sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Chiếc Lexus và cây Ô Liu - Phần I - Chương 02 - Phần 1

2. Trao đổi thông tin

Trong khu bảo tàng khoa học tuyệt vời ở thành phố Barcelona, tôi thấy một hiện vật minh họa thật tuyệt cho “sự hỗn loạn”. Một quả lắc phi tuyến được dựng lên, cho du khách cầm vào và đẩy quả lắc bắt đầu từ một vị trí tự chọn, với vận tốc tự chọn. Chuyển động của quả lắc được quan sát và ghi lại trên một mảnh giấy. Sau đó du khách được yêu cầu làm lại lần nữa, vẫn vị trí như cũ, vận tốc như cũ.

Nhưng dù có cẩn thận đến đâu thì dao động của quả lắc trong những lần sau vẫn khác hẳn với lần đầu… Tôi hỏi giám đốc bảo tàng hai người đàn ông đang đứng chờ gì ở gần đó. Ông ta nói, “Ồ đó là hai anh chàng người Hà Lan đang chờ để mang “sự hỗn loạn” đi.” Hình như hiện vật này rồi sẽ được tháo ra và chuyển về Amsterdam. Nhưng tôi tự nhủ: ở nhiều nơi trên toàn cầu, dịch vụ của hai anh này thật sự có nhu cầu lớn – vì có rất nhiều tổ chức hiện đang rất cần có người loại bỏ cho họ những sự hỗn loạn. Murray Gell-Mann, tác giả cuốn The Quark and the Jaguar.

Cũng như nhiều người đang cố gắng tự điều chỉnh để nhìn nhận toàn cầu hóa cho rõ hơn, bản thân tôi cũng đang học hỏi thêm và tìm cho ra lăng kính mới để quan sát nó. Để giải thích thêm, tôi xin bắt đầu bằng một lời sám hối, mà lâu nay tôi những muốn được giãi bày? Ấy là: có thời tôi đã bịa đặt khi đưa tin về thời tiết ở Beirut.

Thực ra không phải tôi hoàn toàn bịa đặt. Làm như thế là sai. Tôi chỉ “phỏng đoán” thời tiết. Đó là vào năm 1979, tôi là một phóng viên tập sự làm việc cho hãng thông tấn UPI ở Beirut. Tôi thường phải làm ca đêm, và một trong những nhiệm vụ của người trực cuối cùng trong ca đêm là soạn dự báo thời tiết ở Beirut. Dự báo này sẽ được tổng hợp trong dự báo toàn cầu của UPI và được gởi cho các báo gồm nhiệt độ cao nhất và thấp nhất. Ngặt một nỗi là lúc đó không có nhân viên dự báo thời tiết ở Beirut, hoặc là có mà tôi lúc đó không biết. Đất nước này lúc đó đang có nội chiến và không ai mất công tìm hiểu về chuyện thời tiết làm gì. Còn sống được là may mắn lắm rồi. Thứ nhiệt độ mà mọi người quan tâm nhất ở Beirut lúc đó chính là thân nhiệt của mỗi người – ba mươi bảy độ C. Vậy thì tôi phỏng đoán thời tiết bằng cách hỏi quanh. Làm bản tin dự báo thời tiết lúc đó có nghĩa là tôi hô lên trong phòng hay gọi ra ngoài hành lang: “Ahmed ơi, hôm nay anh cảm thấy thời tiết ra sao?”

Và Ahmed hay Sonia hay Daoud hô đáp lại, “Thấy nóng đấy.”

“Khoảng ba mươi hai độ?” Tôi hỏi lại. “Đúng rồi, ông Thomas, ông nói thế nào cũng được”, có người trả lời. Và tôi sẽ viết vào bản tin, “Nhiệt độ cao nhất là ba mươi hai độ.” Sau đó tôi lại hỏi, “Giờ ở ngoài kia chắc mát rồi?” “Đúng thế, ông Thomas,” có người đáp lại. “Khoảng hai mươi hai độ, được không?” tôi hỏi. “Đúng rồi, ông Thomas, ông nói thế nào cũng được”, lại có người trả lời. Và tôi lại viết tiếp, “Nhiệt độ thấp nhất là hai mươi hai độ.” Và đó là tin dự báo thời tiết của tôi sản xuất từ Beirut.

Nhiều năm sau, khi làm việc cho mục Thương mại hàng ngày của The New York Times, tôi nhớ lại những giây phút như vậy. Lúc đó thỉnh thoảng tôi được giao viết tin hối đoái và thị trường chứng khoán. Thường thì mỗi khi các thị trường ngưng giao dịch, tôi phải gọi điện đến các tay môi giới để nắm giá đô-la lên hay xuống trong ngày so với các ngoại tệ mạnh khác, hay vì sao chỉ số Dow Jones lên hay xuống. Bao giờ tôi cũng ngạc nhiên khi thấy dù chỉ số đi theo hướng nào, giá đô-la lên hay xuống, thì cũng có nhà phân tích bao giờ cũng cho ra được một câu phân tích cô đọng, giải thích vì sao, chẳng hạn số lượng 1.200 tỷ đô-la giao dịch ở sáu châu lục, trong suốt hai mươi tư múi giờ đã dẫn đến việc giá đô-la tăng hay giảm nửa xu so với đồng Yên Nhật. Và chúng tôi ai cũng tin vào những giải thích như vậy. Nhưng trong thâm tâm, tôi có cảm giác là những nhà phân tích tài chính đó đã chơi xỏ tôi. Trong thâm tâm, tôi nghĩ không hiểu có phải họ làm như cái lối tôi viết bản tin thời tiết ở Beirut hay không. Như kiểu có người gọi quanh văn phòng của Merrill Lynch hay của Paine Webber theo lối “Này Ahmed, tại sao đô-la hôm nay lại xuống?” Và một tay môi giới, hoặc người thư ký hay người phục vụ sàn giao dịch lúc đó tiện đi qua đã đáp lại gì đó, thì thông tin đó sẽ được đăng vào trang báo ngày mai, như lời giải thích cho cung cách làm ăn của hàng ngàn giao dịch tài chính trên toàn cầu.

Năm 1994, tôi, phóng viên thương mại và tài chính cho tờ The New York Times, đã tường thuật cuộc đàm phán thương mại Nhật-Mỹ. Một buổi chiều, khi ngồi bên bàn làm việc, theo dõi tin thông tấn trên máy tính, tôi phát hiện hai mẩu tin của Reuters xuất hiện kế nhau: Giá đô-la tăng do lạc quan xung quanh đàm phán thương mại New York (Reuters) – Giá đô-la vào lúc đóng cửa hôm thứ Sáu tăng cao hơn so với các ngoại tệ hàng đầu khác, do mọi người lạc quan hơn rằng Hoa Kỳ và Nhật Bản sẽ sớm ký hiệp định thương mại. Cổ phiếu giảm giá do bất ổn xung quanh đàm phán thương mại New York (Reuters) – Giá cổ phiếu hàng đầu giảm vào cuối hôm thứ Sáu khi xuất hiện những bất ổn xung quanh cuộc đàm phán thương mại Mỹ-Nhật trước hạn chót cho việc ký kết, vào nửa đêm.

“Ahmed ơi, bạn nghĩ gì về cuộc đàm phán Mỹ-Nhật?”

Việc tôi soạn thảo tin thời tiết từ Beirut cũng như việc Reuters đưa tin về chứng khoán và hối đoái có ý nghĩa giống như việc lập lại trật tự, gạt bỏ những hỗn loạn – nhưng đã không mấy thành công trong cả hai trường hợp. Khi bắt đầu phụ trách cột đối ngoại của tờ The New York Times năm 1995, tôi biết là nếu còn muốn tồn tại lâu dài và giúp hiểu trật tự từ những vụ hỗn loạn, thì không thể làm cái điều tương tự như khi dự báo thời tiết từ Beirut. Vậy phải làm gì? Làm thế nào để giải thích cho được hệ thống toàn cầu hóa phức tạp này?

Câu trả lời ngắn gọn là phải đồng thời làm hai việc - quan sát thế giới qua nhiều lăng kính và đồng thời, truyền tải sự phức tạp ấy đến độc giả, thông qua những câu chuyện đơn giản, chứ không dùng những lý thuyết hào nhoáng. Tôi dùng hai phương pháp: “Trao đổi thông tin” để hiểu thế giới, và “kể chuyện” để giải thích thế giới.

Trao đổi thông tin là gì? Trao đổi – arbitrage là một thuật ngữ thị trường. Về lý thuyết, thuật ngữ này miêu tả hiện tượng cùng một lúc bán và mua cùng một loại chứng khoán, cùng một mặt hàng hoặc cùng một đơn vị tiền tệ từ các thị trường khác nhau để thu lời từ những chênh lệch về giá cả, do thông tin bất đối xứng. Người trao đổi thành công là người biết mỡ lợn được bán giá một đô-la một cân ở Chicago, và một phẩy năm đô-la một cân ở New York, vậy anh ta sẽ mua mỡ lợn từ Chicago và bán ở New York. Người ta có thể trao đổi trên thương trường và người ta cũng có thể trao đổi như vậy trong văn học. Chuyện xưa về Jose Ortega y Gasset, một nhà văn nổi tiếng người Tây Ban Nha, kể rằng ông ta “mua thông tin với giá rẻ ở London và bán chúng với giá cao hơn ở Tây Ban Nha”. Nhà văn này đã từng lê la ở các phòng khách lớn ở London, thu thập các câu chuyện, các kiến giải rồi dịch chúng sang tiếng Tây Ban Nha cho những độc giả Tây Ban Nha ở quê nhà. Nhưng dù anh là người buôn mỡ lợn hay buôn kiến thức, chìa khóa thành công là ở chỗ anh ta có một mạng lưới các tay trong thạo tin, rồi chắt lọc thông tin theo hướng làm ra lãi.

Ngày nay, hơn bao giờ hết, ranh giới truyền thống giữa chính trị, văn hóa, công nghệ, tài chính, an ninh quốc gia và hệ sinh thái đang dần mờ nhạt đi. Bạn thường không thể giải thích về một mặt mà không đề cập tới những mặt khác, và cũng không thể giải thích được toàn cục nếu không nhìn được tất cả các mặt. Cho nên, để trở thành một nhà phân tích và ký giả tin đối ngoại, mỗi người đều cần phải trao đổi thông tin từ nhiều nguồn có cái nhìn khác nhau, chắp nối chúng lại để dệt nên một bức tranh toàn cảnh thế giới. Nếu chỉ nhìn từ một hướng, người ta sẽ không thể vẽ được một bức tranh toàn cảnh. Đó là cốt lõi của “trao đổi thông tin.” Trong một thế giới có những liên hệ chặt chẽ tương hỗ, thì khả năng phân tích những mối quan hệ, điền vào những chỗ trống, chính là giá trị gia tăng nhà báo tạo ra. Nếu không nhìn thấy những mối liên hệ thì bạn sẽ không nhìn thấy thế giới.

Ước gì tôi có thể hiểu được điều này khi mới bước vào nghề báo. Tôi tìm ra được chân lý này chỉ do tình cờ, những thay đổi trong đời làm báo buộc tôi phải tìm thêm cho mình những lăng kính mới, vả lại cũng là để sống sót trong nghề. Xin kể lại sau đây câu chuyện của tôi:

Tôi bắt đầu nghề báo như một phóng viên thiếu hiểu biết nhất. Trong suốt thập niên đầu tiên trong nghề, tôi tường thuật “Cuộc chiến lớn nhất giữa những sắc tộc” – xung đột Israel-Ả Rập, đầu tiên từ Beirut, rồi sau đó đến Jerusalem, Israel. Trong những ngày đó, báo chí đối với tôi cơ bản là một hoạt động hai chiều. Báo chí là chính trị và văn hóa, vì ở Trung Đông, văn hóa của bạn quyết định chiều hướng chính trị bạn đang theo đuổi. Hay nói một cách khác, lúc đó với tôi, thế giới xoay quanh chuyện quan sát những người dân bám vào gốc rễ của mình nhưng lại cố đào trốc cây Ô liu của hàng xóm.

Năm 1981, tôi rời Jerusalem, sau một thập niên đóng tại Trung Đông, quay lại Washington, nơi tôi trở thành phóng viên thường trú về ngoại giao. Bài tường thuật đầu tiên trong cương vị mới là về buổi điều trần trước thượng viện Hoa Kỳ của Ngoại trưởng sắp được bổ nhiệm James A Baker. Rất ngượng nhưng tôi cũng phải thú thật, là trình độ cử nhân và thạc sĩ của tôi chủ yếu là về Ả rập và Trung Đông, và do cả nghề báo của tôi cho đến lúc đó là tường thuật tình hình Trung Đông, tôi thực không biết nhiều về những vùng khác trên thế giới. Và tôi thực sự không hiểu gì về những điều các thượng nghị sĩ chất vấn ông Baker, chẳng hạn Hiệp ước START, lực lượng Contras, Angola, CFE [Lực lượng quy ước đóng ở châu Âu], đàm phán giải trừ quân bị và khối NATO. Khi bước ra khỏi cuộc điều trần đó đầu tôi muốn vỡ tung. Tôi không biết chủ đề của bài tường thuật sẽ là gì. Tôi cũng không hiểu đến phân nửa những cụm từ nói tắt được đề cập trong cuộc điều trần. Tôi cũng không hiểu Contras là “quân ta” hay “quân địch,” và tôi nghĩ CFE là lỗi đánh máy nhầm vì đáng lẽ là CAFE nhưng thiếu mất chữ A. Trên taxi quay lại tòa soạn The New York Times, tôi mường tượng trong đầu một khả năng là vào ngày hôm sau tờ Washington Post chạy tít điều ông Baker bàn đến mà tôi bỏ qua. May mà có Michael Gordon phóng viên chuyên theo dõi hoạt động của Lầu Năm Góc, giúp tôi mới gom góp được một số điểm để viết thành một bài báo. Nhưng từ đó, tôi hiểu rằng cách nhìn hai chiều trong báo chí tôi sử dụng trước kia sẽ không còn phù hợp nữa. May thay sau đó, nhờ có bốn năm theo dõi tình hình ngoại giao và 500.000 dặm đi cùng đường với ông Baker, tôi thêm được một chiều nữa vào chính trị và văn hóa – đó là chủ đề an ninh quốc gia và cán cân lực lượng. Chủ đề mới bao gồm một loạt các vấn đề xoay quanh kiểm soát vũ khí, cạnh tranh giữa các siêu cường, quản lý đồng minh trong Chiến tranh Lạnh và quyền lực địa chính trị. Thế giới quan hai chiều của tôi nhờ đó đã thay đổi. Tôi nhớ có lần bay cùng chuyến với Baker sang Israel, máy bay bị đổi hướng, khi đến sân bay Tel Aviv, phải lượn hình vòng cung qua Bờ Tây sông Jordan trước khi hạ cánh. Tôi nhìn qua cửa sổ xuống vùng Bờ Tây, nghĩ: “Trên phương diện quyền lực thì khu vực này không còn mấy quan trọng. Thú vị thì có, nhưng quan trọng theo kiểu địa-chính trị thì không.”

Sau thời gian tường thuật ở Bộ Ngoại giao và một thời gian ngắn ở Nhà Trắng (may mà ngắn ngủi vì không ai coi đó là làm báo cả), tôi có thêm một lăng kính để phân tích. Đó là vào năm 1994, khi The New York Times yêu cầu tôi bắt tay vào một mục mới bàn về quan hệ tương hỗ giữa chính sách ngoại giao và nền tài chính quốc tế. Lúc đó, manh nha một khả năng là với sự kết thúc của Chiến tranh Lạnh cùng sự tan rã của Liên Xô, thì tài chính và thương mại sẽ có vai trò lớn hơn trong việc định hình các mối quan hệ quốc tế. Phụ trách mảng quan hệ giữa kinh tế và hoạch định chính sách an ninh quốc gia đã là một thử nghiệm đối với bản thân tôi cũng như đối với tờ The New York Times nói chung. Về lý thuyết, tôi được bổ nhiệm làm phóng viên Thương mại và Tài chính, nhưng do có kinh nghiệm với Bộ Ngoại giao và Nhà Trắng, tôi đề nghị kết hợp tất cả các chủ đề đó với nhau. Chúng tôi gọi lĩnh vực này bằng nhiều tên “Ngoại giao Thương mại”, rồi thì “Đối ngoại và Tài chính.” Lúc đó tôi nghiệm thấy hai điều: Trước hết, do hệ thống Chiến tranh Lạnh kết thúc, lĩnh vực này sẽ là nơi đẻ ra rất nhiều tin. Điều nữa, chưa có ai hoạt động trong lãnh vực này. Có rất nhiều phóng viên viết về đề tài thương mại, nhưng không động đến mảng ngoại giao. Có nhiều phóng viên tài chính, nhưng không tường thuật các tin an ninh quốc gia. Có nhiều phóng viên ngoại giao không đưa tin tài chính. Lại có những phóng viên Nhà Trắng chẳng quan tâm đến thương mại, tài chính hoặc chính sách đối ngoại, mà chỉ cắm đầu vào viết về những gì tổng thống nói và làm.

Tôi nghĩ, gắn thêm mảng thị trường tài chính vào đề tài chính trị, văn hóa và an ninh quốc gia cũng tựa như được đeo thêm một cặp kính, khiến cho bạn bỗng nhiên nhìn được cả bốn chiều của thế giới. Từ đó tôi thấy những mẩu tin tôi chưa từng thấy. Tôi thấy những mối liên kết nhân quả mà trước đó tôi không tài nào nhìn ra được. Và từ đó tôi cảm nhận được những bàn tay vô hình và những chiếc cùm có thể trói và cùm tay các vị nguyên thủ và các quốc gia, không cho họ hành động theo những chiều hướng nhất định… những điều trước đó tôi không thể tưởng tượng nổi.

Nhưng không gian bốn chiều rồi vẫn chưa đủ. Khi tôi được giao nhiệm vụ làm bình luận viên thời sự quốc tế, tôi dần dần nhận thức rằng cái thúc đẩy sự lên xuống của thị trường, định hình các mối quan hệ, các tương tác giữa quốc gia và cá nhân và cái thật sự hiện hữu là trung tâm của toàn cầu hóa chính là những tiến bộ trong công nghệ hiện nay – từ Internet tới hệ thống viễn thông qua vệ tinh. Tôi nhận thấy tôi không thể tự hiểu, chưa nói đến giải thích cho độc giả về những lực lượng đang định hình nền chính trị thế giới, nếu tôi mù tịt về những công nghệ mới đó – những công nghệ đang trao quyền về nhiều mặt cho con người, cho các chính phủ và các công ty. Ai kiểm soát súng đạn trong xã hội luôn luôn là yếu tố quan trọng. Nhưng ngày nay ai kiểm soát hệ thống điện thoại cũng quan trọng không kém. Đất nước của quý vị có bao nhiêu binh lính và bao nhiêu vũ khí hạt nhân – điều đó mang tính quyết định. Nhưng băng thông đường truyền Internet của bạn là bao nhiêu – điều đó cũng quan trọng không kém. Vậy là tôi phải bổ sung thêm một chiều mới – công nghệ – và trở thành một phóng viên với lăng kính năm chiều. Có nghĩa là bổ sung Thung lũng Silicon vào danh sách các thủ đô của thế giới như Moskva, Bắc Kinh, London, Jerusalem, nơi mà tôi cảm thấy phải thăm viếng ít nhất mỗi năm một lần, để cập nhật kiến thức cho bản thân.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx