Khi kinh tế của Hàn Quốc gặp khó khăn vào tháng 12 năm 1997, nước này công bố là dự trữ tiền tệ là ở mức 30 tỷ đô-la, nhưng trong thực tế họ chỉ có 10 tỷ đô-la. Và khi bầy thú phát hiện ra điều đó, thì chúng bỏ chạy. Cũng thời gian đó Chính phủ Seoul nói với IMF rằng toàn bộ vốn vay ngắn hạn từ nước ngoài là 50 tỷ đô-la. Nhưng một tuần sau đó họ nói lại, con số thực tế là 100 tỷ đô-la. Ối giời!
Sự thiếu minh bạch kiểu đó, như lời Richard Medley, một chuyên viên phân tích mức mạo hiểm chính trị cho các công ty tài chính, đã tạo ra những cơn hỗn loạn tồi tệ nhất. Thiếu minh bạch, ông ta nói, “chính là yếu tố tạo ra nhan nhản những người mang ảo tưởng cũng như đầu óc bi quan”. Hãy nhìn Thái Lan, Hàn Quốc hay Nga trong đầu thập niên 90. Khi còn vàng son, sự thiếu minh bạch trong các nền kinh tế đó đã tạo ra một hạng người ảo tưởng, thổi lên những bong bóng, khiến người ta dồn tiền vào những nơi này, tin rằng họ có thể thu lãi năm sau cao như năm trước. Mặc dù những khoản tiền đầu tiên được sử dụng đúng đắn vào các nhà máy có lãi, những khoản tiền sau đó đã được dồn vào những khu du lịch hoang phí và những cơ sở không thuộc nhu cầu. “Bạn không thể có những phân tích đúng đắn khi phải làm việc trong những hệ thống thiếu minh bạch”, Medley nói. “Khi [bầy thú] bị nhiễm những ảo tưởng lạc quan ở đất nước của bạn, chúng sẽ thi nhau đấu giá, kích giá lên cao chót vót. Những người có ảo tưởng lạc quan sẽ khuyên, ‘nhắm mắt vào mà mua, và chắc chắn, nhảy xuống cái bể đó bạn sẽ được an toàn vì trong bể có nước’. Tai họa là ở chỗ đó. Sự thiếu minh bạch khiến cho những người ảo tưởng tiếp tục kích giá, phóng đại tiềm năng. Rồi đến khi chúc đầu nhảy xuống thì tất cả những cơn mộng mơ về dự trữ ngoại tệ và mức lãi dự phóng, hết thảy đều sụp đổ”.
Bạn đi từ chỗ tin tất cả đến chỗ không còn tin gì. Những kẻ vỡ mộng trở nên hoảng loạn – anh ta ngờ rằng giờ đây khắp mọi nơi, đâu đâu cũng tiềm ẩn những khoản nợ xấu, những khoản nợ không có trên sổ sách. Trong mỗi đàn thú đều có những loại cả tin và loại đa nghi, và nếu tai họa xảy ra thì cơn lồng lộn của bầy thú sẽ bị những con thú đó làm cho tồi tệ hơn.
Bầy Thú Điện Tử đã dạy bài học đó cho nhiều quốc gia trong những năm gần đây. Ngày nay, Bộ Tài chính của Hàn Quốc gửi một email mỗi ngày đến cho các nhà đầu tư có hoạt động liên quan tới dự trữ tiền tệ của nước này, trong đó nêu thật rõ mức dao động vốn tư nhân. “Người Hàn Quốc, từ chỗ coi tính minh bạch không là gì cả, quay sang cho rằng tính minh bạch là tất cả,” giám đốc quản trị một quỹ đầu tư ở phố Wall nói với tôi, “nếu chúng tôi cần, thì họ cũng có thể chuyển cho cả một dự báo thời tiết.” Rich Johnson, người đứng đầu phòng đầu tư của Offitbank, một ngân hàng ở New York nói: “Khi sang Brazil, tôi nói với họ: “tôi cần phải thấy mọi thứ”. Tôi giải thích thẳng thắn, “Không phải cho riêng tôi. Tôi là bạn của quý vị. Tôi tin quý vị. Nhưng làm thế nào để quý vị hãy giúp tôi thuyết phục những kẻ hoài nghi?” Và những kẻ hoài nghi giờ đây đang nói với chúng ta: “Nếu không cởi bỏ hết trang phục cho chúng tôi được xem xét mọi nơi trên thân thể của bạn, thì tôi sẽ không đời nào giao tiền vào tay bạn đâu, vì quá khứ của bạn là cả một lịch sử thiếu minh bạch và gây nhiều thất vọng. Nếu không có tính minh bạch thì sẽ không có tiền. Tôi muốn được xem kỹ sổ sách của bạn. Xem ngược xem xuôi, xem ban ngày rồi đến đêm cũng xem”. Ngày nào tôi cũng tập hợp thông tin của tất cả các lĩnh vực trong kinh tế Brazil. Cuối ngày bao giờ tôi cũng nhận một báo cáo về những khoản lưu động vốn của Brazil trong ngày hôm đó. Tôi biết những gì xảy ra trong tài khoản thương mại của họ, trong tài chính, điều gì đã được chứng minh và ảnh hưởng tới mức lãi suất chính thức của ngân hàng trung ương và những gì xảy ra trong thị trường giao dịch của ngành du lịch Brazil. Báo cáo đó do một công ty tư nhân địa phương gửi đến, bao gồm những thông số chính thức từ ngân hàng nhà nước. Tôi có thể đầu tư thêm nếu hiểu rõ hoạt động trong các nhà băng nước này – mặc dù vẫn có những mức mạo hiểm nhỏ. Vì nếu có đầy đủ thông số tôi sẽ tính được các chi phí để đền bù rủi ro, và tôi có thể đổi ý nếu thấy không thuận lợi; nếu không tính toán có cơ sở thì tôi chỉ có việc đoán mò, như thế chắc chắn sẽ phá sản”.
Và một khi cam kết cho phép bầy thú được soi xét bản thân, bạn không còn đường thoát ra nữa, vì nếu làm như vậy, bạn sẽ phải trả giá đắt.
Các chuẩn mực
“Nếu viết về lịch sử các thị trường vốn của Hoa Kỳ,” Bộ trưởng Tài chính Mỹ Larry Summers có lần nhận xét, “tôi xin gợi ý rằng điều giản đơn nhưng quan trọng bậc nhất, khiến hình thành những thị trường vốn, đó là tập hợp các nguyên tắc kế toán được chấp nhận chung. Chúng ta cần thực hiện chúng trên môi trường quốc tế. Một trong những thành công nhỏ nhưng đầy ý nghĩa của IMF thể hiện qua việc một thầy giáo ở Hàn Quốc dạy môn kế toán kể với tôi là trước kia lớp học của ông trong kỳ mùa đông chỉ có 22 học trò, nhưng năm nay [1998] số lượng học trò là 385. Chúng ta cần điều đó ở quy mô doanh nghiệp. Chúng ta cần điều đó ở quy mô quốc gia”.
Một lý do khiến cho có sự bùng nổ số lượng các khóa kế toán ở Hàn Quốc có lẽ là do Bầy Thú Điện Tử. Sau cơn khủng hoảng 1997-98, chúng đã đòi hỏi phải có sự đào tạo các tiêu chuẩn kế toán đồng bộ ở mọi nơi. Khi nhìn sâu vào các công ty ở Hàn Quốc, Thái Lan hay Indonesia, chúng không thể hiểu được các dữ liệu kế toán, vì không có các bảng cân đối kế toán tổng hợp, tập hợp số liệu phản ánh hoạt động của các đơn vị và chi nhánh, khiến không thể thấy hết được tổng tài sản cũng như tổng số nợ, chưa nói số liệu các tài sản và nợ ngoài sổ sách.
Càng di chuyển đầu tư vào nhà máy hoặc các thị trường các nước, càng có thêm các nước muốn móc đầu tư từ bầy thú, càng có thêm các công ty nội địa muốn phát hành cổ phần trên thế giới, thì chúng càng phải chịu áp lực, buộc phải đào tạo để thích nghi với những tiêu chuẩn của thế giới về nghiệp vụ báo cáo tài chính.
Hãy tham khảo một ví dụ tôi tìm thấy trong tạp chí Hemispheres của hàng không United Airlines, số tháng 12 năm 1997. Tạp chí đăng tải về một trong những công ty phần mềm máy tính phát triển nhanh nhất thế giới, Infosys, của Ấn Độ. Tạp chí viết: “Chìa khóa dẫn đến thành công của công ty là việc họ xóa bỏ những chính sách và truyền thống hoạt động của Thế giới thứ Ba vốn dĩ đã khiến các công ty khác của Ấn Độ hoạt động khập khiễng và xúc tiến móc nối với Thế giới thứ Nhất, điều đó tạo thuận lợi rất nhiều cho khách hàng. “Từ đầu, chúng tôi đã quyết định sẽ không có sự nhập nhằng giữa tài sản công ty và của cá nhân”, Narayana Murthy, người sáng lập và chỉ đạo của công ty cho biết. Có nghĩa là không ai được phép dùng xe công ty vào nhu cầu cá nhân – đây là một bước tách khỏi truyền thống kinh doanh của Ấn Độ. Ở Ấn Độ xưa nay các nhà quản lý công ty thường lạm dụng tài sản của công ty cho nhu cầu cá nhân. Các kỹ sư điện của công ty thường đến làm cho tư gia của các xếp lớn hơn. Nhân viên đi làm về thường kết hợp đón con cái của các xếp lớn và thậm chí trông coi các cháu đó luôn. Các phòng tài chính giúp các nhân viên mua địa ốc cho nhân viên công ty. Nhân viên công ty thường phải chịu làm những chuyện như vậy vì không có lựa chọn nào khác. Hoàn cảnh đó đã khiến cho môi trường sáng kiến và cải tiến trở nên bị cô lập, xa lánh. Những vụ đó không xảy ra ở Infosys. Infosys là công ty Ấn Độ đầu tiên cho công bố kết quả kiểm toán hàng năm chỉ một tuần sau khi kết thúc năm tài chính; là công ty đầu tiên cho công bố các báo cáo tài chính hàng quý sau khi kiểm toán; và là công ty đầu tiên tuân thủ các Nguyên tắc Kế toán được chấp nhận chung của Hoa Kỳ và các đòi hỏi về sổ sách của Ủy ban Giao dịch Chứng khoán Hoa Kỳ. “Những báo cáo về tài chính và kế toán của Infosys đã tạo ra những chuẩn mực để các công ty khác noi gương và tuân thủ,’ một nhà phân tích đã đánh giá như vậy về Infosys”.
Khuynh hướng trên đang được giới môi giới Internet thúc đẩy. Buôn bán trên mạng, theo lời John T. Wall, Chủ tịch NASDAQ International, “chắc chắn khiến tăng hơn nữa hoạt động soát xét trình độ quản lý của các chính phủ và công ty. Một khi con người ta có thể đầu tư ra nước ngoài và thực hiện giao dịch trên mạng, họ sẽ đòi hỏi nhiều hơn thông tin về các công ty, và sau đó muốn biết liệu họ có tin được những số liệu đó hay không. Liệu những thông số tài chính có được lập nên theo đúng tiêu chuẩn kế toán quốc tế hay không? Chất lượng quản lý công ty đó đến đâu? Những yếu tố đó góp phần cân đối mức thuế vụ và các hệ thống pháp luật hữu quan.”
Theo một nghiên cứu của Hội nghị Thương mại và Phát triển của Liên hiệp quốc, một phát hiện trong cuộc khủng hoảng 1997-98 ở Á châu cho thấy phần đông trong số năm hãng kế toán lớn nhất của Hoa Kỳ, khi tham gia kiểm toán ở các hãng tài chính làm ăn thua thiệt ở vùng này, đã không công bố những khó khăn, trục trặc mà thân chủ của họ gặp phải. Lý do chính của vụ này, theo bài đăng trên The New York Times ngày 17/11/1998, là các hãng kế toán đó đã không áp dụng vào châu Á những nguyên tắc kế toán chặt chẽ và chi tiết giống như họ thực hiện ở Hoa Kỳ. Và nguyên nhân chính cho thấy các hãng kế toán lớn – như Pricewaterhouse Cooper hay Ernest & Young – đã vào làm ăn ở châu Á bằng cách mua sáp nhập các hãng kế toán vốn có ở vùng này, những cơ sở mà khách hàng của họ chỉ muốn thực hiện những quy tắc tài chính lỏng lẻo. Thực tế giờ đây không còn như vậy. Ngân hàng Thế giới đã đề nghị những hãng kế toán của Mỹ không được phê duyệt các hoạt động kiểm toán mà không tuân thủ những tiêu chuẩn quốc tế hiện hành. Nếu kiểm toán do các chi nhánh và đối tác địa phương của họ thực hiện thì chỉ những đối tác đó được ký vào – và giới đầu tư nước ngoài hãy cảnh giác. Nghiên cứu của Liên Hiệp Quốc cho biết kiểm toán tồi không phải là nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng, nhưng kiểm toán đúng đắn sẽ giúp phát hiện các lỗi lầm sớm và có thể giúp giảm hậu quả tai hại mà cuộc khủng hoảng gây ra.
Khi chúng ta đi dần vào một thế giới nơi Internet định hình cho thương mại, thì những tiêu chuẩn quốc tế ngày càng trở thành đòi hỏi lớn lao hơn, vì một lý do chủ yếu: vào lúc bạn quyết định dùng Internet để bán hàng hay cung cấp dịch vụ, từ lúc mở trang mạng đầu tiên, bạn đã trở thành một công ty toàn cầu – dù bạn có ở Ấn Độ, Ý hay Indianapolis. Làm ăn trên Internet tức là làm ăn trên toàn cầu. Vì thế bạn phải có tầm suy nghĩ toàn cầu và làm sao để có thể thu hút những người mua trên thế giới mua món hàng của bạn. Và bạn phải đảm bảo cho khách hàng tin rằng bạn sẽ giao hàng đúng hạn và an toàn, số tài khoản tín dụng của họ được bạn giữ kỹ lưỡng, tiền được chuyển đúng nguyên tắc quốc tế, luật lệ và quy tắc hành xử được tuân thủ và những thủ tục và vấn đề liên quan tới kế toán và thương mại được thực hiện theo thông lệ quốc tế. “Càng có nhiều thương vụ được thực hiện trên Internet từ khắp nơi trên trái đất, thì cung cách làm ăn ở nhiều nơi càng được hòa đồng và tiêu chuẩn hóa”, Bob Hormats, Phó chủ tịch hãng Goldman Sachs International lập luận.
Tôi đã nếm trải điều này khi sang Sri Lanka hồi cuối năm 1999. Khi đến nơi vào buổi sáng, tôi đi xe chừng hai tiếng ra ngoài thủ đô Colombo, đến thăm một trong những nhà máy dệt lớn nhất của Sri Lanka. Con đường đến nhà máy không đủ rộng, khiến chúng tôi phải chật vật tránh xe cộ và gia súc. Khung cảnh tiêu biểu của miền nhiệt đới. Rốt cuộc, chúng tôi đến được làng Pannala; nhà máy dệt hiện đại này đóng cạnh làng, với những nhà xưởng khang trang tươi màu sơn, thảm cỏ cắt xén đẹp đẽ và hệ thống ăng ten vệ tinh – khu nhà máy trông giống như vừa rơi từ sao Hỏa. Nhà máy này là của Slimline, một hãng dệt Sri Lanka, chuyên nhận hợp đồng từ các siêu thị Victoria’s Secret và của Marks & Spencer. Toàn bộ nhà máy được lắp đặt máy vi tính và được nối mạng Internet với chuỗi siêu thị Victoria’s Secret để thực hiện thương mại điện tử. Tổng cộng có 1.400 nhân viên, phần nhiều là nữ, tuổi từ 18, họ ngồi làm việc bên hàng hàng những máy khâu. Ai cũng mặc đồng phục và những phụ nữ mang thai thì đội mũ đỏ – họ được phép làm việc chậm hơn người khác. Nhà máy được gắn điều hòa không khí và rất sạch, đến mức có thể bày đồ ăn ra sàn. Ngày công dài tám tiếng nhưng cường độ lao động khá cao – mỗi công nhân phải hoàn thành định mức tính từng phút. Mỗi dây chuyền sản xuất được một máy tính theo dõi và định mức trung bình phải được thực hiện, nếu công nhân mong có thưởng. Lương công nhân trung bình là 80-100 đô-la một tháng, bao gồm cả ăn sáng. Hiện có một danh sách mọi người xếp hàng vào xin việc. Về điều kiện sản xuất, đây là một nhà máy đạt tiêu chuẩn quốc tế. Nếu không nói đến lương bổng thì tôi sẵn sàng cho con gái tôi xin vào làm ở đây.
Tôi hỏi Mahesh Amalean, chủ nhà máy, vì sao phải trang bị đẹp đẽ như vậy? Vì sao không phải chỉ là một xưởng đơn sơ? Chẳng phải ông ta sẽ thu lãi cao hơn nếu giảm chi phí trang bị cho xưởng? Không, ông ta trả lời, không được – vì lý do toàn cầu hóa. Biện pháp duy nhất giúp cho Sri Lanka tồn tại trong ngành dệt, đối phó với cạnh tranh từ những nơi rẻ mạt hơn như Trung Quốc và Brazil, là bước lên bậc thang chất lượng, sản xuất hàng chất lượng cao cho các hãng bán lẻ hàng hiệu danh tiếng trên toàn cầu. Ông ta giải thích, chạy đua để làm hàng rẻ với Bangladesh chẳng hạn, không phải là điều hay. Phương pháp duy nhất để giữ quan hệ với các hãng hàng hiệu lớn trên toàn cầu là phải sản xuất những sản phẩm có chất lượng ngày càng cao, cải thiện liên tục điều kiện lao động. “Những hãng hàng hiệu ngày nay đòi hỏi không những hàng chất lượng cao, giá rẻ và điều kiện lao động cho công nhân cũng phải tốt hơn”, Amalean giải thích. Điều đó không hẳn vì Victotia’s Secret bỗng chốc trở nên quan tâm đến phúc lợi xã hội mà vì giới tiêu dùng và sinh viên Hoa Kỳ ngày càng trở nên quan tâm đến các lợi ích xã hội sau khi họ chứng kiến những chiến dịch lớn phản đối những cơ sở hãng xưởng có điều kiện làm việc tồi, bóc lột công nhân. Những người tiêu dùng đó giờ đây tuyên bố với các siêu thị rằng họ không dùng những mặt hàng sản xuất trong những hãng xưởng bóc lột nhân công. Nói cách khác, một trong những lý do chính dẫn tới việc Sri Lanka cải thiện chất lượng các nhà máy dệt của họ không phải là muốn dựng chướng ngại chống toàn cầu hóa, mà bởi vì trong nền kinh tế toàn cầu ngày nay, để sống sót, các nhà sản xuất ở Sri Lanka đã phải ràng buộc bản thân họ với các hãng bán lẻ lớn ở phương Tây. Càng làm như vậy, nhà máy của họ càng phải được nâng cấp để khớp với những tiêu chuẩn mà hiện nay giới tiêu dùng phương Tây đòi hỏi. “Khi những nhân viên phụ trách mua bán của Victoria’s Secret và các hãng khác đến thăm nhà máy, một trong những điều trước tiên họ hỏi chính là điều kiện làm việc của nhà máy”, Amalean nói. “Họ phải chất vấn, vì đó là điều khách hàng của họ muốn biết”.
Vài ngày sau khi thăm nhà máy dệt, tôi đến ăn sáng với một nhóm các nhà doanh nghiệp Internet trẻ. Nhiều người trong bọn họ phàn nàn là một lý do cho thấy các công ty non trẻ của họ không sáng tạo được các phần mềm mới là vì hiện nay chưa có luật lệ địa phương nào về vấn đề bản quyền để chống việc đánh cắp các sáng tạo. Họ cũng phàn nàn về việc Microsoft chưa muốn vào thị trường Sri Lanka vì hiện nay nước này chưa có luật bảo vệ tác quyền. Về điều này, Lalith B. Gamage, đứng đầu Viện Công nghệ Thông tin của Sri Lanka phát biểu thẳng thắn rằng để thu hút Microsoft và các hãng công nghệ lớn, chính phủ đang gấp rút thông qua một dự luật về bảo vệ tác quyền. Và ông ta hứa với những người ngồi xung quanh là đạo luật đó sẽ được thông qua trong vòng một năm. Khi lắng nghe những bàn cãi như vậy, tôi nghĩ rằng không rõ Bill Gates có biết về ảnh hưởng của công ty của ông ta ở đất này ra sao không.
Giải pháp toàn cầu như trên không chỉ xuất hiện ở các nước đang phát triển. Có lẽ ví dụ lớn nhất thế giới về cách mạng toàn cầu, áp đặt các tiêu chuẩn quốc tế ở mọi nơi, thể hiện trong quyết định của Liên hiệp châu Âu ấn định một đồng tiền chung, một ngân hàng chung và một hệ thống tiêu chuẩn tài chính chung – một tấm áo nịt nạm vàng chung – cho toàn bộ thành viên của Liên hiệp. Đối với Ý, một đất nước mang tiếng có một chính phủ tham nhũng và thiếu hiệu lực, thì Liên hiệp Tiền tệ châu Âu, ra đời năm 1999, là một thứ của trời cho. Liên hiệp này buộc nước Ý phải mặc chiếc áo nịt bằng cách chuyển giao một số chức năng của chính phủ Ý sang cho Ngân hàng châu Âu, đóng tại Frankfurt. Đài phát thanh của nhà nước đã phát một bản tin từ nước Ý năm 1997 về việc người dân Ý – sau một thế hệ chịu đựng việc chính phủ quản lý tiền tệ yếu kém – đã hối thúc để Liên hiệp châu Âu vào quản lý đất nước của họ. Mario Abate, một luật sư thương mại người Ý được trích dẫn, “Một trong những hiệu quả trông thấy của việc gia nhập đồng tiền chung châu Âu, đồng euro, là sự xuất hiện của nhiệm vụ tôi gọi là ‘việc quét dọn nhà cửa’ – chính phủ đã bị buộc phải ra tay giải quyết thâm hụt ngân sách, kiểm soát lạm phát và chi tiêu của chính phủ. Họ bị buộc phải làm điều đó. Và hiển nhiên, khi làm điều đó, nền kinh tế sẽ được lợi và đó là điều tôi rất tán thành”. Abate nói thêm rằng đa số dân chúng Ý có lẽ sẽ rất mừng khi các viên chức châu Âu đích thân sang quản lý đất nước của họ. Không thấy có sự phản ứng nào từ nước Ý nhằm vào những trung tâm quyền lực của châu Âu đóng ở Brussels,Frankfurt và Strasbourg. “Có nhiều hiềm khích nhằm vàoRome hơn”, Abate kết luận, “vì đối với chúng tôi, Rome là tượng trưng của một trung tâm tội phạm. Họ ăn cắp tiền của chúng tôi. Chúng tôi coi đó là hành động ăn cắp, vì họ thu tiền và không thấy trả lại”. Bộ trưởng Tài chính Ý, ông Vincenzo Visco nói với tờ báo La Republica vào đầu năm 1999 khi đồng euro bắt đầu được lưu hành, rằng từ nay “sẽ không còn những trò lố bịch xấu bụng” trong giới chính trị gia và doanh gia người Ý, những người trước đó đã thể hiện “quá thừa những hành vi phi pháp”. Liên hiệp tiền tệ châu Âu, ông ta nói thêm, “có nghĩa là chúng tôi sẽ không còn có thể chấp nhận những tiêu chuẩn thấp kém chỉ vì chúng làm chúng tôi dễ sống hơn”.
Đó chính là lối nói của một nhà cách mạng toàn cầu.
@by txiuqw4