Quả là Trung Quốc đã thu hút được mức độ đầu tư trực tiếp từ nước ngoài vào một số xí nghiệp nhất định, nhưng đồng nội tệ của họ chưa hoàn toàn có khả năng chuyển đổi thành ngoại tệ, và hiện nay ở đó không có một thị trường công trái và cổ phiếu để người nước ngoài tự do tham gia. Và ở Trung Quốc hiện có hiện tượng tư bản câu kết làm nản lòng các nhà đầu tư từ bên ngoài. Một ví dụ về hiện tượng tham nhũng được đưa ra ánh sáng vào tháng 10/1998 trong một mẩu tin nói rằng trong tổng số 65 tỷ đô-la dành cho việc mua lương thực của nông dân từ năm 1992 thì 25 tỷ đô-la, gần 40 phần trăm, đã “biến mất.” Theo tạp chí Times (2/11/1998), phần nhiều trong số tiền thất thoát đó đã được các viên chức chính phủ sử dụng vào việc xây cao ốc, đầu cơ tài chính và mua xe hơi và điện thoại di động. Khó khăn của Trung Quốc là ở chỗ họ không thể hùn vốn từ Bầy Thú Điện Tử đủ để cải tạo các doanh nghiệp quốc doanh – chiếm một nửa nền kinh tế – nếu họ không nâng cấp hệ điều hành từ mức DOS 1.0 lên mức DOS 6.0, và nếu họ không cài đặt các phần mềm pháp chế.
Chính vì thế mà bạn không thể kẻ một đường thẳng để đánh dấu Trung Quốc ngày nay phát triển đến ngày Trung Quốc 20 năm sau, rồi đoán rằng nước này sẽ trở nên giàu hơn, có hệ thống toàn trị giàu hơn. Nói như vậy là sai lầm. Trước sau Trung Quốc sẽ vấp phải những giới hạn do chính họ đặt ra. Bởi vì những gì hiện cho phép Trung Quốc tồn tại ngày nay sẽ khác đi, sẽ thay đổi, một khi nước này hội nhập toàn diện vào toàn cầu hóa. Bước quá độ của Trung Quốc sẽ không mấy êm đẹp. Khi 1,2 tỷ dân lao đi với tốc độ 80 dặm/giờ mà vấp chướng ngại, thì cả thế giới sẽ rung chuyển. Khi vấp như vậy, Trung Quốc tạo ra một hiểm họa cho sự ổn định trên thế giới – hiểm họa không bắt nguồn từ sức mạnh, mà bắt nguồn từ thế yếu. Bởi vì vấp phải những thế lực toàn cầu hóa mới – đòi hỏi mở cửa kinh tế và chính trị – đồng thời phải đảm bảo sự thống nhất đất nước, duy trì tính chính đáng của Chính phủ, thì Chính phủ Trung Quốc chỉ còn một lối thoát: chủ nghĩa dân tộc – một thứ cây ô liu già cỗi của Trung Hoa. Một Trung Quốc dân tộc chủ nghĩa nếu cảm thấy toàn cầu hóa “gian khổ quá” thì có thể làm nảy sinh một đe dọa thực sự đối với toàn bộ hệ thống.
Nước Nga
Điều đó cũng tương tự trường hợp ở nước Nga nhưng ở mức nghiêm trọng hơn, vì xuất phát điểm của nước Nga thấp hơn ở Trung Quốc và Nhật Bản nhiều.
Phải hiểu rằng Nga vẫn tiếp tục là một nước được vũ trang toàn diện, với vũ khí hạt nhân. Nhưng giờ đây khi hội nhập vào hệ thống toàn cầu hóa, sự yếu kém, chứ không phải là sức mạnh của Nga, chắc chắn sẽ đe dọa sự ổn định của thế giới trong một thời gian nhất định. Khi kinh tế Nga tan chảy vào tháng 8/ 1998, nó đã khởi phát một căn bệnh truyền nhiễm tài chính đã gây cho phương Tây: trong vòng một tháng, mức thiệt hại tương đương với mức độ Nga gây ra trong 70 năm. Tuy vậy Một số chính trị gia và phân tích gia đối ngoại đã yêu mến Chiến tranh Lạnh đến mức họ vẫn coi Nga không khác gì Liên Xô trước kia, và hệ thống quốc tế ngày nay vẫn là một dạng Chiến tranh Lạnh. Thật đáng ngạc nhiên khi nghĩ đến Đức Quốc xã, vốn tuyên chiến chống cả thế giới và tận diệt sáu triệu người Do Thái, nay sau hai thế hệ đã tự cải tạo trở thành một nước dân chủ được đánh giá là năng động nhất thế giới. Nhưng những chiến binh Chiến tranh Lạnh vẫn coi Nga là một đất nước không có khả năng thay đổi và vẫn tiếp tục là kẻ thù của Hoa Kỳ trên phương diện địa-chính trị.
Không, chúng ta không nên đối xử với nước Nga như đối với Canada, chỉ vì họ đã tổ chức được một vài cuộc bầu cử. Đó là một nước lớn, có bề dày lịch sử, và một kho vũ khí hạt nhân lớn, và, giống các cường quốc khác, nó vẫn tiếp tục cạnh tranh với Hoa Kỳ để giành ảnh hưởng. Rất giống như nước Pháp. Nước Nga không còn là Liên Xô. Nga là một quốc gia đang đứng giữa nhiều chặng đường quá độ thiếu rõ ràng, những bước quá độ diễn ra trong một môi trường quốc tế rất khác. Nga có thể thiếu khả năng nâng cấp hệ điều hành lên tới 1.0, chưa nói đến 6.0, nhưng cũng không có gì định trước nước này sẽ không làm điều đó. Cũng như đối với Trung Quốc và Nhật Bản, chúng ta sẽ được lợi nếu nước Nga đặt gót quá độ – chúng ta không thể quyết định, nhưng có thể gây ảnh hưởng. Chúng ta không có khả năng đơn phương đích thân cải tổ nước Nga nhưng có khả năng làm cho nó không bị cô lập, nguy hiểm và trái tính. Chính vì lẽ đó sự mở rộng khối NATO là một sai lầm. Trong toàn cầu hóa, những vấn đề đe dọa nhiều nhất đến nước Mỹ là những vụ buôn bán đầu đạn hạt nhân trên chợ đen, giảm thiểu tên lửa hạt nhân chiến lược, băng hoại môi trường, kiềm chế các quốc gia bất trị như Iraq hay Bắc Triều Tiên và những vi rút tài chính. Hoa Kỳ sẽ không thể xử lý được những vấn đề đó nếu thiếu sự hợp tác của một nước Nga ổn định và dân chủ. Chính vì thế nhiệm vụ hàng đầu của nước Mỹ là thu hút sự hợp tác của Nga và làm bất cứ điều gì để có thể cải thiện hệ thống chính trị ở đó – chứ không phải bành trướng khối NATO, vì làm như vậy rất khó lấy lòng được Moskva.
Đầu năm 1998, tôi ngồi trong văn phòng của Karel Kovonda, Thứ trưởng Ngoại giao Cộng hòa Czech ở Prague. Khi hùng biện giảng giải cho tôi vì sao NATO nên kết nạp Cộng hòa Czech, ông ta kể cho tôi ảnh hưởng của toàn cầu hóa đối với khu vực và bản thân nước này.
“Tôi tận hưởng bầu không khí quốc tế ở vùng này vì giờ đây Chiến tranh Lạnh đã qua đi và Cộng hòa Czech đã mở cửa,” Kovonda nói. “Cháu bé nhà tôi đi nhà trẻ cùng với con bé con đến từ Hàn Quốc và những cháu khác từ Croatia và Bosnia. Tôi đến tiệm góc phố mua rau quả trồng ở Trung Quốc. Nhưng điều bất lợi là hiện nay có mấy thằng mafia người Ucraina đến ngụ ở tòa nhà bên cạnh. Tất cả diễn ra trong khu phố của tôi nằm ở ngoại ô Prague. Và có những sự ngờ vực và khó chịu ở đây vì mức độ tăng nhanh chóng những người nước ngoài đến sống, làm việc và buôn bán bất hợp pháp ở nước này – ở ngoại ô cũng như trong trung tâm thủ đô. Bạn nhìn thấy cả hai mặt của toàn cầu hóa ở Cộng hòa Czech ngày nay, và vì nằm ở ngã ba đường ở châu Âu, nước chúng tôi là trạm dừng chân đầu tiên của dòng nhân lực di chuyển bất hợp pháp từ Đông sang Tây Âu, trong khi đó ở biên giới giữa chúng tôi và Đức [giờ đây ít mở cửa hơn] là địa bàn quan trọng hơn trước. Trên bàn của tôi là báo cáo tối mật về các hoạt động tội phạm quốc tế cũng như trong nước. Thời cộng sản trước kia thì chẳng làm được những điều như vậy. Khi cộng sản còn ở đây thì phân nửa thời gian bạn tốn cho việc xin visa sang thăm nước khác, giờ đây thì chẳng cần phải có visa nữa. Buôn lậu linh kiện hạt nhân và ngòi nổ, đó là hiểm họa. Chúng tôi bắt được những kẻ buôn ngòi nổ đưa hàng từ phía đông sang phía nam của chúng tôi. Đó là những nguy hiểm mà dân chúng không hiểu hết được…”
Tôi chỉ ngồi gật gù, chẳng muốn hỏi rằng những ngòi nổ đó từ đâu đến và làm sao có thể giải quyết được chuyện đó bằng việc mở rộng khối NATO khiến cho nước Nga thêm xa lánh.
Ở Nga, Trung Quốc và Nhật Bản, có những lãnh đạo lên từ thời Chiến tranh Lạnh đang cố gắng thúc đẩy bước quá độ vào toàn cầu hóa, và trong nhiều trường hợp, họ thiếu các dụng cụ để làm việc đó. Mặc dù người Nga đã hủy bỏ hệ thống trung ương chỉ huy, ý thức hệ cộng sản và các chính ủy, họ vẫn chưa xóa bỏ được văn hóa cộng sản và thay thế văn hóa tư bản vào đó.
Quả thực ở Nga, Trung Quốc và Nhật Bản, chúng ta vẫn chờ đợi điều mà Robert Hormats gọi là “thế hệ thiên niên kỷ” – những người trưởng thành trong toàn cầu hóa – lên nắm quyền để tạo những bước ngoặt phát triển. Hormats nói: “Mỗi khi có người hỏi tôi, ‘Làm sao có thể tạo ra thay đổi chính trị ở nước Nga?’ Tôi thường đáp lại rằng đó là một quá trình kéo dài chín tháng… và sau đó là 21 năm. Nước Nga đang ở quãng giữa giai đoạn này.”
Những gì đang xảy ra thời hiện tại, trong khi chúng ta chờ đợi thế hệ mới, đang khiến chúng ta lo lắng. Lúc trước tôi có so sánh giữa công ty và đất nước. Có khá nhiều điểm tương đồng. Nhưng có một điều mà đất nước không bao giờ giống như công ty. Công ty có thể lên, xuống và biến mất. Đất nước có thể lên, xuống, nhưng bao giờ cũng còn đó. Chúng còn đó và bị thua thiệt què quặt. Nhưng hãy tưởng tượng IBM bị phá sản nhưng vẫn nằm ngổn ngang trên thị trường: các giám đốc và nhân viên thất nghiệp, thiếu lương, đi lại lừa đảo những khách hàng cũ đồng thời giở trò ném đá phá phách những công ty khác vốn là địch thủ của họ.
Một lý do khiến cho toàn cầu hóa thời kỳ trước 1914 bị đổ vỡ thành Chiến tranh thế giới thứ nhất, là hành vi của Đế chế Áo-Hung, một nhân tố chủ chốt trong cán cân lực lượng ở châu Âu. Đế chế này đã phải chịu đựng trong một thời gian dài sự băng hoại quyền lực của nó, xói mòn quyền lực từ mức chậm lên đến mức nhanh chóng vào giai đoạn 1909- 1914. Đế chế này lúc đó cảm thấy họ bị ra rìa cuộc đua giữa các cường quốc về kinh tế, chính trị và quân sự. Thay vì im lặng chịu đựng tủi nhục, nó đã ứng xử như một tay cờ bạc có vũ trang trong một canh bạc mà hắn biết sẽ không thắng được. Hắn đạp đổ bàn và nổ súng. Trong trường hợp của Áo-Hung, họ đã liên kết với Đức để hủy diệt Serbia trong một cuộc chiến khu vực, hiểu rằng từ đó sẽ làm bùng nổ cuộc chiến lớn hơn với nước Nga.
Nếu Serbia, Albania và Algeria cùng hợp lực gây rối thì mọi thứ sẽ loạn, nhưng nó sẽ không ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống. Nhưng điều chúng ta không thể lường được đó là hậu quả sẽ ra sao nếu những nước lớn như Nga, Nhật hay Trung Quốc không chấp nhận toàn cầu hóa trong khi kho vũ khí của họ vẫn còn đầy. Robert A. Pastor, nhà khoa học chính trị nhận xét trong cuốn sách của ông Chuyến đi dài một thế kỷ: Các cường quốc định hình thế giới, đã nhận xét thách thức mà toàn cầu hóa ngày nay phải đương đầu trên thực tế giống như thách thức mà hệ thống Versailles gặp phải sau Chiến tranh thế giới thứ nhất: Làm thế nào chúng ta hội nhập những kẻ thua cuộc vào cùng chốn với những kẻ thắng cuộc? Hòa ước Versailles làm việc đó rất tồi và gây nhiều căm giận – đến mức nó âm ỉ những hạt giống cho Chiến tranh thế giới thứ hai. Hòa ước sau Chiến tranh thế giới thứ hai làm điều đó rất giỏi khi hội nhập hai nước thua cuộc chủ chốt – Đức và Nhật Bản – điều đó khiến duy trì được ổn định ở châu Âu và châu Á.
Trong thế giới hậu Chiến tranh Lạnh, câu hỏi sẽ là: Làm thế nào để hội nhập những kẻ thua cuộc trong Chiến tranh Lạnh vào một hệ thống toàn cầu hóa được thị trường tự do điều tiết trong đó gồm các quốc gia hầu như dân chủ? Pastor nói đây là một việc đặc biệt khó khăn vì nền hòa bình ngày nay rất khác với thời gian sau Hòa ước Versailles: chiến thắng của các đồng minh phương Tây không phải là không có điều kiện. Phương Tây đã không chiếm giữ Nga và Trung Quốc, chính vì thế không có nhiều khả năng trực tiếp định hướng và gây ảnh hưởng toàn diện đối với nền chính trị trong nội bộ các nước đó. Thực trạng của các nước giờ đây hoàn toàn khác nhau. Tuy vậy sự ổn định của toàn bộ hệ thống ngày nay lại lệ thuộc rất nhiều vào việc hội nhập thành công các quốc gia như Nga và Trung Quốc. Yếu tố then chốt của sự ổn định quốc tế, theo Pastor, là “những kẻ thách thức hệ thống phải hiểu rằng điều quan trọng đối với họ là bảo tồn cho được hệ thống, chứ không phải lật đổ nó.” Giờ đây cần phải nói cho nước Nga và Trung Quốc hiểu được điều đó. Nhưng nếu sự hội nhập trở nên quá khó khăn đối với hai nước này hay những nước khác? Liệu những quốc gia không thể sản xuất được các chip vi tính có đi gây rối không?
Đây không phải là vấn đề rành riêng cho các nước đang phát triển hay các nước thiếu kỹ năng. Đó cũng là vấn đề của cả các nước có khả năng sản xuất chip vi tính. Có một vấn đề khác bên cạnh vấn đề mang tên “gian khổ quá”: đó là vấn đề “đi nhanh quá.” Nhịp thay đổi trong toàn cầu hóa ngày nay nhanh lắm, sự đòi hỏi phải thành công đến rất sớm, không ai còn có cảm giác đứng vững trên một nền móng chắc chắn so với cái thời mà cha mẹ của họ phải chịu đựng những bức tường rào trên thế giới, thời đó, với một tấm thẻ nghiệp đoàn và một công việc biên chế suốt đời đã được hưởng một sự ổn định nhất định. Sau khi ấn bản thứ nhất của cuốn sách này ra đời, tôi đã nhận được một bức thư đầy cảm động từ một phụ nữ ở Roanoke, Illinois. Bức thư bày tỏ rất hùng biện một nỗi lo mà tôi thường được nghe, mà tôi cũng rất khó tìm được câu trả lời dễ dàng: Điều gì sẽ xảy ra nếu tốc độ thay đổi mà hệ thống ngày nay đòi hỏi, vượt quá khả năng của cá nhân, công ty và đất nước? Nội dung bức thư đó như sau:
Ông Friedman thân mến, tôi hy vọng thư này đến được tay ông và tôi hy vọng ông có thể giải đáp cho tôi một điều bí ẩn. Tôi đã dự nhiều cuộc nói chuyện của ông, đầy ấn tượng, đến mức đi mua cuốn sách của ông. Tôi đọc nó nhiều lần nhưng vẫn không tìm ra lời giải đáp cho câu hỏi của tôi: Tôi đứng vào chỗ nào trong cái thị trường ngày nay? Chồng tôi và tôi xưa nay cố gắng tự làm ăn nhưng không mấy thành công. Năm 1984, tôi theo học đại học; ở đó tôi ham thích, tiếp thu tất cả các môn học mà tôi có khả năng chi trả, bao gồm vi tính, kinh tế, cổ phần, doanh nghiệp và kế toán. Kinh tế địa phương lúc đó suy thoái nặng nề, vì nếu Caterpillar gặp khó khăn thì mọi người cũng gặp khó khăn. Việc làm mà tôi tìm được đã không giúp gì được tôi và đến mức tôi phải nghỉ hưu. Trong thời gian đó, chồng tôi bắt đầu mở dịch vụ bán máy vi tính tự lắp và lần đầu tiên đã kiếm ra tiền. Nhưng với sự xuất hiện của loại máy vi tính có giá thấp hơn 1.000 đô-la đã khiến dịch vụ của chồng tôi thua thiệt dần. Chúng tôi hiểu tất cả những yếu tố thiết yếu về kinh doanh, bao gồm cả Internet và vi tính nhưng vẫn không tìm được chỗ đứng trong thị trường toàn cầu. Chúng tôi hiểu khái niệm bán ‘như thế nào’ nhưng chúng tôi chưa biết sẽ bán ‘cái gì’. Ví dụ, tôi có đủ công cụ để viết một tiểu thuyết rất hay của Mỹ, nhưng chúng tôi không có năng khiếu… Khi những nhà triệu phú gieo hạt giống của họ vào thị trường chứng khoán, thì chúng tôi phá sản. Làm thế nào để những con người bình thường tìm được chỗ đứng trong thị trường? Không chỉ có riêng chúng tôi gặp khó khăn đó. Chúng tôi có rất nhiều bè bạn cũng đồng cảnh ngộ, băn khoăn rằng điều gì đã xảy ra và sắp tới sẽ đi đến đâu. Có lẽ xin ông giải đáp cho điều này vào lần sau.”
Ước gì tôi có được một giải đáp giản đơn. Dường như ngày nào cũng xuất hiện bài vở trên báo chí cảnh báo nhân công và các sếp của họ về việc cắt giảm biên chế, đào tạo kỹ năng mới, sa thải kỹ năng cũ, kết nối mạng, chạy nhanh hơn, linh hoạt hơn, sẵn sàng loại bỏ những gì cũ kỹ và mới mẻ, đưa vào những gì mới mẻ hơn để theo kịp nhịp toàn cầu hóa. Điều khó khăn là dường như hệ thống mới có chu kỳ thay đổi trong vòng sáu tháng, như thế nhanh quá và khó khăn quá thậm chí đối với những người được huấn luyện đầy đủ, chưa nói đến những người không được đào tạo. Dân chúng sẽ phản ứng ra sao nếu họ cảm thấy toàn cầu hóa quá gian khổ, chạy quá nhanh trong một giai đoạn quá dài.
Kết nối chặt chẽ quá
Một cách khác khiến cho toàn cầu hóa đe dọa chính nó là khi hệ thống này được bôi trơn và kết nối quá chặt chẽ với thế giới, khiến cho những nhóm nhỏ dân chúng – dù đó là người đầu tư hay những kẻ được trao quyền – có thể có những hành vi thái quá gây họa cho toàn bộ hệ thống. Nếu gặp những ngân hàng đầu tư trên phố Wall ngày nay, họ sẽ kể cho bạn về những nỗi sửng sốt họ cảm nhận được trong thời gian các thị trường tan chảy (tháng tám tháng chín năm 1998), khi thấy hệ thống thế giới được kết nối chặt chẽ ra sao. Không một mô hình tiên liệu rủi ro nào của họ – dựa trên những trường hợp tương tác giữa đầu tư và sự kiện trong quá khứ – dự đoán được những chuỗi phản ứng xảy ra năm 1998. Sự việc đó đã phá hỏng khái niệm đa dạng hóa để phân tán rủi ro. Các công ty cho rằng họ đã đa dạng hóa bằng cách đầu tư qua nhiều công cụ, có mức đáo hạn khác nhau, dùng nhiều loại tiền, thông qua nhiều hàng hóa vào nhiều nước khác nhau… đã nhanh chóng nhận thấy rằng tất cả các hoạt động đầu tư của họ nằm trong một dây chuyền được ràng buộc chặt chẽ, và khi dây chuyền đó đổ bể thì các công ty đó không tài nào thoát ra được. Mỗi mắt xích trong dây chuyền đó kéo theo các mắt xích khác. Do toàn cầu hóa mà chuỗi dây chuyền đó được nối dài, dài thêm, ngày mỗi ngày, giằng kết vào nhau chặt chẽ hơn. Và sự thật phũ phàng là ở chỗ chúng ta vẫn chưa hiểu thấu được sự kết liên như vậy sẽ có lợi gì, hay làm thế nào để tự bảo vệ nếu một trong những mắt xích yếu đi rồi đứt đoạn. Những quan hệ tương tác đó không chỉ xuất hiện trên thị trường tài chính mà đã xuất hiện trên màn vi tính trong dạng thức con bọ 2000. Các máy tính được lắp ráp với hệ thống đồng hồ-lịch kỹ thuật số với sáu ký tự – 2 dành cho ngày, 2 dành cho tháng và… bạn đoán đúng rồi, 2 dành cho năm: vậy loại lịch này sẽ chấm dứt vào ngày 31/12/99. Vậy khi lịch này nhảy sang ngày 1 tháng giêng năm 2000, thì thay vì lịch ghi là 01/01/2000, máy tính sẽ hiển thị 01/01/00 và hiểu đó là năm 1900. May thay với những sự chuẩn bị sớm sủa và mua sắm máy tính mới, các công ty và đất nước đã giải quyết được thứ bọ Y2K đó. Giao thừa năm 2000, thay vì là một cơn ác mộng, đã trở thành một sự kiện cho chúng ta liên hoan.
@by txiuqw4