sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Con đường phía trước - Chương 05 - Phần 2

Một trong những thách thức mang tính kĩ thuật mà Internet đang phải đương đầu là làm thế nào để xử lý các nội dung theo thời gian thực (real-time), nhất là đối với các dạng nghe (audio), kể cả giọng nói, và nhìn (video). Kĩ thuật cơ bản của Internet không bảo đảm cho dữ kiện di chuyển với một tốc độ ổn định được từ điểm này sang điểm khác. Nhiều biện pháp thông minh đã thực sự giúp cho hình ảnh video và âm thanh audio có chất lượng cao được phân phối theo hai chiều, nhưng để có được video và audio tốt đòi hỏi phải có những thay đổi lớn trong mạng lưới, nhưng điều đó khó xảy ra trong vài năm tới.

Khi những thay đổi đó thực sự xảy ra, chúng sẽ đưa mạng Internet trực tiếp cạnh tranh với các mạng lưới của các công ty điện thoại. Phương thức định giá khác nhau để cạnh tranh các công ty này sẽ là điều thú vị cho chúng ta quan sát.

Vì Internet hiện đang thay đổi cách chúng ta phải trả tiền cho việc sử dụng các phương tiện truyền thông liên lạc, rồi đây chúng cũng có thể thay đổi cách chúng ta trả tiền cho thông tin chúng ta sử dụng. Mặc dù hiện nay phần lớn số lượng thông tin, từ những tấm hình của NASA cho tới các bản tin công cộng đều do người sử dụng cung cấp, cho lên nó tiếp tục được miễn phí, nhưng tôi tin rằng phần lớn thông tin hấp dẫn như phim của Hollywood hoặc từ điển bách khoa toàn thư sẽ được tiếp tục sản xuất với động cơ thu lợi nhuận.

Các công ty cáp cũng đề ra chiến lược và kĩ thuật tạm thời của riêng họ. Họ muốn sử dụng mạng lưới cáp đồng trục hiện có để cạnh tranh với những công ty điện thoại đang cung cấp các dịch vụ điện thoại địa phương. Họ cũng đã chứng minh khả năng dùng các modem cáp đặc biệt để nối máy điện thoại cá nhân vào mạng lưới cáp. Điều này cho phép các công ty cáp cung cấp dải thông, trong mức độ nào đó, rộng hơn dải thông của kĩ thuật ISDN. Các công ty cáp này còn có bước tạm thời khác như sẽ nâng số lượng kênh chuyển tải các kênh phát sóng lên từ 5 tới 10 lần bằng cách dùng kĩ thuật nén để nén nhiều kênh vào trong hệ thống cáp hiện có.

Cái mà hiện nay người ta gọi là hệ thống 500 kênh, thực ra thường chỉ có 150 kênh, có thể truyền được phim video theo yêu cầu, mặc dù chỉ dành riêng cho một số chương trình truyền hình và chiếu phim rất hạn chế. Bạn có thể chọn từ trong một danh mục trên màn hình chứ không phải chọn kênh được đánh số với khoảng cách thời gian trong vòng 5 phút để có thể cho bạn xem qua và để quyết định. Bạn có thể chọn những phim có sẵn trong thời gian khởi động cho phim chuyện hay cho chương trình truyền hình, và hộp điều khiển của bạn sẽ chuyển sang kênh thích hợp. Chẳng hạn chương trình dài nửa giờ của CNN và tóm tin thời sự - CNN Headline News - sẽ được truyền trên 6 kênh thay vì 1 như hiện nay, với chương trình 6 giờ chiều sẽ được truyền lại vào lúc 6 giờ 5, 6 giờ 10, 6 giờ 15, 6 giờ 20 và 6 giờ 25 phút. Cứ khoảng nửa tiếng đồng hồ lại có một chương trình truyền hình trực tiếp mới. Cho nên chương trình 500 kênh sẽ hình

thành rất nhanh theo dạng này.

Các công ty cáp hiện đang bị sức ép buộc phải tăng thêm kênh một phần là do phản ứng với sự cạnh tranh. Những vệ tinh truyền hình trực tiếp như DIRECTV của Hughs Electronics hiện đang phát hàng trăm kênh trực tiếp vào các gia đình. Các công ty cáp muốn tăng thêm một số lượng kênh một cách nhanh chóng để khỏi bị mất khách hàng. Nếu như xa lộ thông tin chỉ vì một ký do duy nhất là muốn phát một số lượng phim ảnh rất hạn chế thì hệ thống 500 kênh kia là đã quá đủ.

Hệ thống 500 kênh rồi vẫn còn phải phát hình chủ yếu theo phương pháp đồng bộ và như vậy sẽ hạn chế sự chọn lựa của bạn, và nếu cố gắng nắm thì cũng có thể cung cấp các "kênh hồi tiếp" có dải thông thấp mà thôi. "Kênh hồi tiếp - back channel" là một đường thông tin dành riêng để chuyển tải những chỉ thị và các thông tin khác từ một thiết bị thông tin của khách hàng ra cáp để phát lên mạng lưới. Kênh hồi tiếp trên hệ thống 500 kênh có thể giúp cho bạn dùng hộp điều khiển của máy thu hình của bạn để đặt hàng hoặc lập trình, để nêu câu hỏi và các trò chơi hay trả lời các chiến dịch tăm dò ý kiến quần chúng, và tham gia các trò chơi có nhiều người tham dự. Nhưng kênh hồi tiếp dải thông thấp không thể tạo sự linh hoạt và tính tương tác mà các ứng dụng thú vị nhất sẽ đòi hỏi. Bạn không thể dùng nó để chuyển các cuốn phim quay bọn trẻ hay ông bà, hay tham gia vào những trò chơi đòi hỏi tính tương tác cao được.

Các công ty cáp và công ty điện thoại trên thế giới rồi sẽ phát triển theo hướng của 4 con đường song song sau đây. Thứ nhất, trong kinh doanh, công ty này sẽ phải theo công ty kia. Công ty cáp phục vụ dịch vụ điện thoại, còn công ty điện thoại làm dịch vụ video, kể cả truyền hình. Thứ hai, cả hai hệ thống đều cung cấp phương cách tốt nhất để nối máy điện toán cá nhân với hoặc là kĩ thuật ISDN hoặc với modem cáp. Thứ ba là cả hai phải chuyển sang kĩ thuật số để có thể cung cấp được nhiều kênh truyền hình và tín hiệu có chất lượng cao hơn. Cuối cùng cả hai sẽ phải tiến hành các cuộc thử nghiệm hệ thống băng dải rộng nối với máy thu hình và máy điện toán cá nhân. Mỗi một chiến lược đều kích thích sự đầu tư vào xây dựng khả năng mạng lưới dạng số. Giữa các công ty điện thoại và các công ty cáp truyền hình rồi sẽ có sự cạnh tranh mãnh liệt để giành giật khách hàng của vùng lân cận.

Sau này, mạng Internet và các kĩ thuật quá độ khác sẽ được gộp chung vào trong xa lộ thông tin. Xa lộ sẽ kết hợp các kĩ thuật có chất lượng tốt nhất của cả hai hệ thống điện thoại và mạng lưới cáp để đồng thời thực hiện được hai chức năng: mạng lưới điện thoại và mạng lưới cáp truyền hình. Tất cả các đường dây nối các máy phục vụ và với thế giới bên ngoài sẽ được làm bằng cáp quang trong suốt, đó chính là "nhựa đường" của xa lộ thông tin. Tất cả các hệ thống dây điện thoại đường dài lớn tại Mỹ đều dùng cáp quang, nhưng phần dây nối vào từng gia đình vẫn còn là cáp đồng trục. Các công ty điện thoại rồi sẽ thay thế cáp đồng trục, sóng cực ngắn, mạng liên kết vệ tinh trong mạng lưới của họ bằng cáp quang, và như vây họ sẽ có dải thông để có khả năng chuyển các bit để phân phối hình ảnh video có chất lượng cao. Các công ty cáp truyền hình sẽ gia tăng lượng cáp quang lên.

Khi cáp quang được tryển khai thì các công ty điện thoại và các công ty cáp truyền hình sẽ kết hợp hệ thống chuyển mạch mới vào trong mạng lưới của họ để họ có thể chuyển được các tín hiệu video dạng số và các dạng thông tin khác từ một điểm tới bất cứ điểm nào trên mạng lưới. Tổng kinh phí để nâng cấp hệ thống hiện có lên để chuẩn bị cho xa lộ thông tin sẽ tốn khoảng chưa tới phần tư của tổng kinh phí của công trình thiết lập hệ thống dây mới vào từng gia đình.

Bạn có thể hình dung một đường cáp quang giống như một đường ống nước chính rộng khoảng 0,3 m để chuyển nước vào đường của phố bạn ở. Nó không chạy thẳng vào ngồi nhà bạn mà thông qua một đường ống nhỏ hơn nối từ đường ống chính đi vào nhà bạn. Đầu tiên, cáp quang chỉ chạy đến điểm phân phối của địa phương đó, rồi từ đó các tín hiệu chuyển sang cáp đồng trục là cáp truyền hình bạn đang sử dụng hoặc theo đường cáp đồng trục xoắn đôi là dây điện thoại bạn đang dùng. Dù vậy, sau này nếu gia đình bạn sử dụng nhiều dữ liệu người ta có thể nối cáp quang thẳng vào nhà bạn.

Hệ thống chuyển mạch là những máy điện toán hết sức tinh vi, nó rẽ những dòng dữ liệu từ rãnh này sang rãnh khác. Hàng triệu dòng thông tin đồng thời chảy lên mạng lưới nhưng tất cả các bit thông tin khác nhau đều sẽ phải được hướng vào đích đến của chúng và bảo đảm đúng nơi và đúng thời gian.

Thông tin chạy trên xa lộ xẽ được chia thành những nhóm nhờ li ti, và mỗi nhóm đó sẽ tự chạy một cách độc lập trên mạng lưới, giống như chiếc xe hơi chạy trên đường lộ vậy. Khi bạn yêu cầu được xem phim, nhóm này tự vỡ ra thành hàng triệu mảnh li ti khác, mỗi một mảnh đó sẽ tìm đường trong mạng lưới để đến với máy thu hình của bạn.

Hoạt động của các nhóm đó sẽ hoàn thành thông qua việc sử dụng một nghi thức thông tin liên lạc gọi là chế độ di chuyển không đồng bộ, hay còn gọi là Asinchronous Transfer Mode (ATM). Chế độ đó sẽ là những khối hợp nhất của xa lộ thông tin. Các công ty điện thoại trên thế giới đã bắt đầu dựa vào chế độ ATM bởi nó sẽ tận dụng tối đa được dải rộng của cáp quang. Điểm mạnh của ATM là khả năng bảo đảm việc phân phối thông tin rất kịp thời. ATM sẽ phá vỡ mỗi dòng số thành các nhóm thống nhất, mỗi nhóm chứa 48 byte thông tin cần được chuyển và 5 byte thông tin quản lý giúp cho bộ chuyển mạch của xa lộ thúc đẩy tốc độ di chuyển của các nhóm tới đích các nhóm đó lại hợp lại thành các dòng.

ATM phân phối các dòng thông tin đi với tốc độ rất cao, đầu tiên có thể lên tới 155 triệu bit/giây, và sau đó nhảy nhanh lên tới 622 triệu bit/giây, và cuối cùng đạt tới con số 2tỷ/giây. Kĩ thuật này sẽ giúp cho việc chuyển được hình ảnh video cũng như các cuộc đàm thoại với một giá rất rẻ. Cũng giống như tiến bộ trong kĩ thuật chip đã giúp giảm giá máy điện toán xuống; ATM, bởi nó cũng có thể chuyển số lượng lớn các cuộc đàm thoại theo kiểu cũ, lên cũng sẽ giảm giá cước điện thoại đường dài xuống rất nhiều.

Việc nối cáp có dải thông cao sẽ liên kết được gần hầu hết các ứng dụng thông tin trên xa lộ, và sẽ có một số thiết bị được nối mạch theo kiểu vô tuyến. Chúng ta đã áp dụng một số các thiết bị thông tin liên lạc vô tuyến như điện thoại di động, máy nhắn tin, bộ điều khiển từ xa, nhưng dải thông của chúng còn bị hạn chế. Mạng lưới truyền thông vô tuyến trong tương lai sẽ nhanh hơn. Nhưng phải có những bước đột phá lớn, nếu không mạng lưới hữu tuyến vẫn là dải thông rộng hơn rất nhiều. Những thiết bị di động sẽ có khả năng phát và nhận các mẫu tin, nhưng giá vẫn còn rất cao và ít được sử dụng để nhận các phim video cá nhân.

Mạng lưới vô tuyến cho phép chúng ta liên lạc được với nhau khi chúng ta đang di chuyển trên đường sẽ phát triển vượt ra ngoài hệ thống điện thoại di động hiện có, và dịch vụ điện thoại di động thay thế mới sẽ được gọi là PCS - dịch vụ thông tin liên lạc cá nhân. Khi bạn đang trên đường đi và muốn có thông tin từ gia đình hoặc từ cơ quan của bạn thì thiết bị thông tin cầm tay của bạn sẽ nối mạng với phần vô tuyến của xa lộ, một bộ chuyển mạch sẽ nối với phần hữu tuyến, và cuối cùng tới máy phục vụ hay máy điện toán tại gia đình hay cơ quan của bạn để cung cấp thông tin theo yêu cầu của bạn.

Ngoài ra, còn có mạng lưới vô tuyến rẻ hơn chủ yếu sử dụng trong cơ quan và gia đình. Các mạng lưới này sẽ giúp nối mạch được với xa lộ hay với hệ thống máy điện toán của bạn mà không phải trả phí thời gian sử dụng miễn là đừng vượt ra ngoài phạm vi quy định. Mạng lưới vô tuyến địa phương sẽ sử dụng một kĩ thuật khác với kĩ thuật dùng cho mạng vô tuyến điện rộng. Tuy nhiên, các thiết bị thông tin di động sẽ tự động lựa chọn mạng lưới rẻ tiền thích hợp hơn cho lên người sử dụng không biết sự khác nhau đó. Mạng lưới vô tuyên bên trong sẽ giúp cho các ví điện tử hoạt động thay cho bộ phận điều khiển từ xa.

Dịch vụ vô tuyến gây nhiều mối quan ngại về tính chất riêng tư và sự an ninh bởi vì các tín hiệu radio có thể tiếp nhận một cách dễ dàng. Thậm chí mạng liên lạc vô tuyến mà còn bị nghe lén. Phần mềm của xa lộ rồi sẽ phải tìm cách mã hóa để ngăn chặn nạn nghe nén.

Các chính phủ đã hiểu tầm mức quan trọng của việc bảo mật thông tin và lý do kinh tế, quốc phòng. Sự cần thiết phải bảo mật cho các thông tin của cá nhân, của các nghành thương mại, ngoại giao, quốc phòng đã thu hút trí tuệ của biết bao thế hệ. Thật là thú vị khi giải được một mã nào đó. Charles Babage, người đã lập nhiều thành tích đầy ấn tượng trong nghệ thuật giải mã vào khoảng giữa thế kỉ 17, đã viết: "Tôi cho rằng giải thuật là một trong những khoa nghệ thuật tuyệt vời nhất, và tôi e rằng tôi đã lãng phí thời gian vì nó quá nhiều." Tôi phát hiện ra sự tuyệt vời của nó khi tôi còn là cậu nhóc, cũng giống như trẻ con ở mọi nơi, chúng tôi chơi một số mã khóa đơn giản. Chúng tôi có thể mã hóa các mẫu tin bằng cách thay thế một ký tự trong hệ thống mẫu tự. Nếu một người bạn gửi cho tôi một mật mã bắt đầu bằng "ULFW NZXX", chúng ta có thể dễ dàng đoán ra được nghĩa của nó "DEAR BILL" vì chữ U thay chữ D, chữ L thay chữ E, chữ F thay chữ A... Khi đã giải mã được chữ trên đây thì việc đọc phần còn lại của mẫu tin không có gì khó khăn cả.

Với sức mạnh kỳ diệu của máy điện toán, rồi đây bất cứ một em bé nào đủ lớn để có thể sử dụng được máy điện toán đều có thể chuyển các mẫu tin thường thành những mẫu tin đã được mã hóa mà không một chính phủ nào trên hành tinh này có thể dễ dàng giải mã được. Đây chính là một trong những khả năng tiềm tàng của uy lực tuyệt vời của máy điện toán.

Khi bạn gửi đi một mẫu tin lên xa lộ thì máy điện toán hay thiết bị thông tin của bạn đã "ký tên" bằng chữ ký dạng số mà chỉ có bạn là người có thể sử dụng được, và nó sẽ được mã hóa để sao cho chỉ có người nhận đã được chỉ định mới có thể giải mã được mà thôi. Bạn có thể gửi đi một mẫu tin của bất cứ loại thông tin nào, kể cả giọng nói, hình ảnh phim video, hoặc tiền ở dạng số. Người nhận có cách để giải quyết rằng đó chính là bạn, rằng nó đã được gửi theo đúng giờ đã định, rằng nó không họ bị ai xâm phạm vào, và những người khác không thể giải mã nó được.

Kĩ thuật giúp cho việc đó có thể thực hiện được là nhờ dựa trên các nguyên lý toán học, bao gồm cả điều mà chúng ta gọi là các chức năng một chiều và cơ chế mã khóa công cộng. Đó là những khái niệm tiên tiến, cho nên tôi chỉ nêu đại khái như vậy. Có điều chúng ta lên nhớ rằng, dù cho hệ thống đó, về phương diện kĩ thuật, có phức tạp đến đâu đi nữa, nó cũng sẽ trở lên hết sức dễ dàng để cho bạn sử dụng. Bạn chỉ cần nói với thiết bị thông tin của bạn những gì bạn cần và nó sẽ thực hiện ngay.

Chức năng một chiều là một điều đễ dàng thực hiện hơn rất nhiều nếu so với chế độ khoan thực hiện - undo. Làm bể một ô cửa kính là một chức năng một chiều nhưng không phải là chức năng có lợi để giải mã. Loại chức năng một chiều mà thuật mật mã đòi hỏi là một loại chức năng có thể dễ dàng undo nếu như bạn biết một thông tin đặc biệt, và sẽ rất khó khăn nếu như bạn không biết gì về thông tin đặc biệt đó. Trong toán học có rất nhiều những chức năng một chiều như vậy. Một trong số đó là các số nguyên tố. Trẻ con học số nguyên tố trong nhà trường. Một số nguyên tố không thể chia chẵn cho một số nào trừ số 1. Trong chục số đầu tiên, các số nguyên tố là 2,3,5,7,11. Các con số 4.6.8.10 không phải là những số nguyên tố bởi có thể chia hết chúng cho 2. Con số 9 không phải là số nguyên tố vì có thể chia hết cho 3. Khi bạn nhân hai con số nguyên tố với nhau bạn sẽ được một tích số mà tích số đó chỉ có thể chia đều được bởi chính hai con số nguyên tố kia. Ví dụ, chỉ có con số 5 và con số 7 là có thể chia hết cho 35. Cách tìm ra số nguyên tố như vậy được gọi là phân tích thừa số một số.

Việc nhân các số nguyên tố 11.927 với 20.903 ta được con số 249.310.081 là công việc hết sức dễ dàng, nhưng sẽ vô cùng khó khăn nếu muốn phục hồi từ tích số 249.310.081, vì hai số nguyên tố kia lại chính là thừa số của nó. Chính chức năng một chiều này làm cơ sở cho cơ chế mật mã: một hệ thống mã hóa tinh vi nhất hiện đang được sử dụng. Phải mất rất nhiều thời gian, thậm chí đối với các máy điện toán lớn, để phân tích một tập hợp tích số rất lớn trở lại các con số nguyên tố ban đầu. Hệ thống mật mã dựa trên hai chìa khóa giải mã khác nhau, một chìa dùng để giải mã hóa một bản tin và một chìa khác, nhưng có liên quan, để giải mã. Bằng một chìa mật mã người ta dễ dàng mã hóa một bản tin, nhưng giải mã nó trong khoảng thời gian nhất định là điều gần như không thể thực hiện được.

Để có thể giải mã, đòi hỏi phải có một chìa khóa riêng mà chỉ có người nhận bản tin, hay nói cách khác là máy điện toán của người nhận mới có được. Chìa khóa để mã hóa dựa trên tích số của hai số nguyên tố khổng lồ, trong khi đó chìa khóa giải mã thì dựa chính trên bản thân các con số nguyên tố. Một máy điện toán thì việc tạo ra hai con số nguyên tố thật lớn và nhân chúng với nhau chẳng có gì khó khăn cả. Do đó, có thể công bố công khai chìa khóa dùng để mã hóa đã được tạo ra mà chẳng phải lo sợ rủi do nào cả.

Việc áp dụng vào thực tế cơ chế mật mã này sẽ do một trung tâm của hệ thống an ninh của xa lộ thông tin phụ trách. Thế giới rồi sẽ tin cậy vào mạng lưới này, cho nên điều quan trọng là phải xử lý vấn đề an ninh này sao cho thật hoàn hảo.

Máy điện toán cho người sử dụng hoặc các thiết bị thông tin khác sẽ dùng số nguyên tố để tạo ra chìa khóa mã hoá, và sẽ đưa lên danh mục công khai, và một chìa khóa giải mã tương ứng mà chỉ có người sử dụng biết. Dưới đây là cách chúng hoạt động trên thực tế: tôi có một thông tin muốn chuyển tới bạn. Hệ thống máy điện toán, hoặc thiết bị thông tin của tôi lục tìm chìa khóa công cộng của bạn và sử dụng nó để mã hóa thông tin trước khi chuyển tơis cho bạn. Không ai có thể đọc bản tin đó cả, mặc dù chìa khóa của bạn mọi người đều biết, là vì chìa khóa công cộng của bạn không chứa thông tin cần thiết để giải mã. Bạn nhận được bản tin và máy điện toán của bạn sẽ giải mã nó bằng một chìa khóa riêng tương ứng với chìa khóa công cộng của bạn.

Bạn muốn trả lời. Máy điện toán của bạn sẽ lục tìm chìa khóa công cộng của tôi và sử dụng nó để mã hóa thư trả lời của bạn. Không ai có thể đọc thư trả lời này cả, mặc dù nó được mã hóa bằng một chìa khóa mà mọi người đều biết. Chỉ có tôi là người duy nhất đọc nó vì chỉ có tôi mới có chìa khóa riêng để giải mã. Điều này rất thực tế, bởi không ai đi trao đổi chìa khóa trước cả.

Vậy thì các nguyên tố và tích số của chúng phải lớn bao nhiêu mới đủ bảo đảm tính hiệu quả của một chức năng một chiều?

Khái niệm về cơ chế mã hóa chìa công cộng do các ông Whitfield Diffie và Martin Hellman nghĩ vào ra năm 1977. Một nhóm nhà khoa học về điện toán khác như Ron Rivest, Adi Shamir, và Leonard Adelman, cũng nhanh chóng đưa ra khái niệm về việc sử dụng phép phân tích thành thừa số nguyên tố như là một phần trong cái mà hiện nay gọi là hệ thống mật mã RSA, tên này dựa vào các ký tự đầu tên của họ. Nhóm này cho rằng phải mất hàng triệu năm để phân tích thành nhân tử một con số có 130 ký số, đó là tích số của hai số nguyên tố, bất kể họ sử dụng loại máy điện toán nào. Để chứng minh, họ thách thức thế giới thử tìm ra hai thừa số trong co số 129 ký số mà những người trong nhóm đó gọi là RS129:

114, 381, 625, 757, 888, 867, 669, 235, 779, 976, 146, 612, 010, 218, 296, 721, 242, 362, 562, 561, 842, 935, 706, 935, 245, 733, 897, 830, 597, 123, 563, 958, 705, 058, 989, 075, 147, 599, 290, 026, 879, 543, 541

Họ quả quyết rằng mẫu tin được mã hóa bằng cách sử dụng con số được coi như là chìa khóa công cộng và sẽ được an toàn vĩnh viễn. Nhưng họ đã không dự đoán được hiệu ứng của quy luật Moore, như chúng ta đã đề cập tại chương 2 là chính nó đã làm cho máy điện toán trở lên mạnh hơn nhiều, hoặc chính nó đã đem lại sự thành công của máy điện toán cá nhân, khiến cho số lượng máy điện toán cá nhân trên thế giới tăng lên rất nhiều. Năm 1993, một nhóm trên 600 nhà khoa học và nghiệp dư trên toàn thế giới bắt đầu tấn công vào con số 129 ký số nói trên, sử dụng mạng Internet để phối hợp sự hoạt động của nhiều máy điện toán khác nhau. Chỉ chưa đầy một năm họ đã phân tích con số trên thành hai số nguyên tố, một con số có 64 ký số và số kia dài 65 ký số. Các nguyên tố đó là:

3, 490, 529, 510, 847, 650, 949, 147, 849, 619, 903, 898, 133, 417, 764, 638, 493, 387, 843, 990, 820, 577

và: 32, 769, 132, 993, 266, 709, 549, 961, 988, 190, 834, 461, 413, 177, 642, 967, 942, 539, 798, 288, 533

Một bài học có thể rút ra từ sự thách thức này là chìa khóa công cộng có 129 ký số kia không đủ dài nếu thông tin cần được mã hóa kia thực sự quan trọng. Bài học khác là không một ai lại dám đi bảo đảm sự an toàn tuyệt đối cho một mật mã bao giờ.

Tăng số lượng con số của chìa khóa công cộng lên vài con số đã khiến cho việc giải mã trở lên khó khăn hơn nhiều. Những bài toán học ngày nay tin rằng để có thể giải mã tích số có 250 ký số của hai số nguyên tố phải mất đến hàng triệu năm với khả năng mạnh của máy điện toán mà ta có thể tiên đoán được. Nhưng ai biết được? Đây là một điều không chắc chắn - nhưng rất có thể có khả năng một ai đó có khả năng tìm ra cách dễ dàng hơn và để phân tích số trên có nghĩa là phần mềm của xa lộ thông tin sẽ tìm ra cách sao cho các thuật mã hóa cúa nó phải được thay đổi khi cần.

Chúng ta không phải lo ngại rồi đây số nguyên tố không còn nữa, hoặc ngẫu nhiên hai máy điện toán lại cùng sử dụng một con số để làm chìa khoá. Số nguyên tố có độ dài thích hợp hiện còn có nhiều hơn cả số lượng nguyên tử có trong vũ trụ, và như vậy việc ngẫu nhiên dùng trùng con số là chuyện rất khó xảy ra.

Khóa mật mã không chỉ có ý nghĩa trong việc bảo đảm cho sự tự do riêng tư mà nó còn bảo đảm cho tính xác thực của tài liệu bởi vì có thể sử dụng chìa khóa riêng để mã hóa các mẫu tin mà chỉ có các chìa khóa công cộng mới giải mã được. Thí dụ nếu tôi có một tài liệu tôi muốn gửi cho bạn, máy điện toán dùng chìa khóa công cộng của tôi để mã hóa nó. Tài liệu đó chỉ có thể được đọc bởi không có ai ngoài tôi có chìa khóa riêng mà tôi đã dùng mã hóa nó.

Máy điện toán của tôi nhận tài liệu đã mã hóa đó là mã hóa lại một lần nữa, lần này nó dùng chìa khóa công cộng của bạn. Sau đó máy của tôi gửi tài liệu đã mã hóa hai lần này tới bạn thông qua xa lộ thông tin.

Máy điện toán của bạn nhận tài liệu này và sử dụng chìa khóa riêng của bạn để giải mã nó. Việc này giải mã lần mã hóa thứ hai nhưng chưa giải được mã tôi đã dùng chìa khóa riêng để khóa lần thứ nhất. Sau đó máy điện toán của bạn dùng chìa khóa công cộng của tôi để giải mã lần nữa bản tài liệu. Bởi đó thực sự là một tài liệu của tôi gửi tới, tài liệu được giải mã đúng và bạn biết rằng đó là tài liệu thật. Nếu giả sử có một bít thông tin bị thay đổi thì tài liệu đó không thể giải mã được và người ta có thể phát hiện các lỗi lầm. Sự an toàn cao đó giúp cho bạn có thể giao dịch buôn bán với những người lạ, hoặc thậm chí cả với những người bạn không tin cậy lắm bởi bạn biết chắc chắn rằng tiền ở dạng số, cùng với chữ ký và chứng từ là xác thực.

Độ an toàn có thể cao hơn bằng cách áp dụng một ký hiệu thời gian vào trong tài liệu được mã hóa đó. Nếu có ai đó xâm phạm vào tài liệu và tìm cách "gắn lại dấu hàn" về thời giai khi tài liệu được viết và được gửi đi sẽ bị phát hiện dễ dàng.

Sự mô tả của tôi về cơ chế mã hóa chìa khóa công cộng nhằm đơn giản hóa chi tiết mang tính kĩ thuật của hệ thống. Nhưng vì nó khá chậm cho lên nó không phải là hình thức mật mã duy nhất dùng cho xa lộ. Dù vậy hệ thống mã hóa chìa khóa công cộng sẽ là cách người ta dùng để mã hóa tài liệu, chữ ký, và mã hóa các chìa khóa của các loại mật mã khác dùng trên xa lộ.

Lợi ích to lớn của cuộc cách mạng máy điện toán cá nhân là cách nó làm cho con người có thêm sức mạnh. Phương tiện truyền thông liên lạc với giá rất rẻ của xa lộ thông tin càng làm sức mạnh đó của con người được tăng lên một cách cơ bản hơn. Những người được hưởng lợi không phải chỉ có những người có thiên hướng về kĩ thuật. Bởi ngày càng có nhiều máy điện toán được nối vào mạng lưới dải thông cao, và vì các phần mềm sẽ tạo ra nền tảng cho nhiều ứng dụng lớn lao khác, và mọi người đều có thể tiếp cận được với hầu hết mọi nguồn thông tin của thế giới.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx