sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Chương 4 - Cạm Bẫy

Ngay khi Lyra vừa đi khỏi, Will tìm một trạm điện thoại và quay số của văn phòng luật sư mà cậu tìm thấy trên phong bì.

“Alô, cho cháu nói chuyện với ông Perkins ạ”.

“Làm ơn cho hỏi ai đang gọi đấy?”

“Có việc liên quan đến tới ông John Parry ạ. Cháu là con trai ông ấy.”

“Cậu vui lòng chờ một chút nhé...”

Một phút trôi qua, rồi một giọng nói vang lên, “Alô, tôi là Alan Perkins đây. Tôi đang được nói chuyện với ai đây?”

“William Parry. Xin lỗi ông vì cháu đã gọi. Đó là việc về bố cháu, John Parry. Cứ ba tháng một lần ông gửi tiền từ tài khoản của bố cháu sang tài khoản của mẹ cháu.”

“Vâng...”

“Ừm, cháu muốn biết bố cháu ở đâu. Bố cháu còn sống hay đã chết?”

“Cháu bao nhiêu tuổi hả William?”

“Mười hai tuổi. Cháu muốn biết về bố cháu.”

“Ừ... Mẹ của cháu… liệu mẹ cháu… có biết cháu đang gọi điện cho tôi không?”

Will thận trọng suy nghĩ.

“Không,” cậu trả lời. “Nhưng mẹ cháu không được khỏe. Mẹ cháu không thể nói cho cháu biết nhiều về bố mà cháu thì lại rất muốn biết.”

“Ừ, tôi thấy rồi. Cháu đang ở đâu? Cháu có ở nhà không?”

“Không, Cháu... Cháu ở Oxford.”

“Một mình ư?”

“Vâng.”

“Cháu nói là mẹ của cháu không khỏe phải không?”

“Vâng.”

“Mẹ cháu đang ở bệnh viện hay sao đó?”

“Đại loại thế. Thưa ông, ông có thể cho cháu biết hay không ạ?”

“Được, tôi có thể cho cháu biết một vài điều nhưng không nhiều đâu và cũng không phải lúc này, tôi cũng không muốn làm việc này qua điện thoại. Trong vòng năm phút nữa, tôi phải đi gặp khách hàng... Cháu có thể tìm đường tới văn phòng của tôi vào hai rưỡi được không?”

“Không được đâu ạ.” Will trả lời. Là thế có thể quá mạo hiểm: có thể ông ta biết được tin là cảnh sát đang truy nã mình. Cậu bé nghĩ thật nhanh rồi tiếp tục. “Cháu phải bắt xe buýt tới Nottingham và cháu không muốn bị lỡ chuyến đi, ông có thể nói với cháu qua điện thoại được chứ? Tất cả điều cháu muốn biết là bố cháu có còn sống không, và nếu bố cháu còn sống thì cháu có thể tìm thấy bố ở đâu. Ông nói với cháu được chứ?”

“Không đơn giản như vậy đâu. Tôi không thể tiết lộ thông tin cá nhân của khách hàng trừ khi tôi chắc chắn là khách hàng của mình muốn. Dù sao đi nữa, tôi cũng muốn xem những giấy tờ chứng minh cháu là ai.”

“Vâng, cháu hiểu, nhưng ông có thể chỉ nói cho cháu biết bố cháu còn sống hay đã chết được không?”

“Ồ... Không được. Như vậy là không bảo mật. Thật đáng tiếc là tôi không thể nói với cháu vì tôi cũng không biết.”

“Cái gì cơ?”

“Số tiền đó đến từ một hợp đồng ủy thác gia đình. Ông ấy đưa chỉ dẫn cho tôi chuyển tiền cho mẹ con cậu tới khi nào ông ta bảo thôi. Từ ngày đó đến giờ tôi cũng không nghe thấy ông ấy nói gì cả. Nhưng có một điều... Tôi nghĩ rằng ông ấy đã biến mất. Đó là lý do tại sao mà tôi không thể nói cho cháu biết được.”

“Biến mất? Cứ thế mà… biến?”

“Thực ra thì đó là vấn đề của bên cảnh sát. Này cháu, tạo sao cháu không tới văn phòng của tôi và...”

“Cháu không thể. Cháu phải tới Nottingham.”

“Được rồi, hãy viết thư cho tôi hay là bảo mẹ cháu viết cho tôi, tôi sẽ cho hai mẹ con biết những điều tôi có thể nói. Nhưng cháu phải hiểu rằng tôi không thể làm được nhiều qua điện thoại.”

“Vâng, cháu cũng cho là thế. Nhưng ông có thể cho cháu biết bố cháu mất tích ở đâu được không ạ?”

“Như tôi đã nói, đó là vấn đề phía các nhà chức trách. Vào thời gian đó, có một vài bài báo liên quan đấy. Cháu có biết bố cháu là một nhà thám hiểm không?”

“Vâng, mẹ cháu có nói với cháu một vài chuyện.”

“Bố cháu đã dẫn đầu một đoàn thám hiểm và cả đoàn đã mất tích. Khoảng mười năm trước. Có thể là hơn.”

“Ở đâu ạ?”

“Ở miền Bắc xa xôi. Tôi nghĩ là Alaska. Cháu có thể tra cứu ở thư viện công cộng ấy. Tại sao cháu...”

Nhưng đúng lúc đó thì Will hết sạch tiền xu để gọi điện. Điện thoại cứ tút dài bên tai cậu. Will liền bỏ ống nghe xuống rồi

Bây giờ điều cậu muốn hơn cả là được nói chuyện với mẹ. Cậu phải tự ngăn mình không gọi điện cho bà Cooper bởi nếu cậu nghe thấy tiếng mẹ lúc này thì e rằng cậu không thể không về thăm mẹ được. Nhưng nếu làm như vậy thì cả hai mẹ con đều gặp nguy hiểm. Nhưng có thể gửi cho mẹ một tấm thiệp.

Will chọn tấm thiệp có hình phong cảnh thành phố và viết: “GỬI MẸ THN YÊU, CON VẪN KHỎE VÀ AN TOÀN. CON SẼ SỚM GẶP LẠI MẸ. CON MONG MỌI THỨ ĐỀU TỐT ĐẸP. CON YÊU MẸ. WILL.” Cậu đề địa chỉ, mua một cái tem, ôm tấm thiệp trong lòng một lúc rồi mới bỏ nó vào thùng thư.

Lúc này là giữa buổi sáng, cậu đang ở phố mua bán chính, những chiếc ô tô buýt luồn lách trong đám đông khách bộ hành. Will nhận ra mình thật lộ liễu; vì đây là ngày thường, vào giờ này những đứa trẻ tầm tuổi như cậu đáng nhẽ đang ở trường. Vậy thì cậu đi đâu?

Không cần mất nhiều thời gian để ẩn mình, Will có thể dễ dàng trốn đi vì cậu rất giỏi việc này; cậu thậm chí còn tự hào về khả năng của mình. Cái cách cậu làm cũng giống như cái cách mà Serafina Pekkala đã làm cho mình trở nên vô hình khi ở trên tàu, cậu làm cho mình không dễ bị thấy. Đó là hòa mình vào cảnh quan xung quanh.

Biết rất rõ về thế giới của mình đang sống, cậu đến một cửa hàng văn phòng phẩm, mua một cái bút bi, một xếp giấy và một cái cặp. Các trường học thường gửi học sinh đi khảo sát mua sắm hoặc một vài hoạt động như thế. Nếu trông cậu bé giống như đang tham gia một kế hoạch như vậy thì cậu sẽ không bị lạc lõng.

Will đi dọc con phố, giả vờ như mình đang ghi chép một vài số liệu, khi thấy thư viện công cộng, mắt cậu mở thật.

Trong lúc đó, Lyra đang tìm một nơi nào đó thật tĩnh lặng để tham khảo ý kiến chiếc Chân-kế. Ở Oxford của cô, chỉ trong năm phút đi bộ cũng có thể tìm được hàng tá chỗ. Nhưng Oxford này khác xa quá mức tưởng tượng, với những mảnh chắp vá thân thuộc đến nao lòng ngay bên cạnh những sự kỳ dị lạ lùng gần như khó hiểu: tại sao người ta lại sơn những dòng kẻ màu vàng trên đường? Những chấm trắng lốm đốm trên vỉa hè là cái gì? (Ở thế giới của Lyra, họ chưa từng được biết đến kẹo cao su.) Còn những cái đèn xanh đỏ ở góc phố nữa? Quả thật còn khó đọc hơn cả Chân-kế bội phần.

Đây rồi, cổng trường đại học Thánh John, nơi cô bé và Roger đã trèo lên vào buổi tối để làm pháo hoa trên những luống hoa; rồi những phiến đá cũ rất đặc biệt ở phố Catte. Chỗ đó Simon Parslow đã viết nguệch ngoạc hai chữ SP, ở đây cũng giống hệt như vậy! Ai đó trên thế giới này có tên viết tắt giống vậy cũng đã đứng vẩn vơ ở đây và làm một việc không khác tẹo nào.

Có thể ở thế giới này cũng có một Simon Parslow.

Và có thể cũng có một Lyra.

Sự ớn lạnh chạy dọc sống lưng Lyra, Pantalaimon trong hình dáng một con chuột chui tọt vào túi cô. Cô bé tự lắc đầu, chẳng cần tưởng tượng nhiều thì cũng có quá đủ những bí ẩn rồi.

Một khác biệt nữa ở thế giới này là có rất nhiều người đi bộ trên vỉa hè, họ ở trong và ngoài những tòa nhà, tất cả loại người, đàn bà cũng ăn mặc giống như đàn ông, cả người châu Phi, có cả một nhóm người Tartar ngoan ngoãn đi theo sau người dẫn đầu, tất cả đều ăn mặc gọn gàng và đeo một chiếc túi nhỏ màu đen. Lúc đầ nhìn thấy họ, cô bé rất sợ vì họ không có nhân tính, mà những người như vậy ở thế giới của cô gọi là ma trơi hay còn tệ hơn thế.

Nhưng (điều này mới lạ lùng nhất), trông họ vẫn đầy sức sống. Những sinh vật này đi lại rất hoạt bát, vì dẫu sao họ đều là con người, nên Lyra buộc phải thừa nhận rằng có lẽ ở đây họ là như vậy, rằng nhân tính của họ cũng giống hệt Will, cũng được giấu ở bên trong.

Sau một giờ lang thang, xem xét Oxford giả này (theo Lyra thì Oxford của cô mới là thật) cô thấy đói, cô mua cho mình một thanh sôcôla bằng đồng hai mươi bảng. Người bán hàng nhìn cô vẻ kỳ quặc, mặc dù cô nói rất rõ ràng, nhưng ông ta là người Ấn Độ và ông không nghe được giọng của cô. Còn chút tiền lẻ, cô mua một quả táo ở chợ Covered. Nó lớn hơn ở Oxford rất nhiều, cô đi tới phía công viên. Cô thấy mình đang đứng bên ngoài một tòa nhà thật lớn, một tòa nhà lớn như vậy không hề tồn tại trong Oxford thật của Lyra. Cô ngồi trên thảm cỏ phía ngoài để ăn, thầm ngưỡng mộ tòa nhà cao.

Thì ra đó là bảo tàng. Cửa bảo tàng đang mở, bên trong có rất nhiều thú nhồi bông, xương hóa thạch và các mẫu khoáng chất giống như bảo tàng địa chất Hoàng gia mà cô đã đi thăm cùng với bà Coulter ở London. Phía sau sảnh lớn toàn bằng kim loại và kính là một lối đi dẫn vào khu vực khác của bảo tàng, trông nó có vẻ vắng vẻ, Lyra liền bước vào xem. Trong đầu cô lúc này chỉ có chiếc Chân-kế. Ở căn phòng thứ hai, cô nhìn thấy những thứ rất quen thuộc với mình: một va ly đựng đầy quần áo rét, trông giống như bộ áo lông của cô...những chiếc xe trượt tuyết, sừng hải mã được chạm khắc và cái lao để săn hải cẩu... cùng với một trăm lẻ một chiến lợi phẩm lộn xộn, di vật, dụng cụ phép thuật và những vũ khí không chỉ ở Bắc Cực, mà như cô thấy, từ nhiều nơi trên thế giới này.

Thật là kỳ lạ. Bộ da của tuần lộc giống hệt thế giới của cô nhưng cách họ buộc dây vào xe trượt tuyết thì hoàn toàn khác. Có vài bức ảnh về những người đi săn ở Bắc Cực, giống hệt hai gã đã bắt Lyra đem bán cô tới Bolvangar. Nhìn này! Cũng chính là những gã đó! Thậm chí những sợi dây đã sờn, được nối lại cũng chính xác đến từng điểm một, cô cảm nhận điều này rất sâu sắc, chúng đã được buộc vào mỗi chiếc xe trượt tuyết trong hàng giờ đau đớn. Những điều bí ẩn này là gì vậy? Sau tất cả, có phải chỉ có một thế giới duy nhất, liệu thế giới nào là mơ đây?

Cô lại nhớ đến chiếc Chân-kế khi đi qua một thứ gì đó. Trong một ngăn kính có khung bằng gỗ sơn đen, có rất nhiều sọ người, một vài cái còn có lỗ; một vài cái ở phía trán, một vài cái ở bên cạnh, vài cái lại ở đỉnh đầu. Có một cái có hai lỗ ở giữa. Quá trình này, được viết nguệch ngoạc trên một tấm thiệp, được gọi là khoan. Tấm thiệp này cũng nói rằng tất cả những lỗ hổng được tạo ra trong suốt quãng đời của người đó, bởi vì xương đã liền và phát triển quanh chóp. Tuy nhiên, có những cái không có lỗ hổng; mà lỗ hổng ở đây là do đầu mũi tên bằng đồng vẫn còn trong sọ, cái chóp này rất nhọn và bị vỡ, vì vậy rất khác nhau.

Đó là những điều mà những người Tartar phương bắc đã làm. Theo những Học giả am hiểu thì chính Stanislaus Grumman đã tự tạo cho mình một lỗ hổng. Lyra nhìn quanh thật nhanh, khi không thấy ai ở gần, cô mới lấy chiếc Chân-kế ra.

Cô tập trung vào những chiếc sọ và hỏi: Những chiếc sọ này thuộc về loại người nào, tại sao họ lại có những lỗ hổng trên đầu?

Khi cô đứng tập trung trong ánh sáng đầy bụi được lọc bởi mái nhà bằng kính và xuôi xuống qua phòng trưng bày ở tầng trên, cô không hề biết mình đang bị theo dõi.

Một ông già khoảng độ sáu mươi tuổi, trông rất có uy quyền, mặcộ quần áo may bằng vải kẻ rất đẹp, đội cái mũ panama, đang đứng ở phòng trưng bày phía trên nhìn xuống qua những thanh chắn bằng sắt.

Mái tóc xám của ông được chải gọn gàng từ vầng trán rám nắng hơi nhăn nheo ra phía sau. Ông ta có đôi mắt đen to và hàng mi thẳng dài. Cứ mỗi phút, ông ta lại đưa lưỡi ra liếm môi. Chiếc khăn mùi xoa màu trắng trên túi áo ngực xực nức mùi nước hoa cologne giống như mùi những cây trồng trong ngôi nhà quá nóng đến nỗi rễ của nó bị rữa ra vậy.

Ông ta đã theo dõi Lyra được vài phút. Khi cô di chuyển ở phía dưới thì ông này cũng di chuyển theo phía bên trên. Khi cô đứng im trước những chiếc sọ, ông ta quan sát cô thật gần, để ý tất cả trên người cô: mái tóc bờm sờm, vết thâm trên má cô, bộ quần áo mới, chiếc cổ trần uốn cong trên chiếc Chân-kế, đôi chân không giày dép của cô.

Ông ta rút khăn tay trên ngực áo ra lau trán rồi lại lấy lau cầu thang.

Lyra đang mải mê tìm hiểu những điều kì lạ. Không thể tưởng tượng được, những chiếc sọ này quá lâu rồi. Tấm thiếp trong ngăn tủ chỉ viết ngắn gọn THỜI KÌ ĐỒ ĐỒNG, nhưng theo Chân-kế thì cái đầu đó đã có cách đây 33 254 năm, ông ta là một phù thủy và lỗ hổng đó được tạo ra để cho những vị thần đi vào đầu ông. Và rồi chiếc Chân-kế, thông thường nó thỉnh thoảng vẫn trả lời những câu hỏi mà Lyra không hỏi, nó góp ý với Lyra là có nhiều Bụi ở chiếc đầu bị khoan hơn là những cái đầu có mũi tên.

Cái đó có ý nghĩa gì vậy nè trời? Lyra ra khỏi trạng thái tĩnh lặng mà cô dành cho Chân-kế, trở lại với thực tại, cô thấy mình không còn đứng một mình nữa. Ở ngăn bên cạnh, một người đàn ông lớn tuổi trong bộ quần áo màu xám, ông sức nước hoa rất thơm. Ông làm cô nhớ đến một ai đó nhưng cô vẫn chưa nghĩ ra được.

Biết được cô bé đang nhìn mình, ông quay ra mỉm cười.

“Cháu đang nhìn vào những cái sọ bị khoan à?” ông già hỏi. “Những người này làm những việc mới kì quặc làm sao.”

“Ừm,” cô bé không biểu lộ gì.

“Cháu có biết, có những người vẫn làm như vậy không?”

“Có,” cô bé trả lời.

“Hippi, cháu biết đấy, những người như vậy. Dĩ nhiên là cháu còn quá nhỏ để biết tới người Hippi. Họ nói rằng làm cách này còn hiệu quả hơn là dùng thuốc đấy.”

Lyra cất Chân-kế vào ba lô của mình rồi tự hỏi làm cách nào mình có thể ra khỏi nơi này: cô vẫn chưa hỏi nó câu hỏi chính, còn ông lão này đang bắt chuyện với mình. Ông ta có vẻ tốt, và tất nhiên nụ cười của ông trông rất tử tế. Ông ta lại gần hơn. Tay ông ta chạm nhẹ vào Lyra khi ông dựa lưng vào ngăn kính.

“Chúng làm cháu ngạc nhiên phải không? Không thuốc gây mê, không sát trùng, chỉ bằng những dụng cụ bằng đá. Chúng chắc hẳn rất cứng phải không? Ta không nghĩ là mình đã từng nhìn thấy cháu ở đây. Ta đến đây rất thường xuyên. Tên cháu là gì?”

“Lizzie,” cô trả lời rất thoải mái.

“Lizzie. Chào cháu, Lizzie. Ta là Charles. Ở Oxford, cháu có đi học không?”

Cô không biết chắc phải trả lời như thế nào.

“Không,” Lyra nói.

“Cháu chỉ ghé thăm thôi à? Cháu đã chọn một nơi thật tuyệt vời để ghé thăm đấy. Cháu đặc biệt quan tâm tới gì nào?”

Đã lâu rồiô chưa gặp ai khiến cô cảm thấy bối rối hơn là người đàn ông này. Một đằng thì ông ta rất tử tế, thân thiện, ăn mặc rất sạch sẽ và sáng sủa, nhưng đằng khác Pantalaimon ở trong túi cô lúc này đang tìm cách thu hút sự chú ý của Lyra và xin cô hãy cẩn thận, bởi vì nó cũng gần nhớ ra một việc gì đó. Từ một nơi nào đó, cô nhận thấy có mùi, mùi phân, mùi thối rửa. Cô nhớ lại tòa cung điện của Raknison, không khí thấm đượm mùi nước hoa nhưng sàn nhà đầy rác rưởi.

“Điều cháu quan tâm ư?” cô nói. “Ồ, tất cả mọi thứ. Khi cháu đi qua đây, cháu thấy những cái sọ này và chúng làm cháu quan tâm tức thì. Cháu nghĩ là không một ai muốn được như vậy. Thật kinh khủng.”

“Ừ, ta cũng chẳng thích tự làm mình như thế, nhưng ta cam đoan là nó vẫn có đấy. Ta có thể dẫn cháu tới gặp người đã làm việc này,” trông ông ta thân thiện và tốt bụng đến nỗi suýt nữa thì cô liều lĩnh. Nhưng khi thấy cái lưỡi nhỏ lấm chấm đen liếm ướt át trông như là rắn cô bé liền lắc đầu.

“Cháu phải đi. Cảm ơn vì lời mời của ông nhưng tốt hơn hết là cháu không nên đi. Dù sao đi nữa, cháu phải đi giờ đây vì cháu sắp gặp một người. Bạn cháu,” cô bé nói thêm. “Người cháu đang ở cùng.”

“Được, tất nhiên rồi,” ông ta nói đầy tử tế. “Hà, nói chuyện với cháu thật là thích. Tạm biệt Lizzie.”

“Tạm biệt,” cô bé chào.

“À, với lại, đây là tên và địa chỉ của ta,” ông ta đưa cho Lyra một tấm danh thiếp. “Đề phòng trường hợp cháu đổi ý muốn biết nhiều hơn nữa về những thứ như thế.”

“Cảm ơn ông ạ,” cô ồn tồn, rồi để tấm thiếp vào sau ba lô trước khi ra khỏi bảo tàng. Lúc đi ra, cô cảm thấy mình như đang bị ông ta nhìn theo

Khi đã ra khỏi bảo tàng, cô liền quay lại công viên, nơi ô biết có một cái sân giành cho môn cricket và những môn thể thao khác, rồi cô tìm một khoảng yên tịnh dưới những tán cây và lại thử Chân-kế một lần nữa.

Lần này cô hỏi về nơi có thể tìm ra một Học giả biết về Bụi. Câu trả lời nhận được thật đơn giản: nó chỉ về hướng căn phòng trong tòa nhà cao tầng phía trước mặt. Thực ra, câu trả lời quá thẳng thắn và quá bất ngờ làm Lyra cho rằng Chân-kế có nhiều điều muốn nói nữa: bây giờ cô bé nhận ra là nó có mang cảm xúc, giống như con người, và cô biết rằng nó muốn nói nữa với cô.

Giờ thì nó nói thật. Những điều nó cho biết là: Hãy quan tâm hơn tới cậu bé. Điều quan trọng là giúp cậu tìm ra bố. Nhớ lấy trong đầu điều này.

Cô bé chớp mắt. Cô thật sự hoảng hốt. Will đã hiện ra từ hư không để giúp cô; chắc chắn hiển nhiên như vậy. Cái ý nghĩ mình đã đi cả quãng đường tới đây chỉ để giúp cậu ta làm cô hết hơi.

Nhưng Chân-kế vẫn chưa nói xong. Cái kim lại tiếp tục xoay, và cô bé đọc: Đừng nói dối Học giả.

Lyra bọc tấm vải nhung quanh Chân-kế rồi cất vào trong ba lô. Rồi cô đứng dậy nhìn quanh để tìm cho ra tòa nhà mà học giả đó đang ở và đi về hướng đó, trong lòng ngổn ngang bất an và ngờ vực.

Will dễ dàng tìm ra thư viện. Người giữ thư viện đã được thuyết phục rằng cậu bé đang làm bài nghiên cứu địa lý, cho nên đã giúp cậu tìm một đống phụ trương của tờ Times vào năm cậu được sinh ra, cũng là năm mà bố cậu bị mất tích. Dĩ nhiên, có vài mục về John Parry, c liên quan tới một cuộc thám hiểm khảo cổ học.

Cậu phát hiện có những cuộn vi phim để riêng từng tháng. Will lần lượt đưa chúng vào máy chiếu để tìm hiểu câu chuyện và đọc với sự tập trung cao độ. Câu chuyện đầu tiên kể về chuyến đi của đoàn thám hiểm tới phía Bắc Alaska. Đoàn thám hiểm này được Viện Khảo Cổ thuộc trường Đại học Oxford tài trợ. Đoàn thám hiểm sẽ khảo sát khu vực mà họ mong rằng sẽ tìm thấy dấu tích của người cổ xưa sinh sống. Đi cùng đoàn thám hiểm là ông John Parry, một sĩ quan Hoàng gia và là một nhà thám hiểm chuyên nghiệp.

Câu chuyện thứ hai để xếp vào sáu tháng sau. Nó chỉ nói ngắn gọn rằng đoàn thám hiểm đã tới Trạm Khảo Sát Cực Bắc vùng Bắc Mỹ tại Noatak, Alaska.

Câu chuyện thứ ba tiếp đó hai tháng. Người ta nói rằng không có tín hiệu trả lời từ Trạm Khảo Sát và John Parry cùng đoàn thám hiểm được coi như là đã mất tích.

Có hàng loạt những tít ngắn sau đó, miêu tả rằng những đội tìm kiếm đã vô vọng khi tìm kiếm họ, những chuyến bay lùng kiếm qua biển Bering, phản ứng của Viện Khảo Cổ và phỏng vấn người thân...

Tim cậu đập thình thịch vì có một bức ảnh của mẹ cậu đang bế một đứa trẻ, chính là Will.

Bài báo đã viết về câu chuyện một người vợ đẫm nước mắt đang đau đớn chờ tin tức của chồng, Will thấy hơi thất vọng về sự thật. Có một đoạn báo ngắn viết rằng John Parry đã có một sự nghiệp thành đạt khi ở trong Hải quân Hoàng Gia, rồi ông từ bỏ công việc này để chú tâm vào việc tổ chức khảo cổ và thám hiểm khoa học. Toàn bộ là thế.

Ở phần phụ lục chẳng thấy đề cập đến gì nữa cả, Will đứng dậy, bước ra khỏi tấm màn ngăn đọc vi phim. Phải có thông tin ở đâu đó nữa, nhưng mình đâu tiếp theo đây? Và nếu bố đã mất quá nhiều thời gian để tìm kiếm thì bố phải để lại dấu vết chứ...

Cậu trả lại những cuộn phim cho người giữ thư viện rồi hỏi: “Bác có địa chỉ của Viện Khảo Cổ học không ạ?”

“Bác có thể tìm... Mà cháu học ở trường nào thế?”

“Trường Thánh Peter ạ,” Will trả lời.

“Trường đó không ở Oxford phải không?”

“Không, nó ở Hampshire cơ ạ. Lớp của cháu đang thực hiện một cuộc du ngoạn về lĩnh vực cư trú. Kiểu như nghiên cứu môi trường về khả năng.”

“À, bác biết rồi. Cái cháu muốn là gì ấy nhỉ?... Khảo cổ?... Đây rồi.”

Will chép địa chỉ và số điện thoại, để an toàn cậu thừa nhận là mình không biết đường ở Oxford, cậu đã hỏi đường đi. Nó cách không xa lắm. Cậu bé cảm ơn bác rồi lại lên đường.

Phía trong tòa nhà, Lyra thấy một chiếc bàn rộng ở chân cầu thang, với một người gác đằng sau nó.

“Cháu đi đâu thế?” ông ấy hỏi.

Trông giống như được trở về nhà vậy. Cô cũng cảm thấy Pan trong túi cũng đang thích thú.

“Cháu phải gửi lời nhắn đến một người trên tầng hai.”

“Là ai cơ?”

“Tiến sĩ Lister,” cô trả lời.

“Tiến sĩ Lister ở tầng ba. Nếu cháu muốn gửi gì cho ông tiến sĩ thì cứ để ở đây, tôi sẽ cho ông ấy biết sau.”

“Vâng, nhưng đây là một điều mà ông ấy cần phải biết ngay lập tức. Ông ấy đang chờ đợi nó. Nó không phải là một món đồ thực sự, mà là điều cháu phải nói với ông ấy.”

Người gác cửa quan sát cô thật kỹ, ông ta không thể đỡ được nét ngoan ngoãn dịu dàng ngây thơ mà cô bé có thể dựng nên khi mình muốn; và cuối cùng ông ta cũng gật đầu rồi trở lại với tờ báo của ông.

Chân-kế không nói cho Lyra biết tên người đó. Cô đọc được tên tiến sĩ Lister trên một ngăn ở trên tường phía sau ông gác cổng, bởi vì nếu giả vờ biết ai đó, họ sẽ dễ dàng cho đi hơn. Bằng cách nào đó, Lyra biết rõ thế giới của Will hơn là cậu.

Ở tầng hai, cô nhìn thấy một hành lang, nơi có một cánh cửa mở vào phòng thuyết trình, một cánh cửa khác dẫn tới một phòng nhỏ hơn có hai Học giả đang thảo luận gì đó trên tấm bảng đen. Những căn phòng này, tường hành lang tất cả đều phẳng và nhẵn nhụi, mà theo Lyra tất cả những điều đó thuộc về những người nghèo chứ không thuộc về những bậc trí giả thông thái uyên thâm ở Oxford; còn cả bức tường gạch được sơn nhẵn nhụi và những cánh cửa gỗ nặng trịch, lan can bằng thép sáng bóng lại rất đắt tiền. Đó là một sự khác biệt nữa ở thế giới này.

Cô nhanh chóng tìm ra cánh cửa mà Chân-kế đã nói. Tấm biển gắn trên tường ghi “ĐƠN VỊ NGHIÊN CỨU VẬT CHẤT TỐI,” dưới đó ai đã viết nguệch ngoạc lên chữ R.I.P, một dòng chữ khác nữa bằng bút chì ghi GIÁM ĐỐC: LAZARUS.

Lyra hết ý kiến. Cô gõ cửa, và một giọng phụ nữ vang lên, “Vào đi.”

Đó là một căn phòng nhỏ chất đầy những đống giấy tờ và sách vở trng như sắp đổ vậy, một cái bảng trắng treo trên tường đầy những dòng chữ và phương trình. Đằng sau cánh cửa, có một họa tiết như của người Trung Hoa. Từ cánh cửa ra vào này có thể nhìn sang một phòng khác, nơi có một loại máy anbraic phức tạp nào đó đang đứng sững trong yên lặng.

Về phần cô, Lyra hơi ngạc nhiên khi thấy Học giả mà mình tìm kiếm là một phụ nữ nhưng Chân-kế cũng không nói đó không phải là đàn ông. Người phụ nữ đang ngồi bên chiếc máy có màn hình bằng kính nhỏ đang hiện ra những số liệu, phía trước nó là những chữ cái La tinh được đặt thành một khối trên cái khay màu trắng ngà. Cô ta gõ một cái vậy là màn hình trở nên trống trơn.

“Cháu là ai?” cô ta hỏi.

Lyra đóng cánh cửa phía sau lại, nhớ như in những gì Chân-kế đã nói, cô cố gắng hết sức không cư xử giống như thông thường cô hay giả đò, và kể lại sự thật.

“Cháu là Lyra Lưỡi Bạc,” cô bé trả lời. “Thế cô tên là gì vậy?”

Người phụ nữ chớp mắt. Có lẽ cô ấy đã gần bốn mươi tuổi, Lyra đoán như vậy vì trông cô hơi già hơn bà Coulter một chút. Cô có mái tóc đen cắt ngắn và đôi má ửng đỏ. Cô mặc một cái áo choàng màu trắng ra bên ngoài chiếc áo vải màu xanh da trời mà rất nhiều người tại thế giới này mặc.

Cô đưa tay ra vuốt vuốt mái tóc rồi nói: “Chà, cháu là điều thứ hai không được mong đợi xảy ra ngày hôm nay. Cô là tiến sĩ Mary Malone. Cháu muốn gì nào?”

“Cháu muốn cô nói với cháu về Bụi,” Lyra vừa nói vừa nhìn quanh xem có ai không. “Cháu biết là cô biết về nó. Cháu có thể chứng minh. Cô phải nói cho cháu.”

“Bụi ư? Cháu đang nói cái gì vậy?”

“Có thể cô không gọi như vậy. Đó là những hạt sấp. Ở thế giới của cháu, các học giả gọi đó là hạt Rusakov, nhưng thông thường họ gọi đó là Bụi. Chúng không dễ gì xuất hiện đâu, nhưng rồi chúng hiện hữu và bám quanh con người. Dẫu không nhằm vào trẻ con nhiều mà đa phần là vào người lớn. Và có gì đó cháu chỉ vừa khám phá ra ngày hôm nay—cháu đã ở trong bảo tàng dưới phố. Ở đó có những cái sọ có lỗ như những gì những người Tartar đã làm, những cái sọ đó có nhiều Bụi hơn là những cái sọ không có những cái lỗ loại như vậy. Thời kỳ Đồ Đồng là khi nào hả cô?”

Người phụ nữ nhìn cô bé có đôi mắt mở to.

“Thời kỳ Đồ Đồng à? Trời đất, cô không rõ nữa, chắc khoảng năm nghìn năm trước.”

“À, ừm, vậy thì, họ đã sai khi viết lên tấm nhãn ở đó rồi. Cái sọ có hai lỗ trên đầu đã được ba mươi ba nghìn năm tuổi.”

Lyra dừng lại bởi vì lúc này nhìn tiến sĩ Malone trông như sắp ngất. Màu hồng trên má cô đã hoàn toàn biến mất, một tay cô ôm chặt lấy ngực tay còn lại nắm chặt tay ghế, mồm cô há ra.

Lyra đứng đó vừa bối rối vừa kiên trì đợi cô tiến sĩ bình tâm lại.

“Cháu là ai?” Cuối cùng cô cũng lên tiếng.

“Lyra Lưỡi—”

“Không, nơi cháu tới cơ, Cháu là thứ gì vậy? Làm cách nào cháu biết được những điều như thế?”

Mệt mỏi, Lyra thở dài. Cô đã hoàn toàn quên mất những Học giả có thể vòng vo đến nhường nào. Thật khó để nói cho họ biết sự thật khi mà một lời nói dối có thể làm cho họ hiểu hơn dễ dàng rất nhiều.

“Cháu tới từ một thế giới khác,” cô bé bắt đầu. “Và trong thế giới đ cũng có một Oxford như thế này, chỉ hơi khác, cháu đã tới từ nơi đó. Và—”

“Từ từ, đợi, đợi đã. Cháu từ đâu tới cơ?”

“Đâu đó khác,” Lyra thận trọng hơn. “Không phải nơi này.”

“Ờ, đâu đó khác,” người phụ nữ nói. “Cô hiểu. Ừm, cô nghĩ là mình hiểu rồi.”

“Và cháu phải tìm hiểu về Bụi,” Lyra giải thích. “Bởi vì những người ở Giáo hội của chúng cháu rất sợ Bụi vì họ nghĩ nó là nguồn gốc tội lỗi. Vì vậy nó rất quan trọng. Cha cháu... Không,” Lyra nói thật sôi nổi thậm chí cô còn dậm chân, “cháu không có ý đó. Cháu đã sai hết rồi.”

Tiến sĩ Malone nhìn vẻ cau có chán chường của Lyra, bàn tay nắm chặt và vết bầm trên má cô và cả đôi chân đang dậm nữa, cô nói, “Ôi trời, cô bé, bình tĩnh đã nào.”

Lyra dừng lại và chà chà mắt. Mắt của cô đỏ ngầu vì mệt mỏi.

“Tại sao cô phải nghe cháu nói chứ?” cô tiến sĩ tiếp tục. “Cô hẳn điên mất rồi. Thực tế đây là nơi duy nhất có thể trả lời được câu hỏi của cháu, và họ đang sắp sửa đóng cửa văn phòng của bọn cô... Điều cháu đang nói về Bụi của cháu, nghe giống như những thứ bọn cô vừa khảo sát được, rồi những gì cháu nói về cái sọ ở bảo tàng đã mở cho cô một hướng mới, bởi vì... ôi không, nó thật quá sức. Cô mệt lắm rồi, cô muốn nghe cháu nói, tin cô đi nhưng không phải bây giờ, làm ơn. Có phải cô đã nói rằng họ sắp đóng cửa văn phòng này? Cô có một tuần để đề xuất tới Ủy ban dự trữ, nhưng chẳng có hi vọng gì đâu...”

Cô lại ngáp thật to.

“Thế còn điều không mong đợi thứ nhất, trong ngày hôm nay của cô là gì vậy?” Lyra hỏi.

“À, ừ. Ai đó đã trả lời đơn xin cấp tiền của chúng tôi rằng ông ta rút lại sự ủng hộ của mình. Với lại, cô cũng không cho rằng chuyện đó không được mong đợi.”

Cô lại ngáp.

“Cô sẽ pha một ít cà phê. Nếu không cô sẽ ngủ mất. Cháu có muốn uống một ít không?”

Cô đổ nước vào ấm điện, đổ cà phê hòa tan vào hai cái ly lớn trong khi Lyra nhìn vào họa tiết Trung Hoa mặt sau cánh cửa.

“Kia là cái gì hả cô?”

“Của Trung Quốc. Các biểu tượng trong Kinh Dịch. Cháu có biết nó là cái gì không? Thế giới của cháu có thứ đó không?”

Lyra nhìn vào đôi mắt hẹp của cô tiến sĩ để đề phòng mình bị chế nhạo. Cô nói: “Có những thứ giống nhưng lại có những thứ lại khác hoàn toàn, là vậy đó. Cháu cũng không biết tất cả về thế giới của cháu. Có thể ở đó cũng có mấy thứ Kinh Dịch này luôn.”

“Cô xin lỗi,” Tiến sĩ Malone nói. “Ừ có thể họ cũng có.”

“Vật chất tối là gì hả cô? Đó có phải thứ ghi trên bảng hiệu phải không cô?”

Tiến sĩ Malone ngồi xuống lại. Cô dùng mắt cá chân mình kéo ghế cho Lyra.

Cô nói, “Vật chất tối là những gì đội nghiên cứu của bọn cô đang tìm kiếm. Không ai biết nó là cái gì. Trong vũ trụ có rất nhiều thứ mà chúng ta không thể thấy, nhiều hơn rất nhiều chúng ta có thể thấy. Chúng ta có thể nhìn thấy những vì sao, dải ngân hà, và những vật tỏa sáng, nhưng vì tất cả chúng đều được móc dính vào nhau chứ không bay rải rác, cho nên cần rất nhiều thứ đó—cháu thấy đấy, để làm trọng lực có tác dụng. Nhưng không ai có thể dược nó. Vì vậy có hàng loạt dự án nghiên cứu đang cố tìm ra xem nó là cái gì. Và nơi đây là một trong số đó.”

Lyra hoàn toàn tập trung vào lời cô tiến sĩ nói. Cuối cùng, người phụ nữ này cũng nói chuyện nghiêm chỉnh.

“Thế cô nghĩ đó là cái gì?”

“Những thứ mà chúng tôi nghĩ là—” khi cô Malone bắt đầu thì ấm nước reo, cô vừa đứng dậy pha cà phê vừa tiếp tục. “Chúng tôi nghĩ đó là một loại hạt sơ cấp. Một vài thứ hoàn toàn khác biệt so với những thứ khác đã được khám phá. Nhưng thật khó để nhận biết được chúng... Cháu học ở đâu? Cháu có học môn vật lý không?”

Lyra thấy Pantalaimon cấu vào tay mình để cảnh báo rằng mình phải nói ra sự thật. Chân-kế đã nói với cô là phải nói thật nhưng cô biết rằng điều gì sẽ xảy ra nếu nói toàn bộ sự thật. Cô phải cư xử thận trọng để vừa đủ tránh những lời nói dối rõ ràng.

“Vâng,” Lyra nói, “cháu biết một ít. Nhưng không phải là về vật chất tối.”

“Bọn cô đang cố gắng khám phá ra những thứ hầu như không thể nhận biết được giữa những tiếng động của toàn bộ các loại hạt khác khi va vào nhau. Thông thường họ đặt máy dò khoảng một trăm mét dưới lòng đất, nhưng những gì bọn cô vừa làm thay vào đó là thành lập một trường điện từ xung quanh máy dò có thể làm ngăn chặn những thứ mà bọn cô không cần và cho phép đi vào những thứ bọn cô muốn. Rồi bọn cô khuếch tán tín hiệu và đưa vào máy tính.”

Cô đưa cho Lyra một cốc cà phê to, không có sữa và đường, nhưng cô cũng tìm ra được một hai cái bánh quy vị gừng trong ngăn kéo, và Lyra cầm lấy một cái ăn ngấu nghiến.

“Rồi bọn cô tìm thấy một hạt phù hợp,” tiến sĩ Malone tiếp tục. “Bọn cô nghĩ là n phù hợp. Nhưng mà quái lạ thật... Tại sao cô lại nói cho cháu những chuyện như thế này nhỉ? Cô không nên. Đây không phải là vấn đề được công khai. Chiều nay cô hơi điên mất rồi.”

“y...” cô tiếp tục và ngáp một cái dài đến nỗi Lyra nghĩ là nó không bao giờ chấm dứt, “các hạt của bọn cô lạ lắm, hơi ma quái và không hề có khiếm khuyết. Bọn cô gọi đó là những hạt bóng, Bóng tối ấy. Cháu có biết cái gì gần như nốc ao cô ra khỏi chiếc ghế này không? Khi cháu nhắc tới những cái sọ trong bảo tàng. Bởi vì một người trong đội của bọn cô là một nhà khảo cổ nghiệp dư. Một ngày anh ta tìm ra một vài thứ mà bọn cô không thể tin. Nhưng bọn cô cũng không thể lờ đi bởi vì chúng phù hợp với những thứ điên rồ nhất về ba mớ Bóng tối này. Cháu biết là cái gì không? Chúng có ý thức. Chính thế. Bóng tối là những hạt ý thức. Cháu đã bao giờ nghe thấy những thứ nào ngu ngốc như thế này chưa? Không ngạc nhiên gì khi bọn cô không thể được tái viện trợ.”

Cô nhấm nháp ly cà phê. Lyra uống từng lời của cô như một bông hoa khát nước vậy.

Tiến sĩ lại tiếp tục. “Ừ, chúng biết ta ở đây. Chúng đáp lại ta. Đây mới là phần điên rồ nhất: cháu không thể nhìn thấy chúng trừ khi cháu thực sự mong đợi. Trừ khi cháu đặt tâm trí của mình ở một trạng thái kiên định. Cùng một lúc cháu vừa phải tự tin lại vừa phải thoải mái. Cháu phải có năng lực—câu trích dẫn đâu rồi...”

Cô đưa tay về phía chồng giấy lộn xộn trên ghế và tìm thấy một mẩu giấy nhỏ ai đó đã viết bằng mực xanh rồi đọc:

“Năng lực đạt được sự không chắc chắn, bí ẩn, nghi ngờ mà không có bất kì kích thích nào đằng sau nguyên nhân và sự thật...” Cháu phải để tâm trí mình vào trạng thái đó. Dù sao, đó cũng là từ tập thơ Keats. Cô đã tìm thấy hôm nọ. Vậy là hãy để đầu óc của cháu về tình tạng đúng đắn của nó và nhìn vào Hang...”

“Hang?” Lyra hỏi lại.

“Cô xin lỗi. Là máy vi tính. Bọn cô vẫn gọi nó là Hang. Bóng tối trên tường của Hang, cháu biết đấy, từ Plato. Đó lại là nhà khảo cổ của bọn cô. Anh ta thông minh toàn diện. Nhưng anh ta đã đi tới Geneva để phỏng vấn xin việc và cô không hi vọng là anh ta sẽ quay lại ngay... Cô nói tới đâu rồi nhỉ? À, cái Hang, đúng rồi. Một khi cháu liên kết với nó, nếu cháu nghĩ, Bóng tối sẽ đáp lại. Không nghi ngờ gì. Bóng tối sẽ lũ lượt kéo tới ý nghĩ của cháu giống như là chim vậy...”

“Thế còn về những cái sọ thì sao?”

“Cô đang sắp nói tới chuyện đó đây. Oliver Payne—anh ta, đồng nghiệp của cô—một ngày nọ đang lãng phí thì giờ cho vài cuộc thử nghiệm vớ vẩn với cái Hang. Và nó thật mới kỳ quặc. Nó không có chút ý nghĩa nào mà một nhà vật lý có thể mong đợi. Anh ta lấy một mẩu ngà voi, chỉ là một cục nhỏ thôi và không có Bóng tối nào trong đó. Nó không phản ứng. Nhưng một mẩu ngà khắc hình chữ thập thì lại có. Tấm ván gỗ to thì không có nhưng một cây thước gỗ thì có. Và một tượng gỗ được chạm trổ thì lại có nhiều hơn... Cô đang nói tới những hạt chùy sơ cấp, vì Chúa. Những mảnh ghép bé nhỏ vụn vặt khớp vừa với mọi thứ. Chúng nhận biết những vật đó là gì. Bất cứ thứ đi kèm với tài nghệ và ý nghĩ của con người đều được Bóng tối vây phủ...

“Và rồi Oliver— tiến sĩ Payne—có được một vài cái đầu hóa thạch từ một người bạn ở viện bảo tàng, đã thử kiểm tra xem tác động của nó đã tồn tại được bao lâu về trước rồi. Lát cắt đã cho thấy rằng khoảng ba mươi hay bốn mươi nghìn năm trước. Trước đó, không Bóng tối. Sau đó, có rất nhiều. Còn về thời gian, hình như từ khi người hiện đại lần đầu tiên xuất hiện. Ý của cô là, cháu biết đấy, tổ tiên xa xôi của bọ họ không khác biệt so với bọn cô...”

“Đó là Bụi,” Lyra hăng hái nói. “Chính là nó.”

“Nhưng cháu thấy đấy, không thể nói những điều đại loại như vậy trong một đơn xin trợ cấp nếu không muốn bị cắt mất. Nó không có ý nghĩa gì cả. Nó không thể tồn tại. Bất khả, và nếu nó không phải bất khả, thì nó cũng không phù hợp, và nếu nó không phải là cả hai thứ đó, thì nó rối rắm.”

“Cháu muốn xem cái Hang,” Lyra nói. Cô bé đứng dậy.

Tiến sĩ Malone luồn tay qua tóc, mắt thì chớp chớp thật nhanh để đỡ mỏi mắt.

“Ồ, tại sao lại không nhỉ,” cô nói. “Từ ngày mai có thể bọn cô sẽ không còn cái Hang này nữa. Cháu hãy thử vào đi.”

Cô dẫn Lyra vào một căn phòng khác. Nó rộng hơn và đầy những dụng cụ điện.

“Đây, nó đằng kia,” cô vừa nói vừa chỉ vào một màn hình màu xám trống trơn, “đấy là nơi để máy dò, phía sau tất cả đám dây nhợ đó. Để nhìn Bóng tối cháu phải nối vào mình vài cái điện cực. Giống như là đo sóng não bộ ấy.”

“Cháu muốn thử nó,” Lyra nói.

“Cháu sẽ không thấy gì đâu. Dù sao thì, cô cũng mệt rồi. Nó quá phức tạp.”

“Làm ơn đi cô! Cháu biết cháu đang làm gì mà!”

“Thật sao? Cô mong sao được thế. Không, vì Chúa. Đây là một thí nghiệm khoa học vừa đắt tiền vừa khó khăn. Cháu không thể sạc điện cho nó và mong có một cú phát đi như cái bàn pinball được… Cháu tới từ nơi nào vậy? Chẳng phải cháu nên ở trường ư? Làm thế nào cháu tìm được đường tới đây?”

Cô lại di mắt lần nữa như thể cô vừa ngủ dậy.

Lyra run rẩy. Nói sự thật, cô bé nghĩ. “Cháu tìm thấy đường vào đây bằng cái này,” cô bé lấy Chân-kế ra.

“Đó là thứ khỉ ho gì vậy? Một cái la bàn?”

Lyra để cô tiến sĩ cầm nó. Mắt cô tiến sĩ mở to khi cô thấy sức nặng của Chân-kế.

“Chúa phước lành, nó làm bằng vàng, chỗ quái nào—”

“Cháu nghĩ là nó cũng làm được điều như Hang của cô. Đó là những gì cháu muốn tìm ra. Nếu cháu có thể trả lời chính xác một câu hỏi,” Lyra nói một cách liều lĩnh, “việc gì đó cô biết câu trả lời nhưng cháu thì không, thì cháu sẽ được thử cái Hang này cô nhé?”

“Cái gì, giờ chúng ta chuyển sang dự đoán tương lai hay sao? Thứ này là gì vậy?”

“Làm ơn đi cô! Chỉ cần đưa cháu một câu hỏi.”

Tiến sĩ Malone nhún vai. “Được thôi, nói cho cô… nói cho cô biết cô đã làm gì trước khi cô đảm nhận công việc này.”

Lyra hồ hởi lấy Chân-kế từ tay cô tiến sĩ rồi xoay bánh răng dây cót. Cô bé có thể cảm thấy tâm trí mình đang hướng về những bức ảnh chính xác thậm chí những cái kim còn đang tìm kiếm vào chúng, cô bé cảm giác được chiếc kim dài đang giật giật đáp lại. Khi nó bắt đầu đung đưa quanh mặt la bàn, cô bé dõi mắt theo nó, tính toán, dẫn dắt lại các chuỗi dài ngữ nghĩa tới mức độ sự thật đang nằm trên đó.

Rồi cô bé chớp mắt, thở dài, ra khỏi trạng thái mơ mộng của mình.

“Cô đã là một nữ tu sĩ. Cháu không phải đoán bừa. Nữ tu sĩ thì phải sống trong tu viện mãi mãi. Nhưng cô đã mất niềm tin vào Chời và họ để cho cô ra đi. Việc này chẳng giống như thế giới của cháu, không một lấy tẹo.”

Tiến sĩ Malone ngồi vật xuống chiếc ghế cạnh máy tinh, nhìn chằm chằm.

Lyra nói. “Đúng rồi phải không cô?”

“Phải. Và cháu đã biết được điều đó từ...”

“Từ cái Chân-kế của cháu. Nó hoạt động là nhờ Bụi, cháu nghĩ vậy. Cháu đi cả quãng đường tới đây chỉ để tìm hiểu thêm về Bụi, và nó đã nói với cháu tới gặp cô. Cháu nhận ra vật chất tối của cô cũng chính là điều cháu đang tìm hiểu. Bây giờ, cháu có thể thử cái Hang được chưa ạ?”

Tiến sĩ Malone lắc đầu, nhưng cô không nói là không, chỉ là cô vừa mới thoát ra khỏi tình trạng ngơ ngác. Cô xòe rộng đôi tay. “Rất tốt,” cô nói. “Cô nghĩ là cô đang mơ. Có lẽ cô nên tiếp tục.”

Cô đu đưa mình quanh chiếc ghế và ấn một vài nút tạo nên những tiếng kêu o o và tiếng kêu của quạt làm mát trong máy tính; trong những tiếng động đó, Lyra như bị ngột ngạt, cô thở hổn hển. Bởi tiếng động này giống hệt tiếng động khiếp sợ mà cô đã nghe thấy trong phòng ngủ sang trọng ở Bolvangar, nơi chiếc máy chém bằng bạc suýt nữa thì chém chết cô và Pantalaimon. Thấy Pantalaimon đang run run trong túi mình, cô bé vỗ vỗ nó để trấn an.

Nhưng tiến sĩ Malone không để ý; cô ấy đang quá bận điều chỉnh những cái nút điều khiển và gõ những ký tự vào một trong những cái khay trắng ngà khác. Màn hình đổi màu, một vài chữ và số nho nhỏ hiện ra.

“Bây giờ cháu ngồi xuống,” cô đưa ghế cho Lyra rồi mở một cái lọ nhỏ, “cô cần bôi một ít chất keo vào da cháu để tiếp xúc với điện, nó dễ rửa lắm. Bây giờ, hãy giữ yên lặng nhé

Tiến sĩ Malone lấy ra sáu sợi dây, mỗi đầu dây là những miếng mút mỏng và gắn chúng vào những chỗ khác nhau trên đầu Lyra. Cô bé ngồi bất động, hơi thở thật mạnh, tim cô bé đập thình thịch.

“Được rồi, cháu đã được kết nối xong,” Tiến sĩ Malone nói. “Căn phòng này tràn ngập Bóng tối. Vũ trụ này đầy Bóng tối. Nhưng đây là cách duy nhất chúng ta có thể thấy được chúng, khi cháu làm cho đầu óc mình trống rỗng và nhìn vào màn hình. Bắt đầu nhé.”

Lyra nhìn vào. Màn hình tối đen và trống rỗng. Cô thấy hình ảnh của mình phản chiếu mờ mờ, nhưng chỉ có như vậy. Vì là một thí nghiệm khoa học nên cô giả vờ mình đang đọc chiếc Chân-kế và tưởng tượng mình đang hỏi nó câu hỏi: Người phụ nữ này biết gì về Bụi? Cô ta đang hỏi câu hỏi gì vậy?

Cô thầm tưởng tượng mình di chuyển kim Chân-kế quanh mặt của nó, như là cô vẫn làm. Thật ngạc nhiên, cô bị mất tập trung, ánh sáng lung linh tắt lịm. Cô không để ý tới tiếng rì rầm kích động đã làm cho tiến sĩ Malone đứng lên: cô cau mày ngồi xuống rồi lại tập trung lại.

Lần này phản ứng tới ngay tức thì. Một dòng ánh sáng nhảy múa, tất cả thế giới như một tấm màn che sáng mờ mờ của bình minh, rọi sáng cả màn hình. Chúng liên kết lại thành những mô hình được lưu giữ trong chốc lát chỉ rồi để bị tách ra và tái nhập lại, nhưng ở những hình dạng khác nhau, hay màu sắc khác nhau, chúng vòng quanh, lắc lư, chúng phun ra, bắn ra như mưa ánh hào quang rồi đột nhiên lệch lối, giống như một đàn chim đang đổi hướng lên bầu trời. Khi Lyra quan sát cô thấy cảm giác y hệt, sự run rẩy khi hiểu biết gần kề, điều mà cô vẫn còn nhớ kể từ hồi mới bắt đầu đọc Chân-kế.

Cô bé hỏi câu hỏi khác: Đây là Bụi à? Có phải cùng những thứ này đã làm ra những mô hình và dịch chuyển kim Chân-kế?

Câu trả lời hiện ra trong vòng ánh sáng cuộn xoáy dữ hơn. Cô đoán nó có ý nghĩa là có. Rồi một ý nghĩa khác đến với cô, cô quay sang nói với tiến sĩ Malone, đang há hốc miệng đưa tay lên đầu.

“Sao?” cô bé hỏi.

Màn hình nhạt dần. Tiến sĩ Malone chớp mắt.

“Có chuyện gì thế cô?” Lyra hỏi lại.

“Ôi—cháu vừa mới trình diễn một màn thật tuyệt mà cô chưa từng thấy, chỉ thế thôi. Cháu đang làm gì thế? Cháu đang nghĩ gì à?”

“Cháu nghĩ là cô có thể làm cho nó sáng rõ hơn là như thế này.”

“Rõ hơn á. Đây là rõ nhất rồi đấy.”

“Nhưng điều đó có ý nghĩa gì? Cô có đọc được nó không?”

“À,” tiến sĩ Malone nói, “cháu không thể đọc nó theo kiểu đọc một mẩu tin; nó không hoạt động như thế. Điều đang xảy ra là Bóng tối đã đáp lại sự chú ý mà cháu đã bỏ ra ấy. Nó quá đủ cho một cuộc cách mạng; chúng thật sự phản hồi lại với ý thức của chúng ta, cháu thấy rồi đấy.”

“Không,” Lyra giải thích, “ý của cháu là những màu sắc và hình dáng ở đó. Chúng có thể làm được những việc khác, những Bóng tối đó. Chúng có thể tạo nên bất cứ hình dạng nào mà cô muốn. Chúng có thể tạo nên những bức tranh nếu cô muốn vậy. Cô nhìn này.”

Cô bé quay trở lại và tập trung một lần nữa, nhưng lần này cô tự giả vờ màn hình là chiếc Chân-kế có ba mươi sáu kí tự nằm quanh mặt. Cô đã quá quen với nó đến nỗi các ngón tay của cô tự động xoay trên đùi khi cô di chuyển những cái kim tưởng tượng chỉ vào ngọn nến (cho sự hiểu biết), ký tự an-pha và ô-mê-ga (cho ngôn ngữ), và con kiến (cho sự cần cù), và đưa ra câu hỏi: Những người này sẽ làm gì để hiểu được ngôn ngữ của Bóng tối?

Màn hình đáp lại như thể nó đang tự suy nghĩ, và từ cái mớ bòng bong những đường nét và ánh sáng, một chuỗi hình ảnh được hình thành rõ rệt một cách hoàn hảo: la bàn, rồi lại an-pha và ô-mê-ga, ánh chớp và thiên thần. Mỗi hình ảnh nhá lên trong một khoảng thời gian khác nhau, và rồi chuyển sang bộ ba khác: lạc đà, vườn, mặt trăng.

Lyra thấy ý nghĩa của chúng thật rõ ràng, cô bé thoát khỏi trạng thái đó để giải thích. Lần này, khi cô bé nhìn quanh, cô nhìn thấy tiến sĩ Malone đang ngồi trên ghế, mặt trắng bệch, nắm lấy mép bàn.

“Điều nó nói,” Lyra nói, “nó nói bằng ngôn ngữ của cháu, ngôn ngữ hình ảnh. Giống như Chân-kế. Nhưng nó cũng nói rằng nó cũng có thể dùng ngôn ngữ thông thường, những từ ngữ, nếu cô sắp xếp nó như thế. Cô có thể chỉnh lại điều này và nó sẽ đưa ra màn hình những từ ngữ. Nhưng cô sẽ phải cần rất nhiều trí tưởng tượng tỉ mỉ với những con số—đó là la bàn, cô thấy rồi đó. Còn ánh chớp có ý nghĩa là anbraic—ý cháu là điện năng, nhiều hơn thế. Và thiên thần—đó là toàn bộ lời nhắn. Có những điều mà nó muốn nói. Nhưng khi nó tiếp tục tới vòng thứ hai... Nó có ý nghĩa là Châu Á, vùng xa xôi nhất ở miền Đông nhưng cũng không hẳn. Cháu không biết đó là đất nước nào—có thể là Trung Quốc. Ở tại nước đó họ có một cách để trò chuyện với Bụi, ý cháu là Bóng tối, giống như cô có ở đây và cháu có với… có với những bức tranh, chỉ là họ sử dụng những que gậy. Cháu nghĩ điều đó ám chỉ bức tranh treo trên cửa kia, nhưng cháu không thật sự hiểu nó. Khi lần đầu tiên cháu thấy nó, cháu nghĩ là nó có cái gì đó rất quan trọng, chỉ là cháu không biết đó là cái gì. Cháu nghĩ là có rất nhiều cách để trò chuyện với Bóng tối.”

Tiến sĩ Malone gần như nín th

“Kinh Dịch,” co tiến sĩ nói. “Đúng, đó là của người Trung Hoa, một kiểu tiên tri—dự đoán tương lai, thật vậy... Và đúng, họ dùng những que đũa. Nó chỉ được treo ở đây để trang trí thôi,” cô nói như thể muốn trấn an Lyra rằng cô cũng không thật sự tin tưởng vào điều đó. “Cháu đang nói với cô rằng khi người ta tham khảo Kinh Dịch, thì tức là họ đang liên lạc với hạt Bóng tối? Với vật chất tối?”

“Vâng,” Lyra nói. “Như cháu đã nói, có nhiều cách lắm. Trước đây cháu không nhận ra điều này. Cháu đã nghĩ rằng chỉ có duy nhất một con đường.”

“Những hình ảnh trên màn hình...” Tiến sĩ Malone bắt đầu.

Lyra thấy một ý nghĩ nhá lên trong góc tâm trí mình, và cô quay lại với màn hình. Cô khó mà bắt đầu dựng nên được câu hỏi khi càng ngày càng có nhiều hình ảnh sáng lên, nối tiếp nhau thật nhanh đến nỗi tiến sĩ Malone không thể theo dõi chúng; nhưng Lyra thì biết rất rõ, quay lại bảo cô.

“Nó nói rằng cô cũng rất quan trọng,” cô bé nói với tiến sĩ. “Nó nói là cô có việc quan trọng phải làm. Cháu không biết là cái gì nhưng nó sẽ không nói nếu đó không phải là sự thật. Vì vậy, có lẽ cô phải bắt nó sử dụng từ ngữ để cô có thể hiểu được điều nó nói thôi.”

Tiến sĩ Malone im lặng. Rồi cô nói, “Được rồi, mà cháu từ nơi nào đến vậy?”

Lyra há hốc mồm. Cô bé nhận ra là tiến sĩ Malone, đến lúc này đã thoát được ra khỏi sự kiệt sức và nỗi tuyệt vọng, sẽ không bao giờ tự nhiên cho một đứa trẻ xa lạ chẳng biết đến từ nơi nào xem công việc của cô, và rằng cô ấy đang bắt đầu hối tiếc vì điều đó. Nhưng Lyra phải nói sự thật.

“Cháu tới từ một thế giới khác,” cô bé nói. “ự thật, cháu đã đi xuyên qua đây. Cháu... cháu phải chạy trốn, bởi những người ở thế giới của cháu đang săn đuổi cháu để giết chết cháu. Và chiếc Chân-kế này tới từ... từ cùng một nơi. Ông hiệu trưởng trường Jordan đã đưa nó cho cháu. Ở Oxford của cháu có một ngôi trường Jordan, nhưng ở đây thì không có, cháu đã xem qua rồi. Cháu đã tự mình tìm ra cách đọc Chân-kế. Cháu đã tìm ra cách tự làm cho đầu óc mình trống rỗng và cháu chỉ việc nhìn điều những bức tranh biểu thị thẳng ra cho cháu. Như là những gì cô nói về... nghi ngờ, bí ẩn và điều đó. Do đó, khi nhìn vào Hang, cháu cũng làm tương tự và nó cũng hoạt động tương tự, vì vậy Bụi của cháu và Bóng tối của cô cùng là một. Thế nên...”

Tiến sĩ Malone tỉnh hẳn. Lyra nhặt chiếc Chân-kế của cô lên, gói nó vào tấm vải nhung, giống như một người mẹ bảo vệ con của mình vậy, trước khi bỏ nó vào trong ba lô.

“Thế nên cách nào đi nữa, cô có thể tạo màn hình đó, nó có thể nói với cô bằng từ ngữ, nếu cô muốn. Sau đó cô có thể nói chuyện với Bóng tối như là cháu nói chuyện được với Chân-kế. Nhưng điều cháu biết được là, tại sao mọi người trên thế giới của cháu lại ghét nó nhỉ? Bụi, ý của cháu là Bóng tối. Vật chất tối. Họ muốn phá hủy nó. Họ nghĩ rằng nó là tội lỗi. Nhưng cháu nghĩ những gì họ làm mới là tội lỗi. Cháu đã thấy họ làm điều đó. Thế nó là cái gì, Bóng tối ấy? Nó tốt hay xấu xa, hay là gì nữa?”

Tiến sĩ Malone chà chà mặt, làm cho hai bên má cô lại đỏ ửng.

“Mọi thứ về nó đều rối tung rối mù cả,” cô tiến sĩ nói. “Cháu có biết đề cập tới tốt đẹp hay xấu xa trong một phòng thí nghiệm khoa học khó xử đến thế nào không? Cháu biết không hả? Một trong những lý do mà cô trở thành nhà khoa học chính là không phải nghĩ đến những thứ đại loại như thế.”

“Cô phải nghĩ vềiều đó,” Lyra nói rất nghiêm khắc. “Cô không thể khám phá ra Bụi, Bóng tối, bất kể thứ gì mà không nghĩ về nó rằng nó tốt hay xấu hay tương tự thế. Và nó nói là cô phải làm, cô nhớ đấy. Cô không thể cự tuyệt được. Khi nào thì họ đóng cửa trung tâm này?”

“Quỹ hỗ trợ quyết định là cuối tuần này... Sao vậy?”

“Bởi vì cô phải làm ngay tối nay,” Lyra nói. “Cô có thể chỉnh lại thông số để nó đưa từ ngữ ra ngoài màn hình thay vì những hình ảnh như cháu đã làm. Cô có thể làm điều này dễ dàng. Sau đó cô có thể cho họ thấy và họ sẽ tiếp tục tài trợ tiền cho cô để cô tiếp tục. Cô có thể tìm hiểu thêm tất cả về Bụi, hay là về Bóng tối và hãy nói với cháu. Cô thấy đấy,” cô bé tiếp tục, giống như một nữ công tước đang phản ánh lại điều không hài lòng về người hầu gái, “chiếc Chân-kế sẽ không nói chính xác những gì mà cháu muốn biết. Nhưng cô có thể tìm ra hộ cháu. Hoặc giả cháu có thể thực hiện cái món Kinh Dịch đó, với những cái gậy. Nhưng làm việc với hình ảnh dễ dàng hơn. Dù gì thì cháu vẫn nghĩ thế. Cháu tháo cái này ra giờ đây,” cô bé thêm vào rồi kéo những điện cực trên đầu mình ra.

Tiến sĩ Malone đưa cho cô bé một tờ giấy ăn để lau keo lỏng, rồi quấn dây nhợ lại.

“Cháu chuẩn bị đi à?” cô nói. “Ừm, cháu đã cho cô một giờ thật lạ lùng, thật sự đấy.”

“Cô sẽ làm cho nó ra từ ngữ chứ?” Lyra vừa nói vừa xốc lại ba lô.

“Nó sẽ hữu ích rất nhiều như là hoàn thành đơn xin trợ cấp, cô dám nói như vậy,” tiến sĩ Malone nói. “Khoan, nghe này. Cô muốn cháu quay lại đây vào ngày mai. Được không? Cũng khoảng thời gian này. Cô muốn cháu chỉ cho những người khác biết nữa.”

Lyra cụp mắt xuống. Liệu đây có phải là một cái bẫy hay khô

“Được ạ. Nhưng cô hãy nhớ những thứ mà cháu muốn biết.”

“Được. Tất nhiên rồi. Cháu sẽ tới chứ?”

“Vâng ạ.” Lyra đáp. “Nếu cháu nói là cháu tới thì cháu sẽ giữ lời. Cháu có thể giúp cô, cháu mong là như vậy.”

Rồi cô bé rời đi. Người gác cổng đang ngồi trên ghế, ngẩng lên nhìn thật nhanh rồi lại trở lại với tờ báo của ông.

”Cuộc khai quật Nuniatak,” nhà khảo cổ học vừa nói vừa xoay chiếc ghế. “Cháu là người thứ hai trong tháng hỏi ta về điều này đấy.”

“Thế người thứ nhất là ai ạ?” Will hỏi, ngay lập tức cảnh giác.

“Ta nghĩ là một nhà báo. Ta không chắc lắm.”

“Tại sao ông ấy lại muốn biết về điều này ạ?” cậu bé hỏi.

“Liên quan tới một người đàn ông đã mất tích trên con tàu đó. Đó là lúc cao trào của cuộc chiến tranh lạnh khi đoàn thám hiểm biến mất. Chiến tranh giữa các vì sao. Có lẽ cháu còn quá nhỏ để biết chuyện. Người Mỹ và người Nga đã xây dựng rất nhiều trạm rađa, tất cả đều qua Bắc cực... À mà, ta có thể làm gì cho cháu nào?”

Will cố gắng giữ cho mình thật bình tĩnh. “Thực ra cháu đang thử tìm hiểu thêm về đoàn thám hiểm. Cho một dự án của trường về con người tiền sử. Cháu đã đọc thấy rằng đoàn thám hiểm đã biến mất, cháu tò mò.”

“Cháu thấy đấy, cháu không phải là người duy nhất. Lúc đó ta phải làm cả một lượng công việc đồ sộ. Ta đã tra cứnó cho ông nhà báo. Đó là một cuộc khảo sát sơ bộ chứ không phải là một cuộc khai quật hoàn toàn. Cháu không thể làm một cuộc khảo sát cho đến khi cháu biết được rằng có đáng dành thời gian vào việc đó hay không, vì vậy nhóm khảo cổ này đã tìm ra một loạt vị trí và đã làm một báo cáo. Cứ hàng nửa tá một. Thỉnh thoảng, ở những cuộc thám hiểm như thế này cháu có thể hợp sức với những người ở ngành khác—cháu biết đấy, địa chất hay bất cứ ngành nào—để giảm chi phí. Họ nhìn vào những thứ của họ và ta nhìn vào những thứ của ta. Trong trường hợp này, đội của họ có một nhà vật lý. Ta nghĩ rằng anh ta đang tìm những hạt khí quyển bậc cao. Cực quang, cháu biết đấy, ánh sáng phương Bắc. Hình như anh ta có vài quả khí cầu và trạm phát radio.

“Có một người đàn ông khác nữa. Một cựu hải quân, một nhà thám hiểm dày dạn kinh nghiệm. Họ đi lên những vùng khá hoang sơ và gấu Bắc cực luôn là mối nguy hiểm ở Cực Bắc. Nhà khảo cổ học có thể xử lý được với nhiều thứ, nhưng chúng tôi không được huấn luyện để bắn, và nếu có ai đó có thể nã đạn, định hướng, dựng trại và làm tất cả những việc để tồn tại thì sẽ rất hữu ích.

“Nhưng rồi tất cả họ đều biến mất. Họ liên lạc với trạm khảo sát địa phương bằng radio, nhưng một ngày nọ tín hiệu đã không truyền đến, và họ không còn nghe được gì thêm. Có một trận bão tuyết đã xảy ra nhưng không có gì bất thường. Đội tìm kiếm đoàn thám hiểm đã tìm thấy trại cuối cùng của họ, ít nhiều còn nguyên vẹn, mặc dầu lương thực của họ đã bị gấu ăn hết. Nhưng không có dấu hiệu của bất cứ người nào. Ta e rằng đó là tất cả những gì mà ta có thể nói cho cháu biết.”

“Vâng,” Will nói. “Cảm ơn bác. Ừm... nhà báo đó,” dừng lại ở phía cửa, Will tiếp tục, “bác nói rằng ông ta quan tâm tới một trong những người đó. Ai vậy bác?”

“Một nhà thám hiểm. Một ngư̖ tên là Parry.”

“Trông ông ấy như thế nào hả bác? Ý cháu muốn hỏi nhà báo cơ?”

“Cháu muốn biết điều đó làm gì?”

“Bởi vì...” Will không thể tìm ra được một lý do thích đáng. Đáng nhẽ cậu không nên hỏi. “Không vì lý do gì. Cháu chỉ hỏi thôi.”

“Như ta còn nhớ thì ông ta là một người đàn ông to lớn có mái tóc mày vàng. Một mái tóc rất sáng.”

“Được rồi, cám ơn bác,” Will nói và quay đi.

Người đàn ông nhìn cậu bé đi khỏi, không nói gì cả, ông chỉ hơi cau mày. Khi Will nhìn thấy ông ta với tới điện thoại cậu liền nhanh chóng rời khỏi tòa nhà.

Cậu thấy mình đang run bần bật. Nhà báo đó, như người ta đã gọi, là một trong những gã đã tới nhà của mình: một gã to lớn có mái tóc màu sáng, trông giống như là không có lông mi hay lông mày vậy. Gã ta cũng không phải là người mà Will đã đẩy xuống cầu thang, gã ta chính là người đã xuất hiện ở cửa nhà cậu và cửa phòng ngủ của Will khi cậu chạy xuống và nhảy qua cái xác.

Nhưng hắn ta không phải là nhà báo.

Có một bảo tàng lớn gần đó. Will vào bảo tàng, tay cậu bé vẫn giữ bìa kẹp hồ sơ như thể cậu đang nghiên cứu vậy, rồi cậu ngồi trong một phòng trưng bày treo đầy tranh. Cả người cậu run rẩy, cậu cảm thấy mình như bị ốm, vì tất cả những điều vừa rồi nhắc rằng cậu đã giết chết ai đó, cậu là một kẻ giết người. Cậu đã giấu kín điều này, nhưng giờ đây nó lại trỗi dậy. Cậu đã cướp mất cuộc sống của một người đàn ô

Cậu ngồi bất động trong vòng nửa tiếng và đó là nửa tiếng tồi tệ nhất mà cậu trải qua. Mọi người vẫn tới và đi, nhìn vào những bức tranh, nói rất khẽ, họ lờ Will đi; một nhân viên bảo tàng đứng ở phía cửa trong vài phút, chắp tay đằng sau lưng nhưng rồi ông ta cũng đi; Will vật lộn với nỗi khiếp sợ của mình về những gì cậu đã làm, không hề cử động lấy một múi cơ.

Dần dần, cậu cũng cảm thấy mình bình tĩnh hơn. Cậu đã bảo vệ mẹ. Họ đã làm cho mẹ sợ hãi, làm cho bà ở trong tâm trạng rất xấu. Họ đã hành hạ mẹ. Cậu có quyền bảo vệ ngôi nhà mình. Bố chắc cũng muốn Will làm điều đó. Will đã làm vì nó là một điều tốt, để những gã đàn ông khỏi lấy mất cái cặp da màu xanh lá cây. Cậu làm việc này còn là để tìm ra bố; chẳng lẽ Will không có quyền làm thế ư? Tất cả những trò chơi tuổi thơ đã trở lại với Will, hai bố con giải cứu lẫn nhau khỏi những con thác hay là chiến đấu với hải tặc. Bây giờ nó đã thành sự thật. “Con sẽ đi tìm bố,” cậu thầm nói. “Hãy giúp con, con sẽ đi tìm bố và chúng ta sẽ cùng chăm sóc mẹ, mọi thứ rồi cũng sẽ qua...”

Và sau rốt, bây giờ, cậu cũng có nơi để ẩn náu thật an toàn và không ai có thể tìm ra cậu cả. Tất cả những giấy tờ trong cặp (cậu vẫn chưa có thời gian để đọc) vẫn được an toàn dưới tấm đệm ở Cittagazze.

Cuối cùng, Will để ý rằng mọi người đi lại có chủ đích hơn, và đều cùng về một hướng. Họ đang ra khỏi bảo tàng, bởi vì nhân viên ở đây đang nói với họ rằng họ sẽ đóng cửa bảo tàng trong vòng mười phút nữa. Will thu dọn đồ đạc và ra khỏi bảo tàng. Cậu tìm đường tới phố High, nơi có văn phòng của ông luật sư, cậu tự hỏi liệu mình có nên đi tới đó hay không mặc cho những gì cậu đã nói trước đây. Nghe ông ta có vẻ khá thân thiện…

Nhưng ngayậu quyết định băng qua phố vào văn phòng, cậu đột nhiên dừng lại.

Một người đàn ông cao lớn có cặp lông mày nhạt đang xuống ô tô.

Will nép về một phía, nhìn về phía cửa sổ cửa hàng nữ trang ngay bên cạnh. Cậu nhìn thấy một người đàn ông đang nhìn ra xung quanh, thắt lại cà vạt và đi vào văn phòng luật sư. Ngay khi gã này đi vào, Will liền tránh ra xa, tim cậu lại đập thình thịch. Chẳng có nơi nào an toàn cả. Cậu trôi giạt theo hướng thư viện trường đại học và đợi Lyra.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx