Khi cho ra đời máy điện toán cá nhân đầu tiên, IBM chưa bao giờ nghĩ rằng máy này lại thách thức doanh số bán ra của toàn bộ hệ thống kinh doanh của hãng, mặc dù doanh thu từ những khách hàng truyền thống của hãng chiếm một tỷ lệ đáng kể. Những người lãnh đạo chủ chốt của IBM nghĩ rằng các máy nhờ chỉ chiếm vị trí thấp trong thị trường. Nhưng vì thấy máy điện toán cá nhân càng ngày càng trở nên mạnh mẽ hơn, để tránh thiệt hại tới những máy lớn, IBM đã cho kiềm chế bớt tốc độ phát triển máy điện toán cá nhân.
Trong khâu kinh doanh máy chính, IBM luôn luôn có khả năng khống chế việc chọn lựa những tiêu chuẩn mới. Chẳng hạn như công ty có thể giới hạn chế việc triển khai một dây chuyền sản xuất mới về phần cứng sao cho nó có thể bảo đảm sự tồn tại và phát triển của những sản phẩm đắt tiền hơn. Nó có thể khuyến khích việc chọn một phiên bản mới cho hệ điều hành của nó bằng cách tung ra thị trường một phần cứng đòi hỏi phải có phần mềm mới của nó mới hoạt động được, hay ngược lại. Chiến lược này có thể có hiệu quả tốt đối với thị trường máy điện toán cá nhân đang diễn biến rất nhanh chóng. IBM cũng có thể nâng giá trong chừng mực nào đó đối các sản phẩm tương tự, nhưng thế giới đã phát hiện ra rằng có rất nhiều công ty sản xuất phần cứng tương ứng, và nếu IBM không bán với giá phải chăng thì các công ty khác sẽ bán.
Ba kĩ sư, những người đã từng tán thưởng khả năng tiềm tàng IBM mở ra cho lãnh vực máy điện toán cá nhân, đã xin nghỉ việc tại hãng Texas Instruments và thành lập một công ty mới lấy tên là hãng Compaq Computer. Họ sản xuất phần cứng có thể sử dụng được cùng loại phụ tùng giống như máy IBM PC và mua quyền sử dụng MS-DOS, nhờ vậy máy của họ có khả năng sử dụng được các ứng dụng giống như máy IBM PC. Công ty sản xuất các loại máy có thể thực hiện được mọi chức năng như máy IBM PC và có phần gọn nhẹ hơn. Sự thành công của Compaq nhanh chóng trở thành một đề tài ở mọi lúc mọi trong giới doanh nhân Hoa Kỳ, doanh thu từ máy điện toán cá nhân trong năm đầu tiên đã đạt tới con số 100 triệu Mỹ kim. IBM thu được tiền bán bản quyền, nhưng cổ phiếu thị trường giảm vì vác hệ thống máy tương thích tràn ngập trên thị trường và phần cứng của IBM không cạnh tranh nổi.
IBM quyết định hoãn việc cho ra đời loại máy điên toán cá nhân có bộ vi xử lý rất mạnh 386 của hãng Intel, sản phẩm kế thừa của chiếc 286 trước đây. Sở dĩ IBM làm như vậy là để bảo vệ cho việc bán ra các máy điện toán mini vốn không mạnh hơn máy thuộc hệ 386. Quyết định trên đây của IBM đã mở đường cho hãng Compaq trở thành công ty đầu tiên bán máy 386 ra thị trường trong năm 1986 và trở thành công ty có uy tín và chiếm ngôi vị hàng đầu mà trước đây chỉ có IBM chiếm giữ.
IBM đề ra kế hoạch khôi phục lại bằng một chiến lược hai gọng kìm. Gọng kìm thứ nhất đối với phần cứng và gọng kìm thứ hai cho phần mềm. IBM dự định sản xuất máy điện toán và viết hệ điều hành riêng, hai sản phẩm này lệ thuộc lẫn nhau do đặc điểm mới của chúng để cho những kẻ cạnh tranh hoặc phải co vòi hoặc bị buộc phải trả một khoản tiền quyền sử dụng đáng kể. Chiến lược này nhằm buộc các hãng khác phải trở nên tương thích với máy điện toán cá nhân lạc hậu của IBM.
Chiến lược trên của IBM có một vài mặt khá tốt. Một là nó đơn giản hóa thiết kế của máy bằng cách đưa ra nhiều ứng dụng mà trước đây chỉ là những phần lựa chọn vào trong máy. Việc đó sẽ giúp giảm được giá thành và nâng doanh số linh kiện của IBM bán ra thị trường. Kế hoạch đó còn đòi hỏi phải có những thay đổi căn bản trong cấu trúc phần cứng: các đầu nối và các tiêu chuẩn cụ thể của phụ tùng, bàn phím, con chuột, và thậm chí cả sự hiển thị màn hình. Để làm cho máy có thêm nhiều lợi thế, IBM đã không cho bán trước quy cách của bất cứ bộ nối nào cho đến khi xuất cả một hệ thống hoàn chỉnh. Việc đó là nhằm xác định lại tiêu chuẩn tương thích. Những nhà sản xuất máy điện toán cá nhân và thiết bị ngoại vi khác buộc phải bắt đầu lại từ đầu, và nhờ đó IBM có thể trở lại ngôi vị đầu đàn.
Vào năm 1984, một sự thay đổi có ý nghĩa trong kinh doanh của IBM là nó cung cấp hệ MS-DOS cho những nhà sản xuất máy điện toán cá nhân nào tương thích với hệ cuả IBM. Chúng tôi bắt tay làm việc với IBM để thay hệ MS-DOS, sau này được đặt tên là hệ OS/2. Thỏa thuận đó cho phép Microsoft bán cho các nhà sản xuất khác hệ điều hành mà chúng tôi đã bán cho IBM. Mỗi chúng tôi được quyền mở rộng hệ điều hành vượt ra ngoài những gì chúng tôi đã cùng tạo ra trước đây. Lần này không giống như khi chúng tôi làm hệ MS-DOS. IBM muốn khống chế tiêu chuẩn nhằm giúp bảo đảm cho việc kinh doanh phần cứng của máy điện toán cá nhân và máy chính của họ. IBM trực tiếp nhúng tay vào công tác thiết kế và thực hiện hệ OS/2.
Hệ OS/2 là khâu trung tâm của kế hoạch sản xuất phần mềm của IBM. Đó là việc áp dụng lần đầu tiên cấu trúc ứng dụng theo hệ thống của IBM mà hãng dự định dựa vào nó để tạo môi trường phát triển chung cho toàn bộ các dây chuyển sản xuất, từ máy điện toán chính tới máy điện toán trung và máy điện toán cá nhân. Các nhà lãnh đạo cuả IBM tin rằng việc áp dụng kĩ thuật của máy chính vào máy điện toán cá nhân sẽ càng thu hút thêm khách hàng của công ty, những người đang chuyển dần các khả năng của máy điện toán chính và máy mini sang máy điện toán cá nhân. Họ còn nghĩ rằng nó sẽ tạo cho IBM một lợi thế lớn lao đối với các đối thủ chưa nghĩ tới kĩ thuật máy điện toán chính. Việc mở rộng quyền sở hữu của IBM ra tới hệ OS/2 - gọi là Extendent Edition - bao gồm cả các dịch vụ về thông tin liên lạc và cơ sở dữ liệu. Và IBM cũng đặt kế hoạch xây dựng trọn bộ bộ ứng dụng văn phòng - gọi là Office Vision - để làm việc trên hệ Extended Edition. Kế hoạch đó dự đoán rằng những ứng dụng này, bao gồm cả bộ xử lý từ, sẽ giúp IBM trở thành một nhà sản xuất phần mềm ứng dụng trong máy điện toán cá nhân tầm cỡ để cạnh tranh với Lotus và WordPerfect. Việc phát triển phiên bản Office Vision đòi hỏi phải có một đội ngũ gồm hàng ngàn người. OS/2 không chỉ là hệ điều hành mà nó còn là một phần trong cuộc vận động lớn của hãng này.
Kế hoạch phát triển đó là một gánh nặng bởi nó đòi hỏi dự án phải đáp ứng được yêu cầu của nhiều đặc điểm đang đối chọi nhau, cũng như phải theo kịp tiến độ đã hoạch định cho hai hệ trên. Microsoft tiếp tục công việc phát triển ứng dụng hệ OS/2 để giúp cho thị trường có thể hoạt động được liên tục, nhưng sau một thời gian, niềm tin của chúng tôi bắt đầu bị xói mòn.
Chúng tôi bắt tay vào công trình với niềm tin rằng IBM sẽ cho sản xuất hệ OS/2 đủ, giống như Windows đã làm, để giúp cho một người phát triển phần mềm, chỉ với những bổ sung rất nhỏ cũng có thể làm cho bộ ứng dụng đó chạy được trên hai hệ. Nhưng sau đó IBM cứ nhất định đòi hỏi là các ứng dụng đó phải tương thích với các hệ thống máy chính và máy trung của họ, khiến cho những gì còn lại cho chúng tôi chỉ là một hệ điều hành máy chính cồng kềnh chứ không phải là của một máy điện toán cá nhân nữa.
Mối quan hệ kinh doanh với IBM là mối quan hệ sống còn đối với chung tôi. Năm 1986, chúng tôi buộc phải bán cổ phần để có tiền thanh toán cho những công nhân đã mua cổ phiếu của Microsoft trước đây. Cũng vào khoảng thời gian này, Steve Baller và tôi đã đề nghị với IBM rằng họ nên mua khoảng ba mươi phần trăm cổ phiếu của hãng Microsoft với giá có lợi cho bên mua trên tinh thần chia ngọt sẻ bùi. Chúng tôi nghĩ rằng việc đó sẽ giúp cho hai bên cùng hợp tác tốt đẹp và có hiệu quả hơn. Nhưng IBM tỏ ra không quan tâm lắm.
Chúng tôi làm việc cật lực để đảm bảo cho hệ điều hành của chúng tôi có thể hoạt động được trên các máy sau này của IBM. Tôi nghĩ rằng công trình đó sẽ là chiếc giấy thông hành để cả hai công ty chúng tôi đi vào tương lai. Nhưng ngược lại, trên thực tế, nó đã tạo một rạn nứt rất lớn giữa chúng tôi. Hệ điều hành mới là một dự án đồ sộ. Nhóm kĩ thuật của chúng tôi làm việc ở vùng ngoại vi Seattle. IBM có các nhóm làm việc ở Boca Raton ở Florida, Hursley Park ở Anh, và sau thêm một nhóm ở Austin thuộc bang Texas.
Nhưng vấn đề địa lý không tồi tệ bằng chính di sản máy chính mà IBM để lại cho chúng tôi. Những phần mềm trước đây của IBM rõ ràng chưa bao giờ đáp ứng được yêu cầu cuả khách hàng máy điện toán cá nhân bởi nó vốn được thiết kế để dùng cho máy chính. Chẳng hạn như phải mất khoảng ba phút để khởi động một phiên bản của hệ OS/2. Kể ra như vậy cũng không tệ lắm đối với họ bởi trong thế giới máy chính, người ta có thể phải mất khoảng mười lăm phút.
IBM với khoảng trên 300.000 công nhân, cũng gặp khó khăn về sự đồng lòng nhất trí trong công ty. Mỗi khâu trong hoạt động của IBM đều phải tuân theo quy định về Yêu cầu Thay đổi thiết kế, nhưng thường thì đó lại là những đòi hỏi buộc phần mềm của máy điện toán cá nhân phải được thay đổi sao cho thích ứng với các yêu của sản phẩm máy chính. Chúng tôi đã nhận được trên 10.000 yêu cầu như vậy, và người của chúng tôi và IBM phải ngồi lại để thảo luận về chúng, có đôi mất cả hàng mấy ngày trời.
Tôi còn nhớ yêu cầu thay đổi số 221 "Loại bỏ các phông chữ ra khỏi sản phẩm. Lý do: để nâng cao chất lượng sản phẩm" thực ra thì một vài người của IBM không muốn cho hệ điều hành của máy điện toán cá nhân có nhiều cỡ chữ khác nhau bởi máy in của máy chủ của IBM không thể xử lý được các kiểu chữ đó.
Cuối cùng, vấn đề trở nên rõ ràng rằng việc hợp tác để cùng phát triển không thể thực hiện được. Chúng tôi yêu cầu IBM để cho chúng tôi tự phát triển hệ điều hành riêng và bán quyền sử dụng nó cho họ với giá rẻ. Chúng tôi nghĩ chúng tôi có thể kiếm lời bằng cách bán chúng cho những công ty điện toán khác. Nhưng IBM tuyên bố rằng các thảo trình viên của họ phải trực tiếp tham gia vào việc sáng tạo ra bất cứ phần mềm nào được coi là có ý nghĩa chiến lược. Và vì vậy phần mềm hệ điều hành phải theo chiều hướng đó.
IBM là một công ty có tầm cỡ như vậy nhưng vì sao nó lại quan tâm tới việc phát triển phần mềm của máy điện toán cá nhân đến như thế? Câu trả lời là IBM dự định cất nhắc tất cả thảo trình viên tốt của họ vào ban quản lý và loại bỏ những thảo trình viên yếu kém ra. Nhưng điều quan trọng hơn là do IBM luôn bị ám ảnh bởi những thành công của họ trước đây. Quy trình kĩ thuật truyền thống của họ không còn thích hợp với nhịp độ phát triển và đòi hỏi nhanh chóng của thị trường phần mềm máy điện toán cá nhân hiện nay.
Vào tháng 4 năm 1987, IBM cho ra đời phần cứng/ phần mềm đã được tổ hợp của họ nhằm ngăn chặn bọn ăn cắp. Phần cứng "loại trừ kẻ cắp" được gọi là PS/2 và chạy trên hệ điều hành mới, hệ OS/2.
Trong phần cứng PS/2 có một số được sáng tạo mới. Nổi tiếng nhất là sơ đồ điện "bus vi kênh - microchannel bus" mới, sơ đồ này cho phép các cạc (cards) phụ nối với hệ thống và giúp cho phần cứng của máy điện toán cá nhân được mở rộng ra để thỏa mãn các yêu cầu cụ thể của khách hàng như âm thanh hoặc khả năng thông tin liên lạc của máy chính. Tất cả các máy điện toán tương thích đều có một "bus" đường nối phần cứng để giúp cho các cạc (cards) đó làm việc với máy điện toán cá nhân.
Vi kênh của phần cứng PS/2 là sự thay thế ngoạn mục của đường nối trong máy PC AT. Nhưng nó giải quyết được nhiều vấn đề mà hầu hết khách hàng không gặp phải. Nó nhanh hơn rất nhiều lần so với đường nối của máy PC AT. Nhưng trên thực tế tốc độ của đường nối này lại không đem lại ích lợi gì cho khách hàng cả. Nhưng điều quan trọng hơn là vì kênh này không thể làm việc được với bất cứ cards nào trong số với máy PC AT và các máy điện toán cá nhân tương thích khác.
Cuối cùng, IBM đồng ý bán bản quyền của vi kênh này cho các nhà sản xuất cards phụ kiện mở rộng và máy điện toán cá nhân. Nhưng vào thời điểm đó, một liên minh các nhà sản xuất tuyên bố đã cho ra đời một bus mới với nhiều khả năng như của vi kênh và tương thích với bus của máy PC AT. Việc hoàn chỉnh cards phụ cho phần cứng PS/2 không bao giờ theo kịp được với số lượng máy PC AT tương thích hiện có. Việc đó buộc IBM phải tiếp tục cho ra đời các loại máy dùng bus cũ. Hậu quả thật sự của vấn đề này là IBM mất hẳn quyền kiểm soát cấu trúc máy điện toán cá nhân. Và họ sẽ không bao giờ một mình môt ngựa có thể tạo ra được một dáng mới nào nữa.
Mặc dù cả IBM lẫn Microsoft đều đã cố gắng đưa ra nhiều cải tiến, nhưng khách hàng nghĩ rằng hệ OS/2 quá cồng kềnh và phức tạp. Tình trạng của hệ OS/2 càng tồi tệ bao nhiêu thì hình ảnh của Windows càng trở nên sáng sủa bấy nhiêu. Bởi vì chúng tôi mất luôn cả hai cơ hội là tạo sự tương ứng giữa Windows và máy OS/2, và làm cho OS/2 có thể chạy trong các máy cũ. Nhưng tiếp tục phát triển Windows vẫn còn có ý nghĩa đối với chúng tôi. Windows "nhỏ hơn" nhiều - có nghĩa là nó sử dụng ít không gian phần cứng hơn và có thể hoạt động trong những máy có bộ nhớ nhờ - vì vậy vẫn còn có chỗ cho nó trong những máy chưa bao giờ sử dụng hệ OS/2. Chúng tôi gọi đó là chiến lược "gia đình". Nói cách khác, hệ OS/2 thuộc hệ thống cao cấp, còn Windows chỉ là thành viên em út của một gia đình đông con, tức có thể sử dụng nó trong các máy nhỏ hơn.
IBM chưa bao giờ cảm thấy yên tâm với chiến lược gia đình của chúng tôi, nhưng họ có kế hoạch riêng của họ. Mùa xuân năm 1988, họ kết hợp với một hãng sản xuất máy điện toán khác để thiết lập nên một Quỹ tài trợ phần mềm mở để cải tiến hệ UNIX, một hệ điều hành được phát triển tại Bell Labs của hãng AT & T vào năm 1969, nhưng qua thời gian nó đã bị chia nhỏ thành nhiều phiên bản khác nhau. Một số phiên bản được phát triển tại các trường đại học nơi sử dụng hệ UNIX như là phòng thí nghiệm để thí nghiệm lý thuyết về hệ điều hành. Số khác phát triển từ các công ty sản xuất máy điện toán. Mỗi công ty lại cải tiến hệ UNIX để dùng cho máy điện toán của họ khiến cho nó không thể tương thích được với bất cứ loại máy điện toán nào khác. Điều đó có nghĩa là hệ UNIX không phải là một hệ duy nhất, mà là một lô các hệ điều hành đối chọi lẫn nhau. Tất cả sự khác nhau đó khiến cho tính tương thích của phần mềm càng trở nên khó khăn hơn và kìm hãm tốc độ phát triển trong thị trường phần mềm cho hệ UNIX của phía đối tác thứ ba. Chỉ có một vài công ty phần mềm là còn có thể xoay xở để phát triển và thử nghiệm các ứng dụng của khoảng một chục phiên bản khác nhau của hệ UNIX.
Quỹ hỗ trợ phần mềm mở là một cố gắng đầy hứa hẹn trong số các cố gắng nhằm "thống nhất" hệ UNIX và tạo ra một cấu trúc phần mềm chung có thể hoạt động trong phần cứng khác nhau. Về lý thuyết, một hệ UNIX thống nhất có thể tạo ra được một chu kỳ phản hồi tích cực. Nhưng, mặc dù được tài trợ khá đủ, Quỹ tài trợ phần mềm vẫn không thể làm cho những người bán hợp tác được nhau, ngược lại họ cạnh tranh nhau rất mạnh. Các thành viên của ủy ban này, bao gồm cả IBM, DEC, và các hãng khác, vẫn tiếp tục cải tiến theo chiều hướng có lợi cho các phiên bản của họ trong hệ UNIX. Các công ty sản xuất hệ UNIX quảng cáo rằng hệ của họ làm lợi cho khách hàng hơn. Nhưng nếu bạn mua hệ UNIX của người bán này thì phần mềm của bạn không thể chạy được trên bất cứ hệ nào khác. Điều có nghĩa là bạn sẽ bị lệ thuộc vào người bán đó, trong khi đó thì trong thế giới máy điện toán cá nhân, bạn có thể mua phần cứng ở bất cứ đâu tùy bạn chọn lựa.
Những vấn đề của quỹ tài trợ này cũng như những sáng kiến tương tự khác chứng minh những khó khăn trong việc cố gắng áp đặt một tiêu chuẩn vào một lĩnh vực mà sự đổi mới diễn ra một cách hết sức nhanh chóng, và tất cả những công ty hợp thành ủy ban tiêu chuẩn kia lại là những đối thủ cạnh tranh của nhau. Thị trường (máy điện toán và máy điện tử) đòi hỏi phải có tiêu chuẩn bởi vì khách hàng yêu cầu như vậy. Tiêu chuẩn bảo đảm cho tính chất tương hỗ, giảm thiểu được thời gian học cách sử dụng, và tất nhiên thúc đẩy ngành công nghiệp phần mềm phát triển với khả năng cao nhất của nó. Bất cứ một hãng nào muốn tạo ra một tiêu chuẩn, phải định giá thật hợp lý, nếu không sẽ không được thị trường chấp nhận.
Thị trường lựa chọn một cách rất hữu hiệu những tiêu chuẩn có giá cả hợp lý và thay thế nó khi nó trở nên lạc hậu, hoặc giá cả quá đắt.
Hệ điều hành của Microsoft hiện nay được khoảng trên chín trăm nhà sản xuất bán ra, giúp cho khách hàng tha hồ lựa chọn. Sở dĩ Microsoft có khả năng cung cấp tính tương thích tốt như vậy là nhờ các nhà sản xuất phần cứng đã thỏa thuận với chúng tôi rằng họ sẽ không bổ sung vào phần mềm của chúng tôi những gì có thể làm mất tính tương thích của nó. Điều đó có nghĩa là hàng trăm ngàn những người sử dụng phần mềm không phải lo lắng gì về phần mềm nào sẽ chạy trong máy điện toán cá nhân của họ. Mặc dù từ "mở" được dùng theo nghĩa là tạo ra cho khách hàng sự lựa chọn những ứng dụng của phần cứng và phần mềm.
Hàng điện tử dân dụng cũng được hưởng lợi từ tiêu chuẩn do các công ty tư nhân đặt ra. Những năm trước đây, các hãng sản xuất hàng điện tử dân dụng thường tìm cách ngăn không cho các đối thủ sử dụng kĩ thuật của họ, nhưng ngày nay hầu hết các hãng sản xuất điện tử dân dụng lớn thường bán quyền sử dụng bản quyền và các bí mật nghề nghiệp cho nhau. Tiền bản quyền của sản phẩm thường là dưới 5% của giá bán sản phẩm. Đầu video, băng VHS, đĩa compact disk, máy thu hình, điện thoại di động, đều là những ví dụ về kĩ thuật do các công ty tư nhân tạo ra và họ nhận lại tiền bán bản quyền từ những công ty sản xuất ra các công cụ đó.
Tháng 5 năm 1990, trong những tuần cuối cùng trước khi cho ra đời Windows 3.0, chúng tôi cố gắng thỏa thuận với IBM để họ mua lại quyền sử dụng Windows để dùng trong máy điện toán cá nhân của họ. Chúng tôi nói với IBM rằng mặc dù hệ OS/2 có thể còn tiếp tục hoạt động trong một thời gian nữa, nhưng hiện nay Windows sắp sửa thành công và OS/2 có thể rồi sẽ trở nên lạc hậu.
Vào năm 1992, IBM và Microsoft ngưng cộng trình hợp tác để phát triển hệ OS/2. IBM tiếp tục phát triển hệ điều hành này một mình. Kế hoạch đầy tham vọng về phiên bản Office Vision sau cùng đã bị hủy bỏ.
Các nhà phân tích dự đoán rằng IBM đã đổ ra hơn 2 tỷ Mỹ kim cho hệ OS/2, Office Vision và các công trình liên quan khác. Nếu như IBM và Microsoft tiếp tục hợp tác với nhau thì hàng năm đã không lãng phí hàng ngàn công nhân, tính trong những năm cao điểm của cả hai hãng. Nếu OS/2 và Winsdows có thể tương ứng với nhau thì hệ thống điện toán đồ họa đã thành xu thế chủ đạo ngay trong vài năm tới.
Việc giới thiệu giao diện đồ họa cũng bị chậm lại bởi vì hầu hết các công ty lớn sản xuất ứng dụng phần mềm không chịu đầu tư vào đó nữa. Phần đông trong số họ phớt lờ Macintosh và cũng làm ngơ hoặc chế giễu cả Windows. Lotus và WordPerfect, những nhà cung ứng hàng đầu các ứng dụng xử lý từ và bảng biểu cũng chỉ thực hiện những cố gắng khiêm tốn đối với hệ OS/2.
Khi hồi tưởng lại tôi thấy đó là một sai lầm, và kết cục là một sự tốn kém. Khi Windows cuối cùng được hưởng lợi từ chu kỳ phản hồi tích cực do được nhiều công ty phần mềm nhờ đưa vào ứng dụng, còn các công ty lớn bị tụt hậu bởi họ tiếp cận với Windows có phần chậm.
Windows, cũng như máy điện toán cá nhân, tiếp tục phát triển. Microsoft vẫn tiếp tục bổ sung những khả năng mới cho nhiều phiên bản khác nhau. Bất cứ người nào cũng có thể phát triển ứng dụng phần mềm chạy trên nền Windows không cần phải báo hoặc xin phép Microsoft. Thực ra, ngày nay có hàng ngàn cơ sở cung cấp phần mềm trọn gói, bao gồm cả việc cung cấp hoàn chỉnh toàn bộ với hầu hết các ứng dụng của Microsoft.
Khách hàng bày tỏ mối e ngại của họ với tôi rằng vì Microsoft hiện là nguồn duy nhất cung cấp phần mềm hệ điều hành, có thể Microsoft sẽ quyết định nâng giá kìm hãm hoặc thậm chí ngưng việc cải tiến hệ điều hành này. Giả sử nếu như chúng tôi có làm như vậy đi nữa thì chúng tôi sẽ không thể bán được các phiên bản mới. Những người đang sử dụng hiện nay có thể sẽ không nâng cấp máy của họ và chúng tôi sẽ không có khách hàng mới. Doanh số của chúng tôi có thể sẽ giảm, và nhiều hãng khác có thể cạnh tranh và chiếm lấy vị trí của chúng tôi. Guồng máy phản hồi tích cực chỉ ủng hộ những người thách thức cũng như những người đang nắm giữ vị thế này, bởi sau lưng bạn còn có biết bao đối thủ bám theo.
Không một sản phẩm nào chiếm giữ vị trí hàng đầu trừ phi nó luôn được cải tiến. Thần trí cả băng VHS rồi cũng sẽ bị thay thế bởi những sản phẩm tốt hơn với giá cả hợp lý. Thực ra thời đại của VHS gần như qua rồi. Trong vòng vài năm tới, chúng ta sẽ có băng dạng số, đĩa phim dạng số có thể thu các phim truyện vào trong đĩa như các đĩa nhạc CD hiện nay, và cuối cùng xa lộ thông tin sẽ tạo những dịch vụ mới như phim video theo yêu cầu, và lúc đó băng VHS sẽ không còn cần thiết nữa.
Hiện nay, hệ MS-DOS đang được thay thế dần. Mặc dù với sức mạnh của một hệ điều hành hàng đầu của máy điện toán cá nhân, nó đang được thay thế bằng một hệ điều hành hàng đầu của máy điện toán cá nhân, nó đang được thay thế bằng một hệ thống giao diện đồ họa. Phần mềm Macintosh có thể sẽ trở thành hệ kế thừa của hệ MS-DOS. Và các hệ OS/2 hoặc UNIX cũng có thể sẽ như vậy. Hiện tại, rõ ràng là Windows đang dẫn đầu. Tuy nhiên, trong một ngành có kĩ thuật cao như ngành này thì không có gì bảo đảm rằng chúng tôi sẽ tiếp tục sử dụng nó, thậm chí trong tương lai rất gần.
Chúng tôi đã phải cải tiến phần mềm của chúng tôi để có thể bắt kịp sự tiến bộ của phần cứng. Mỗi một phiên bản kế tiếp chỉ có thể thành công nếu được người sử dụng chấp nhận nó. Microsoft, bằng tất cả sự cố gắng của mình, sẽ làm sao cho các phiên bản mới phải thật hấp dẫn về phương diện giá cả cũng như đặc điểm mà khách hàng mong muốn. Thực hiện được điều đó là một công việc thực sự khó bởi nó đòi hỏi chẳng những khách hàng mà cả nhà sản xuất phải có kinh phí. Chỉ có những tiến bộ lớn lao mới có thể thuyết phục được người sử dụng rằng nó đáng được thay đổi. Và điều đó chỉ có thể thực hiện được khi có sự cách tân kĩ thuật đúng mực.
Tôi hi vọng rằng, cứ cách hai hay ba năm một lần, các thế hệ mới của Windows sẽ lần lượt xuất hiện.
Những mầm mống của sự cạnh tranh mới đang không ngừng nảy nở trong môi trường nghiên cứu trên toàn thế giới. Chẳng hạn mạng Internet hiện ngày càng trở lên quan trọng tới mức là Windows, nếu muốn tồn tại và phát triển thì nó phải chứng tỏ rằng nó là phương tiện tốt nhất để tiếp cận vào mạng Internet. Tất cả các công ty sản xuất hệ điều hành hiện đang cố gắng tìm cách để có được lợi thế trong cạnh tranh giành lấy sự ủng hộ của Internet. Khi kĩ thuật nhận biết giọng nói đạt được mức độ đáng tin cậy, nó sẽ tạo ra những thay đổi lớn lao khác trong hệ điều hành.
Trong công việc kinh doanh của chúng ta, sự việc thường diễn biến nhanh đến mức chúng ta không có thời gian để quay nhìn lại. Tuy nhiên, tôi đặc biệt lưu ý tới những sai lầm chúng tôi đã phạm phải, và đang hướng mọi nỗ lực vào tương lai. Điều quan trọng là nhận được sai sót của mình và cố gắng rút ra từ đó những bài học bổ ích. Đồng thời phải đảm bảo sao cho không có người nào trách né việc phát minh sáng tạo ra cái mới vì sợ sẽ phải trả gía cho những sai sót có thể của mình cũng là điều quan trọng không kém. Hầu như chưa có một sai sót đơn lẻ nào đóng vai trò định mệnh cả.
Gần đây, dưới sự lãnh đạo của Lou Gerstner, công cuộc kinh doanh của IBM đã đạt hiệu quả hơn nhiều so với trước, chẳng những về mặt lợi nhuận mà cả về trong việc hướng mọi nỗ lực vào tương lai. Mặc dù sự tiếp tục sút giảm trong doanh thu máy chính vẫn còn là vấn đề, nhưng rõ ràng IBM sẽ là một trong những công ty lớn cung cấp sản phẩm cho các ngành kinh doanh và cho xa lộ thông tin trong tương lai.
Trong những năm gần đây, Microsoft cố ý tuyển chọn một số các nhà quản lý có kinh nghiệm từ các công ty đang thất bại. Khi phải đương đầu với thất bại, người ta buộc phải tìm tòi sáng tạo, phải đào sâu suy nghĩ ngày đêm. Tôi muốn có những con người từng trải như vậy bên mình. Microsoft có thể sẽ gặp thất bại trong tương lai, và tôi muốn những người trong hãng của tôi, những người đã từng chứng minh rằng họ đã và sẽ làm tốt công việc trong mọi tình huống.
Một người chiếm lĩnh vị trí hàng đầu trên thương trường có thể sẽ bị khai tử một cách nhanh chóng. Khi người ta nhận biết rằng mình đã để vuột mất chu kỳ phản hồi tích cực thì thường là lúc đã quá muộn, và lúc này gần như tất cả mọi yếu tố của chu kỳ xoắn ốc tiêu cực đều phát huy tác dụng của nó. Bạn khó có thể nhận biết được rằng mình đang rơi vào trong cơn khủng hoảng vào những lúc mà sự nghiệp kinh doanh của bạn có vẻ như đang tiến triển tốt đẹp. Đó sẽ là một nghịch lý đối với những công ty tham gia vào việc xây dựng xa lộ thông tin. Tôi luôn cố gắng giữ cho mình được tỉnh táo.
Tôi chưa bao giờ dự đoán rằng Microsoft sẽ phát triển thật lớn mạnh, và bây giờ, tại thời điểm khởi đầu của thời điểm mới này, tôi bỗng nhiên nhận ra rằng mình là một phần trong công trình đó. Mục tiêu của tôi là muốn chứng minh rằng một công ty thành công có thể tự tái lập lại mình và luôn giữ vững vị trí tiền tiêu.
@by txiuqw4