ. Cháu muốn gì nào, cháu yêu?”

“Làm ơn, thưa bà, cháu muốn vào nhà và đưa theo cùng mẹ cháu,” cậu bé nói rất quả quyết.

Bà Cooper đưa mắt nhìn người phụ nữ có mái tóc bù xù, nụ cười nửa miệng của người mất trí; còn cậu bé có cái nhìn thật buồn rầu, cặp môi mím chặt, khuôn hàm nhô lên. Rồi bà lão nhìn mẹ của Will, bà Parry, chỉ trang điểm có một bên mắt, bên kia để không. Cả bà mẹ và Will đều không để ý tới điều này. Có điều gì đó không hợp lý.

“Thôi được…” bà nói rồi bước tránh sang một bên để lấy lối đi vào căn sảnh hẹp.

Will nhìn quanh hết con phố trước khi đóng cửa lại. Lúc này bà Cooper mới để ý thấy và Parry nắm tay con trai mình chặt như thế nào, và cậu bé dẫn mẹ vào phòng khách nơi để chiếc đàn piano thật dịu dàng đến ra sao (dĩ nhiên, đấy là phòng duy nhất mà cậu bé biết); rồi bà để ý thấy cả quần áo của Will và mẹ cậu đều có mùi hơi mốc như thể chúng bị ngâm quá lâu trong máy giặt trước khi khô. Họ ngồi trên ghế sô pha, ánh nắng mặt trời rọi vào khuôn mặt, bà nhận ra hai mẹ con họ rất giống nhau, cũng đôi xương gò má rộng, cặp mắt to và mái tóc thẳng màu nâu.

“Sao vậy, William?” bà lão hỏi. “Có vấn đề gì à?”

‘’Mẹ cháu cần một nơi để nghỉ ngơi trong vài ngày,” cậu bé trả lời. “Lúc này mà chăm sóc mẹ cháu ở nhà thì khó lắm bà ạ. Không phải mẹ cháu ốm đâu, mẹ cháu chỉ là giống kiểu rối loạn không minh mẫn, và hơi lo lắng một chút thôi. Chăm sóc mẹ cháu cũng không khó lắm đâu bà ạ. Mẹ cháu chỉ cần có ai đó đối xử tử tế với mẹ và cháu nghĩ rằng có lẽ chỉ có bà mới có thể làm việc này một cách dễ dàng

Người phụ nữ nhìn con trai mình mà dường như không hề hiểu lấy một chút, bà Cooper còn thấy một vết thâm tím trên mặt người phụ nữ này. Will không rời mắt khỏi bà Cooper, cậu diễn đạt không được rõ lắm.

“Mẹ cháu sẽ không tốn đâu,” cậu bé tiếp tục. “Cháu vừa mới mua mấy túi thức ăn, đủ cho đến tận ngày cuối cùng, cháy nghĩ vậy. Bà cũng có thể dùng một ít ở đấy. Mẹ cháu không ngại chia sẻ đâu.”

“Nhưng… bà không hiểu liệu bà có nên… liệu mẹ cháu có cần bác sĩ không nhỉ?”

“Không! Mẹ cháu đâu có ốm.”

“Nhưng phải có ai đó để có thể… ý bà là ở nhà cháu không có hàng xóm hay bà con họ hàng…”

“Gia đình cháu không có họ hàng ở đây. Chỉ có mỗi hai mẹ con thôi. Hàng xóm gần nhà cháu thì quá bận rộn.”

“Thế còn dịch vụ xã hội? Bà không phải là có ý ngăn cháu, nhưng…”

“Không! Không. Mẹ cháu chỉ cần giúp một chút thôi. Cháu không thể làm gì hơn trong một thời gian ngắn nhưng cháu sẽ không đi lâu đâu bà ạ. Cháu sẽ…. Cháu có nhiều việc phải làm. Cháu hứa sẽ quay trở về sớm và đón mẹ cháu về nhà, cháu hứa đấy. Bà sẽ không phải làm việc này lâu đâu.”

Người mẹ quay về phía Will nhìn cậu thật tin tưởng, còn Will mỉm cười với mẹ thật tình cảm để cho bà yên lòng. Bà Cooper không thể từ chối trước cảnh tượng này.

“Thôi được,” quay về phía bà Parry, bà lão nói, “ta chắc là sẽ không có vấn đề gì trong một vài ngày. Cô có thể ở phòng của con gái ta, nó bây giờ đang ở Australia, nó sẽ không cần đến căn phòng đó nữa.”

“Cảm ơn bà rồi đứng bật dậy như thể cậu đang có việc rất vội phải đi.

“Nhưng cháu đi đâu?” Bà Cooper hỏi.

“Cháu sẽ đến ở nhà một người bạn, cháu sẽ gọi điện thoại thường xuyên. Cháu có số điện thoại của bà rồi. Sẽ ổn thôi bà ạ.”

Mẹ cậu bé nhìn cậu ngơ ngác, Will cúi xuống, hôn mẹ một cách vụng về.

“Đừng lo mẹ ạ,” cậu bé nói. “Bà Cooper sẽ chăm sóc mẹ tốt hơn con đấy. Mai con sẽ gọi điện nói chuyện với mẹ”.

Họ ôm nhau thật chặt, rồi Will hôn vào má mẹ, cậu nhẹ nhàng gỡ tay mẹ ra khỏi người mình trước khi đi ra cửa. Qua ánh mắt của Will, bà Cooper thấy cậu bé rất buồn, như nhớ ra điều gì, cậu bé quay đi rồi giơ tay chào.

“Tạm biệt bà Cooper,” Will nói, “cháu cảm ơn bà nhiều lắm.”

“William, bà mong cháu sẽ nói cho bà biết rắc rối của cháu…”

“Nó hơi phức tạp một chút,” cậu bé nói, “nhưng mẹ cháu sẽ không gây phiền hà cho bà đâu, cháu nói thật đấy.”

Đó không phải những gì bà Cooper lo lắng, cả bà và Will đều biết điều này; bà cảm thấy Will đang đảm nhận một công việc rất khó khăn, bất kể đó là việc gì…

Cậu quay đi và nghĩ về ngôi nhà của mình.

Gần ngôi nhà của Will và mẹ đang ở là một con đường vòng trong khu điền trang hiện đại với hàng chục ngôi nhà giống hệt nhau. Trong số những ngôi nhà đó thì nhà của họ là căn nhà tồi tàn nhất. Mảnh vườn phía trước chỉ là một khoảng đất nhỏ um tùm cỏ dại, hồi đầu năm mẹ cậu đã trồng một vài bụi cây nhưng chúng đều héo queo và chết vì không được tưới đủ nướKhi Will đi tới một góc phố, con mèo Moxie của cậu nhổm dậy từ chỗ nằm yêu thích của nó dưới cây tú cầu, nó duỗi mình ra trước khi chào cậu chủ bằng tiếng meo nho nhỏ rồi dụi đầu vào chân Will.

Cậu bé bế con mèo lên rồi thì thầm: “Họ có quay trở lại không hả Moxie? Mày có nhìn thấy họ không?”

Ngôi nhà thật yên lặng. Trong ánh sáng cuối cùng của một ngày còn sót lại, người đàn ông phía bên kia đường đang rửa ô tô, anh ta không để ý tới sự có mặt của Will và cậu cũng không nhìn anh ta. Càng ít người để ý càng tốt.

Bế Moxie trên tay, cậu mở cửa bước vào nhà thật nhanh. Will nghe ngóng cẩn thận trước khi đặt con mèo xuống. Không một tiếng động nào, ngôi nhà hoàn toàn yên lặng.

Will mở cho mèo Moxie một hộp đồ ăn rồi để nó ăn ở dưới bếp. Bao lâu nữa thì những người đàn ông kia quay lại. Không thể nói trước được điều gì, nhưng tốt nhất là cậu phải thật nhanh lên mới được. Will đi xuống cầu thang và bắt đầu tìm kiếm.

Thứ mà cậu bé tìm là một chiếc cặp đựng giấy tờ méo mó bằng da có màu xanh lá cây. Chỉ mong một căn nhà bình thường cũng có quá nhiều nơi để cất giấu những thứ như vậy chứ chẳng cần phải dùng đến mảnh da dê hay một hầm rượu rộng để người khác khó tìm thấy. Đầu tiên, Will tìm kiếm phòng của mẹ. Cậu rất ngượng khi nhìn thấy ngăn tủ đựng đồ lót của mẹ cậu. Kế đó, Will tìm kiếm ở tất cả các phòng còn lại một cách có hệ thống hơn. Con mèo Moxie cũng đồng hành với chủ mình bằng cách vừa quan sát Will vừa tự liếm bộ lông.

Will vẫn chưa tìm ra thứ mà cậu đang cần.

Trời đã tối đen, bụng bắt đầu cồn cào, Will tự nướng cho mình chiếc bánh đậu, sau đó ngồi vào bàn ăn và tìm cách tốt nhất để tìm kiếm ở tầng dưới.

Ngay khi cậu vừa ăn xong thì chuông điện thoại reo vang.

Cậu sững người, tim đập thình thịch. Cho đến khi tiếng chuông điện thoại ngừng hẳn, Will đếm được cả thảy hai mươi sáu hồi. Cậu đứng dậy, đặt đĩa vào chậu rửa rồi lại tiếp tục việc tìm kiếm.

Bốn tiếng sau, Will vẫn chưa tìm ra chiếc cặp bằng da màu xanh lá cây. Đã hơn một giờ rưỡi, người mệt lử, Will để nguyên cả quần áo, nằm vật xuống giường, cậu thiếp đi lúc nào không hay. Giấc mơ của cậu thật căng thẳng và ngột ngạt, cậu luôn thấy gương mặt hoảng hốt bất hạnh của mẹ hiện ra nhưng không sao tìm được bà.

Đúng lúc đó cậu tỉnh dậy (mặc dù cậu đã ngủ được gần ba giờ), cậu nhận thấy có hai việc đang xảy ra.

Một là cậu biết được mình đang ở đâu. Thứ hai, cậu biết hai gã đàn ông kia đang đi xuống cầu thang và mở cửa bếp.

Nhấc con mèo Moxie ra khỏi lối đi, nhẹ nhàng ra dấu im lặng với nó, rồi cậu xoay chân xuống cạnh giường và xỏ vào giầy. Dây thần kinh của cậu như căng ra để nghe những tiếng động ở dưới nhà; thật yên lặng, chỉ có tiếng một chiếc ghế bị nhấc ra rồi lại đặt vào chỗ cũ, tiếng trao đổi nhanh, tiếng cọt kẹt của ván sàn.

Cố nhẹ nhàng hơn họ, Will rón rén rời khỏi phòng ngủ, đi tới phòng dành cho khách ở tầng trên cùng. Trời không còn tối đen nữa, khi trời sắp sáng, trong ánh sáng lờ mờ cậu có thể nhìn thấy chiếc máy khâu cũ. Chỉ mấy giờ trước đây, cậu đã lục lọi ở khắp căn phòng này, vậy mà lại bỏ quên ngăn bên cạnh chiếc máy khâu. Tất cả mẫu vải và ống chỉ được cất ở đây. Cậu thấy điều này thật khó hiểu. Hai gã đàn ông đang đi xuống cầu thang, Will thấy có ánh sáng mờ nhòe đung đưa ở phía cửa giống như là ngọn đuốc.

Tìm thấy cái móc của ngăn kéo, Will liền mở nó ra và đây là những gì cậu đã nghe nói, chiếc cặp đựng giấy tờ màu xanh lá cây.

Bây giờ Will sẽ phải làm gì?

Không làm gì cả, ít nhất là lúc này. Cậu núp mình trong bóng tối, tim đập thình thịch, căng tai lên lắng nghe.

Hai người đàn ông đã ở sảnh. Will nghe thấy một gã nói thật nhỏ, “Nhanh lên, tao thấy người ta bắt đầu đi giao sữa rồi đấy.”

“Không phải ở đây, mình phải tìm ở trên gác mới được,” gã còn lại nói.

“Tiếp tục đi, đừng la cà nữa.”

Will tự trấn an mình khi cậu nghe thấy tiếng cọt kẹt ở những bậc thang trên cùng. Chúng không hề gây một tiếng động nào ngoại trừ những tiếng động ở cầu thang. Rồi chúng dừng lại. Qua khe cửa buồng ngủ, Will thấy một luồng ánh sáng yếu ớt chiếu qua sàn nhà phía bên ngoài.

Cánh cửa bắt đầu bị đẩy ra. Will đợi cho đến khi gã đàn ông kia đứng trước ngưỡng cửa mới đột ngột đâm sầm vào bụng của kẻ đột nhập.

Không ai trong bọn chúng nhìn thấy con mèo.

Khi hai gã vừa đi tới bậc thang cuối cùng, thì con mèo Moxie đã nhẹ nhàng rời khỏi giường, nó đứng ngay trước bọn chúng, đuôi dựng ngược lên như thể nó đã sẵn sàng nhảy vào những kẻ đột nhập. Bọn chúng đã có thể xử lý được Will bởi chúng có kinh nghiệm, nhưng Moxie đã ở trên lối đi và khi gã đột nhập cố gắng lùi lại, gã liền bị ngã nhào vào con mèo. Với một tiếng kêu hẫng chói tai gã lăn xuống cầu thang, đầu va mạnh vào chiếc bàn trang trí.

Willtiếng vỡ rùng rợn, nhưng không mất thời gian dừng lại để nghĩ về nó. Chộp lấy chiếc cặp hồ sơ, cậu khom mình xuống dưới lan can, nhảy qua người đàn ông đang nằm co giật, người giập nát. Cậu ôm chặt chiếc túi mua đồ bị rách trên bàn, chạy ra cửa chính trước khi gã còn lại có thể làm được nhiều việc hơn là ra khỏi phòng khách và trừng mắt nhìn.

Thậm chí trong lúc sợ hãi và vội vàng như vậy cậu cũng không khỏi băn khoăn tại sao gã ta không thét vào mặt cậu hoặc không đuổi bắt cậu. Chúng cũng có thể đuổi theo cậu ngay sau đó, bằng chiếc xe ô tô hoặc dùng điện thoại di động. Việc duy nhất cần làm lúc này là chạy.

Cậu trông thấy người đưa sữa rẽ vào gần tới nơi, ánh sáng từ chiếc xe chở hàng tái nhợt trong vầng rạng đông đã tràn ngập khắp bầu trời. Will nhảy qua hàng rào sang khu vườn nhà bên cạnh, xuống lối đi bên ngoài ngôi nhà này, rồi nhảy qua tường rào, băng qua một bãi cỏ còn ướt đẫm sương, đi qua hàng rào tới những bụi cây dại đan xen lẫn nhau phía giữa những ngôi nhà và con phố chính. Cậu bé trườn dưới một bụi rậm và nằm ở đó, người ngợm bẩn thỉu, run rẩy. Ra đường lúc này thì quá sớm: hãy đợi một lát, cho đến khi giờ cao điểm bắt đầu.

Cậu không thể đẩy ra khỏi đầu mình tiếng rắc khi đầu gã đàn ông đó va vào bàn, cái cổ của gã ngoẹo hẳn sang một bên và chân tay co giật. Gã đã chết. Cậu đã giết chết gã.

Cậu bé không thể xua được hình ảnh đó ra khỏi đầu nhưng cậu phải làm như vậy. Đã quá đủ để nghĩ về nó. Mẹ cậu, liệu bà có an toàn ở nơi đó hay không? Liệu bà Cooper có nói gì không? Thậm chí liệu Will có thể quay trở lại như cậu đã hứa hay không? Bởi cậu không thể về nữa vì giờ cậu đã giết người.

Thế còn Moxie. Ai sẽ chăm nó? Liệu nó có lo lắng cho hai mẹ con hay không? Liệu nó có cố lần theo ch của nó hay không?

Trời sáng dần. Ánh sáng lúc này cũng đủ để cậu kiểm tra xem có những gì trong chiếc túi mang theo: ví của mẹ này, lá thư mới nhất của luật sư này, bản đồ miền Nam nước Anh, vài thanh sôcôla, kem đánh răng, mấy đôi tất và quần lót. Có cả chiếc cặp đựng tài liệu bằng da màu xanh lá cây.

Mọi thứ đã ở đó. Tất cả mọi thứ đã theo đúng kế hoạch, thực sự là vậy.

Trừ một việc là cậu đã giết người.

Khi Will mới lên bảy, cậu bé đã nhận ra mẹ mình khác với người bình thường, cậu thấy mình cần phải chăm sóc mẹ. Họ ở trong siêu thị cùng chơi một trò chơi: hai mẹ con chỉ được phép nhặt hàng vào giỏ khi không có ai để ý đến. Việc của Will là nhìn xung quanh và nói nhỏ “nào,” và mẹ lấy một hộp hay một túi đồ từ trên giá rồi bỏ chúng vào giỏ. Khi mọi thứ đã ở trong giỏ thì họ được an toàn bởi vì không ai nhìn thấy cả.

Đây là một trò chơi hay, nó diễn ra trong một thời gian dài bởi sáng thứ bảy các cửa hàng đều chật ních, hai mẹ con rất giỏi trò chơi này và phối hợp rất ăn ý. Will yêu mẹ lắm, cậu thường nói cho mẹ biết rằng cậu rất yêu bà, mẹ cậu cũng thường nói như vậy với cậu.

Khi ra đến gần quầy thanh toán Will rất phấn khích và hạnh phúc vì họ gần như đã thắng cuộc. Một phần của trò chơi là mẹ giả vờ làm mất ví, thậm chí bà còn nói rằng hẳn có kẻ thù đã lấy mất ví của bà; nhưng vào lúc đó, Will cảm thấy mệt mỏi và cả đói nữa. Lúc này mẹ cũng không còn vui vẻ nữa, bà rất hoảng sợ. Rồi họ vòng lại, trả tất cả những thứ trong giỏ vào giá, đây mới là lúc hai mẹ con càng phải cẩn thận vì kẻ thù thật của hai mẹ con họ đang lần theo dấu vết của họ bằng chính số thẻ tín dụng của mẹ mà chúng biết bởi vì chúng đã lấy trộm ví của bà

Will thực sự hoảng sợ. Cậu nhận ra rằng mẹ mình thông minh đến thế nào khi làm cho mối nguy hiểm biến thành một trò chơi. Nhờ đó mà Will không hề hoảng sợ, cậu phải giả vờ là mình không hề sợ để làm an lòng mẹ.

Vì vậy, Will bé bỏng giả vờ là trò chơi vẫn tiếp tục, mẹ không phải lo lắng là con trai mình đang sợ hãi rồi họ về nhà mà không hề mua bất cứ thứ gì, và an toàn khỏi kẻ thù. Sau đó, Will tìm thấy ví của mẹ nằm trên bàn ở đại sảnh. Vào thứ Hai, hai mẹ con đi tới ngân hàng, đóng tài khoản rồi lại mở cái khác, cũng chỉ là để cho chắc chắn. Nhờ đó mà nguy hiểm qua đi.

Nhưng cũng thỉnh thoảng Will nhận ra rằng kẻ thù của mẹ không phải đến từ bên ngoài mà chính là từ tâm thức của bà. Điều đó không làm cho họ bớt lo, không làm cho sự việc bớt khủng khiếp và nguy hiểm hơn; điều đó có nghĩa là cậu phải chăm sóc mẹ cẩn thận hơn nữa và giữ kín những điều lo lắng của mẹ.

Bố Will đã mất tích khi cậu còn quá nhỏ để có thể nhớ được bố mình. Cậu bé rất tò mò muốn biết về bố, cậu thường quấy rầy mẹ bằng những câu hỏi mà phần lớn bà không thể trả lời được.

“Bố có giàu không?”

“Bố đã đi đâu?”

“Tại sao bố lại đi hả mẹ?”

“Bố chết rồi có phải không mẹ?”

“Bố sẽ quay trở về chứ?”

“Trông bố như thế nào, mẹ?”

Chỉ có duy nhất câu hỏi cuối cùng là bà có thể trả lời cho cậu. Rằng bố của cậu, ông John Parry là một người đàn ông đẹp trai, ông còn là một sĩ quan rất dũng cảm và tài gi của lực lượng lính thủy đánh bộ Hoàng gia. Ông đã rời bỏ quân ngũ để trở thành một nhà thám hiểm. Ông đã dẫn đầu đoàn thám hiểm đi tới những vùng đất xa xôi của thế giới. Will run lên vì xúc động khi được biết điều này. Không có gì tuyệt vời hơn khi có bố là nhà thám hiểm. Kể từ khi đó, trong tất cả các trò chơi của mình, Will có một người bạn đồng hành vô hình. Bố và Will cùng nhau thám hiểm rừng nhiệt đới, cùng căng mắt nhìn ra vùng biển đầy bão tố từ phía boong tàu, cùng cầm ngọn đuốc lên để giải mã những câu viết trong hang dơi…. Họ là những người bạn tốt nhất của nhau, vô số lần họ đã cứu sống nhau, họ cùng nói chuyện, cùng cười với nhau suốt đêm dưới ánh lửa trại.

Nhưng khi lớn hơn cậu bé bắt đầu tự hỏi. Tại sao lại không hề có một bức ảnh nào của bố ở nơi này hay là ảnh của ông chụp với những người đàn ông ở Bắc cực có bộ râu màu hoa râm đi trên chiếc xe trượt tuyết đang nghiên cứu sự phân hủy của các loài thân leo ở rừng nhiệt đới? Chẳng nhẽ không có một chiến tích nào của bố còn sót lại ngoại trừ sự tò mò mà ông mang về nhà hay sao? Lẽ nào không có lấy một quyển sách viết về bố?

Mẹ của Will không hề biết. Nhưng có một điều mẹ nói đã in đậm vào tâm trí Will.

Mẹ đã nói rằng: “Một ngày nào đó, con sẽ theo chân cha con. Con cũng sẽ trở thành một người vĩ đại. Con sẽ đảm đương nhiệm vụ của cha con.”

Mặc dù Will không biết ý mẹ muốn nói, nhưng cậu hiểu được ý nghĩa của nó, cậu thấy niềm tự hào và ý thức của cậu được nâng cao lên rất nhiều. Tất cả các trò chơi của cậu sẽ trở thành hiện thực. Bố vẫn còn sống, ông chỉ bị lạc ở nơi hoang dã nào đó, Will sẽ giải thoát cho bố và tiếp bước ông… Nếu bạn có một mục đích vĩ đại như thế thì sống trong một thế giới đầy khó khăn như thế này cũng thật đáng.

Vì vậy cậu giữ kín điều lo lắng của mẹ. Mỗi khi mẹ bình tĩnh và tỉnh táo, cậu thường cẩn thận học cách đi chợ, nấu nướng, dọn dẹp nhà cửa để khi nào mẹ không minh mẫn hay hoảng loạn cậu có thể tự làm lấy. Cậu còn học được cả cách che giấu bản thân mình, cả cách làm cho mình không bị để ý khi ở trường học, không bị hàng xóm để ý, thậm chí khi mẹ đang trong tâm trạng hoảng loạn đến nỗi bà khó có thể nói. Điều mà Will sợ hơn cả là những nhà chức trách có thể biết được mẹ cậu không bình thường và đem mẹ đi nơi khác rồi trao cậu cho những người hoàn toàn xa lạ. Dù có khó khăn thì vẫn còn hơn là hai mẹ con phải xa nhau. Có những lần mẹ tỉnh và vui vẻ trở lại, bà lại cười vào những sợ hãi mà mình đã trải qua, bà lại thật ngọt ngào và đầy yêu thương, làm cho Will nghĩ rằng không có gì tốt hơn như vậy, và không có gì tốt hơn là được ở với mẹ mãi mãi.

Nhưng rồi những người đàn ông kia đã tới.

Họ không phải là cảnh sát, cũng không phải là dịch vụ xã hội và ít nhất theo nhận xét của Will thì họ cũng không phải là tội phạm. Họ không nói cho hai mẹ con biết rằng họ muốn gì, mặc cho cậu cố đuổi họ đi, những người này chỉ nói chuyện với mẹ cậu. Để rồi sau đó, mẹ cầu lại đầy tâm trạng.

Một lần Will nghe trộm từ phía ngoài cửa, cậu thấy những người này hỏi về bố mình, Will cảm thấy hơi thở của mình như gấp gáp hơn.

Những người đàn ông này muốn biết ông John Parry đã đi đâu và liệu ông có gửi lại cái gì cho mẹ cậu không, khi nào thì mẹ cậu mất liên lạc với bố và liệu bố cậu có liên lạc với những Đại sứ quán nước ngoài hay không. Will thấy mẹ mỗi lúc một mất bình tĩnh hơn, cậu liền chạy vào nhà và yêu cầu họ ra khỏi nhà mình.

Mặc dù cậu còn rất nhỏ nhưng những người này không dám cười cậu bởi trông Will lúc đó thật hung dữ. Chỉ cần một tay thôi họ cũng có thể dễ dàng quật ngã cậu xuống sàn, nhưng Will đâu có sợ với cơn giận sôi sục điên người.

Họ đành bỏ đi. Cố nhiên, sự kiện này càng củng cố niềm tin ở Will rằng: Bố chỉ gặp rắc rối ở đâu đó, và chỉ có cậu mới giúp được bố mà thôi. Trò chơi của cậu không còn là trò trẻ con nữa, cậu cũng không còn chơi trò đó công khai như trước nữa. Nó đã thành sự thật và cậu phải trở nên xứng đáng với nó.

Không lâu sau những người đó lại quay lại, họ khăng khăng rằng mẹ cậu có điều gì đó cần nói với họ. Những người này tới khi Will đang đi học. Một người giữ chân mẹ cậu dưới cầu thang để hỏi còn người kia vào phòng ngủ lục lọi. Mẹ Will không nhận ra được họ đang làm gì. Hôm đó Will trở về sớm và thấy họ. Một lần nữa cậu lại nổi sung với họ và một lần nữa họ lại ra về.

Dường như họ biết rằng cậu sẽ không báo cảnh sát vì sợ nhà chức trách sẽ đưa mẹ cậu đi. Và họ càng đến thường xuyên hơn. Lần cuối cùng họ đột nhập vào nhà khi Will đưa mẹ từ công viên trở về, tâm trạng của mẹ ngày một xấu hơn. Bà cứ muốn mình phải chạm vào từng thanh gỗ trên mỗi chiếc ghế xung quanh hồ. Will giúp mẹ để có thể về nhà nhanh hơn. Khi hai mẹ con trở về, họ nhìn thấy lưng của một người đàn ông đang khuất dần sau ngôi nhà của họ. Will vào trong nhà thì nhận ra họ đột nhập vô nhà và tung hầu như mọi ngăn kéo và tủ chạn. Will biết rõ thứ họ đang theo sau. Chiếc cặp da màu xanh lá cây là vật sở hữu quý giá nhất của mẹ; cậu không bao giờ mơ được nhìn vào đó và thậm chí còn không biết được nơi mẹ cất chiếc cặp nữa. Nhưng cậu biết trong đó có chứa những bức thư, cậu còn biết thỉnh thoảng mẹ vẫn đọc rồi khóc và kể về bố cậu. Vì vậy Will cho rằng đó chính là thứ mà họ cần tìm, cậu biết có điều gì đó trong chiếcặp này.

Đầu tiên cậu quyết định tìm một nơi nào đó an toàn cho mẹ ở. Nghĩ đi nghĩ lại, cậu làm gì có bạn để nhờ, còn hàng xóm thì quá ư tò mò. Người duy nhất cậu nghĩ có thể tin cậy được là bà Cooper. Khi mẹ đã ở đó an toàn, mình sẽ đi tìm chiếc cặp màu xanh lá cây, sẽ nhìn xem có gì trong đó rồi mình sẽ đến Oxford, nơi cậu có thể có câu trả lời cho mình. Nhưng những người đó lại đến quá sớm.

Bây giờ cậu đã giết chết một người trong số họ. Cả phía cảnh sát cũng sẽ truy nã cậu.

Được thôi, Will đã rất giỏi khi để cho mình không bị chú ý. Bây giờ cậu phải làm điều này tốt hơn cả trước kia và giữ cho đến tận khi cậu tìm thấy bố hoặc bọn họ tìm thấy cậu. Nếu họ tìm ra Will trước, cậu sẽ không quan tâm tới chuyện mình sẽ giết chết thêm bao nhiêu người.

Ngày hôm sau, chính xác là trước nửa đêm. Will đi bộ tới thành phố Oxford, còn cách bốn mươi dặm. Các xương khớp của cậu đều mỏi nhừ. Will vẫy xe và bắt hai tuyến xe buýt rồi lại đi bộ, cậu tới Oxford lúc sáu giờ sáng. Lúc này đã quá muộn để thực hiện những việc cần làm. Cậu ăn tối ở một tiệm Burger King và đi tới rạp chiếu phim để trốn (chẳng biết bộ phim đó là gì, thậm chí cậu quên ngay khi vẫn còn đang xem). Will đi bộ dọc theo con phố dài vô tận qua vùng ngoại ô và hướng về phía bắc.

Cho đến giờ thì không ai để ý tới cậu nhóc. Nhưng cậu ý thức được rằng tốt hơn hết là cậu nên tìm một nơi nào đó để ngủ trước khi quá muộn, bởi vì càng khuya cậu lại càng dễ bị để ý hơn. Nhưng cái khó ở đây là cậu không thể ẩn mình ở đâu trong vườn của những ngôi nhà đẹp đẽ dọc theo con phố này và vẫn chẳng có tí dấu hiệu nào chứng tỏ đây là một thành phố cởi mở.

Will tới một đường vòng lớn, nơi cắt ngng giữa đường đi miền bắc với đường vành đai Oxford đi ra miền đông và miền tây. Vào thời điểm này, có rất ít xe cộ trên đường, con đường nơi Will đang đứng cũng thật yên lặng. Một bên đường là những ngôi nhà ấm cúng, phía bên kia là một bãi cỏ rộng. Người ta trồng hai hàng cây trăn dọc theo vệ đường. Trông chúng thật kì quặc với những chiếc lá hình vương miện mọc cân đối nhau, chúng giống như bức tranh của trẻ con hơn là những cái cây thật. Ánh đèn đường chiếu vào càng làm cho chúng trông giả tạo hơn, giống như một sân khấu vậy. Will hoàn toàn kiệt sức và có lẽ cậu sẽ đi tới miền bắc hay là nằm ngủ dưới thảm cỏ này, nhưng ngay khi cậu vừa mới đứng dậy cho tỉnh táo, cậu nhìn thấy một con mèo.

Một con mèo mướp giống hệt Moxie. Nó bước ra từ một khu vườn ở phía đường Oxford nơi Will đang đứng. Cậu bé liền đặt chiếc túi mua đồ của mình xuống và giơ tay ra, con mèo liền lại gần giụi đầu vào tay cậu giống như Moxie vẫn làm. Dĩ nhiên mọi con mèo đều cư xử như vậy nhưng những cảm xúc như thế này làm cậu cảm thấy khao khát được trở về nhà, mắt Will rơm rớm nước.

Cuối cùng con mèo cũng đi. Giờ là ban đêm, nó có nhiều chỗ để săn và cũng có nhiều chuột để bắt. Nó băng qua đường hướng về phía những bụi cây bên kia những cây trăn, và dừng lại ở đấy.

Will vẫn tò mò đứng nhìn theo con mèo.

Nó đưa móng vuốt ra cào vào khoảng không ngay trước mặt, có cái gì đó mà Will không nhìn thấy. Rồi nó lùi lại, lưng uốn cong lên, xù lông, tai nó cũng dựng đứng lên. Will biết cách xử sự của loài mèo. Cậu nhìn cảnh giác hơn, nó lại gần chỗ đó lần nữa, chỉ là một bãi cỏ trống ở giữa những cây trăn và bụi cây ở vệ đường, nó lại cào vào khoảng không một lần nữa.

Con mèo lại lùi lại, nhưng không xa như trước và cũng ít cảnh giác hơn. Sau một lúc ngửi ngửi, đ chân vào khoảng không, đi qua đi lại, sự tò mò đã chiến thắng tính cảnh giác.

Con mèo bước tới chỗ đó và biến mất.

Will chớp mắt, cậu vẫn đứng yên, nấp gần một thân cây gần nhất, vì một chiếc xe tải đi qua khúc đường vòng chiếu ánh sáng vào cậu. Khi nó đi khỏi, cậu băng qua đường, để mắt tới nơi con mèo đã khám phá ra. Thật chẳng dễ chút nào, vì chẳng có cái gì để xác định vị trí. Nhưng khi cậu tới nơi đó, đang tìm cách nhìn gần hơn thì cậu nhìn thấy con mèo.

Và cậu nhìn thấy điều kì lạ đó là từ một vài góc nhìn. Nó giống như là ai đó đã cắt một khoảng trong không khí, khoảng hai mét từ vệ đường, một khoảng hình vuông hơi gồ ghề, đường kính của nó thì chưa đến một mét. Nếu cùng độ cao với nó, trông nó hơi nổi lên, gần như là không nhìn thấy được, nó hoàn toàn vô hình khi nhìn từ phía đằng sau. Chỉ có thể nhìn thấy nó từ phía con đường gần nhất, nhưng thậm chí ở nơi này cũng khó có thể nhìn thấy được. Bởi tất cả những gì nhìn thấy cũng giống hệt như những thứ nằm đối diện với phía bên này, chỉ là một khoảng cỏ trống được ánh đèn đường chiếu sáng.

Nhưng Will linh cảm rằng hình như khoảng cỏ ở phía bên kia là một thế giới khác.

Cậu không thể có khả năng hỏi tại sao lại thế. Cậu chỉ đơn giản là biết ngay tức khắc, rõ ràng như thể cậu biết là lửa thì cháy và tử tế bao giờ cũng tốt. Cậu đang nhìn vào thứ gì đó hết sức xa lạ.

Chỉ mỗi lý do đó thôi cũng đủ làm cho cậu đứng lại và nhìn kỹ hơn. Thứ mà Will thấy làm cho đầu cậu choáng váng, tim cậu đập mạnh hơn, nhưng cậu không hề do dự. Cậu đặt chiếc túi mua đồ vào đó, rồi bò qua lỗ hổng, để từ thế giới này bước vào một thế giới khác.

Cậu thấy mình đang đứng dưới một hàng cây. Nhưng không phải là cây trăn mà đó là những cây thông cao đang lớn mọc thành hàng giống những cây ở Oxford cũng mọc thành hàng dọc theo bãi cỏ. Nhưng đây là trung tâm của đại lộ lớn. Một phía của đại lộ là một dãy hàng cà phê và những cửa hàng nhỏ, tất cả đều sáng rực rỡ, tất cả đều mở cửa nhưng lại hoàn toàn im ắng và vắng lặng dưới một bầu trời đầy sao. Đêm nóng nực với mùi hương hoa và mùi mặn nồng của biển.

Will cẩn thận nhìn xung quanh. Phía trước mặt trăng đã chiếu sáng cả một vùng đồi rộng lớn xanh ngắt. Ở chỗ dốc phía chân đồi là những ngôi nhà có những mảnh vườn phì nhiêu và một công viên cây xanh có những lùm cây và ánh sáng trắng của một ngôi đền cổ.

Ngay phía bên cạnh cậu là một khoảng trống trong không gian, nhìn từ phía này cũng khó như là nhìn ở các phía khác, nhưng rõ ràng là nó ở đây. Cậu cúi xuống để nhìn vào bên trong và thấy con đường Oxford ở thế giới thật của mình. Will rùng mình quay lại. Vậy đây là thế giới nào, liệu nó có tốt hơn thế giới cậu vừa ra đi hay không. Một ý nghĩ lóe lên trong đầu, cùng lúc cậu cảm thấy mình vừa như đang mơ vừa như đang tỉnh, cậu đứng dậy và nhìn xung quanh để tìm con mèo, chính nó đã dẫn cậu tới đây.

Nó đã biến mất. Chắc chắn nó đang khám phá những con phố hẹp và những khu vườn ở phía xa quán cà phê với ánh đèn đầy gọi mời. Xốc lại cái túi rách bươn, Will chậm rãi đi tới con phố trước mặt, cậu thận trọng bước đi đề phòng tất cả biến mất.

Không khí nơi này như mang cái gì đó giống như của Địa Trung Hải hay của vùng Caribê. Cậu bé chưa bao giờ được ra khỏi nước Anh vì vậy cậu không thể so sánh với bất cứ nơi nào cậu biết. Nhưng đây là nơi thích hợp để mọi người tới ăn uống, nhảy nhót và thưởng thức âm nhạc vào buổi tối. Chỉ ngoại trừ có một điều là chẳng có ai ở đây, sự im lặng bao trùm

Nơi đầu tiên cậu đặt chân tới là một quán cà phê. Ở đây có những chiếc bàn xanh được đặt ngoài vỉa hè, có cả quầy bar bằng thiếc và cả chiếc máy pha cà phê hơi. Trên vài cái bàn vẫn có những cốc nước đang uống dở, trên một chiếc gạt tàn, một điếu thuốc đã cháy đến tận đầu lọc. Một đĩa cơm Italia đặt cạnh ổ bánh mì đã bị hỏng, cứng như bìa các tông.

Lấy một chai nước chanh từ ngăn lạnh phía trước quầy rượu, cậu suy tư một lúc trước khi bỏ một đồng xu vào khe. Ngay khi nhét tiền vào, cậu liền rụt tay lại, cậu nhận ra rằng tiền ở đây không biết gọi là gì nhỉ. Tiền tệ ở đây được gọi là corona, nhưng cậu không thể nói nhiều hơn về nó.

Lấy lại tiền, cậu mở chai nước bằng cái mở chai gắn liền ở quầy thu tiền rồi thơ thẩn xuống phố, hướng ra phía đại lộ. Cửa hàng nhỏ bán thực phẩm và bánh nằm giữa cửa hàng bán đồ trang sức và bán hoa. Những chiếc màn cửa xâu thành chuỗi mở thẳng vào nhà, nơi những cái ban công bằng kim loại được chạm trổ dày đặc hoa văn treo lơ lửng trên vỉa hè chật hẹp. Con đường này hướng tới phía dưới và trước đó rất xa, mở ra một đại lộ rộng. Ở đó, những cây thông vươn cao lên phía trên, mặt lá phía dưới chúng thật sặc sỡ dưới ánh đèn đường.

Phía bên kia đại lộ là biển.

Will thấy mình đứng trước một bến cảng, phía bên trái cảng là một con đê chắn sóng bằng đá, phía bên phải nó là khoảng đất mũi, trên đó có một ngôi nhà rộng, cột đá và ban công của nó được trang trí rất công phu được chiếu sáng giữa những khóm hoa và bụi cây. Một hay hai chiếc thuyền buồm đang thả neo. Phía trên con đê, những vì sao chiếu sáng lấp lánh một vùng biển yên tĩnh.

Lúc này mọi mệt mỏi của Will tan biến đâu hết, điều kì diệu đã làm cho cậu bị mê hoặc,ậu tỉnh táo hẳn. Dần dần, từ phía con phố nhỏ cậu chạm tay vào bức tường, một cánh cửa hay là những bông hoa trồng trên bục cửa sổ, cậu cảm thấy chúng thật cứng và thật lạ. Giờ đây cậu bé mong muốn được chạm vào tất cả vùng đất trước mặt mình, bởi vì chỉ riêng đối với tầm nhìn của cậu thôi thì nó cũng quá rộng. Cậu đứng im, thở thật sâu, hầu như e sợ.

Nhận ra mình vẫn đang cầm chai nước mà cậu mang đi từ khi ở quán cà phê, cậu thử uống một hớp. Nó có vị giống vị chanh thông thường, mát lạnh và thật đã vì không khí lúc này quả rất nóng nực.

Cậu đi lang thang dọc phía bên phải, đi qua những khách sạn có mái hiên phía trên những lối đi sáng rực, hai bên là những cây hoa giấy cho tới khi cậu tới mảnh vườn ở phía đất mũi. Một tòa nhà giữa những lùm cây được trang trí bằng đèn pha, có lẽ là sòng bạc hoặc nhà hát opera. Có một con đường dẫn lên đó, đèn được treo trên cây trúc đào. Nhưng chẳng có dấu hiệu nào của sự sống, không có tiếng chim hót vào ban đêm, không tiếng côn trùng, chẳng có bất cứ tiếng động nào ngoại trừ tiếng bước chân của chính Will.

Tiếng động duy nhất mà cậu có thể nghe thấy chỉ là tiếng sóng vỗ nhè nhẹ đều đều từ biển ngay phía trước những cây thông ở mép vườn vọng ra. Will đi tới phía có tiếng động đó. Thủy triều không biết đang lên hay đang xuống, một dãy những chiếc thuyền đạp đậu trên bãi cát trắng mềm mại phía trên mực nước. Cứ mỗi giây lại có một con sóng nhỏ cuộn mình vỗ vào bờ biển trước khi rút về nhường chỗ cho những con sóng tiếp theo. Cách đó khoảng năm mươi mét là chỗ nước lặng để ngụp lặn.

Will ngồi bên cạnh một chiếc thuyền đạp, cởi chiếc giầy rẻ tiền đã rách nát của mình ra khỏi chân, nó đã làm cho chân cậu bị chuột rút. Cậu cởi tất để sang bên cạnh giầy rồi chôn chân mình vào bãi cát. Chỉ vài giây sau, cậu trút toàn bộ quần áo còn lại trên người bước xuống biển.

Nước ở đây là một sự kết hợp tuyệt diệu giữa mát mẻ và ấm áp. Cậu lội ra bục nhảy cầu và ngồi lên lớp ván gỗ bị mềm đi bởi thời tiết và nhìn trở lại thành phố. Phía bên phải cậu là bến cảng, xung quanh nó là đê chắn sóng. Chỉ cách đó khoảng chừng một dặm là ngọn hải đăng được sơn hai màu đỏ trắng. Ẩn sau ngọn hải đăng, những vách đá xa xăm hiện lên mờ mờ, và xa hơn nữa là những ngọn đồi Will đã nhìn thấy khi cậu vừa mới bước chân vào thế giới này.

Gần hơn trước mặt là những cột đèn trong vườn sòng bạc, những con đường trong thành phố, và khu cảng với những khách sạn, quán cà phê lẫn những cửa hiệu tỏa ánh sáng ấm áp, tất thảy đều im lặng, tất thảy đều trống trải.

Và tất thảy đều an toàn. Chẳng ai có thể theo cậu vào đây cả, những gã đột nhập vào nhà cậu sẽ chẳng thể nào biết được, cảnh sát cũng chẳng bao giờ tìm được cậu. Cậu có cả một thế giới để trốn cơ mà.

Kể từ khi cậu chạy ra khỏi nhà buổi sáng hôm đó đến giờ thì đây là lần đầu tiên cậu cảm thấy an tâm.

Will lại thấy khát, cả đói nữa, sau rốt thì, bữa gần đây nhất cậu ăn là khi còn ở thế giới khác. Cậu lại thả mình xuống nước và bơi chầm chậm vào bờ. Will mặc quần đùi vào và mang theo tất cả quần áo cùng chiếc túi. Bỏ cái chai rỗng vào sọt rác đầu tiên nhìn thấy, cậu bé đi chân trần dọc vỉa hè, hướng về phía bến cảng.

Khi người đã khô được một chút, cậu xỏ quần bò vào và kiếm một nơi nào đó có thể tìm được thức ăn. Mấy khách sạn này thật quá lớn. Cậu nhìn vào trong khách sạn đầu tiên, nhưng nó to quá làm cho cậu chẳng cảm thấy thoải mái chút nào, và cậu lại tiếp tục lê bước xuống khu cảng cho tới khi cậu phát hiện một quán cà phê trông có vẻ là nơi thích hợp. ậu không thể nói tại sao; nó giống hệt cả tá quán khác, với cái ban công tầng một được treo đầy lọ hoa, bàn ghế kê bên ngoài vỉa, nhưng nó lại chào mời cậu đến.

Trên tường treo một loạt ảnh của các võ sĩ quyền Anh và cả bức chân dung có chữ kí của một người chơi đàn xếp đang cười rõ to. Có một căn bếp, bên cạnh đó là chiếc cửa mở dẫn ra lối cầu thang bẹp trải thảm hoa màu trắng.

Will leo lên cầu thang và mở ngay chiếc cửa đầu tiên. Đây là phòng đầu tiên. Không khí trong phòng thật nóng nực và ngột ngạt, cậu phải mở cánh cửa kính ra để không khí tràn vào phòng. Căn phòng thì nhỏ mà đồ đạc trang trí lại quá lớn so với nó. Nhưng bù lại nó rất sạch sẽ và thoải mái. Hẳn ai đã sống trong phòng này rất mến khách. Trong phòng có một giá sách nhỏ, một cuốn tạp chí để trên bàn, mấy tấm ảnh đặt trong khung.

Will đi tới các phòng khác: một phòng tắm nhỏ, một buồng ngủ có giường đôi.

Có gì đó làm cậu nổi cả da gà trước khi mở cánh cửa cuối cùng. Tim cậu tăng tốc. Cậu không chắc phải mình vừa nghe thấy tiếng nói từ bên trong không, nhưng có gì đó mách bảo cậu rằng căn phòng có người. Cậu nghĩ ngày hôm nay thật kỳ quặc làm sao. Bắt đầu bằng việc ai đó rình rập ngoài căn phòng tối om trong khi cậu ở bên trong. Còn bây giờ tình huống lại đảo ngược—

Và trong khi cậu đứng tự nhủ thầm, cánh cửa bật tung và thứ gì đó lao ra tông mạnh vào cậu như một con thú hoang dại.

Nhưng trí nhớ của cậu đã cảnh báo cậu không đứng quá gần để bị đánh ngã nhào. Will chiến đấu ác liệt: gối, đầu, đấm, và cả sức mạnh của cánh tay mình để chống lại nó, ai đó hay cái gì đó

Một cô bé cũng trạc tuổi của cậu trông rất hung dữ, khó gần, quần áo thì rách tả tơi, còn đôi chân trần khẳng khiu nữ

Cô bé cũng nhận ra cậu là thứ gì cùng một lúc, liền vội quay đi tránh nhìn vào bộ ngực trần của cậu mà nép mình vào một góc tối giống như một con mèo ở trên vịnh. Thật ngạc nhiên, bên cạnh cô bé có một con mèo hoang to, cao khoảng đến đầu gối cậu, lông và tai dựng ngược, răng nó nhe ra.

Cô đưa tay vuốt lưng con mèo, liếm môi, quan sát mọi cử động của cậu.

Will uể oải đứng dậy.

“Bạn là ai?”

“Lyra Lưỡi Bạc,” cô trả lời.

“Bạn sống ở đây à?”

“Không,” cô phản ứng rất dữ dội.

“Thế, đây là nơi nào, thành phố này là thành phố nào?”

“Tôi không biết.”

“Bạn tới từ nơi nào vậy?”

“Từ thế giới của tôi, chúng tôi nối liền với nhau. Thế nhân tinh của cậu đâu?”

Mắt Will mở to, cậu thấy cái gì đó không bình thường xảy ra với con mèo; nó nhảy vào lòng cô và thay đổi hình dạng. Bây giờ nó là một con chồn màu nâu đỏ với cái cổ và bụng màu kem, nó cũng nhìn Will giống hệt cách mà cô bé nhìn cậu. Ngay sau đó một việc nữa lại xảy ra, cậu nhận ra cả cô và con chồn đều sợ cậu như thể họ đang nhìn thấy ma vậy.

“Tôi không có yêu tinh nào cả,” cậu bé nói. “Tôi không hiểu cậu nói gì. À! Đấy là yêu tinh của bạn?”

Cô chậm rãi đứng dậy. Con chồn uốn cong mình quanh cổ cô nhưng đôi mắt đen láy của nó không hề rời khỏi Will.

“Nhưng bạn đang sống,” cô nói, giọng rất nửa ngờ vực. “Bạn không… bạn không ở…”

“Tên tôi là Will Parry,” cậu bé nói. “Tôi không rõ ý bạn là gì về những con yêu tinh. Ở thế giới của tôi yêu tinh có nghĩa là... nó có nghĩa là ma quỷ, thứ gì đó xấu xa.”

“Ở thế giới của bạn sao? Ý bạn nói là đây không phải thế giới của bạn?”

“Không. Tôi chỉ tìm thấy… một lối vào. Giống như thế giới của bạn, tôi cho là thế. Chúng hẳn phải được nối liền nhau.”

Cô thư giãn hơn đôi chút, nhưng vẫn nhìn Will chằm chằm, còn cậu thì vẫn yên lặng như thể cô là một con mèo xa lạ mà cậu muốn làm bạn.

“Thế bạn có nhìn thấy ai khác ở thế giới này không?” cậu tiếp tục.

“Không.”

“Bạn đã ở đây bao lâu?”

“Không biết. Một vài ngày. Tôi không nhớ nổi.”

“Thế tại sao bạn lại đến đây?”

“Tôi đi tìm Bụi,” cô bé nói.

“Tìm bụi ư? Cái gì, bụi vàng ư? Loại bụi nào vậy?”

Cô nheo mắt lại và không nói gì. Cậu bèn xoay người đi xuống cầu thang.

“Tôi đói,” cậu nói. “Trong bếp có gì ăn được không?”

“Tôi không biết,” cô nói, và tiếp bước theo sau, nhưng vẫn giữ một khoảng cách nhất định với cậu.

Trong bếp, Will nhìn thấy nguyên liệu để làm món gà hầm, có gà, hà và tiêu, chúng chưa được nấu tẹo nào, và trong không khí oi bức chúng bốc mùi rất tệ. Cậu tống tất cả vào thùng rác.

“Bạn vẫn chưa ăn gì à?” Cậu vừa nói vừa mở tủ lạnh ra.

Lyra lại gần để nhìn. “Tôi đã không biết là có thứ này ở đây,” cô nói. “Ồ! Nó lạnh kìa.”

Nhân tinh của cô lại thay đổi một lần nữa. Lần này là một con bướm lớn sặc sỡ, nó bay thật nhanh vào tủ lạnh rồi đậu trên vai Lyra. Nó chầm chậm vỗ vỗ đôi cánh. Will cảm thấy cậu không nên nhìn chằm chằm, mặc dù đầu cậu đang ngẫm nghĩ về những điều kì lạ này.

“Trước đây bạn chưa từng thấy qua tủ lạnh bao giờ à?” Will hỏi.

Phát hiện một lon coca cola trong tủ, cậu liền đưa nó cho Lyra trước khi lấy khay trứng trong tủ ra. Cô lấy cả hai tay bóp lon nước một cách thích thú.

“Rồi, bạn uống đi,” Will nói.

Cô nhìn vào lon nước và cau mày. Cô không biết làm cách nào để mở nó ra. Cậu liền mở nắp ra cho cô, bọt nước trào ra ngoài. Cô bé liếm lon nước một cách tò mò rồi mở to mắt.

“Nó uống được không?” cô hỏi, giọng nửa hi vọng, nửa e dè.

“Ờ. Rõ là trong thế giới này họ có coca. Nhìn đây, tôi sẽ uống trước để chứng minh nó không có độc.”

Cậu mở tiếp một lon nước khác. Một khi đã trông thấy Will uống, cô cũng yên tâm uống theo. Chắc hẳn cô phải khát lắm. Cô uống nhanh đến nỗi bọt nước trào cả vào mũi, cô khụt khịt rồi ợ hơi thật to, khi bị Will bắt gặp, cô quắc mắt giận dữ.

“Tôi sẽ làm món ốp lết, bạn có muốn ăn một chút không

“Tôi chẳng biết ốp lết là cái gì cả.”

“Chà, cứ nhìn rồi bạn sẽ thấy. Hoặc một lon đậu hầm, nếu bạn thích.”

“Tôi không biết đậu hầm.”

Cậu chỉ cho cô nơi để lon đậu. Cô nhìn vào nắp lon tìm chỗ để mở như lon coca cola.

“Không, bạn phải dùng đến cái mở hộp chứ. Ở thế giới của bạn không có cái mở hộp à?”

“Ở thế giới của tôi, người hầu làm tất cả mọi việc,” cô bé nói giọng đầy khinh bỉ.

“Hãy nhìn cái ngăn kéo ở đằng kia kìa.”

Cô mở ngăn kéo đựng đồ bếp trong khi Will đập sáu quả trứng trong tô rồi dùng đũa khuấy chúng lên.

“Đúng rồi đấy, cái có tay cầm màu đỏ ý, bạn mang nó lại đây.”

Cậu khui nắp lon và chỉ cho Lyra cách để mở.

“Bây giờ bạn mang cái xoong nhỏ trên giá lại đây và đổ đậu vào,” Will nói với cậu bé.

Cô ngửi ngửi đậu, và một lần nữa cảm xúc thích thú xen lẫn ngờ vực hiện lên từ đáy mắt cô. Vừa đổ đậu vào xoong vừa liếm ngón tay, Lyra quan sát Will rắc muối và tiêu vào trứng rồi cắt một miếng bơ từ tảng bơ lớn trong tủ lạnh bỏ vào chảo gang. Will chạy ra chỗ quầy rượu để tìm mấy que diêm. Khi trở ra, cậu thấy Lyra đang nhúng ngón tay bẩn của mình vào tô trứng rồi liếm một cách thèm thuồng. Nhân tinh của cô bé lúc này trong hình dạng một con mèo, nó cũng thò móng của mình vào tô trứng, nhưng khi thấy Will lại gần, nó liền rụt lại.

“Nó đã chín đâu,” Will nói, mang tô trứng đi. “Bạn ùng bữa lần cuối cùng khi nào vậy?”

“Tại nhà cha tôi ở Svalbard,” cô bé trả lời. “Nhiều ngày trước. Tôi cũng không rõ. Rồi tôi tìm thấy bánh mì cùng các thứ ở đây và ăn chúng.”

Cậu bật ga, làm tan bơ, đổ trứng vào chảo. Lyra không dời mắt khỏi Will. Cô nhìn cái cách cậu vun trứng vào giữa cũng giống hệt cách họ đã làm, cậu còn nghiêng chảo để phần trứng chưa chín chảy ra chỗ trống. Lyra vẫn quan sát cậu, cả khuôn mặt, đôi tay đang làm việc, đôi vai trần và cả đôi chân của cậu nữa.

Khi món ốp lết đã chín, cậu cuộn trứng lại và dùng xẻng nấu xẻ trứng ra làm hai phần.

“Bạn đi tìm hai cái đĩa đi,” cậu bé nói, Lyra ngoan ngoãn làm theo.

Cô bé dường như khá thích thú nhận những mệnh lệnh khi thấy được dấu hiệu chúng, vậy nên cậu bảo cô đi lau chiếc bàn ở trước quán cà phê rồi tự mình mang thức ăn cùng dao dĩa ra, và họ ngồi cạnh nhau, hơi ngượng nghịu một chút.

Cô ăn hết phần của mình trong vòng chưa đầy một phút rồi sốt ruột đu đưa cái ghế, bóc lớp vải dệt của nó ra trong khi đợi Will ăn hết phần của cậu. Nhân tinh của Lyra lại thay đổi hình dạng thành một con sẻ cánh vàng đang nhấm nháp những mảnh vụn vô hình trên cái bàn cao nhất.

Will ăn thật chậm. Mặc dù đã đưa cho cô hết phần đậu của mình cậu vẫn ăn chậm hơn Lyra. Bến cảng đang ở phía trước mặt họ, ánh đèn chiếu sáng dọc đại lộ, vô số những vì sao trên bầu trời, tất cả bao trùm sự im lặng đáng sợ như thể chẳng còn gì khác gì tồn tại vậy.

Will luôn cảnh giác với cô bé này. Trông cô thật nhỏ nhắn, mảnh dẻ nhưng lại dẻo dai, khi đánh nhau cô dữ như cọp vậy; nắm tay của cậu đã để lại một vết thâm trên má cô bé nhưng cô. Cô có lúc thật trẻ con, như lần đầu tiên cô nếm thử coca cola, nhưng đôi khi rất cảnh giác. Cô có đôi mắt màu xanh nhạt, còn mái tóc có lẽ là màu vàng đậm nếu được gội sạch; bởi vì hiện tại cô trông nhếch nhách và có mùi như thể đã lâu rồi cô chưa được tắm táp.

“Laura? Lara?” Will hỏi.

“Lyra.”

“Lyra…. Lưỡi Bạc?”

“Phải.”

“Thế giới của bạn ở đâu? Làm sao bạn tới được đây.”

Cô nhún vai. “Tôi đã bước vào đây. Đó là một đám sương mù. Tôi đã không biết mình đi đâu. Nhưng ít nhất tôi cũng biết rằng tôi đang ra khỏi thế giới của mình. Chỉ khi đám sương mù tan hết tôi mới thấy nơi này.”

“Bạn đã nói gì về bụi ý nhỉ?”

“Bụi, ờ. Tôi dự định sẽ tìm hiểu ngọn ngành về nó. Nhưng hình như thế giới này hoàn toàn trống rỗng. Ở đây chẳng có ai để hỏi hết. Tôi đã ở đây được… tôi không biết… ba ngày, có lẽ bốn ngày. Và không một ai ở đây.”

“Nhưng tại sao bạn lại muốn tìm hiểu về bụi?”

“Bụi đặc biệt,” cô nói ngắn gọn. “Hiển nhiên không phải thứ bụi thông thường.”

Nhân tinh lại thay đổi tiếp. Chỉ trong một chớp mắt, từ con chim sẻ cánh vàng nó đã biến thành một con chuột to đen nhánh với đôi mắt đỏ. Will nhìn nhân tinh của Lyra một cách thận trọng, cái nhìn của cậu bị cô bé bắt gặp.

“Bạn có nhân tinh,” cô nói đầy quả quyết. “Bên trong bạn ấy

Will chẳng biết nên nói gì sấc.

Lyra tiếp tục: “Bạn có đấy. Bằng không bạn sẽ không còn là người nữa. Bạn có thể… chết một nửa rồi. Chúng tôi đã nhìn thấy có một đứa trẻ, nhân tinh của nó bị tách rời. Bạn không giống như vậy. Thậm chí bạn không biết rằng mình có nhân tinh, nhưng bạn có đấy. Lần đầu tiên nhìn thấy bạn, chúng tôi rất sợ. Giống như bạn là ma đêm hay cái gì đó. Nhưng rồi rõ là chúng tôi thấy bạn không giống thế.”

“Chúng tôi á?”

“Tôi và Pantalaimon. Chúng tôi. Nhưng còn bạn, nhân tinh của bạn không hề tách rời bạn. Nó chính là bạn. Một phần của bạn. Bạn và nó là một phần của nhau. Vậy ra ở thế giới của bạn không có ai giống như chúng tôi à? Họ đều giống bạn, với nhân tinh ẩn bên trong?”

Will nhìn hai người họ, cô bé có đôi mắt màu xanh nhạt với con nhân tinh chuột đang ngồi trên tay, và bất chợp cảm thấy cô đơn quá đỗi.

“Tôi mệt rồi. Tôi đi ngủ đây,” cậu bé nói. “Bạn sẽ ở lại thành phố này chứ?”

“Không biết. Tôi phải đi tìm thứ mà tôi đang tìm kiếm. Chắc phải có một vài Học giả ở thế giới này. Phải có ai đó biết về nó.”

“Có thể không phải là ở thế giới này. Tôi đã đến từ một nơi có tên gọi là Oxford. Tại đấy có rất nhiều học giả, nếu đó là điều bạn cần.”

“Oxford?” cô la lên. “Tôi đã đến từ nơi đó đấy!”

“Vậy là cũng có một Oxford ở thế giới của bạn sao? Bạn chưa bao giờ ở thế giới của tôi cả.”

“Ừ,” cô nói quả quyết. “Những thế giới khác ở thế giới của tôi cũng có một Oxford. Chúng ta đều nói tiếng Anh phải không? Đó chính là lý do tại sao có quá nhiều thứ giống nhau đến thế. Làm cách nào bạn đi qua được? Có cầu hay là cái gì à?”

“Giống kiểu cửa sổ nằm giữa không trung.”

“Chỉ cho tôi,” cô nói.

Đó là một mệnh lệnh, không phải lời đề nghị. Cậu lắc đầu.

“Không phải giờ,” cậu nói. “Tôi muốn ngủ. Dù sao thì, cũng đã nửa đêm.”

“Thế sáng mai bạn chỉ cho tôi nhé!”

“Được rồi, sẽ chỉ mà. Nhưng nói trước là tôi còn có việc riêng nữa, vì vậy bạn phải tự đi tìm học giả cho mình đấy.”

“Dễ thôi,” cô bé nói. “Tôi biết mọi thứ về các Học giả.”

Will dọn đĩa và đứng dậy.

“Tôi đã nấu ăn rồi, bây giờ đến lượt bạn rửa bát.”

Cô trông vẻ hoài nghi. “Rửa bát á?” cô mỉa mai. “Có hàng triệu cái sạch sẽ đang nằm ngoài kia! Hơn nữa tôi không phải là người hầu. Tôi sẽ không rửa.”

“Vậy tôi sẽ không chỉ cho bạn cách đi qua cái cửa không gian đó đâu.”

“Tôi sẽ tự tìm lấy.”

“Bạn sẽ chẳng tìm thấy đâu, nó đã được giấu kỹ rồi. Bạn không bao giờ tìm thấy nó. Nghe này, tôi không biết liệu chúng ta sẽ ở đây trong bao lâu. Chúng ta phải ăn, chúng ta sẽ ăn những gì có ở đây, nhưng chúng ta sẽ phải giữ chỗ này thật sạch sẽ, bởi chúng ta phải làm như vậy. Bạn đi rửa bát đi. Chúng ta phải xử sự đúng đắn đối vơi này. Bây giờ tôi đi ngủ đây. Tôi sẽ dùng một phòng khác. Hẹn gặp lại bạn sáng mai.”

Will đi vào trong, cậu đánh răng bằng ngón tay với một ít thuốc đánh răng được lấy từ trong chiếc túi rách tả tơi của mình. Cậu ngả mình trên chiếc giường đôi rồi ngủ ngay tức khắc.

Lyra đợi đến khi chắc chắn là Will đã ngủ say, cô mới cất đĩa vào bếp. Cô tráng qua vòi nước rồi dùng giẻ lau chà sát mạnh đến khi chúng sạch hẳn. Cô cũng làm tương tự như vậy đối với dao và dĩa. Nhưng không thể làm như vậy đối với cái chảo ốp lếp trứng, cô lấy một ít xà phòng ở bánh xà phòng màu vàng cho vào và rửa tỉ mỉ cho đến khi cảm thấy mọi thứ thật sạch. Cô còn lấy một chiếc giẻ khô khác để lau những thứ vừa rửa rồi cất vào chạn bát.

Vì vẫn còn khát và cả vì muốn thử mở lon nước lần nữa, cô khui một lon coca và mang lên gác. Lyra nghe ngóng bên ngoài cửa phòng Will, khi đã chắc là không có tiếng động gì, cô bé mới nhón chân đi sang phòng khác rồi lấy chiếc Chân-kế từ dưới gối ra.

Chẳng cần phải ở gần Will để hỏi về cậu nhưng dẫu sao thì cô bé vẫn muốn nhìn. Lyra xoay thật nhẹ nhàng tay nắm cửa phòng Will và bước vào.

Một luồng sáng từ phía biển chiếu thẳng vào trong phòng. Từ ánh sáng phản chiếu trên trần nhà, Lyra quan sát cậu bé đang ngủ. Cậu đang cau mày và mặt thì lấm tấm mồ hôi. Trông cậu thật khỏe mạnh và rắn rỏi, dĩ nhiên là không giống như vẻ rắn rỏi của người trưởng thành, bởi cậu bé đâu có nhiều tuổi hơn cô, nhưng có lẽ một ngày nào đó, cậu sẽ rất mạnh. Thật là dễ dàng biết bao khi nhân tinh của cậu ta vô hình. Cô tự hỏi liệu hình dáng của nó như thế nào, có cố định hay không. Bất kể nó ở hình dạng nào, có cố định hay không. Bất kể nó ở hình dạng nào, nó cũng sẽ thể hiện bản chất vốn có của nó, hoang dã, lịch lãm và cả bất hạnh

Cô nhón gót đi về phía cửa sổ. Trong ánh đèn đường, Lyra cẩn thận đặt tay lên chiếc Chân-kế, thả ý nghĩ của mình vào hình thù một câu hỏi. Kim la bàn bắt đầu quay quanh mặt số, nó cứ quay rồi lại dừng liên tiếp ở một số chỗ gần như quá nhanh để có thể quan sát được.

Cô hỏi: Cậu ta là loại nào vậy? Một người bạn hay là một kẻ thù?

Chân-kế trả lời: Cậu ta là một kẻ giết người.

Khi biết được câu trả lời, Lyra cảm thấy nhẹ nhõm ngay tức khắc. Cậu ta có thể tìm thức ăn và chỉ đường cho mình tới Oxford, những khả năng đó của cậu ta thật hữu ích, nhưng có thể cậu ta vẫn không xứng đáng với sự tin cậy của mình hoặc là quá hèn nhát. Một kẻ giết người là một người bạn đồng hành đáng giá. Cô cảm thấy an toàn khi ở bên cậu cũng giống như ở cùng với Iorek Byrnison, con gấu mặc áo giáp sắt.

Lyra sập cánh cửa chớp lại để ánh sáng sớm mai khỏi rọi vào mặt Will rồi nhẹ nhàng bước ra ngoài.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx