Tất cả các yếu tố đó tập hợp trở thành một đất nước có khả năng cạnh tranh. Hoa Kỳ ngày nay đã có được một nền văn hóa và xã hội trong đó cho phép phá cũ, sáng tạo và xây mới. Alan Greenspan một lần đã chỉ ra rằng vào giữa năm 1999, mỗi tuần có khoảng 300.000 việc làm ở Mỹ bị công nghệ mới xóa sổ. Nhưng chính công nghệ mới đã tạo ra 300.001 việc làm mới trong một tuần đó, cũng ở Mỹ. Chính vì thế nạn thất nghiệp ở Mỹ vẫn được giữ ở mức thấp. Các công ty Mỹ dễ dàng sa thải nhân viên, dùng máy móc thay thế họ, không ngần ngại mua kỹ thuật mới. Nhưng khi làm điều đó, họ có thêm khả năng dễ dàng tuyển dụng nhân viên mới.
Ngược lại, ở châu Âu và Nhật Bản, rất khó có thể sa thải công nhân. Hãy tưởng tượng khi linh kiện tự động trả lời điện thoại được sử dụng giúp bạn có thể dẹp đi 10 nhân viên tổng đài. Nhưng một công ty ở Tây Âu sẽ mua linh kiện đó nhưng vẫn giữ 10 nhân viên tổng đài đó lại, hoặc trả rất nhiều tiền đền bù cho họ thôi việc. Kết quả sẽ là hoặc công ty đó rất ngần ngại trong việc tuyển người mới, hoặc ngần ngại trong việc mua và áp dụng kỹ thuật mới vì nó sẽ không đủ tiền để mua kỹ thuật đồng thời trả lương cho những nhân viên mà kỹ thuật đó thay thế nhưng vẫn nằm lại công ty, hoặc có thể họ ra đi nhưng phải được đền bù nhiều. Như vậy đầu tư mới sẽ không mang lại lợi nhuận đáng kể. Nhân nói về điều này ta có thể nhận xét rằng bước ngoặt trong lịch sử Hoa Kỳ trước khi bước sang thiên niên kỷ mới là khi Ronald Reagan quyết định sa thải toàn bộ số nhân viên hoa tiêu hàng không đã đình công vào năm 1981. Không một sự kiện nào lớn hơn thế trong việc đánh dấu sự thay đổi trong tương quan lực lượng giữa chủ và nhân viên, mở đường cho các công ty Mỹ mặc sức sa thải nhân viên, áp dụng kỹ thuật, rồi lại mặc sức tuyển lao động mới. Chẳng có thế mà sau đó, hàng triệu việc làm ở Mỹ đã bị xóa sổ đồng thời hàng triệu việc làm mới được hình thành cũng ở Mỹ trong những năm 90. Trong khi đó các thị trường nhân lực ở châu Âu tiếp tục trì trệ, và mức thất nghiệp đứng ở 12 phần trăm.
Kiến trúc sư của chúng ta sẽ thiết kế một đất nước trong đó người ta căm ghét những tập đoàn được chính phủ bảo hộ, buộc mỗi công ty và mỗi ngân hàng phải vật lộn để tự tìm chỗ đứng, nhưng sự độc quyền thì sẽ không được dung tha. Đó là điều quan trọng, bởi vì khi một công ty Mỹ, như Microsoft chẳng hạn, trở thành đầu tàu được ngưỡng mộ trên thế giới, thì nó vẫn phải ra trước cơ quan chống độc quyền của Bộ Tư pháp Mỹ để chịu chất vấn. Đó là một trong những thế mạnh tiềm ẩn lớn nhất của Mỹ. Những người cho rằng để bảo tồn sức mạnh, nước Mỹ sẽ phải dung túng những công ty như Microsoft chẳng hạn – cho nó làm gì tùy ý – đã hoàn toàn sai lầm. Thực tế cho thấy một nhóm người trong Bộ Tư pháp, lương 75.000 đô-la Mỹ mỗi năm, có thể đứng ra thách thức Microsoft, một công ty lớn nhất nước Mỹ, và thắng cuộc – đó chính là nguồn sức mạnh của Mỹ. Bao giờ cũng có thể có một công ty khác xuất hiện, cạnh tranh với Microsoft, một khi cơ quan chống độc quyền của Bộ Tư pháp vẫn còn đó và có khả năng dẹp bỏ các tập đoàn độc quyền, và một khi vẫn có những chánh án như Thomas Penfield Jackson, dũng cảm phân xử và kết án các tập đoàn độc quyền. Điều trớ trêu là tháng 11 năm 1999, khi Jackson phán quyết rằng Microsoft có hành vi độc quyền và gây hại đối với người tiêu dùng ở Mỹ, trùng vào tuần lễ kỷ niệm 10 năm Bức tường Berlin sụp đổ. Những người đạp đổ bức tường đó đã nóng lòng mong đợi những gì ở bên kia bức tường? Chắc chắn là họ mong những thứ mà Bill Gates bán – Windows, Disney World, McDonald’s và một cuộc sống tốt đẹp. Nếu có một điều những xã hội hậu cộng sản nhận ra trong vòng 10 năm qua, thì đó chính là việc pháp chế đóng vai trò nền móng của sự thịnh vượng của nước Mỹ. Như nước Nga đã nhanh chóng nhận thấy nếu không có nhà nước pháp quyền thì sẽ không có thịnh vượng. Chính hệ thống quản lý bằng luật pháp của Hoa Kỳ, trong đó không một cá nhân hay công ty nào đứng trên luật pháp, là cốt lõi của phong cách Mỹ. Cũng như những người khác, tôi rất buồn khi nghe tin có người Trung Quốc bị tố cáo đã đánh cắp các bí mật hạt nhân của Mỹ hồi năm 1999. Không thể dung tha được điều đó. Nhưng tôi cũng cảm thấy nếu quả thực họ đã làm điều đó thì cũng vô ích. Vì bí mật lớn nhất của chúng tôi – nguồn sức mạnh của người Mỹ – là điều mà không ai có thể đánh cắp. Đó là lối sống Mỹ. Nhưng nếu họ bắt đầu bắt chước lối sống đó, thì tôi sẽ bắt đầu lo lắng. Nếu họ chỉ đánh cắp các bí mật quân sự thì họ phải hiểu rằng, ngay sau khi bị mất cắp, thì hệ thống chúng ta sẽ cho ra đời một phát kiến tốt hơn.
Kiến trúc sư của chúng ta sẽ thiết kế một đất nước có lòng bao dung với những người có lối sống khác thường, ví dụ những anh chàng để tóc kiểu đuôi ngựa, hay những cô nàng gắn vòng lên cánh mũi, chính họ cũng có thể là những người giỏi toán và giỏi thiết kế phần mềm vi tính. Hoa Kỳ là đất nước mà phút trước có người đứng lên bỏ cuộc: “Điều đó không thể làm được,”thì sẽ có ngay một người khác bước vào tuyên bố: “Tôi vừa thực hiện thành công điều đó.” Avram Miller, Phó chủ tịch của hãng Intel, nói: “Người Nhật không hiểu được điều đó, vì họ chú trọng vào sự đồng bộ. Nếu phải sản xuất hàng tỷ mặt hàng giống hệt nhau, thì người Nhật là chuyên gia hàng đầu trên thế giới, và chúng tôi vì thế cứ nghĩ họ là thần đồng. Nhưng ngày nay, thế giới không muốn có nhiều mặt hàng giống hệt nhau, đồng bộ. Và trong thế giới ngày nay, nơi có người này thích thứ này, người kia thèm thứ khác – và công nghệ cho phép có thể sửa đổi điều chỉnh [cho thị hiếu riêng của từng khách hàng] – thì Hoa Kỳ quả là có lợi thế.”
Kiến trúc sư của chúng ta sẽ thiết kế một đất nước trong đó các tập đoàn công ty, không như loại ở châu Âu và Nhật Bản giữa những năm 90, sẵn sàng giảm biên chế, rút gọn sản xuất, tư hữu hóa, mở rộng quan hệ đối tác, thay đổi cấu trúc quản lý… để tận dụng các trào lưu dân chủ hóa tài chính, thông tin và công nghệ, và tránh được chứng suy giảm hệ miễn nhiễm đối với microchip. Nước Mỹ xưa kia đã thắng trong cuộc chạy đua trong không gian, ngày nay nước Mỹ đang thắng thế trong cuộc cạnh tranh điện toán. Tính bình quân đầu người, các công ty Hoa Kỳ tiêu tiền vào công nghệ thông tin cao hơn bất cứ nơi nào khác trên thế giới.
Kiến trúc sư của chúng ta cũng sẽ thiết kế một đất nước làm ăn hăng say và một hệ thống thuế cho phép các nhà đầu tư và nhà cải tiến thành công có thể giữ lại những phần doanh thu của họ do được ưu đãi thuế, và như thế khuyến khích người ta ngày càng làm giàu thêm. Trong một đất nước lý tưởng, Horatio Alger sẽ không phải là một nhân vật tưởng tượng, mà có thể là người hàng xóm của chúng ta – một người bình thường, kỹ sư của Intel hay America Online khi mới khởi nghiệp, và được trả quyền tùy chọn cổ phiếu nay có giá trị khoảng 10 triệu đô-la.
Kiến trúc sư của chúng ta cũng sẽ thiết kế một đất nước vẫn bảo tồn được những khu vực môi trường hấp dẫn, mở rộng, những thị trấn nhỏ và xinh để hấp dẫn các nhân lực tri thức. Vì ngày nay, nhờ có Internet, máy fax và dịch vụ chuyển phát nhanh, các hãng công nghệ cao và nhân lực tri thức của họ có thể chạy trốn khỏi những trung tâm thành phố đến đóng ở bất cứ nơi nào họ muốn. Có được những thung lũng xanh tươi, gần biển và gần núi là điều lý tưởng. Chính vì thế những bang Idaho, Washington, Oregon, Minnesota và Bắc Carolina đang trở thành các trung tâm công nghệ cao ngày nay.
Kiến trúc sư của chúng ta cũng sẽ thiết kế một đất nước coi trọng sự lưu thông thông tin đến mức nó bảo vệ quyền của cả những người hoạt động trong ngành tranh ảnh khiêu dâm và những kẻ phân biệt chủng tộc tồi tệ nhất. Đó cũng là một lợi thế. Vì trong một thế giới mà thông tin, tri thức, hàng hóa và dịch vụ trôi nổi qua lại nhanh chóng, kể cả trên mạng điện toán, những đất nước duy trì được sự cởi mở, ứng phó được với những hỗn loạn thỉnh thoảng vẫn xảy ra, những đất nước cạnh tranh trên cơ sở tri thức, không lẩn tránh – sẽ có lợi thế. Hoa Kỳ, với Bộ luật Tự do Thông tin, không cho phép chính phủ giữ bí mật được lâu, đã xây dựng được một nền móng văn hóa của sự cởi mở và minh bạch.
Và, quan trọng nhất, kiến trúc sư của chúng ta sẽ thiết kế một đất nước có những công ty đa quốc gia cùng những doanh nghiệp nhỏ tiếp tục nhìn xa trông rộng, nhìn toàn cầu và phát triển trong một môi trường tốc độ nhanh, nhẹ, kết nối, và giàu tri thức. Hoa Kỳ hiện đạt được mức hoàn hảo trong các ngành thiết kế phần mềm, vi tính, thiết kế, tiếp thị qua Internet, ngân hàng thương mại, email, bảo hiểm, cải biến gene, tri thức nhân tạo, ngân hàng đầu tư, y tế, đại học, chuyển phát nhanh, thức ăn nhanh, quảng cáo, công nghệ sinh học, truyền thông, giải trí, khách sạn, xử lý rác, dịch vụ tài chính, viễn thông và công nghệ cho môi trường. Đó là thế giới hậu công nghiệp, và Hoa Kỳ ngày nay đang đi đầu trong tất cả các ngành hậu công nghiệp.
Trong một thế giới được-thì-ăn-cả, Hoa Kỳ giờ đây đã hình thành ít nhất là một hệ thống được-thì-ăn-nhiều. Điều đó khiến Hoa Kỳ trở thành một siêu cường độc đáo. Sức mạnh của nó đã vượt khỏi mức thông thường. Nó có một đội quân thường trực lớn mạnh, có hàng không mẫu hạm, phản lực, máy bay vận tải và vũ khí hạt nhân nhiều hơn trước, vì thế, hơn những nước khác, nó có thể chuyển quân đi xa và đi sâu vào thế giới. Việc Hoa Kỳ có máy bay ném bom tàng hình tầm xa B-2 và đang phát triển máy bay tầm gần F-22 có nghĩa là Hoa Kỳ có thể bay vào không phận của bất cứ quốc gia nào mà vẫn không bị phát hiện. Đồng thời, như nói chi tiết ở trên, Hoa Kỳ đã đi đầu trong tất cả những lĩnh vực thuộc thời toàn cầu hóa.
Nhưng xin nhớ cho: Mới một thập kỷ trước, người Á và người Âu dường như chiếm thượng phong, lúc đó ai ai cũng tin rằng Hoa Kỳ đang vào thời suy vong. Giờ đây, như John Neuffer, một nhà phân tích người Mỹ ở Viện Nghiên cứu Tokyo nói với báo The New York Times, mọi sự đã xoay chiều: “Nhật Bản chưa thấy được ánh sáng ở cuối đường hầm, và Hoa Kỳ chưa thấy được bờ vực để rơi.”
Điều đó không có nghĩa là sẽ không có cái bờ vực đó. Bao giờ cũng sẽ có loại bờ vực đó. Với bất cứ lợi thế mà Hoa Kỳ tự có, nước này vẫn phải tự sắp xếp những điều kiện và khả năng đúng đắn để có thể cạnh tranh. Hoa Kỳ vẫn phải đảm bảo rằng năng suất - khả năng cung ứng hàng hóa và dịch vụ với giá thấp và chi phí thấp, để tiền lương có thể tăng nhưng lạm phát vẫn bị kiểm soát – tiếp tục tăng. Mức tăng năng suất nhanh chóng ở Mỹ trong những năm 90 là một hiện tượng do tiến bộ kỹ thuật tác động, nhưng giờ đây chưa ai có thể đoán được mức tăng trưởng của Hoa Kỳ sẽ nhanh hay chậm trong thời gian tới. Nhật Bản, hiện nay vẫn còn nhiều thế yếu, nhưng họ vẫn là chủ của nhiều ngành sản xuất rất hiệu quả, với mức tích lũy cao và một đội ngũ nhân lực rất cần mẫn. Nhật Bản vẫn là đầu tàu sáng tạo trong những lĩnh vực như sản xuất dùng kỹ thuật cao, quản lý sản xuất và hàng điện tử. Có rất nhiều thương gia giỏi người Nhật đang bị cơ chế của Nhật khiến cho khó phát huy tài năng. Những sự bấp bênh trong kinh tế vĩ mô của người Nhật trong những năm 90 đã không kích thích tăng trưởng ở nước này – ngược lại chúng đòi hỏi phải có sự điều chỉnh. Khi mà người Nhật và Tây Âu vẫn bám giữ những cơ chế cứng nhắc và bao cấp của họ – khiến cho tư bản không năng động, sáng kiến bị thui chột, thì họ chưa thể là đối thủ của người Mỹ. Nhưng trong toàn cầu hóa, khi nước Mỹ càng tiến xa hơn, thì tôi dự kiến, những nước đó sẽ bắt chước. Những sự điều chỉnh không tránh được này có thể gây đau thương, nhưng là điều bắt buộc đối với họ, nếu họ muốn duy trì mức sống như ngày nay.
Không phải vì trong những xã hội đó không có những bộ óc doanh nghiệp phù hợp với thời đại. Óc của Pháp cũng giống óc của Mỹ. Câu hỏi duy nhất là: bối cảnh kinh tế và xã hội ra sao để phát huy tài năng từ những bộ óc đó? Lý do vì sao nhiều kỹ sư phần mềm người Pháp theo nhau sang Thung lũng Silicon là vì họ cảm thấy không thể làm ăn được trong hệ thống của nước Pháp ngày nay. Ngày 21/3/1998, tờ Washington Post đăng bài về nạn chảy máu chất xám từ Pháp sang Thung lũng Silicon, chỉ ra nguyên nhân nằm ở chỗ khả năng linh hoạt của hệ thống Hoa Kỳ: Reza Malekzadeh, một sinh viên 24 tuổi, tốt nghiệp từ một trong những đại học về thương mại tốt nhất của Pháp đã chuyển sang Hoa Kỳ, đổi việc làm ba lần trong ba năm và đã trở thành giám đốc điều hành cho hãng Softway International, Inc., tại San Francisco. “Ở Pháp tôi không thể làm được những điều như tôi đang làm ở đây,” anh này nói. “Ở Pháp, đến lúc bạn 50 tuổi mà người ta vẫn nói về bạn như là một [sản phẩm] của cái trường mà bạn đi học. Ở đây người ta chỉ quan tâm tới những gì bạn làm được, không quan tâm đến bạn bao nhiêu tuổi hay đi học trường nào 15 năm trước đây.” Anh ta nay là một trong số 40.000 công dân Pháp đang sống ở vùng Bắc California. Nếu hoàn cảnh ở Pháp thay đổi thì chắc chắn những người Pháp đó sẽ lại theo nhau hồi hương, và những người Pháp khác sẽ ít sang Thung lũng Silicon hơn.
Đó là lợi thế mà Hoa Kỳ lúc này cần tận dụng, để đối phó với những khó khăn thực sự: nạn tội phạm trong các thành phố, sự thiếu thốn luật pháp trong việc kiểm soát vũ khí, hố ngăn cách giàu nghèo, trường công lập thiếu vốn, nền văn hóa thích khiếu kiện khiến nản lòng những doanh nghiệp lớn nhỏ, một hệ thống an sinh xã hội không đủ tài chính, một hệ thống thẻ tín dụng khiến cho dân chúng chi nhiều hơn thu rồi lâm vào nợ nần, và cả một hệ thống chính trị ngày càng bị tham nhũng và gây hại khiến các luật lệ về thương mại không còn chặt chẽ. Giải quyết những khó khăn đó sẽ làm cho việc hội nhập toàn cầu hóa sẽ thuận tiện hơn.
Tôi rất hy vọng là Hoa Kỳ sẽ tận dụng một cách thông minh những nguồn tài sản của mình, và tôi không nghĩ chỉ có mình tôi là người có tư tưởng lạc quan đến thế. Nhưng nếu Hoa Kỳ chủ quan thì phát triển sẽ trở thành trì trệ – mặt trời lên thì sẽ có lúc mặt trời lặn. Chính vì thế bao giờ tôi cũng tin vào câu nói của Bộ trưởng Tài chính Larry Summers, nói về Hoa Kỳ trong những năm 90: “Điều duy nhất khiến chúng ta lo sợ chính là khi nghĩ rằng chúng ta không sợ một điều gì cả.”
@by txiuqw4