sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Chúng ta là những Kẻ dối trá - Phần III - Chương 35 - 36 - 37 - 38

35

MỌI CÁNH CỬA SỔ ở Cuddledown đều mở khi tôi xuống sau bữa trưa. Gat đang để nhạc lên chiếc máy chơi CD cổ. Bức họa bằng chì màu cũ của tôi được đính trên tủ lạnh bằng nam châm: Bố ở trên, Bà ngoại và lũ chó ở dưới. Tranh của tôi được dán vào một trong những chiếc tủ bếp. Một chiếc thang và một chiếc hộp lốn đựng giấy gói quà đặt ở giữa phòng lớn.

Mirren đẩy một chiếc bành ngang phòng. “Tớ chưa bao giờ thích cách mẹ tớ chăm sóc nơi này,” cô bạn giải thích.

Tôi giúp Gat và Johnny di chuyển đồ nội thất chung quanh cho đến khi Mirren vui lòng. Chúng tôi gỡ xuống bức tranh phong cảnh bằng màu nước của dì Bess và cuộn tấm thảm của dì lại. Chúng tôi cướp lấy mấy món đồ vui nhộn ở phòng ngủ của đám nhóc. Khi xong việc, căn phòng lớn được trang hoàng với những lợn đất và mền bằng vải vá, hàng chồng những quyển sách thiếu nhi, một chiếc đèn hình cú. Những ruy băng dày lấp lánh từ những hộp quà nối đuôi nhau trên trần nhà.

“Dì Bess sẽ không giận việc cậu trang hoàng lại đấy chứ?” tôi hỏi.

“Tớ hứa với cậu là mẹ sẽ chẳng đặt chân đến Cuddledown suốt phần còn lại của mùa hè đâu. Mẹ đã đang cố thoát ra khỏi nơi này nhiều năm rồi.”

“Ý cậu là sao?”

“Ồ,” Mirren nhẹ nhàng nói, “cậu biết đấy. Bla bla, đứa con gái ít được quý nhất, bla bla, nhà bếp như cứt. Sao Ông ngoại không tu sửa lại nó. Et cetera[31].”

[31] Từ tiếng La tinh: vân vân.

“Thế dì có hỏi ông không?”

Johnny nhìn tôi chằm chằm một cách kỳ quặc. “Em không nhớ hả?”

“Ký ức của cậu ấy bị rối loạn, anh Johnny!” Mirren hét lên. “Cậu ấy không nhớ gần như nửa mùa hè thứ mười lăm của chúng ta.”

“Không hả?” Johnny nói. “Anh cứ ngỡ…”

“Không, không, im miệng ngay đi,” Mirren quát tháo. “Bộ anh không nghe thấy điều em đã nói hả?”

“Khi nào cơ?” Trông anh ấy có vẻ bối rối.

“Đêm kia,” Mirren nói. “Em đã nói với anh những gì dì Penny dặn.”

“Rùng mình,” Johnny nói và ném một chiếc gối vào cô bạn.

“Chuyện quan trọng đấy! Sao anh lại không buồn để ý đến việc này vậy hả?” Trông Mirren như sắp khóc đến nơi rồi.

“Rồi rồi anh mày xin lỗi, được chưa?” Johnny nói. “Gat, chú có biết, về việc Cadence không nhớ, kiểu như, phần lớn mùa hè thứ mười lăm không?”

“Có chứ,” cậu đáp.

“Thấy không?” Mirren nói. “Gat có lắng nghe kìa.”

Mặt tôi nóng bừng. Tôi nhìn chăm chăm xuống sàn. Trong một phút không ai nói gì. “Khi đầu ta bị đập thật mạnh thì việc mất trí nhớ cũng thường thôi mà,” cuối cùng tôi lên tiếng. “Mẹ tớ có giải thích không?”

Johnny cười đầy lo lắng.

“Tớ ngạc nhiên là Mẹ kể với ba người đấy,” tôi nói tiếp. “Mẹ ghét bàn về nó lắm.”

“Dì ấy bảo cậu phải bình tĩnh và nhớ lại trong khoảng thời của riêng mình. Các dì đều biết,” Mirren nói. “Ông ngoại biết. Đám nhóc. Nhân viên. Rõ ràng là từng người một trên cái đảo này đều biết trừ Johnny.”

“Anh đã biết rồi,” Johnny nói. “Anh chỉ không tiết tổng thể thôi.”

“Đừng có mà yếu ớt thế,” Mirren bảo. “Giờ thật sự không phải lúc đâu.”

“Ổn mà,” tôi nói với Johnny. “Anh không yếu ớt. Anh chỉ đơn thuần là có một lúc kém chuẩn thôi. Em chắc là từ giờ trở đi anh sẽ đạt chuẩn thôi.”

“Anh thì lúc nào mà chả đạt chuẩn,” Johnny đáp. “Chỉ không phải là cái dạng chuẩn mà Mirren muốn anh thành thôi.”

Gat cười khi tôi nói từ kém chuẩn và vỗ vai tôi.

Chúng tôi đã bắt đầu lại.

36

CHÚNG TÔI CHƠI TENNIS. Anh Johnny và tôi thắng, nhưng chẳng phải bởi vì tôi vẫn còn chơi giỏi. Anh là một vận động viên cừ khôi, và Mirren thì có khuynh hướng đánh bóng rồi nhảy nhót vui sướng chứ không buồn để tâm xem liệu bóng có quay lại hay không. Gat thì cứ cười cợt cô bạn khiến cậu đánh trượt luôn.

“Châu Âu thế nào?” Gat hỏi khi chúng tôi cuốc bộ về Cuddledown.

“Bố tớ ăn mực của con mực.”

“Gì nữa không?” Chúng tôi đến khoảng sân và quăng những chiếc vợt lên hành lanh. Rồi nằm dài ra trên bãi cỏ.

“Nói thật thì, tớ chẳng có gì nhiều để mà kể,” tôi nói. “Biết tớ làm gì khi bố tớ đến đấu trường Colosseum không?”

“Làm gì?”

“Tớ nằm dán mặt vào gạch lát phòng tắm khách sạn. Mắt chăm chăm nhìn chân chiếc bồn cầu Ý màu xanh biển.”

“Cái bồn cầu màu xanh biển hả?” Johnny bật dậy hỏi.

“Chỉ có chú mới thấy hào hứng với cái bồn cầu màu xanh hơn quang cảnh Rome đấy,” Gat rên rỉ.

“Cadence này,” Mirren nói.

“Sao cơ?”

“Không có gì.”

“Hả?”

“Cậu bảo đừng có thấy tội cho cậu, nhưng rồi cậu kể một câu chuyện về cái chân bồn cầu,” cô bạn buột miệng. “Chuyện đó cực kỳ tội nghiệp. Bọn tớ biết nói gì giờ?”

“Hơn nữa, tụi tớ ghen tị với việc được đi tới Rome,” Gat nói. “Chẳng ai trong bọn tớ từng đi Rome cả.”

“Anh muốn đi Rome chơi!” Johnny nằm lại xuống và nói. “Anh cực kỳ muốn thấy mấy cái bồn cầu Ý màu xanh luôn!”

“Tớ muốn xem Nhà tắm Caracalla[32],” Gat nói. “Và ăn mọi vị gelato[33] họ làm.”

[32] Nhà tắm Caracalla: một công trình văn hóa có giá trị tiêu biểu của người La Mã thời xưa, và là nhà tắm lớn nhất thành Rome do hoàng đế Caracalla xây dựng.

[33] Gelato (tiếng Ý): kem.

“Thế thì đi đi,” tôi bảo.

“Làm gì dễ thế.”

“Được rồi, nhưng cậu sẽ đi,” tôi nói. “Lúc học đại học hoặc sau đó.”

Gat thở dài. “Tớ chỉ nói vậy thôi, cậu đã được đi Rome.”

“Tớ ước gì cậu đã ở đó,” tôi nói với cậu.

37

“CON Ở SÂN tennis à?” Mẹ hỏi tôi. “Mẹ nghe thấy tiếng bóng.”

“Chỉ là làm việc tào lao thôi.”

“Đã lâu lắm rồi con không chơi. Thật là tuyệt.”

“Con hết nghĩa vụ rồi.”

“Mẹ mừng là con lại tiếp tục chơi nó. Nếu con muốn chơi volley với mẹ vào ngày mai thì chỉ việc nói một tiếng.”

Mẹ đúng là hoang tưởng. Tôi không có tiếp tục chơi tennis lại nữa chỉ bởi vì tôi chơi có mỗi một buổi chiều đâu, và không đời nào tôi muốn chơi volley với Mẹ. Mẹ sẽ mặc váy tennis và ngợi ca tôi và quở trách tôi và lảng vảng quanh tôi cho đến khi tôi hành xử cộc cằn với mẹ. “Để xem ạ,” tôi nói. “Có lẽ vai con bị mỏi rồi.”

Bữa tối diễn ra ở ngoài trời trong khu vườn Nhật Bản. Chúng tôi ngắm nhìn ánh hoàng hôn lúc tám giờ tối, theo nhóm quanh những chiếc bàn nhỏ. Taft và Will chộp lấy mấy miếng sườn heo trên đĩa và dùng tay ăn bốc chúng.

“Hai người là thú vật hả,” Liberty nhăn mũi bảo.

“Và ý mày là?” Taft nói.

“Có một thứ gọi là cái nĩa đấy,” Liberty kêu.

“Có một thứ gọi là mặt mày,” Taft đáp.

Johnny, Gat, và Mirren ăn ở Cuddledown vì họ không tàn tật. Và không bị mẹ kiểm soát. Mẹ thậm chí còn không cho tôi ngồi với cánh người lớn. Mẹ bắt tôi phải ngồi một bàn riêng với đám em họ của mình.

Tụi nó đều cười đùa và công kích nhau, nói với một mồm đầy đồ ăn. Tôi ngừng nghe chúng nói. Thay vào đó, tôi nhìn sang Mẹ, Dì Carrie, và Dì Bess, quây quần quanh Ông ngoại.

CÓ MỘT TỐI, giờ thì tôi nhớ ra rồi. Đó hẳn là khoảng hai tuần trước khi xảy ra tai nạn của tôi. Vào đầu tháng Bảy.

Tất cả chúng tôi đều ngồi tại chiếc bàn dài trên bãi cỏ nhà Clairmont. Những chiếc nến mùi dầu xả bập bùng cháy ở cổng vòm.

Đám nhóc đã chén xong burger và đang chơi lộn người trên cỏ. Những người còn lại thì đang ăn cá kiếm nướng vỉ sắt với sốt húng quế. Có một món salad cà chua vàng và một nồi bí ngòi hầm phủ phô mai Parmesan. Dưới bàn, Gat áp chân cậu vào chân tôi. Tôi thấy đầu quay cuồng vì hạnh phúc.

Mấy dì nghịch với đồ ăn của họ, im lặng và câu nệ nhau dưới tiếng hét của lũ trẻ.

Ông ngoại ngả mình ra sau, tay khoanh trước bụng. “Mấy con có nghĩ là ông nên tu sửa lại căn nhà ở Boston không?” ông hỏi.

Một chuỗi im lặng.

“Không, Ba ạ.” Dì Bess lên tiếng trước tiên. “Chúng con yêu căn nhà đó.”

“Con luôn kêu ca phàn nàn về sơ đồ phác thảo phòng khách còn gì,” Ông ngoại nói. Dì Bess dòm quanh nhìn các chị của mình. “Con không có.”

“Mấy con không thích phần nội thất à,” Ông bảo.

“Đúng vậy.” Mẹ nói giọng chỉ trích.

“Con nghĩ nó chỉ tổ tốn thì giờ,” Dì Carrie đáp.

“Con biết đấy, ba có thể dùng lời khuyên của con,” Ông ngoại nói với Dì Bess. “Con ghé qua đó và xem xét nó cẩn thận nhé? Nói ba nghe xem, con nghĩ sao hả?”

“Con …”

Ông chồm người về phía trước. “Ba cũng có thể đem bán nó đi, mấy con biết đấy.”

Tất cả chúng tôi đều biết rằng Dì Bess muốn căn nhà Boston đó. Tất cả các dì đều muốn căn nhà Boston đó. Đó là một căn nhà bốn triệu đô, và là nơi họ khôn lớn. Nhưng Dì Bess là người duy nhất sống gần đó, và là người duy nhất có đủ con cái để lấp đầy các phòng ngủ trong nhà.

“Ba,” dì Carrie nói giọng gay gắt. “Ba không thể bán nó được.”

“Ta có thể làm điều ta muốn,” Ông ngoại nói, tay xiên miếng cà chua cuối cùng trên dĩa và thảy vào miệng. “Các con thích ngôi nhà như hiện tại, thế thì, Bess? Hay các con muốn thấy nó được tu sửa? Chẳng ai thích một kẻ dông dài cả.”

“Con rất vui lòng góp tay giúp bất cứ thứ gì mà ba muốn thay đổi, thưa ba.”

“Ôi, làm ơn đi,” Mẹ cắn cảu ngắt lời. “Mới hôm qua em còn bảo mình bận rộn nhường nào và giờ thì em đi giúp tu sửa lại căn Boston đấy hả?”

“Ba đã nhờ chúng ta giúp mà,” Bess nói.

“Ba nhờ em giúp thì có. Ba đang gạt tụi con sang một bên à?” Mẹ xỉn rồi.

Ông ngoại bật cười.

“Penny, bớt căng thẳng nào.”

“Con sẽ bớt căng thẳng khi định xong xuôi phần thừa kế.”

“Ba đang khiến tụi con phát điên lên đấy,” dì Carrie lẩm bẩm.

“Gì thế? Đừng có mà lầm bầm.”

“Tất cả chúng con đều yêu ba, Ba à,” dì Carrie nói lớn. “Con biết đây là một năm khó khăn.”

“Nếu tụi bay phát điên thì đó là thân bay tự quyết,” Ông ngoại nói. “Tỉnh trí lại đi. Ta không thể để khoản thừa kế lại cho mấy người điên được.”

NHÌN CÁC DÌ lúc này đây, vào mùa hè thứ mười bảy. Ở khu vườn Nhật Bản của Clairmont Mới này, Mẹ vòng tay ôm dì Bess, người đang nhoài mình để cắt cho dì Carrie một miếng bánh tart mâm xôi.

Quả là một đêm tuyệt vời, và chúng tôi thật sự là một gia đình tuyệt vời.

Tôi không biết điều gì đã đổi khác.

38

“TAFT CÓ MỘT phương châm đấy,” tôi nói với Mirren. Bấy giờ đã là nửa đêm. Lũ Kẻ dối trá chúng tôi đang chơi Trò ghép từ ở phòng lớn nhà Cuddledown.

Đầu gối tôi chạm vào bắp đùi Gat, dẫu tôi không chắc rằng cậu có để ý thấy không. Cái bảng cũng gần đầy rồi. Đầu óc tôi thấm mệt. Tôi có những ký tự xấu.

Mirren điên cuồng sắp xếp lại quân của mình. “Taft có cái gì cơ?”

“Một phương châm,” tôi nói. “Cậu biết đấy, giống Ông ngoại ấy? Không ai thích một kẻ dông dài cả?”

“Đừng bao giờ nhận lấy chiếc ghế ngồi ở cuối căn phòng,” Mirren ngâm nga.

“Không bao giờ phàn nàn, không bao giờ giải thích,” Gat nói. “Câu đó của Disraeli[34], mình nghĩ vậy.”

[34] Benjamin Disraeli: nhà văn và chính khách đảng Bảo thủ người Anh, hai lần làm thủ tướng chính phủ.

“Ô, ông khoái câu đó lắm đó,” Mirren nói.

“Đừng chấp nhận câu từ chối,” tôi nói thêm.

“Trời ơi là trời, Cady!” Johnny hét lên. “Em hãy chỉ dựng lên một từ và cho để đám tụi này tiếp tục không hả?”

“Đừng có mà hét lên với bạn ấy, anh Johnny,” Mirren kêu.

“Xin lỗi,” Johnny nói. “Làm ơn tung bông múa lụa gì thì làm rồi tạo một từ ghép coi?”

Đầu gối tôi chạm vào bắp đùi Gat. Tôi thật sự chẳng thể nghĩ được gì. Tôi tạo một từ ngắn, chẳng ra đâu vào đâu.

Johnny chơi quân của anh.

“Thuốc không phải là bạn ta đâu,” tôi tuyên bố. “Đó là phương châm của Taft.”

“Phắn đi,” Mirren cười. “Thằng nhóc lôi đâu ra câu đó vậy nhỉ?”

“Có lẽ nó có một bài giảng về thuốc ở trường. Cộng thêm hai đứa sinh đôi thò mũi vào phòng của tớ và nói với nó rằng tớ có một cái tủ áo đầy thuốc, thế nên nó muốn chắc rằng tớ không phải là một con nghiện chăng.”

“Chúa ơi,” Mirren nói. “Bonnie và Liberty quả là thảm họa. Tớ nghĩ giờ tụi nó là mấy đứa ăn cắp vặt đấy.”

“Thật hả?”

“Chúng lấy đi thuốc ngủ của mẹ tớ cũng như mấy cái khuyên tai kim cương của mẹ. Tớ chẳng biết chúng nghĩ sẽ đeo mấy cái khuyên tai đó ở đâu mà không bị mẹ mình nhìn thấy. Hơn nữa, có đến hai đứa mà chỉ có mỗi một cặp khuyên tai thôi.”

“Cậu mắng tụi nó về việc đó chưa?”

“Tớ đã thử với Bonnie. Nhưng chúng ngoài tầm giúp đỡ của tớ,” Mirren nói. Cô bạn sắp xếp lại quân của mình lần nữa. “Tớ thích cái ý tưởng phương châm đấy,” cô bạn tiếp tục. “Tớ nghĩ một câu trích dẫn đầy cảm hứng có thể giúp cậu vượt qua những thời điểm khó khăn.”

“Kiểu như gì cơ?” Gat hỏi.

Mirren ngưng lại. Rồi cô bạn nói: “Tử tế hơn một chút so với nghĩa vụ của bạn.”

Câu đó khiến tất cả chúng tôi im lặng. Không thể tranh luận với nó được.

Rồi Johnny nói, “Đừng bao giờ ăn thứ gì bự hơn mông ta.”

“Anh đã ăn thứ gì bự hơn mông mình rồi hả?” tôi hỏi.

Anh nghiêm nghị gật đầu.

“Được rồi, Gat,” Mirren nói. “Của cậu là gì?”

“Không có.”

“Thôi nào.”

“Được rồi, có lẽ là có.” Gat nhìn xuống móng tay mình. “Đừng thừa nhận một tội lỗi bạn có thể thay đổi.”

“Tớ tán thành,” tôi nói. Vì tôi làm thế.

“Tớ không,” Mirren nói.

“Sao không?”

“Có rất ít việc ta có thể thay đổi. Ta cần phải chấp nhận thế giới như nó vốn thế.”

“Không đúng,” Gat nói.

“Chẳng phải làm một người an nhàn, thanh bình thì tốt hơn sao?” Mirren hỏi.

“Không.” Gat quả quyết. “Đấu tranh với cái ác mới là tốt hơn.”

“Đừng ăn tuyết vàng,” Johnny bảo. “Đó là một phương châm hay khác.”

“Luôn làm điều bạn sợ,” tôi nói. “Đó là câu của tớ.”

“Ôi, làm ơn. Đứa quái nào nói câu đó chứ?” Mirren quát.

“Emerson,” tôi đáp. “Mình nghĩ vậy.” Tôi với lấy một cây bút và viết nó vào mu bàn tay.

Bên trái: Luôn làm điều. Phải: bạn sợ. Chữ viết bên phải bị nghiêng.

“Emerson chán òm,” Johnny nói. Anh chộp lấy cây bút từ tay tôi và viết lên tay trái của anh: KHÔNG TUYẾT VÀNG. “Đó,” anh nói, giơ kết quả lên cho mọi người xem. “Thế sẽ có ích.”

“Cady, mình nghiêm túc đây. Chúng ta không nên luôn làm điều ta sợ,” Mirren nóng nảy nói. “Ta không bao giờ nên làm thế.”

“Sao không?”

“Cậu có thể chết. Cậu có thể bị thương. Nếu cậu sợ hãi, có thể là có một lý do chính đáng. Cậu nên tin tưởng cơn bốc đồng của mình.”

“Thế thì triết lý của em là gì?” anh Johnny hỏi cô bạn. “Làm một đứa chết nhát à?”

“Đúng thế,” Mirren nói. “Điều đó và việc tử tế em nói lúc trước.”


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx