sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Chương 2 - Giữa Những Phù Thủy

Phù thủy Serafina Pekkala đang gặp rắc rối lớn. Bà đã từng cứu Lyra và những đứa trẻ khác ra khỏi khu thực nghiệm ở Bolvangar và đã cùng cô bé bay tới Svalbard.

Trong cơn nhiễu loạn tầng khí quyển tiếp theo sau cuộc đào tẩu khỏi án lưu đày ở Svalbard của Ngài Asriel, bà cùng những người bạn mình đã bị thổi bay xa khỏi hòn đảo hàng dặm trên biển băng. Một vài người trong số họ đã cố ở lại cùng chiếc khí cầu đã bị hư hại của ông Lee Scoresby, người lái khí cầu ở Texas, nhưng chính Serafinaăng từ trên cao xuống đám sương mù, ngay sau đó, đám sương này cuộn lại từ lỗ hổng mà cuộc thí nghiệm của Ngài Asriel tạo nên khi xé rách bầu trời.

Ngay khi thấy mình có thể điều khiển được đường bay, việc đầu tiên bà nghĩ tới là Lyra; vì cô bé đâu có biết chút gì về cuộc chiến giữa gã vua gấu giả mạo với vị vua thật sự, Iorek Byrnison, cũng như không biết những điều sẽ xảy ra cho mình sau đó.

Bà bắt đầu tìm kiếm cô bé. Cưỡi trên nhánh thông mây của mình, bà bay qua bầu trời đầy mây màu vàng nhạt. Đồng hành với bà lúc này là con nhân tinh ngỗng trắng Kaisa. Họ quay trở về hướng đi Svalbard chếch về phía Nam một chút, lượn vòng vài giờ dưới bầu trời đang thay đổi bất thường do những ánh sáng và bóng dáng lạ lùng. Từ cảm giác râm ran bất ổn trên da, Serafina Pekkala biết được rằng nó đến từ một thế giới khác.

Sau một lúc, Kaisa nói, “Nhìn kìa! Một nhân tinh của phù thủy, bị lạc đường…”

Serafina Pekkala nhìn xuyên qua lớp sương mù và thấy một con én biển đang lượn tròn và kêu la trong những lỗ hổng của ánh sáng mù mờ. Họ liền vòng lại, bay phía trước con nhân tinh. Khi nhìn thấy họ lại gần, nó bay vụt lên đầy cảnh giác, nhưng khi Serafina Pekkala ra dấu hiệu giúp đỡ, nó mới thả mình xuống cạnh họ.

Serafina hỏi: “Ngươi ở thị tộc nào tới vậy?”

“Taymyr,” nó trả lời. “Phù thủy của tôi bị bắt… Những người đi cùng đã rời khỏi đây. Tôi bị lạc…”

“Ai đã bắt phù thủy của nhà ngươi?”

“Người đàn bà có con nhân tinh khỉ từ Bolvangar… Làm ơn hãy giúp tôi! Giúp chúng tôi! Tôi sợ quá!”

“Thị tộc của nhà ngươi có liên minh với bọn cắt nhân tinh trẻ con phải không?”

“Phải, cho đến khi chúng tôi biết được về điều bọn chúng đang làm. Sau trận chiến ở Bolvangar, chúng đánh đuổi chúng tôi đi, nhưng còn phù thủy của tôi lại bị bắt giữ làm tù binh… Chúng nhốt cô ấy ở trên chiếc tàu… Tôi phải làm gì bây giờ? Cô ấy đang gọi tôi, nhưng tôi không thể tìm thấy cô ấy! Ôi, hãy giúp tôi, giúp tôi với!”

“Yên lặng nào,” nhân tinh ngỗng Kaisa lên tiếng. “Hãy nghe ở dưới kia.”

Họ cùng lượn xuống thấp hơn, tai dỏng lên, Serafina nhanh chóng nhận ra nhịp điệu của động cơ gas, bị đám sương làm cho nghẹt tiếng.

“Họ không thể nào định vị được một con tàu trong đám sương mù như thế này,” Kaisa nói. “Không biết họ đang làm gì nhỉ?”

“Động cơ này nhỏ hơn của chúng,” Serafina Pekkala nói, ngay khi vừa dứt lời, một tiếng động mới từ một hướng khác phát ra. Một tiếng vang trầm đục, ghê rợn đến rùng mình, giống như sinh vật biển khổng lồ nào đó đang kêu gào sâu thẳm bên dưới. Nó rống lên một vài giây rồi đột ngột ngừng hẳn.

“Còi hiệu báo sương mù của tàu,” Serafina Pekkala nói.

Họ lượn xuống thấp hơn, chỉ cao hơn mặt nước một chút và tìm kiếm lại tiếng động cơ một lần nữa. Đột nhiên họ phát hiện ra nó, nhờ việc sương mù dường như chia thành những mảng có mật độ khác nhau, và Serafina vọt lên khỏi tầm nhìn đúng lúc chiếc thuyền chầm chậm nổ bình bịch đi qua những dài băng của bầu khí quyển ẩm thấp. Chiếc tàu chậm chạp và trơn tuột như thể nước đang dâng lên.

Họ bay vòng rồi lại lên cao, con nhân tinh én biển cứ bay gần sát như là con gần mẹ vậy, nó quan sát người lái tàu đang điều chỉnh lộ trình khi cái còi báo hiệu nổ bom lần nữa. Một ngọn đèn thắp lên trên mũi tàu, nhưng toàn bộ những gìếu rọi được là đám sương cách vài thước đằng trước.

Serafina nói với con nhân tinh bị lạc, “Ngươi đã nói rằng vẫn còn một vài phù thủy giúp đỡ những người này phải không?”

“Tôi nghĩ vậy—vài kẻ phản bội từ Volgorsk, trừ khi họ cũng đã bay mất,” nó nói với bà. “Bà sẽ làm gì? Bà sẽ tìm kiếm phù thủy của tôi chứ?”

“Có. Nhưng bây giờ nhà ngươi hãy ở lại đây với Kaisa nhé.”

Để nhân tinh ở phía trên ngoài khỏi tầm nhìn, Serafina bay về phía chiếc tàu, đáp lên thành đuôi ngay phía sau người cầm lái. Nghe tiếng con nhân tinh mòng biển của mình kêu quang quác, người lái tàu quay ra nhìn.

“Mày rảnh quá ha? Dậy bay ra đằng trước và dẫn đường cho bọn tao cập cảng mau.”

Ngay tức thì Serafina lại cất cánh. Nó đã thành công: vẫn còn một vài phù thủy đang giúp họ, và người lái tàu cũng nghĩ bà là một trong số đó. Bà vẫn nhớ bến cảng ở phía bên trái, và ánh đèn ở đó màu đỏ. Bà tìm kiếm trong đám sương mù cho đến khi bắt gặp tia sáng lờ mờ cách đó không đầy một trăm dặm. Bà liền lao ngược lại, bay xuống phía cuối tàu để gọi trực tiếp người lái tàu. Ông ta đang lái tàu chậm dần để vòng qua. Cái thang dây được treo ngay phía trên dòng nước. Người lái tàu gọi, thế là thủy thủ ném một sợi dây xuống, một người khác vội xuống thang để buộc nó chặt vào tàu.

Serafina Pekkala bay lên phía tay vịn lan can của tàu, rút về phía đằng sau bóng tối của xuồng cứu nạn. Bà không thấy bóng dáng những phù thủy khác, nhưng có lẽ là họ đang đi tuần tra ở trên trời; Kaisa sẽ biết phải làm gì.

Phía dưới, một hành khách đang rời tàu và trèo lên thang. Nhân vật này khoác trên người bộ lông thú, mũ trùm đầu bí ẩn. Nhưng khi tàu cập cảng, một con nhân tinh khỉ vàng hơi nhún nhảy trên lan can và nhìn ngó xung quanh đôi mắt đen của nó trông thật ác. Serafina nín thở: chính là bà Coulter.

Một gã đàn ông trang phục sẫm màu vội vàng ra khỏi boong để chào bà ta, đồng thời nhìn xung quanh như thể cũng đang mong một ai đó khác.

“Ngài Boreal—” ông ta bắt đầu.

Nhưng bà Coulter ngắn lời gã ngay: “Ông ta đã đi nơi khác rồi. Thế bọn chúng đã bắt đầu cuộc tra tấn chưa?”

“Rồi, thưa bà Coulter,” gã trả lời, “nhưng—”

“Ta đã lệnh cho bọn chúng phải đợi,” bà Coulter cướp lời. “Bọn chúng dám không tuân lệnh ta à? Con tàu này cần phải quy củ hơn nữa.”

Bà ta bỏ mũ xuống. Trong ánh sáng vàng, Serafina nhìn thấy khuôn mặt của bà ta thật rõ ràng: kiêu căng, dễ nổi cáu, và đối với phù thủy, vẫn còn quá trẻ tuổi.

“Thế những đứa phù thủy khác đâu rồi?”

“Chúng đi hết rồi, thưa bà. Bay về quê hương của bọn chúng.”

“Nhưng có một phù thủy hướng dẫn con tàu vào,” bà Coulter hỏi, “con phù thủy đó đã lặn đâu mất?”

Serafina lùi lại, hiển nhiên là thủy thủ trên tàu không biết được tình hình mới nhất. Gã mục sư nhìn quanh, hoang mang, nhưng bà Coulter quá mất bình tĩnh. Bà ta lắc đầu, vội vàng cùng nhân tinh của mình đi qua cánh cửa mở đang chiếu sáng cả một khoảng không. Gã đàn ông theo sau.

Serafina nhìn quanh để kiểm ta vị trí của mình. Bà đang giấu mình sau bộ thông gió trong khu vực chật hẹp trên boong tàu nằm giữa lan can và khu vực trung tâm của tàu; và ở tầng này, đối diện đằng trước bên dưới đài chỉ huy của thuyền trưởng và ống khói, là một phòng khách lớn, nơi mà từ cửa sổ, không phải lỗ cửa sổ thành tàu, có thể nhìn ược ba phía. Đó là chỗ mọi người đã vào. Ánh sáng tràn dày đặc từ ô cửa sổ vào rào chắn có màu ngọc trai đục, soi sáng lờ mờ cột buồm phía trước và cả cửa hầm chứa hàng bằng vải bạt. Mọi thứ đã ướt sũng và bắt đầu đóng băng thành cứng đơ. Không ai có thể thấy được Serafina ở chỗ này; nhưng nếu muốn quan sát thêm, bà sẽ phải ra khỏi nơi ẩn náu.

Thật quá tệ. Bà có thể trốn thoát bằng nhánh thông của mình và cũng có thể chiến đấu bằng con dao và cái cung. Bà giấu nhánh cây vào đằng sau bộ thông gió rồi men dọc theo boong tàu cho đến khi nhìn thấy chiếc cửa sổ đầu tiên. Sương mù đậm đặc khó thể mà nhìn qua, và Serafina cũng chẳng nghe thấy một tiếng động nào. Bà lại thu mình vào bóng tối.

Có một việc bà có thể làm; nhưng hơi miễn cưỡng vì việc đó rõ ràng rất nguy hiểm, nó có thể làm bà bị kiệt sức; nhưng dường như chẳng còn lựa chọn nào cả. Đó là một phép thuật bà có thể tạo ra để làm cho mình không bị phát hiện. Dĩ nhiên là không thể nào mà vô hình hoàn toàn được; đó chỉ là một phép thuật tinh thần, nó có sức mạnh vừa đủ để người đọc thần chú không bị để ý chứ không phải là vô hình. Nếu giữ được phép thuật này với cường độ chính xác thì bà có thể đi qua một phòng đông người hay là đi bộ ngay bên cạnh một đoàn khách bộ hành mà không hề bị nhìn thấy.

Vì vậy, bà tự nhẩm câu thần chú, dùng hết sức tập trung vào vấn đề biến đổi để hoàn toàn làm chệch sự chú ý của người khác. Cũng phải mất vài phút bà mới tập trung được. Bà thử phép thuật bằng cách bước ra khỏi nơi ẩn nấp, đứng ở chỗ một thủy thủ trên tàu đang tới mang theo một túi đồ. Người này đi tránh sang một phía mà không hề nhìn bà lấy một lần.

Bà đã sẵn sàng. Bà đi tới cánh cửa của căn phòng hạng nhất sáng choang rồi mở cửa ra, phát hiện ra nó rỗng. Bà để cánh cửa ngoài hé mở để có thể chạy trốn khi cần thiết, rồi bà nhìn thấy có một cánh cửa từ phía đằng xa dẫn xuống cầu thang đi vào lòng tàu. Bà đi xuống, thấy mình đang ở trên một hành lang hẹp đeo đầy những ống dẫn khí sơn màu trắng được soi sáng bằng ánh sáng ở vách ngăn. Ánh sáng này chiếu sáng khắp chiều dài vỏ tàu, cánh cửa ở đây mở ra hai phía.

Bà đi dọc theo hành lang, nghe ngóng cho tới khi có tiếng động. Nghe như thể một loại hội đồng nào đó đang họp.

Bà mở cửa bước vào.

Có khoảng một tá người đang ngồi quanh chiếc bàn lớn. Một hai người nhìn lên phía bà nhưng ngay sau đó họ quên ngay. Bà đứng gần cửa sổ và quan sát. Chủ tọa cuộc họp này do một ông lão trong bộ áo choàng đỏ thắm, những người còn lại là mục sư và một người phụ nữ duy nhất hiện diện trong phòng chính là bà Coulter. Lúc này, bà ta đã bỏ áo choàng trên ghế, má bà ta ửng hồng lên do sức nóng của thân tàu.

Serafina cẩn thận nhìn quanh, bà nhìn thấy một người khác nữa ở trong phòng: một người đàn ông có khuôn mặt mỏng cùng con nhân tinh ếch, đang ngồi ở một bên bàn với những cuốn sách bọc bìa da và mấy chồng báo ố vàng. Lúc đầu, bà nghĩ ông ta có lẽ là thư kí hay văn thư cho đến khi bà nhìn thấy việc ông ta đang làm. Ông ta nhìn chăm chú vào một dụng cụ bằng vàng giống như một chiếc đồng hồ hay là la bàn gì đó, cứ mỗi phút ông ta lại dừng lại viết ra những gì tìm thấy. Rồi ông ta lại mở một cuốn sách ra, chăm chú nhìn vào phần chỉ dẫn và sách tham khảo trước khi quay trở lại với dụng cụ.

Serafina hướng lại cuộc thảo luận khi nghe thấy nhắc tới từ phù thủy.

“Cô ta biết điều gì đó về đứa trẻ,” một mục sư nói. “Cô ta thú nhận như vậy. Tất cả bọn phù thủy biết điều gì đó về con bé.”

“Tôi đang tự hỏi là bà Coulter biết được những gì?” Giáo hoàng nói. “Liệu có điều gì đó mà bà nên trước đây?”

“Ông sẽ cần phải nói rõ ràng hơn thế,” Coulter lạnh lùng nói. “Ông chớ quên tôi là một phụ nữ, thưa Đức giáo chủ, cho nên đừng có quá tinh tế như là một Đức Chúa vậy. Giờ thì có sự thật nào tôi nên biết về đứa bé đây?”

Câu nói của Giáo chủ chứa đựng rất nhiều ý nghĩ nhưng rồi ông lại lặng thinh. Họ im lặng một lúc, rồi một mục sư khác nói với vẻ hầu như là biện bạch.

“Dường như có một lời tiên tri. Bà thấy đấy, bà Coulter, nó liên quan đến đứa trẻ. Tất cả các dấu hiện đã đầy đủ. Bắt đầu là từ hoàn cảnh khi con bé được sinh ra. Bọn người Gypsy cũng biết gì đó về con bé—chúng nói về con bé bằng những biệt hiệu như là máu dầu phù thủy và ma trơi, quả thật kỳ lạ, bà thấy đấy—do đó con bé đã thành công trong việc dẫn những người Gypsy tới Bolvangar. Và còn kỳ công phế truất vua gấu Iofur Raknison đáng kinh ngạc nữa… đây không thể là một đứa trẻ bình thường. Có lẽ Fra Pavel có thể nói nhiều hơn cho chúng ta biết…”

Ông ta liếc người đàn ông đang đọc chiếc Chân-kế. Fra chớp mắt, xoa xoa hai con người rồi nhìn bà Coulter.

“Bà có thể nhận thấy rằng đây là chiếc Chân-kế duy nhất còn sót lại, một cái khác con bé đã giữ. Tất cả những cái khác đều bị giành giật và bị phá hủy theo lệnh Tổng giáo giám mục. Dụng cụ này cho tôi biết được rằng hiệu trưởng trường Jordan đã trao nó cho con bé và nó đã tự học cách đọc Chân-kế mà không cần sử dụng sách tra. Nếu mà có thể hoài nghi chiếc Chân-kế, tôi sẽ làm ngay, vì việc sử dụng món đồ này mà không có sách đơn giản là bất khả dĩ đối với tôi. Phải mất đến hàng thập kỉ miệt mài nghiên cứu để khám phá ra tất cả những kiến thức. Vậy mà chỉ trong một tuần có được Chân-kế, nó đã đọc được. Bây giờ, nó gần như đã điều khiển được. Con bé này khống bất cứ một Học giả con người nào mà tôi có thể hình dung.”

“Thế con bé ở đâu rồi, Fra Pavel?” Giáo hoàng hỏi.

“Ở một thế giới khác,” Fra Pavel nói. “Muộn mất rồi.”

“Ả phù thủy biết đấy!” một gã khác nói. Con nhân tinh chuột xạ của gã đang gặm lấy gặm để cây bút chì. “Tất cả đều đã đủ ngoại trừ lời chứng thực của phù thủy! Tôi có ý kiến là chúng ta nên tra tấn ả một lần nữa!”

“Điều tiên tri đó nói gì?” Coulter vô cùng giận dữ yêu cầu. “Sao các ngươi dám giấu ta?” Rõ ràng là quyền lực của Coulter mạnh hơn họ. Con khỉ vàng nhìn trừng trừng quanh bàn họp, không một ai dám nhìn vào mặt nó.

Chỉ có mỗi giáo chủ là không ngán. Nhân tinh của ông ta, một con vẹt đuôi dài, nhấc một chân lên gãi đầu.

“Bọn phù thủy có ám chỉ thứ gì đó khác thường,” ông ta nói. “Tôi không dám tin điều tôi nghĩ về nó. Nếu nó thành sự thực, nó đã đặt chúng ta vào một trọng trách vô cùng to lớn mà bất cứ người nào, bất kể đàn ông hay đàn bà cũng có thể phải đối mặt. Nhưng cho tôi hỏi lại một lần nữa, bà Coulter, bà biết gì về đứa trẻ và cha nó.”

Mặt bà Coulter trắng bệch vì giận dữ.

“Ngài dám tra khảo tôi sao?” Coulter phun ra. “Làm thế nào các ông lại dám giấu ta những điều các ông biết từ bọn phù thủy? Cuối cùng, sao các ông dám kết luận là ta đã giấu các ông điều gì? Các ông nghĩ là ta đứng về phía con bé à? Hay là các ông nghĩ ta đứng về phía cha của nó? Chắc các ông nghĩ rằng ta nên bị tra tấn như bọn phù thủy phải không? Được thôi, bọn ta đang ở trong tay ông mà, thưa Giáo hoàng, ông chỉ việc búng ngón tay của mình là ta tan xác thôi mà. Nhưng nếu ông tra tấn ta để có câu hỏi thì ông sẽ không có một chút xíu nào đâu bởi vì chẳng biết tí gì về lời tiên tri, bất kể điều gì. Ta yêu cầu các ông cho ta biết những điều mà các ông biết. Con của ta, đứa con của chính ta đã được thụ thai và sinh ra trong tủi hổ, nhưng dù sao thì vẫn là con ta, và các ông đã giấu ta điều mà ta có quyền được biết!”

“Làm ơn,” một mục sư khác lo lắng lên tiếng, “bà Coulter, làm ơn, đứa phù thủy vẫn chưa nói tiếng nào mà; rồi ta sẽ biết được nhiều hơn từ bà ta. Bản thân Giáo hoàng Sturrock cũng chỉ nói rằng bà ta chỉ nói bóng gió về điều đó.”

“Ngươi cho rằng bọn phù thủy chưa khám phá ra điều đó?” Coulter nói. “Cái gì sau đó nữa? Chúng ta ước chừng, phải không? Chúng ta run rẩy, nao núng và đoán mò?”

Fra Pavel nói: “Không, bởi đó là câu hỏi mà tôi chuẩn bị đặt ra với Chân-kế. Chúng ta sẽ thấy câu trả lời hoặc là từ bọn phù thủy hoặc là từ những quyển sách chỉ dẫn.”

“Thế sẽ mất bao lâu?”

Ông ta nhướn mày một cách mệt mỏi và nói, “Sẽ mất khá nhiều thời gian đấy. Đó là một câu hỏi hết sức phức tạp.”

“Nhưng đứa phù thủy có thể cho chúng ta biết ngay tức thì,” bà Coulter nói.

Rồi bà ta đứng nhỏm dậy, hầu hết mọi người cũng đứng dậy như thể họ rất sợ bà ta. Serafina Pekkala lùi lại, cố gắng hết sức để giữ cho mình không bị phát hiện. Con khỉ vàng nghiến răng ken két, bộ lông vàng nhạt của nó dựng cả lên.

Coulter bế nó trên vai. “Hãy để chúng tôi đi và hỏi cô ta,” bà nói.

Bà ta quay lưng bước ra phía hành lang. Những người đàn ông còn lại trong phòng vội vàng chen lấn, xô đẩy cả Serafina để đi theo bà ta. Lúc này Serafina Pekkala chỉ có đủ thời gian để đứng tránh sang một bên thật nhanh, tâm trí bà hơi bấn loạn. Giáo chủ là người ời đi sau cùng.

Phải mất mấy giây Serafina mới trấn tĩnh lại được, do sự xúc động đang bắt đầu khiến bà bị lộ diện. Bà đi theo những mục sư xuống hành lang vào một căn phòng nhỏ hơn, màu trắng, trống trơn và nóng nực. Tất cả họ tụm lại xung quanh một người sắp chết ở chính giữa: một phù thủy bị trói chặt trên ghế thép, mặt cô tái xám lại vì đau và chân bị gẫy xoắn lại.

Coulter bước qua người cô. Serafina chọn một chỗ đứng gần cửa ra vào bởi bà biết mình sẽ không thể vô hình được lâu; điều đó là quá sức.

“Phù thủy, hãy cho ta biết về đứa trẻ,” Coulter nói.

“Không!”

“Ngươi sẽ phải gánh chịu đau đớn.”

“Ta đã chịu đủ rồi.”

“Ồ, sẽ còn có nhiều thử thách hơn với ngươi đấy. Chúng ta có hàng ngàn năm kinh nghiệm trong Nhà thờ của chúng ta. Bọn ta có thể kéo dài sự chịu đựng của ngươi tới vô tận. Hãy nói cho bọn ta về đứa trẻ.” Coulter cúi xuống bẻ một ngón tay của cô. Ngón tay dễ dàng gẫy ra.

Serafina kêu lên và trong hẳn một giây Serafina hiện nguyên hình, có một hoặc hai mục sư đã nhìn thấy, bối rối và hoảng sợ. Nhưng ngay sau đó, bà đã tự khống chế bản thân và những mục sư lại trở về với màn tra tấn của chúng.

Coulter nói: “Nếu ngươi không trả lời câu hỏi, ta sẽ bẻ các ngón tay khác của ngươi, hết ngón này lại đến ngón khác. Ngươi biết gì về đứa trẻ? Nói cho ta biết.”

“Được rồi! Làm ơn, làm ơn đừng tra tấn nữa!”

“Trả lời ngay.”

Lại một tiếng tanh tách nho nhỏ nữa phát ra, lần này, cô phù thủy tuôn ra một tràng những tiếng thổn thức. Serafina hầu như không thể kiềm chế được mình. Rồi những âm thanh rên rỉ phát ra: “Đừng, đừng! Tôi sẽ nói cho các người. Tôi cầu xin các người đấy, đừng tra tấn nữa! Đứa trẻ đã đến… những phù thủy đã biết cô bé ấy là ai trước khi các người biết… Chúng ta đã tìm ra tên của cô bé…”

“Bọn ta biết tên của nó. Ý ngươi định nói tên nào?”

“Tên thật của cô bé, tên định mệnh!”

“Thế tên nó là gì, hãy nói cho ta biết.” Coulter nói.

“Không… Không…”

“Làm cách nào, làm cách nào các ngươi tìm ra?”

“Đã có một bài kiểm tra… nếu cô bé có thể phân biệt một cành thông mây trong vô vàn những cành khác, cô bé sẽ là người đó, việc này xảy ra ở tòa nhà lãnh sự của chúng tôi ở Trollesund, đứa bé đã đi cùng những người Gypsy… Đứa bé với con gấu...”

Giọng nói đột ngột tắt lịm.

Coulter không kiên nhẫn nỗi nữa. Bà ta tát cô thật mạnh rồi gầm gừ.

“Nhưng lời tiên tri của các ngươi về đứa trẻ là gì?” giọng bà ta đanh lại, vang lên giận dữ. “Và cả cái tên làm sáng tỏ định mệnh của nó nữa?”

Serafina lại gần hơn, thậm chí vào giữa đám đông những mục sư đang vây chặt lấy cô phù thủy, không ai trong số hộ có thể cảm nhận được sự có mặt của bà ngay cả khi bà đứng ngay gần họ, nhưng bà quá căng thẳng để giữ cho mình không bị phát hiện trong thời gian dài. Bà run run chạm vào thanh gươm nơi thắt lưng.

Cô phù thủy thổn thức. “Cô bé đã tới đây trước a, bà ghét và e sợ nó kể từ lúc đó. Ừm, bây giờ cô bé ấy lại tới và bà lại thất bại trong việc tìm ra cô… Cô bé ở đó, tại Svalbard… cô bé ở đó với Ngài Asriel, bà đã mất cô bé rồi. Cô bé đã trốn thoát, và cô bé sẽ…”

Cô phù thủy chưa nói hết thì bị ngắt quãng.

Một con nhạn biển bay vào từ phía cửa sổ, nó hoảng loạn tột độ, đập đập đôi cánh bị gẫy và đâm vào sàn nhà. Nó vùng dậy lao thẳng vào ngực người phù thủy đang bị tra tấn, nó rúc mỏ vào người cô, kêu ríu rít liên hồi, rồi khóc lóc và cô phù thủy gọi nó trong đau đớn: “Yambe-Akka! Đến với ta, đến với ta!”

Không ai ngoại trừ Serafina Pekkala có thể hiểu được điều này, Yambe-Akka là vị nữ thần đến với phù thủy khi họ sắp chết.

Và Serafina đã sẵn sàng. Trong chốc lát, bà hiện nguyên hình, tiến về phía trước mỉm cười hạnh phúc, bởi vì Yambe Akka vui vẻ và vô tư lự, sự viếng thăm của bà là một món quà của niềm vui. Cô phù thủy thấy bà liền ngẩng khuôn mặt đầy máu của mình lên, và Serafina cúi xuống hôn khuôn mặt ấy và đẩy con dao vào tim cô một cách nhẹ nhàng. Con nhân tinh nhạn biển lờ mờ đôi mắt ngước nhìn lên rồi biến mất.

Bây giờ Serafina phải chiến đấu để tìm lối thoát cho mình.

Những gã mục sư hoàn toàn bị sốc, không tin vào mắt mình, nhưng bà Coulter gần như hồi phục lại ngay tức khắc.

“Bắt nó lại! Đừng để nó trốn thoát!” Coulter la lên, nhưng Serafina đã ở phía cửa, mũi tên của bà đã được đặt trên cung. Bà giương cung lên và thả tên ra, chỉ trong nháy mắt, Giáo hoàng đã tắt thở, nằm vật xuống sàn.

Phía ngoài, dọc theo hành lang, cung lại giương lên và mũi tên lại được phóng ra, một người đàn ông khác ngã xuống, một tiếng chuông chói tai vang lên lanh lảkhắp con tàu.

“Phía dưới đó! Tù nhân đang trốn thoát! Mau xuống giúp!”

Thế cũng đã đủ để làm cho họ bị lúng túng. Họ đứng yên lưỡng lự. Chừng đó thời gian cũng đủ để cho bà trốn thật nhanh và lấy được nhành thông mây từ nơi cất giấu đằng sau bộ thông gió.

“Bắn nó!” Coulter vừa chạy vừa gào lên ở phía sau, ngay lập tức ba phát súng trường được bắn ra, đạn va vào kim loại rồi bay lên đám sương mù. Serafina đã nhảy được lên nhành thông mây của mình rồi giục nó lao nhanh như tên. Chỉ vài giây sau bà đã an toàn trên không khí, trong đám sương dày, một con ngỗng khổng lồ lướt đến bên cạnh bà.

“Đi đâu?” nó hỏi.

“Đi khỏi đây, Kaisa, khỏi nơi này. Ta muốn thoát khỏi mùi hôi thối của bọn người này ngay.”

Thực ra bà không biết mình phải đi đâu hay làm gì tiếp theo nhưng có một điều bà biết chắc chắn: sẽ có một mũi tên trong ống tên của bà để lại dấu vết trên cuống họng bà Coulter.

Họ bay về phương nam, xa khỏi cái thế-giới-khác đầy rắc rối lập lòe trong đám sương mù, và trong khi bay một câu hỏi đã bắt đầu định hình rõ rệt hơn trong đầu Serafina. Ngài Asriel đang làm gì?

Bởi vì mọi sự kiện đã làm đảo lộn thế giới, tất cả đều bắt nguồn từ những hành động bí ẩn của ông ta.

Rắc rối ở đây là nguồn tri thức của bà là thuộc về tự nhiên. Bà có thể săn bất cứ con thú nào, bắt bất cứ loài cá nào, tìm ra được cả những quả mọng hiếm có nhất, bà cũng có thể đọc được những dấu hiệu trong ruột của con chồn mactet hay giải mã những câu châm ngôn trên lớp vẩy của con sào hoặc dịch được những lời cảnh báo từ phấn hao nghệ tay; nhưng đây là những đứa con của tự nhiên, và bọn chúng đã kể lại bà những chân lý tự nhiên đó.

Đối với kiến thức về Ngài Asriel, bà cần phải đi tới đâu đó khác.

Tại cảng Trollesund, lãnh sự của họ, tiến sĩ Lanselius vẫn còn giữ liên lạc với thế giới con người, nghĩ đoạn Serafina Pekkala liền tăng tốc qua màn sương tới đó để xem liệu ông ta có thể nói mình được gì không. Trước khi vào nhà của ông, Serafina bay một vòng quanh cảng, nơi màn sương mù trôi dạt giống như ma trên nước đóng băng, và quan sát như một hoa tiêu đang dẫn con tàu có đăng kí của châu Phi. Có vài con tàu khác đang nhổ neo phía ngoài cảng. Bà chưa bao giờ thấy nhiều tàu đến như vậy.

Khi cái ngày ngắn ngủi nhạt dần, bà bay xuống và hạ cánh ở vườn sau nhà lãnh sự. Bà gõ nhẹ vào cửa sổ, tiến sĩ Lanselius tự mình ra mở cửa, ông đặt một ngón tay lên môi.

“Chào cô Serafina,” ông nói. “Mau vào nhà nhanh, và cứ tự nhiên nhé. Nhưng tốt hơn hết là cô đừng có ở đây lâu.” Ông mời bà ngồi vào chiếc ghế bên cạnh lò sưởi, ngó qua tầm màn nhìn ra phía cửa sổ đối diện với con đường. “Cô uống một chút rượu chứ?”

Bà nhấm nháp từng ngụm rượu Tokay vàng kim và nói với ông tiến sĩ những điều đã nhìn và nghe thấy trên con tàu.

“Cô có nghĩ là chúng hiểu được những gì cô ấy nói về đứa trẻ không?” ông hỏi.

“Tôi nghĩ là không hoàn toàn. Nhưng chúng biết được rằng con bé rất quan trọng. Còn người đàn bà đó, tôi vẫn e dè mụ, tiến sĩ Lanselius ạ. Tôi sẽ giết mụ, tôi nghĩ thế, nhưng bây giờ tôi vẫn còn ngại mụ.”

“Vâng,” ông nói, “cả tôi cũng vậy.”

Serafina lắng nghe ông nói về tin đồn lan truyền khắp thành phố. Trong mớ tin đồn này, có một vài sự thật đã bắt đầu hiện rõ.

“Họ nói rằng Tổng giáo giám mục đang tập hợp lại thành một lực lượng lớn chưa từng có và họ là một đảng tiến bộ. Cũng có những tin đồn không lấy làm dễ chịu về một vài binh sĩ, Serafina Pekkala à. Tôi vừa biết tin về Bolvangar và những việc họ đang làm ở đấy, đó là việc chia cắt nhân tinh ra khỏi những đứa trẻ, đó là một tội ác dã man nhất mà tôi từng biết đến. Hình như có hẳn một trung đoàn bị đối đãi như vậy. Cô có biết từ zombi hay không? Chúng chẳng sợ gì cả vì chúng không có não. Bây giờ ở thành phố này cũng có một số đấy. Các nhà chức trách che giấu chúng, nhưng tin tức vẫn lọt ra, làm người dân vô cùng khiếp sợ.”

“Thế còn những thị tộc phù thủy khác thì sao?” Serafina nói. “Ông đã nghe được tin tức gì từ họ?”

“Phần lớn đã trở về quê hương của họ. Tất cả phù thủy đang đợi, Serafina Pekkala ạ, với nỗi sợ hãi trong tim cho những điều sẽ xảy ra tiếp theo.”

“Thế ông có nghe được điều gì từ Nhà thờ không?”

“Họ hoàn toàn bối rối. Cô thấy đấy, họ không hề biết Ngài Asriel đang định làm gì.”

“Tôi cũng không biết,” bà nói, “tôi không thể tưởng tượng được cái gì sẽ xảy ra. Ông nghĩ là Ngài Asriel đang định làm gì vậy, thưa tiến sĩ Lanselius?”

Ông tiến sĩ nhẹ nhàng dùng ngón tay xoa lên đầu con nhân tinh rắn của mình.

“Ông ấy là một học giả,” một lúc sau ông nói tiếp, “nhưng học vấn không phải là niềm say mê mạnh mẽ nhất của ông. Làm chính trị cũng không nốt. Tôi gặp ông ấy một lần, tôi nghĩ bản năng của ông ta rất mãnh liệt và rất có uy quyền nhưng không phải là người bạo ngược. Tôi không nghĩ là ông ấy muốn thống trị… Tôi không biết, Serafina Pekkala ạ. Tôi cho rằng người hầu cận của ông ta có thể nói với cô về điều này. Người đó tên là Thorold, anh này đã từng bị giam với Ngài Asriel trong ngôi nhà ở Svalbard. Đó sẽ là một chuyến viếng thăm đáng đồng tiền cho cô nếu anh ta có thể nói với cô mọi chuyện; nhưng dĩ nhiên, anh ta có thể đã đi tới một thế giới khác cùng với ông chủ của mình.”

“Cảm ơn ông, gợi ý đó thật là hay… Tôi sẽ tới đó. Tôi sẽ đi ngay bây giờ.”

Bà nói lời tạm biệt ngài lãnh sự rồi bay vụt lên bầu trời tối đen để gặp Kaisa, nó đang đợi bà trên không.

Chuyến đi của Serafina Pekkala tới miền Bắc trở nên khó khăn hơn do sự hỗn loạn của thế giới xung quanh bà. Tất cả người dân Bắc cực đang lâm vào trạng thái hoảng loạn, cả muông thú cũng vậy, không chỉ vì sương mù và thay đổi từ tính không theo mùa mà còn cả vì tuyết lở lẫn biến động đất đai. Như thể là chính trái đất đang từ từ thức tỉnh sau giấc mơ dài bị đóng băng.

Trong tất cả sự náo động đó, nơi tia sáng bất chợt chói lòa thần bí chiếu xuống qua khe hở trên tháp sương rồi sau đó biến đi cũng nhanh như thế, nơi những đàn bò xạ bị đuổi chạy cật lực tới miền nam rồi ngay lập tức quay ngoắt sang miền tây hay miền bắc, nơi mà đàn ngỗng trời đan xen chằng chịt như nút dây đang rã ra thành một mớ hỗn độn kêu oang oác nhằm thoát khỏi từ trường bằng cách đập cánh lao thẳng về hướng này, và rồi Serafina Pekkala ngồi lên lại nhành thông mây của mình tiến về phương bắc, đến ngôi nhà ở mũi hoang Svalbard. Tại đó bà thấy ngườầu cận của Ngài Asriel, Thorold, đang phải chống chọi lại với một nhóm kền kền núi.

Bà nhìn thấy chuyển động trước khi tới đủ gần để nhìn xem cái gì đang diễn ra. Một vòng xoáy những đôi cánh và những tiếng kêu wa… wa… wa… dữ tợn vang lên khắp sân đầy tuyết; và một bóng hình đơn lẻ trong lớp lông thú đang bắn vào giữa chúng, con nhân tinh chó gầy dơ xương đang gầm gừ, sủa inh ỏi bên cạnh ông mỗi khi những con vật bẩn thỉu bay xuống thấp.

Bà không biết người đàn ông này, nhưng kền kền núi luôn kẻ thù. Bà bay qua lại trên không trung và bắn những mũi tên xuống cuộc hỗn chiến. Hàng loạt những tiếng thét inh tai và những tiếng nói lắp bắp vang lên… bọn chúng tổ chức quá lỏng lẻo để có thể được gọi là một đội quân. Chúng bay vòng quanh, nhìn kẻ tình địch mới của mình rồi chạy trốn trong hỗn loạn. Khoảng hơn một phút sau, bầu trời lại yên ả trở lại. Những tiếng kêu thảm hại wa… wa… wa… vang lên từ những dãy núi đằng xa kia trước khi chìm dần vào im lặng.

Serafina bay xuống sân và bước xuống đống đổ nát, máu rải rác trên tuyết. Người đàn ông bỏ mũ trùm đầu ra, ông ta vẫn ôm cây súng trường bởi đôi khi phù thủy vẫn là kẻ thù. Serafina thấy một người đàn ông lớn tuổi với cái miệng rộng, mái tóc hoa râm và đôi mắt kiên định.

“Tôi là một người bạn của Lyra,” bà nói. “Tôi hi vọng chúng ta có thể nói chuyện, nhìn này: tôi đặt cây cung của mình xuống rồi đây.”

“Cô bé đâu rồi?” ông hỏi.

“Ở một thế giới khác. Tôi lo lắng cho sự an toàn của cô bé và tôi phải biết được Ngài Asriel đang làm gì.”

Ông ta hạ thấp cây súng xuống và nói: “Rồi, hãy vào đi. Nhìn này: Tôi đã bỏ súng xuống rồi đấy.”

Không thay đổi, họ đi vào trong nhà. Kaisa lượn quanh phía trên cao, không ngừng quan sát trong khi Thorold pha một ít cà phê và Serafina kể cho ông già nghe về những việc liên quan đến Lyra.

“Cô bé luôn là một đứa trẻ bướng bỉnh,” ông kể khi họ ngồi trên cái bàn gỗ sồi trong nền sáng đỏ của chiếc đèn dầu. “Tôi thấy nó hàng năm hoặc hơn khi ngài viếng thăm làng cũ. Tôi rất thích nó, thật đấy—cô không thể cưỡng lại được. Nhưng vị trí của nó trong kế hoạch tổng thể là gì thì tôi không biết.”

“Ngài Asriel đang dự tính điều gì thế?”

“Cô không nghĩ rằng ngài sẽ kể tôi biết đấy chứ, Serafina Pekkala? Tôi là đầy tớ của ngài, tất cả chỉ có vậy. Tôi giặt giũ quần áo, nấu ăn và giữ gìn nhà cửa ngăn nắp cho ngài. Tôi có lẽ biết được một hoặc hai thứ trong suốt những năm thấy bên ngài ấy, nhưng chỉ là tình cờ nhặt nhạnh được thôi. Ngài sẽ không giãi bày với tôi thêm bất cứ gì trong cái kho bí mật của ngài ấy.”

“Vậy hãy kể tôi một hoặc hai thứ ông tình cờ biết được đi,” bà nhất mực khăng khăng.

Thorold là một người đàn ông có tuổi rồi, nhưng ông vẫn khỏe mạnh và sung sức, và ông cảm thấy khoái chí bởi sự chú ý của người nữ phù thủy trẻ và sắc đẹp của bà, như bất kỳ người đàn ông nào khác. Mặc dù, ông cũng rất tinh tường, và ông biết sự chú ý không thực sự hướng về ông mà là những gì ông biết; và ông là người thành thật, vì vậy ông sẽ không chế biến thêm câu chuyện của mình nhiều hơn nó vốn có.

“Tôi không thể nói cô chính xác ngài đang làm gì,” ông nói, “bởi vì tất thảy những chi tiết học thuật nằm ngoài tầm với của tôi. Nhưng tôi có thể kể cho cô điều gì đang dẫn dắt ngài ấy, dẫu cho ngay cả ngài cũng không biết. Tôi đã nhìn thấy điều này trong hàng trăm dấu hiệu nhỏ. Cứ chỉnh nếu tôi sai, nhưng những tộc người phù thủy có những vị thần khác với chúng tôi, điều đó đúng chứ?”

“Phải, đó là sự thật.”

“Nhưng cô có biết gì về Chúa của chúng tôi không? Chúa của Giáo hội, người được họ gọi là Đấng quyền năng?”

“Vâng tôi có biết.”

“Ngài Asriel chưa bao giờ thấy mình thanh thản với học thuyết của Nhà thờ. Tôi đã từng nhìn thấy cơn phẫn nộ ghê gớm trên khuôn mặt ông khi họ bàn về lễ ban phước, rửa tội, cứu thế và những thứ đại loại như vậy. Nó là cái chết dành cho chúng ta, Serafina Pekkala à, nếu dám thử thách giáo hội. Nhưng trong thâm tâm Ngài Asriel luôn ấp ủ một cuộc nổi loạn trong suốt thời gian tôi phục vụ ngài ấy, điều đó thì tôi biết rõ.”

“Một cuộc nổi loạn chống lại Giáo hội ư?”

“Ừa, phần nào là thế. Có lần ngài đã có ý định thành lập một đội quân, nhưng rồi ngài lại quay lưng với dự định đó.”

“Tại sao vậy? Giáo hội quá mạnh ư?”

“Không,” người hầu già nói, “điều đó đâu có thể ngăn cản được ông chủ của tôi. Điều này có thể làm cô lấy làm lạ đấy, Serafina Pekkala ạ, nhưng tôi biết ông chủ rõ hơn bất cứ người vợ nào của ngài, thậm chí rõ hơn cả mẹ ngài. Ngài Asriel đã là ông chủ của tôi và là đối tượng nghiền ngẫm của tôi gần bốn mươi năm nay rồi. Tôi không thể nắm bắt được tầm cao trí tuệ của ngài hơn gì việc tôi có thể bay, nhưng tôi có thể thấy ngài đã tiến xa đến nơi mà thậm chí cả tôi không thể theo tới được. Không, tôi không tin là ông chủ không tiến hành một cuộc nổi loạn chống lại giáo hội không phải vì nó quá mạnh mà vì nó quá yếu, không đáng để chống lại

“Vậy…ông ta đang làm gì?”

“Tôi nghĩ ông chủ đang tiến hành một cuộc chiến tranh còn hơn thế nữa. Tôi cho rằng ngài đang nhằm vào một cuộc chiến chống lại thế lực cao nhất trong tất cả. Ngài ra đi tìm kiếm nơi trú ngụ của chính Đấng toàn năng, và ngài dự định sẽ tiêu diệt Người. Đó là tất cả những gì tôi nghĩ. Nói ra điều này tim tôi cũng đập dữ lắm cô ạ. Tôi hầu như không dám nghĩ về nó. Nhưng tôi không thể tập hợp lại thành một câu chuyện khác có ý nghĩa hơn về việc mà ngài đang làm.”

Serafina ngồi im lặng một lúc, mải mê với những gì ông Thorold nói.

Trước khi bà có thể nói, ông Thorold tiếp tục:

“Tất nhiên, bất cứ ai lên kế hoạch làm một thứ lớn lao như thế đều sẽ trở thành mục tiêu cho cơn thịnh nộ của Giáo hội. Đi không nói một lời. Đó là lời báng bổ khủng khiếp nhất, họ có lẽ sẽ nói thế. Họ có thể bắt ông đứng trước Tòa án tôn giáo và xử tử ngài trước khi cô kịp chớp mắt. Tôi chưa bao giờ nói về chuyện này trước đây và tôi cũng sẽ không bao giờ lập lại nữa; tôi rất ngại khi phải nói thành lời điều này với cô nếu cô không phải là một phù thủy và nằm ngoài quyền lực của giáo hội; nhưng tất cả chỉ vậy thôi, không còn gì khác nữa. Ông chủ đang tìm Đấng toàn năng và hạ sát Người.”

“Có thể thế sao?” Serafina nói.

“Cuộc sống của Ngài Asriel tràn ngập những điều không thể. Tôi không nói được có điều chi mà ngài không thể làm. Nhưng bên trên đó, Serafina Pekkala ạ, ngài hoàn toàn điên rồ. Nếu các thiên thần còn không làm được, làm sao một người đàn ông lại dám nghĩ về điều đó chứ?”

“Thiên thần ư? Thiên thần nào?”

“Giáo hội nói đó là những tâm hồn thánh thiện. Giáo hội dạy rằng một vài thiên thần đã nổi loạn trước khi thế giới này được tạo ra, và họ bị quăng thẳng từ thiên đường xuống địa ngục. Cô thấy đấy, họ đã thất bại, đó là điểm chính. Họ không thể làm được việc đó. Họ có sức mạnh của thiên thần. Ngài Asriel chỉ là một người đàn ông có sức mạnh bình thường không có gì hơn cả. Nhưng hoài bão của ngài thì không có giới hạn. Ngài dám làm những việc mà không một người bình thường nào dám nghĩ. Hay nhìn vào những gì mà ngài đã làm được: ngài đã xé toang bầu trời, mở ra một lối dẫn vào thế giới khác. Có ai khác làm được những điều như vậy không? Ai có thể nghĩ được điều đó? Vậy nên, Serafina Pekkala à, một phần trong tôi cho rằng ngài bị điên và nguy hiểm. Nhưng một phần khác lại nghĩ, ngài là Ngài Asriel, không giống những người đàn ông khác. Có lẽ… nếu điều đó trở thành sự thật thì người làm được việc này chính là ông chủ chứ không phải ai khác.”

“Ông sẽ làm gì hả Thorold?”

“Tôi sẽ ở đây và đợi, tôi sẽ chăm nom ngôi nhà này cho tới khi ông chủ về và bảo tôi làm việc khác, hoặc là cho tới khi tôi chết thì thôi. Bây giờ, thưa quý cô, có lẽ tôi cũng hỏi cô những câu hỏi tương tự.”

“Tôi sẽ phải bảo đảm rằng cô bé được an toàn,” Bà nói. “Có thể tôi sẽ phải đi qua con đường này một lần nữa. Tôi rất vui nếu biết được ông vẫn còn ở đây.”

“Tôi sẽ không đi đâu đâu.” Thorold nói.

Serafina từ chối dùng bữa với ông Thorold rồi tạm biệt ông lên đường.

Chỉ một phút sau bà đã gặp lại nhân tinh của mình, nó giữ im lặng bên bà khi họ bay vút lên không trung phía trên những ngọn núi đầy sương. Lúc này bà đang rối bời, chẳng cần phải giải thích điều gìảng rêu, những vùng nước đóng băng, những đàn muỗi vằn đáng sợ nơi quê hương làm bà rùng mình, quê hương đang gọi bà quay trở về. Bà lo sợ cho họ và lo sợ cho cả chính mình vì bà cần phải thay đổi. Đây là một vấn đề mà bà có liên quan tới, đây là vấn đề con người. Chúa trời của Ngài Asriel không phải là chúa trời của bà. Liệu bà có biến thành một con người hay không? Liệu bà có mất đi dòng máu phù thủy trong người hay không?

Nếu phải làm việc đó bà sẽ không làm một mình.

“Về nhà thôi,” bà nói. “Chúng ta cần nói chuyện với các chị em Kaisa ạ. Vấn đề này quá lớn, chúng ta không thể giải quyết một mình được.”

Họ nhanh chóng xuyên qua bờ sương dày đặc hướng về phía hồ Erana và về nhà.

Trong hang bên cạnh hồ, họ thấy có rất nhiều thị tộc khác và cả Lee Scoresby nữa. Người lái khí cầu này đã cố hết sức để giữ cho quả khí cầu được bay lên sau vụ va quệt ở Svalbard, những phù thủy đã hướng dẫn ông trở về quê hương của họ. Tại đây, ông bắt đầu sửa chữa giỏ kí cầu và cả bình ga bị hỏng.

“Tôi rất vui được gặp cô, thưa cô, cô có tin tức gì về đứa bé chưa?”

“Chưa đâu, ông Scoresby ạ. Ông sẽ tham dự cuộc họp hội đồng của chúng ta hôm nay và giúp chúng tôi thảo luận nên làm điều gì chứ?”

Người đàn ông Texas chớp mắt ngạc nhiên, vì từ trước tới giờ chưa hề có một người đàn ông nào được tham gia hội đồng phù thủy.

“Tôi rất vinh dự,” ông nói. “Có thể tôi sẽ có một hay hai gợi ý cá nhân tôi cho các bạn.

Trong suốt ngày hôm đó rất nhiều phù thủy tới, giống như những bông tuyết đen có cánh trong một cơn bão, tràn ngập bầu trời trong bộ quần áo bằng lụa lao nhanh như tên bắn như tô điểm thêm màu sắc và tiếng sột soạt do chiếc kim trên mỗi nhành thông mây tạo ra. Những người đàn ông đang săn bắn trong khu rừng ẩm ướt hay đang bắt cá giữa những tảng băng trôi đều nghe thấy những tiếng xao động vang vọng từ đám sương trên trời. Và nếu trời quang, họ có thể nhìn lên xem những phù thủy đang bay giống như những chấm màu sẫm trôi dạt trong một dòng chảy bí mật.

Buổi tối, những cây gỗ thông quanh hồ được thắp sáng bằng hàng trăm đống lửa, đống lửa to nhất được thắp ở hang chính giữa. Ở đó, sau khi ăn uống xong, họ tụ tập lại. Serafina Pekkala ngồi chính giữa, trên mái tóc sáng màu của bà là một vương miện bằng những bông hoa đỏ thắm. Phía bên trái bà là Lee Scoresby, và phía bên phải là một vị khách: nữ hoàng phù thủy của Latvia tên là Ruta Skadi.

Cô ta mới đến đây được một giờ và Serafina rất lấy làm ngạc nhiên trước sự có mặt của cô. Serafina nghĩ rằng cô ta thật đẹp, nhưng Ruta Skadi cũng như bà Coulter vậy, với rất nhiều điều bí ẩn và không tự nhiên. Linh hồn của cô ta đã làm những việc bất hợp pháp và nó đã lộ ra. Trông cô lúc này thật sặc sỡ và sôi nổi với đôi mắt to đen nhánh, người ta nói rằng Ngài Asriel đã từng là người yêu của cô. Cô ta đeo một đôi khuyên tai bằng vàng thật nặng, một vương miện trên mái tóc uốn màu đen được đeo thêm những chiếc nanh hổ trắng. Nhân tinh của Serafina đã được nhân tinh của cô ta cho biết rằng chính cô ta đã giết chết con hổ để trừng phạt bộ lạc Tartar, bộ lạc thờ cúng họ, bởi những người dân bộ lạc này đã không làm hài lòng khi cô đến thăm lãnh thổ. Không có thần hổ, người dân ở bộ lạc này sẽ bị suy sụp, sống trong sợ hãi và u buồn, họ đã cầu xin cô ta để họ được thờ cô thay vì bị loại bỏ, coi khinha đã hỏi rằng, vậy liệu họ sẽ mang lại cho cô ta những thứ gì? Họ chẳng thể làm gì cho con hổ cả. Thật là một Ruta Skadi xinh đẹp, kiêu căng và tàn nhẫn.

Serafina không hiểu tại sao cô ta lại tới nhưng bà vẫn chào đón và chấp nhận nghi thức yêu cầu rằng cô ta nên được ngồi ở bên phải Serafina. Khi họ đã tụ tập đông đủ, Serafina bắt đầu nói:

“Các chị em! Các bạn biết tại sao chúng ta tụ họp ở đây chứ: chúng ta phải làm gì trước những sự kiện mới này. Vũ trụ đang bị tàn phá trên diện rộng, và từ thế giới này, Ngài Asriel đã mở một lối dẫn ra một thế giới khác. Liệu chúng ta có nên bận tâm với những điều này không? Hay là chỉ sống cuộc sống mà chúng ta vẫn từng sống như trước đây, chỉ quan tâm tới những việc của chúng ta mà thôi. Có một vấn đề về đứa trẻ tên là Lyra Belacqua, bây giờ được vua gấu Iorek Byrnison gọi là Lyra Lưỡi bạc. Cô bé đã chọn đúng cành thông mây ở ngôi nhà của tiến sĩ Lanselius: cô bé chính là đứa bé luôn được mong chờ, và bây giờ cô bé đã biến mất.”

“Chúng ta có hai người khách sẽ nói với chúng ta về cảm nghĩ của họ. Đầu tiên chúng ta sẽ nghe Nữ hoàng Ruta Skadi.”

Ruta Skadi đứng dậy, đôi tay của cô ta như tỏa sáng dưới ánh lửa, đôi mắt lấp lánh đến nỗi những phù thủy ở xa nhất cũng có thể thấy được khuôn mặt sặc sỡ của cô.

“Các chị em,” cô bắt đầu, “hãy để tôi nói cho các bạn điều gì đang xảy ra và người nào chúng ta cần phải chiến đấu. Vì có một cuộc chiến tranh đang tới gần. Tôi không biết ai sẽ tham gia cùng chúng ta nhưng tôi biết chúng ta phải chống lại ai. Đó là Giáo điều răn đe, là Giáo hội. Trong suốt chiều dài lịch sử—dù nó không dài so với tuổi đời của chúng ta, nhưng đã trải qua rất nhiều, rất nhiều những thế hệ của họ—nó đã cố kìm hãm và điều khiển mọi sự thúc đẩy tự nhiên. Và khi nó không thể kiểm soát được chúng, nó loại bỏ thẳng thừng. Một vài người trong các bạn đã nhìn thấy những việc bọn chúng đã làm ở Bolvangar. Thật kinh khủng, nhưng đấy chưa phải là nơi duy nhất, đó không chỉ là thực nghiệm. Các chị em, các bạn mới chỉ biết đến miền bắc; tôi thì đã tới miền nam. Ở đó cũng có những nhà thờ, hãy tin tôi, chúng cũng cắt đứt trẻ em với nhân tinh, như những kẻ ở Bolvangar đã từng làm… tuy không cùng một cách thức nhưng cũng đều dã man như nhau… chúng cắt bỏ bộ phận sinh dục của trẻ em, cả bé trai và bé gái – chúng cắt bằng dao vì vậy họ không hề cảm thấy gì. Đó là những gì giáo hội đã làm, và giáo hội nào cũng vậy: điều khiển, phá hủy, xóa sạch những cảm xúc tốt đẹp. Vì vậy nếu chiến tranh xảy ra, giáo hội sẽ là một phe và chúng ta phải ở phía kia, bất kể chúng ta là đồng minh xa lạ nào, chúng ta phải tự mình vùng lên.

“Tôi đề nghị rằng các thị tộc phù thủy nên đồng nhất và đi tới miền bắc để khám phá thế giới mới, và nhìn xem liệu chúng ta sẽ khám phá ra thứ gì ở đấy. Nếu mà không tìm thấy đứa trẻ ở thế giới của chúng ta thì có lẽ nó đã đi theo Ngài Asriel rồi. Ngài Asriel là chìa khóa cho vấn đề này, hãy tin tôi. Ông ta đã từng là người tình của tôi, và tôi rất sẵn lòng ra nhập lực lượng của ông vì ông ta ghét giáo hội và những việc chúng đã làm. Đó là những điều mà tôi phải nói.”

Ruta Skadi nói rất sôi nổi và Serafina ngưỡng mộ sắc đẹp và quyền lực của cô ta. Khi nữ hoàng của Latvia ngồi xuống, Serafina quay sang Lee Scoresby.

“Ông Scoresby là một người bạn của đứa trẻ và cũng là một người bạn của chúng ta. Ông có thể cho chúng tôi biết cảm nghĩ của ông được không?”

Người đàn ông Texas đứng dậy, cúi người nhã nhặn. Trông ông như thể không quan tâm tới những việc lạ xảy ra nhưng thực tế thì lại khác. Con nhân tinh thỏ rừng của ông thu mình ngay bên cạnh, tai nó phủ dài trên lưng, đôi mắ mày vàng của nó nhắm hờ.

“Thưa các quý bà, trước tiên tôi phải cảm ơn các bạn vì sự tốt bụng của các bạn dành cho tôi, và sự giúp đỡ cho một người lái khí cầu bị những cơn gió đến từ một thế giới khác làm cho nát tan tành. Tôi sẽ không lạm dụng lòng nhẫn nại của các bạn lâu.

“Khi tôi đang đi từ miền bắc tới Bolvangar với những người Gypsy, cô bé Lyra đã kể cho tôi nghe về những gì đã xảy ra ở ngôi trường của cô bé, phía sau Oxford. Ngài Asriel đã cho những học giả khác thấy được cái đầu bị cắt lìa của một người đàn ông có tên là Stanislaus Grumman, với mục đích thuyết phục họ đưa thêm tiền để tài trợ cho ông ta tới miền bắc và xem những gì đang xảy ra.

“Lúc đó cô bé rất chắc chắn về những gì mình đã nhìn thấy nên tôi không hỏi cô bé quá nhiều. Nhưng những gì cô bé nói như in sâu vào tâm trí tôi chỉ ngoại trừ việc tôi không thể tới đó sớm hơn. Tôi được biết vài thứ về tiến sĩ Grumman. Đó là một thợ săn có tuổi ở Tungusk đã kể cho tôi. Dường như ông Grumman biết chỗ của một loại vũ khí nào đó có thể bảo vệ cho bất kì ai giữ nó. Tôi không dám coi thường phép thuật mà phù thủy các bạn có thể điều khiển, nhưng vật này, bất kể nó là gì, có một sức mạnh vượt trội tất cả những gì tôi đã từng được nghe.

“Tôi nghĩ là tôi phải trì hoãn kì nghỉ hưu của mình tại Texas bởi tôi quan tâm tới đứa trẻ và tìm kiếm tiến sĩ Grumman. Các bạn thấy đấy, tôi đâu có nhìn thấy đầu của ông ta. Tôi nghĩ là Ngài Asriel chỉ bịp bợm những học giả đó mà thôi.

“Vì vậy tôi sẽ tới Nova Zembla, nơi cuối cùng mà tôi được biết rằng ông tiến sĩ hãy còn sống. Tôi không thể thấy được tương lai nhưng tôi thấy hiện tại rất rõ ràng. Tôi sẽ ở bên cạnh các bạn trong cuộc chiến này. Và đấy là nhiệm vụ mà tôi sẽ đảận, thưa các quý bà.” Ông kết thúc rồi quay về phía Serafina Pekkala nói: “Tôi sẽ tìm cho ra Stanislaus Grumman, tìm hiểu xem ông ta biết những gì, nếu tôi có thể tìm được vật mà ông ta biết, tôi sẽ lấy nó cho Lyra.”

Serafina nói: “Ông đã có gia đình chưa, ông Scoresby? Ông có con chưa?”

“Không cô à, tôi không có con mặc dầu tôi rất muốn được làm cha. Nhưng tôi hiểu câu hỏi của cô, cô nói đúng: con bé thật bất hạnh khi có bố mẹ như vậy, tôi có thể đùm bọc nó. Ai đó phải làm việc này và tôi rất sẵn lòng.”

“Cảm ơn ông Scoresby,” bà nói.

Bà lấy vương miện ra khỏi đầu, ngắt từ đó một bông hoa đỏ thắm, khi bà đội lên đầu những bông hoa vẫn còn tươi rói như là chỉ vừa mới được hái.

“Ông hãy cầm lấy cái này,” bà nói. “Bất cứ khi nào ông cần tới sự giúp đỡ của tôi, lúc đó ông hãy cầm trên tay bông hoa này và gọi tôi, tôi sẽ nghe thấy ông cho dù ông ở bất cứ nơi nào.”.

Ông Scoresby thật ngạc nhiên nói: “Cảm ơn cô”. Ông nhận bông hoa rồi cẩn thận cài nó vào túi áo ngực.

“Chúng tôi sẽ triệu tập một cơn gió để giúp ông tới Nova Zembla,” Serafina Pekkala nói với ông. “Nào, các chị em, có ai có ý kiến gì không?”

Hội nghị lại tiếp tục. Phù thủy rất dân chủ, về từng quan điểm một; mỗi một phù thủy, thậm chí cả người trẻ nhất đều có quyền phát biểu nhưng chỉ có nữ hoàng của họ mới có quyền quyết định. Họ bàn bạc suốt cả đêm, những giọng nói sôi nổi về việc mở ra một cuộc chiến tranh, một vài người đề nghị nên cẩn thận, chỉ một vài phù thủy, những người thông minh nhất yêu cầu một nhiệm vụ là lần đầu tiên hợp nhất các thị tộc phù thủy lại.

Ruta Skadi đồng ý với ý kiến đó và Serafina đưa ra thông điệp ngay lập tức. Về những việc họ phải làm ngay, Serafina chọn ra hai mươi chiến binh phù thủy tốt nhất và ra lệnh cho họ chuẩn bị bay tới miền bắc cùng với bà, đến thế giới mới mà Ngài Asriel đã mở ra, để tìm kiếm Lyra.

“Thế còn cô, nữ hoàng Ruta Skadi?”

“Tôi sẽ tìm kiếm Ngài Asriel, tôi sẽ biết được những gì ông ấy làm từ chính miệng ông ta. Hình như đường ông ta đã đi cùng hướng tới miền bắc. Tôi có thể đi cùng đội quân tiên phong của các bạn có được không?”

“Cô có thể, rất hoan nghênh cô,” Serafina rất vui vì có cô ta cùng đồng hành.

Vì vậy các phù thủy cũng đồng ý.

Ngay khi cuộc họp vừa kết thúc, một phù thủy lớn tuổi lại gần Serafina Pekkala và nói: “Nữ hoàng, cô phải nghe những gì mà Juta Kamainen nói. Cô ta rất cưng đầu nhưng điều này rất quan trọng đấy.”

Phù thủy trẻ Juta Kamainen—trẻ so với tiêu chuẩn của phù thủy, chỉ mới hơn một trăm tuổi—cô đang rất ương ngạnh và bối rối, và con nhân tinh chim cổ đỏ của cô đang bị kích động, nó bay từ vai cô xuống tay rồi lại bay vòng lên cao trước khi đậu lại trên vai chủ mình; cô có một vẻ tự nhiên sôi nổi và đầy sức sống. Serafina không biết rõ lắm về cô.

“Nữ hoàng,” cô phù thủy trẻ nói, cô không thể giữ im lặng trước cái nhìn của Serafina, “tôi biết ông Stanislaus Grumman. Tôi đã yêu ông ta. Nhưng bây giờ tôi căm thù ông ta đến nỗi nếu tôi nhìn thấy ông ta, tôi có thể giết chết ông ta. Tôi sẽ không nói gì nếu chị tôi không bắt tôi phải nói với nữ hoàng.”

Cô ta nhìn chị mình đầy tức tối. Cô chị quay đi với cáầy lòng trắc ẩn: cô ấy biết về tình yêu.

“Được rồi,” Serafina nói, “nếu ông ta còn sống, thì ông ta phải vẫn còn sống cho tới khi nào ông Scoresby tìm ra ông ta trước đã. Tốt hơn hết là cô nên đi cùng chúng tôi tới thế giới mới để loại trừ mối nguy hiểm còn hơn là cô giết chết ông ta. Quên ông ta đi Juta Kamainen. Tình yêu làm chúng ta phải chịu đựng. Nhưng nhiệm vụ này của chúng ta còn lớn hơn là trả thù rất nhiều. Hãy nhớ lấy điều đó.”

“Vâng, thưa nữ hoàng,” cô phù thủy trẻ nói giọng vẫn hằn học.

Nữ hoàng Serafina Pekkala cùng với hai mươi mốt người của bà và cả nữ hoàng xứ Latvia, Ruta Skadi chuẩn bị cho chuyến bay tới thế giới mới, nơi mà chưa một phù thủy nào đặt chân tới.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx