sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Con Gái Người Giữ Ký Ức - Chương 05-06

Chương 5Tháng Hai Năm 1965

NORAH ĐỨNG BẤP BÊNH TRÊN CHIẾC GHẾ ĐẨU CAO ĐẶT TRONG PHÒNG KHÁCH, chân để trần, nàng đang mải thắt những dải dây hoa màu hồng lên chiếc đèn chùm bằng đồng. Những dải dây giấy hình trái tim hồng và hồng đậm rủ xuống bàn, vắt lên chiếc bình sứ nàng được tặng hồi mới cưới, lên những bông hồng đỏ thẫm và miệng lọ viền vàng, lên cả tấm khăn trải bàn kết bằng ren và mấy chiếc khăn ăn vải lanh. Trong khi nàng làm việc, chiếc lò sưởi kêu rì rì và những dải giấy nến bay phất phơ, quét lên váy nàng đang mặc, rồi nhẹ nhàng đáp xuống sàn nhà, vẫn còn đu đưa nhè nhẹ.

Paul, đã mười một tháng tuổi, ngồi một góc, bên cạnh là chiếc giỏ đựng nho cũ đầy ắp những mẩu xếp hình bằng gỗ. Thằng bé mới tập đi, suốt cả buổi trưa cu cậu đi lẫm chẫm khắp căn nhà mới trong đôi giày đầu tiên mình có, lấy thế làm thú lắm. Mỗi căn phòng là một cuộc phiêu lưu. Thằng bé vứt đinh xuống sàn gạch, thích thú trước âm thanh chúng tạo ra. Nó lê cả túi bột bả matit qua bếp, để lại một vệt bột trắng dài dưới chân. Bây giờ thì cu cậu lại tròn mắt nhìn những dải giấy màu xinh xắn và phất phơ như cánh bướm. Nó bám vào ghế đẩu rồi huơ tay để bắt lấy. Vừa túm được một dải giấy màu hồng, nó giật thật mạnh khiến chiếc đèn chùm lắc lư dữ dội.Thằng bé mất thăng bằng ngồi phịch xuống đất. Mất một giây ngơ ngác rồi nó òa lên khóc.

"Ôi, cưng của mẹ," Norah vội trèo xuống đất để bế thằng bé lên.

" Nào, nào," nàng thì thầm và đưa tay lên vuốt mái tóc sẫm mềm mại của con.

Phía ngoài, ánh đèn pha lóe sáng rồi tắt ngay, tiếp đó là tiếng cửa xe sập lại. Cùng lúc đó, chuông điện thoại reo vang. Norah bế Paul vào bếp, vừa nhấc ống nghe thì có tiếng ai đó gõ cửa.

"A lô?" Nàng vừa áp môi lên vầng trán ấm và mềm của Paul, vừa nghiêng người để ngó xem xe ai vừa đi vào. Phải một tiếng nữa Bree mới đến. "Con ngoan," nàng thì thầm. Nói rồi nàng lại quay lại với cái ống nghe, "A lô?"

"Chị Henry phải không ạ?"

Đó là nữ y tá ở chỗ làm mới của David - anh đã chuyển vào làm ở bệnh viện được một tháng - Norah chưa gặp bà ta bao giờ. Giọng nói của bà ta ấm và dày: Norah phác ra hình ảnh một người phụ nữ tuổi trung niên, khỏe mạnh và chắc nịch, tóc búi gọn ghẽ. Caroline Gill, nữ y tá đã nắm chặt tay nàng trong những cơn co thắt đau xé người, với đôi mắt xanh và cái nhìn kiên định theo sát nàng trong suốt buổi đêm điên rồ ngập trong bão tuyết hôm nào - đã biến mất - thật bí ẩn, và cũng tai tiếng nữa.

"Chị Henry, tôi là Sharon Smith. Bác sĩ Henry bị gọi vào xử lý một ca cấp cứu ngay đúng lúc anh ấy chuẩn bị ra cửa để về nhà, tôi xin thề đấy. Có một tai nạn rất kinh khủng trên đường Leestown. Toàn bọn choai choai chị ạ, bị thương nặng lắm. Bác sĩ Henry bảo tôi gọi về cho chị. Anh ấy sẽ cố gắng về nhà trong thời gian sớm nhất có thể."

"Anh ấy có nói bao giờ về không?" Norah hỏi. Không khí tràn ngập mùi thơm của thịt lợn quay, dưa cải bắp và khoai tây bỏ lò: toàn món David thích.

"Không. Nhưng thấy bảo vụ tai nạn này khủng khiếp lắm. Ta nói giữa tôi và chị thôi nhé, chắc phải mất đến vài tiếng là ít."

Norah gật đầu. Đằng xa, cánh cửa trước mở ra rồi đóng lại. Có tiếng chân người khẽ và quen đi qua phòng nghỉ, qua phòng khách rồi tới phòng ăn: Bree đến đón Paul sớm, để Norah và David có cả một buổi tối bên nhau trong ngày kỷ niệm của hai người ngay trước lễ Valentine.

Đó là kế hoạch của Norah, một điều bất ngờ, món quà dành cho anh.

"Cám ơn chị nhé. Cám ơn vì đã báo cho tôi biết." Nàng nói với nữ y tá rồi gác máy.

Bree bước vào bếp, mang theo cả mùi mưa ẩm. Bên dưới áo mưa dài cô đi một đôi bốt đen cao đến đầu gối, cặp đùi dài và trắng muốt mất hút dưới cái váy ngắn nhất mà Norah từng thấy.

"Wow," Bree kêu lên, vứt hết mấy cái túi lên mặt quầy rồi quay ra bế Paul. "Đẹp quá chị Norah ạ. Em không ngờ chỉ trong thời gian ngắn mà chị đã trang hoàng nhà cửa lộng lẫy thế này cơ đấy."

“Chị làm mất thời gian lắm đấy,” Norah gật gù đồng tình, nghĩ đến mấy tuần cặm cụi gỡ giấy dán tường bằng hơi nước để quét lớp sơn mới. Họ đã quyết định chuyển nhà, cả nàng và David cùng quyết, vì nghĩ rằng nơi ở mới, cũng như công việc mới của anh, sẽ giúp họ quên di quá khứ. Norah vốn chẳng còn thiết tha với bất cứ việc gì, đã dồn hết tâm sức cho công trình này. Dẫu vậy nó cũng chẳng giúp gì nhiều như nàng đã hy vọng lúc đầu; cảm giác mất mát vẫn thường xuyên khuấy động tâm can nàng, như những đóm lửa âm ỉ cháy dưới đám tro tàn. Chỉ mới tháng vừa qua thôi, đã hai lần nàng gọi người đến trông Paul và bỏ mặc căn nhà đầy đồ đạc đang sơn vẽ dở dang cùng những cuộn giấy dán tường ngổn ngang. Nàng lái xe như điên trên những con đường quê nhỏ hẹp tới khu nghĩa trang tư nhân có cánh cổng sắt uốn, đó là nơi con gái nàng đã được chôn cất. Những tấm bia mộ đều thấp lè tè, một số bia đã rất cũ, bị mài mòn tới gần như tròn nhẵn. Tấm bia mộ của Phoebe được làm bằng đá granite hồng giản dị, ngày tháng đánh dấu cuộc đời ngắn ngủi của con bé được khắc sâu ngay bên dưới cái tên. Giữa tiết đông ảm đạm, gió rít giật tung mái tóc nàng, Norah lê gối trên đám cỏ giòn lạnh buốt giống hệt như trong mơ. Nàng đã đau đớn tới gần như đờ dại, quá đau đớn để còn có thể khóc được. Nhưng rồi sau vài giờ liền như thế, cuối cùng nàng cũng đứng dậy, phủi sạch quần áo và quay về nhà.

Giờ Paul còn đang mải nghịch với Bree, cu cậu giơ tay ra túm lấy tóc dì.

“Mẹ con giỏi thật đấy.” Bree nựng thằng bé. “Mẹ con đúng là bà nội trợ kiểu mẫu thời nay, phải không cưng? Không, không, cưng ơi, đừng giật hoa tai của dì,” vừa nói cô vừa giữ lấy bàn tay bé xíu của Paul.

“Bà nội trợ kiểu mẫu?” Norah lặp lại, cơn giận cồn lên trong nàng như sóng trào. “Ý em là sao hả?”

“Em chẳng có ý gì cả,” Bree đáp. Đang mải làm mặt xấu với Paul, giờ Bree mới ngẩng mặt lên vẻ ngạc nhiên. “Ôi, em nói thật mà Norah. Tươi tỉnh lên xem nào.”

“Bà nội trợ kiểu mẫu?” nàng lặp lại. “Chị chỉ muốn trang hoàng nhà cửa cho đẹp để tổ chức lễ kỷ niệm của bọn chị thôi. Làm thế thì có gì sai?”

“Không có gì đâu.” Bree thở dài. “Trông đẹp lắm. Em chả vừa nói thế còn gì? Mới lại em đến đây để trông con cho chị, nhớ không? Sao chị lại nổi cáu nhỉ?”

Norah phẩy tay. “Thôi kệ đi. Ôi, chết tiệt, kệ nó đi. David phải lo một ca cấp cứu rồi.”

Bree lặng thinh một lúc rồi mới cất lời. “Thảo nào.”

Norah định bênh chồng nhưng lại thôi. Nàng áp chặt hai tay lên má. “Ôi, Bree ơi. Sao lại là tối nay cơ chứ?”

“Thế thì tệ quá,” Bree tán đồng. Mặt Norah cau lại, nàng cảm giác môi mình mím chặt, còn Bree thì cười ầm lên. “Ôi, thôi nào. Nói thật đi. Có lẽ đấy không phải là lỗi của David. Nhưng chị lại cảm thấy đó chính là lỗi của anh ấy, đúng chưa?”

“Không phải lỗi của anh ấy mà,” Norah nói. “Có một vụ tai nạn. Nhưng phải. Em nói đúng. Chị nghĩ thế đấy – thối lắm. Thối không chịu được, sướng chưa?”

“Em biết,” giọng Bree bỗng dịu dàng đến không ngờ. “Nghĩ thế thì tệ thật. Em rất tiếc, chị à.” Rồi cô nhoẻn miệng cười. “Này, em mang quà cho chị với David đấy. Có khi lại làm chị vui lên ấy chứ.”

Nói rồi cô chuyển sang bế Paul trên một tay và khua khoắng chiếc túi thêu to bự, lôi ra mấy quyển sách, một thanh kẹo, một đống tờ rơi quảng cáo buổi biểu diễn sắp tới, một chiếc kính mát đựng trong hộp da sờn cũ, và cuối cùng là một chai rượu. Cô rót cho hai chị em mỗi người một cốc đầy thứ nước óng ánh như hồng ngọc.

“Vì tình yêu,” nói rồi cô đưa Norah một ly và giơ cao ly kia. “Vì hạnh phúc và niềm vui vĩnh cửu.”

Họ cười và cùng cạn ly. Rượu nồng hương quả mọng, thoang thoảng mùi gỗ sồi. Nước mưa nhỏ tong tong trên máng xối. Nhiều năm về sau Norah vẫn còn nhớ mãi cái đêm hôm ấy, nhớ nỗi thất vọng chán chường, nhớ Bree đã mang đến những món quà lấp lánh từ một thế giới khác, nhớ đôi ủng sang bóng, đôi hoa tai, sức sống mơn mởn như một thứ ánh sáng của cô. Trong mắt Norah, những thứ ấy thật đẹp, và cũng khó với tới biết bao. Phiền muộn – nhiều năm sau Norah mới hiểu ra nàng đã sống một cuộc đời tăm tối như thế nào – nhưng không ai thèm đả động đến chuyện đó vào năm 1965 cả. Thậm chí chẳng có ai nghĩ đến nó. Chắc chắn không phải cuộc đời của Norah rồi, nàng đã có nhà, có con, và cả ông chồng bác sĩ nữa. Nàng phải thấy hài lòng mới đúng.

“Này – cái nhà cũ của chị bán chưa?” Bree hỏi, tay đặt chiếc ly lên quầy bếp. “Chị chịu bán chưa?”

“Chị chẳng biết nữa,” Norah đáp. “Giá thấp hơn bọn chị nghĩ. David muốn đồng ý cho xong, nhưng chị không biết phải làm sao nữa. Đấy là tổ ấm của bọn chị. Thật chị chẳng muốn bán đi.”

Nàng nghĩ đến căn nhà đầu tiên của họ, nằm im lìm và câm lặng với tấm biển đề nhà cần bán trước sân, và cảm thấy dường như mọi vật bỗng trở nên quá mong manh. Nàng bám vào thành quầy bếp để giữ thăng bằng và nhấp thêm một ngụm rượu nữa.

“Chuyện yêu đương của em dạo này sao rồi?” Norah chuyển chủ đề. “Cái cậu mà em đang hẹn hò thế nào rồi – cậu ta tên gì ấy nhỉ - Jeff phải không?”

“À, thằng cha đấy hả.” Khuôn mặt Bree bỗng sầm lại, cô lắc đầu như để xua tan sự nặng nề ấy. “Em chưa kể cho chị à? Hai tuần trước em về nhà thì thấy hắn trên giường – giường của em – với một con ranh rất kháu làm việc cùng bọn em trong chiến dịch của ngài Thị trưởng.”

“Ôi, thế à! Chị rất tiếc.”

Bree lắc đầu. “Kệ đi chị. Em cũng chả yêu hắn đâu mà. Bọn em chỉ hợp nhau thôi. Ít ra thì em nghĩ thế.”

“Em không yêu anh ta sao?” Norah lặp lại, nàng nghe thấy giọng phản đối của mẹ phát ra từ chính miệng mình và thấy ghét nó kinh khủng. Nàng không muốn trở thành người như bà, chỉ ngồi uống hết chén trà này tới chén trà khác trong căn nhà ngăn nắp tĩnh mịch mà chị em nàng sống tuổi ấu thơ. Nhưng nàng cũng chẳng muốn thành người có lẽ nàng sắp trở thành, một người bị nỗi đau làm cho rệu rã, ngày ngày chìm đắm trong một thế giới vô nghĩa.

“Không,” Bree kêu lên. “Không đâu, em không hề yêu anh ta, mặc dù có lúc em cũng tưởng thế thật. Nhưng đấy không phải vấn đề. Vấn đề ở chỗ anh ta biến chuyện yêu đương của bọn em thành một trò sáo không tả nổi. Mà em thì ghét sự sáo rỗng nhất trần đời.”

Bree đặt chiếc ly cạn sạch lên quầy và chuyển Paul sang tay kia. Khuôn mặt cô không hề trang điểm mà vẫn thật tinh tế, xương xương nhẹ nhàng; gò má, làn môi hơi ửng sắc hồng.

“Chị chịu, không sống như em được,” Norah nói. Từ khi Paul ra đời, từ khi Phoebe chết, nàng cảm thấy mình có bổn phận phải luôn giữ cảnh giác, dường như chỉ một sơ suất nhỏ cũng có thể mở rộng cánh cửa để tai họa ập tới. “Chị không tài nào làm thế được – phá vỡ mọi thứ luật lệ. Gạt bỏ tất cả.”

“Chả có ngày tận thế nào cả,” Bree nói khẽ. “Khó tin quá phải không, nhưng thực sự là chả có ngày tận thế nào hết.”

Norah lắc đầu. “Có chứ. Dù là thời điểm nào, mọi chuyện đều có thể xảy ra được hết.”

“Em biết rồi,” Bree lại nói. “Em biết mà chị.” Cơn giận dữ trước đó của Norah giờ đã tan biến, thay vào đó lòng biết ơn vô bờ. Bree là người luôn biết lắng nghe và đáp lại, cô không bao giờ nói điều gì khác những trải nghiệm thực tế của chính mình. “Chị nói đúng, Norah à, mọi chuyện đều có thể xảy ra, vào bất cứ lúc nào. Nhưng những chuyện không may xảy ra không phải do lỗi của chị. Chị không thể nào dành phần đời còn lại để rón rén đi tuần khắp nơi rồi cố gắng đảo ngược mọi thảm họa có thể xảy ra. Không ích gì đâu. Rốt cuộc chị chỉ bỏ phí cuộc đời chị đang có thôi.”

Norah không biết phải nói sao, vì thế nàng đỡ lấy Paul, thằng bé đang oằn oại trong tay Bree vì đói, tóc nó đã khá dài – rất dài rồi, nhưng Norah vẫn không đành lòng cắt bớt đi – từng lọn tóc phất phơ nhè nhẹ như đang chìm ngập trong nước theo từng cử động của thằng bé..

Bree rót thêm rượu cho cả hai chị em và lấy ra một quả táo trong bát hoa quả đặt trên quầy. Norah cắt mấy lát pho mát cùng bánh mì và chuối rồi xếp rải rác lên chiếc khay đặt trên cái ghế ăn của Paul. Vừa làm nàng vừa nhấp thêm ít rượu. Dần dần mọi vật xung quanh nàng bỗng trở nên rõ ràng hơn, sống động hơn. Nàng thấy đôi bàn tay của Paul thật giống những cánh sao biển nhỏ xinh, mái tóc của thằng bé như ánh lên màu cà rốt. Ánh đèn bếp hắt qua lan can hàng hiên sau nhà, in xuống bãi cỏ những mảng sáng tối lẫn lộn.

“Chị mua cho David một cái máy ảnh làm quà cho ngày kỷ niệm của bọn chị,” Norah nói, thầm ước có thể chớp lấy những khoảng khắc thoáng qua và giữ chúng lại mãi mãi. “Từ lúc nhận việc mới anh ấy bận bịu luôn. Anh ấy cần thứ gì đó để giải khuây. Chị không thể tin nổi là đến đêm nay anh ấy vẫn còn phải làm việc.”

“Chị này?” Bree nói. “Sao em lại không đón Paul về nhà luôn nhỉ? Em nghĩ là, biết đâu đấy, có thể David sẽ về nhà để kịp ăn bữa tối. Nhưng nếu tới nửa đêm anh ấy mới về thì sao? Sao lại không thể nhỉ? Nếu vậy chị có thể bỏ luôn bữa tối, dẹp hết bát đĩa đi rồi làm tình ngay trên bàn ăn ấy.”

“Bree!”

Bree cười phá lên. “Đi mà Norah? Em muốn đón thằng bé về mà.”

“Nó phải tắm nữa,” Norah nói.

“Chuyện nhỏ,” Bree đáp. “Em hứa sẽ không làm thằng bé chết đuối trong bồn tắm đâu.”

“Không đùa đâu,” Norah nói. “Không đùa thật đấy.”

Nhưng cuối cùng nàng cũng chiều lòng Bree và đi gói đồ cho Paul. Bree bế thằng bé ra khỏi cửa, mái tóc mềm của nó áp vào má cô, đôi mắt đen to tròn nhìn cô ra chiều nghiêm trọng, và rồi thằng bé đi mất. Nàng đứng bên cửa sổ dõi theo cho tới khi ánh đèn chiếu hậu từ chiếc xe hơi của Bree mất hút trên phố, mang theo con trai nàng. Đó là tất cả những gì nàng còn làm được để tự kiềm chế bản thân không chạy theo họ. Sao lại có thể để một đứa trẻ lớn lên và bước vào cái thế giới vừa nguy hiểm vừa khó lường đến thế? Nàng đứng thẫn thờ trong mấy phút, chỉ nhìn chằm chằm vào bóng tối. Sau đó nàng vào bếp, lấy giấy bạc bọc món thịt quay lại, và tắt lò nướng. Bảy giờ. Chai rượu Bree mang tới đã gần cạn. Căn bếp tĩnh lặng đến độ nàng có thể nghe thấy tiếng kim đồng hồ tích tắc, Norah lại mở một chai rượu khác, một chai rượu Pháp rất đắt tiền nàng mua để dành cho bữa tối.

Căn nhà im ắng quá. Nàng đã bao giờ ở một mình chưa, dù chỉ một lần, kể từ khi Paul ra đời? Nàng nghĩ vậy là chưa. Nàng đã cố tránh những giây phút cô độc, những thời khắc bình lặng mỗi khi nghĩ về đứa con gái đã mất bất ngờ trỗi dậy. Buổi lễ tưởng niệm tổ chức trong sân nhà thờ dưới ánh nắng mới gay gắt của tiết tháng Ba đã giúp nàng nguôi ngoai phần nào, nhưng không hiểu sao, đôi lúc Norah vẫn nhận thấy sự hiện diện của con gái nàng, như thể chỉ cần quay lại, nàng sẽ nhìn thấy con bé trên bậc cầu thang hay đang đứng ngoài bãi cỏ.

Nàng xòe hai bàn tay ra áp chặt lên tường và lắc đầu để gạt bỏ ý nghĩ ấy. Rồi, với cốc rượu vẫn cầm trên tay, nàng đi quanh nhà ngắm nghía công trình của mình. Dấu chân nàng in hằn lên nền nhà vừa mới đánh xi sáng bóng. Bên ngoài, mưa rơi nặng hạt, ánh đèn bên kia đường nhòe dần. Norah nhớ lại đêm hôm nào, nhớ cơn bão tuyết điên cuồng. David đã đỡ lấy khuỷu tay nàng, giúp nàng mặc chiếc áo khoác xanh đã cũ, chiếc áo ấy giờ đã sờn rách lắm rồi, nhưng nàng vẫn không nỡ bỏ đi. Chiếc áo choàng lúc đó rũ xuống, để hở cái bụng tròn của nàng, và rồi mắt hai người chạm nhau. Anh thật tận tâm, thật nghiêm trang, khuôn mặt anh tràn ngập một vẻ háo hức pha lẫn hồi hộp, trong khoảnh khắc ấy, Norah cảm thấy nàng hiểu anh như chính bản thân mình.

Nhưng mọi thứ đã thay đổi. David đã thay đổi. Có những tối, anh ngồi đọc tạp chí trên sofa ngay bên nàng, vậy mà anh cứ như thể không hiện diện ở đó vậy. Trước đây, khi còn là nhân viên tổng đài điện thoại đường dài, Norah đã điều khiển những núm kim loại lạnh băng, đã lắng nghe tiếng chuông reo ở nơi xa xăm, tiếng cạch khẽ báo máy được nối. Nàng sẽ nói, Xin giữ máy, lời nàng vang vọng, rồi ngưng bặt; tiếng người nói rồi dừng, mở ra khoảng tối tĩnh lặng hoang dại chắn giữa bọn họ. Có đôi khi nàng lắng tai nghe giọng nói của những con người nàng chưa bao giờ gặp mặt, nghe họ thông báo những tin tức nghiêm túc: chuyện sinh nở hoặc cưới xin, ốm đau hoặc tang ma. Nàng cảm nhận được bóng tối của khoảng cách và thấy mình mang quyền năng có thể xóa nhòa chúng.

Nhưng đó là quyền năng nàng đã đánh mất – ít nhất là trong lúc này, và lại đúng ở nơi đó nó cần có mặt nhất. Đôi khi, vào giữa đêm khuya, ngay sau khi họ vừa ân ái và vẫn nằm bên nhau, trái tim đập sát trái tim, nàng nhìn David và thấy tai mình ong lên những tiếng gào thét từ nơi xa thẳm tăm tối trong vũ trụ.

Đã quá tám giờ. Ranh giới của vạn vật nhòa dần đi. Nàng quay vào bếp và đứng bên lò sưởi, xắn lấy ít thịt lợn khô. Nàng ăn luôn một củ khoai tây ngay trong chảo, lấy nĩa xẻ củ khoai thành nhiều mẩu nhỏ. Món pho mát cải bông xanh đã đông lại và khô đi; Norah cũng nếm thử một miếng. Nó làm cổ họng nàng khô cháy, nàng liền vớ lấy chiếc ly. Cạn sạch. Đứng bên bồn rửa, nàng uống một cốc nước, rồi thêm cốc khác, tay bám vào thành quầy vì thấy thế giới thật quay cuồng. Mình say mất rồi, nàng tự nhủ, ngạc nhiên và có phần hài lòng với chính bản thân. Nàng chưa từng say lần nào, mặc dù đã có lúc Bree đi nhảy về rồi nôn ọe ra đầy tấm vải sơn. Cô nói lại với mẹ là uống nhầm rượu pha, nhưng trong mắt Norah, cô em gái đã tự thú nhận tất cả, cái chai rượu trong túi giấy nâu và lũ bạn của cô túm tụm trong mấy bụi cây, phả ra những làn khói mỏng nồng gắt trong đêm khuya.

Chiếc điện thoại dường như ở rất xa. Khi bước đi, nàng cảm thấy thật khác lạ, như thể nàng đã vượt ra khỏi thân xác mình mà trôi bồng bềnh. Một tay nàng bám lấy gióng cửa tay kia bấm số, chiếc ống nghe ép chặt giữa vai và tai. Bree nhấc máy ngay tiếng chuông đầu tiên.

“Em biết ngay là chị mà,” cô nói. “Paul vẫn ổn. Bọn em đọc sách rồi đi tắm, bây giờ trông thằng bé có vẻ buồn ngủ lắm.”

“Ô, tốt lắm. Phải, tuyệt.” Norah nói. Nàng đã định kể cho Bree nghe về cái thế giới huyền hoặc này, nhưng giờ nó bỗng trở nên quá riêng tư, một bí mật.

“Chị thì sao?” Bree nói. “Chị có ổn không?”

“Chị ổn.” Norah đáp. “David vẫn chưa về, nhưng chị ổn.”

Nàng gác máy thật nhanh, tự rót cho mình một ly rượu nữa rồi đi ra hiên nhà, đứng ngửa mặt nhìn lên trời. Một màn sương mỏng lơ lửng giữa không trung. Bấy giờ rượu cồn dường như lan khắp người nàng, tựa làn hơi nóng hay luồng ánh sáng, rượu chảy theo chân tay nàng tới từng đầu ngón tay, ngón chân. Khi Norah quay lại, cả thân hình nàng cơ hồ trôi đi, như thể nàng đang dần trượt khỏi chính mình. Nàng nhớ đến chiếc xe của họ, chạy trên những con đường phủ băng như đi giữa không trung, bị lệch hướng một lúc cho đến khi David kiểm soát được nó. Mọi người nói đúng: nàng không thể nhớ được cơn đau đẻ, nhưng nàng lại chưa bao giờ quên cảm giác lúc ở trong xe, thấy thế giới cứ trượt đi, quay cuồng, đôi tay nàng bám nhanh lấy mặt táp lô lạnh cóng trong khi David, thật máy móc, dừng xe ở tất cả các chốt đèn đỏ.

Anh đâu rồi, nàng tự hỏi, nước mắt bỗng dâng đầy khóe mi, mà sao nàng lại cưới anh nhỉ? Tại sao anh lại khao khát có được nàng đến vậy? Những tuần yêu đương điên rồ sau ngày họ gặp nhau, hôm nào anh cũng đến căn hộ nàng ở, mang tặng hoa hồng, mời đi ăn tối rồi còn đưa nàng về nông thôn chơi. Đêm Giáng sinh chuông cửa reo vang, nàng mặc nguyên chiếc áo choàng cũ ra mở cửa, nghĩ rằng đấy là Bree. Nhưng không, nàng mở cửa ra thì thấy David, mặt đỏ bừng lên vì lạnh, trên tay ôm mấy cái hộp bọc giấy mày rực rỡ. Cũng muộn rồi, anh biết vậy, nhưng nàng có thể ra ngoài với anh không?

Không, nàng đáp, rồi Anh điên rồi! Nhưng nàng lại cười không ngớt trước sự điên rồ của hành động ấy, vừa cười vừa lùi lại để anh vào nhà, người đàn ông ấy đứng trên bậc cửa nhà nàng, tay cầm hoa và quà. Nàng thấy ngạc nhiên và dễ chịu, có chút gì đó sững sờ nữa. Có những lúc, nhìn những người khác đi dự tiệc của hội nữ sinh, hoặc ngồi trên ghế đẩu trong căn phòng không có lấy một ô cửa sổ nơi công ty điện thoại trong khi các bạn đồng nghiệp lên kế hoạch cho đám cưới từ bông hoa cài áo tới kẹo bạc hà dùng trong bữa tiệc, Norah khi ấy lặng lẽ và dè dặt làm sao, tin rằng mình sẽ ở vậy cả đời. Nhưng David đã tới, một bác sĩ đẹp trai đứng trên ngưỡng cửa căn hộ nàng sống và khẩn khoản. Đi mà, có một thứ rất đặc biệt anh muốn cho em xem.

Đêm hôm đó trời rất trong, sao sáng lấp lánh. Norah ngồi trên ghế trước khá rộng bọc vinyl trong chiếc xe cũ kỹ của David. Nàng mặc một chiếc váy len màu đỏ và thấy mình thật xinh đẹp. Bầu không khí ngoài trời khô hanh, đôi tay David đặt trên vô lăng và chiếc xe bon bon chạy xuyên bóng đêm, qua giá rét, chạy vào những con đường ngày càng nhỏ dần, đến một nơi nàng không nhận ra. Anh dừng xe lại bên cạnh một cối xay bột mì cũ. Họ ra khỏi xe và bước về phía nước chảy. Dòng nước đen lấp lánh ánh trăng soi và chảy len qua đá sỏi, làm cái guồng quay tròn. Ngôi nhà đứng im lìm trên nền trời đen thẳm, điểm những ánh sao mờ ảo, không khí tràn ngập tiếng nước vỗ ràn rạt và xoáy tròn.

“Em có lạnh không??” David đứng bên kia dòng nước hét to, Norah cười lớn, người run run, nói, Không; không đâu, nàng không lạnh, nàng vẫn ổn.

“Tay em thì sao?” anh hét to, giọng rung lên, dội lại như nước. “Em không mang găng tay mà.”

“Em ổn mà,” nàng hét lên để trả lời anh, nhưng anh đã cầm lấy tay nàng áp lên ngực mình, ủ ấm tay nàng giữa đôi găng tay của anh và lớp len lốm đốm sẫm màu của chiếc áo anh đang mặc.

“Chỗ này đẹp quá!” nàng nói với anh, và anh bật cười. Rồi anh cúi xuống hôn nàng, buông tay nàng ra để luồn tay mình vào áo choàng của nàng, men dần lên lưng. Nước chảy ào ạt, dội âm thanh lên ghềnh đá.

“Norah,” anh hét lên, giọng nói của anh như một phần bóng đêm, xoáy tròn như nước chảy, từng chữ đều rõ ràng dù nghe thật nhỏ bé giữa các âm thanh khác. “Norah! Em lấy anh nhé?”

“Vâng!” nàng cũng hét vang, lại áp lòng bàn tay lên áo khoác của anh. “Vâng, em đồng ý!”

Anh lồng chiếc nhẫn vào ngón tay nàng: một chiếc nhẫn mảnh bằng vàng trắng vừa đúng cỡ của nàng, với một viên kim cương bầu dục đính trên mặt và hai viên ngọc lục bảo nhỏ xíu khảm hai bên. Cho hợp với màu mắt nàng và chiếc áo nàng mặc ngày họ gặp nhau, anh nói vậy.

Giờ nàng lại vào trong nhà, đứng trên ngưỡng cửa phòng ăn, xoay xoay chiếc nhẫn trên ngón tay. Những dải dây giấy đu đưa. Một dây quệt vào mặt nàng; một dây khác nhúng trong ly rượu của nàng. Norah ngắm nghía rượu ngấm dần lên phía trên sợi dây một cách thích thú. Nàng nhận thấy nó có màu gần như giống hệt màu mấy chiếc khăn tay. Bà nội trợ kiểu mẫu, đúng thật: kể cả nếu có chủ ý từ đầu nàng cũng không thể kiếm được bộ đôi nào hợp hơn. Rượu bắn ra ngoài ly và loang ra tấm khăn trải bàn, làm vấy bẩn cả lớp giấy sọc vàng gói món quà nàng dành tặng David. Nàng cầm cái gói lên và, trong một cơn thôi thúc, xé lớp giấy ra. Mình thực sự đã say lắm rồi, nàng thầm nghĩ.

Chiếc máy ảnh này thuộc dạng máy bỏ túi, vừa đủ nhẹ. Norah đã phân vân hàng tuần trời không biết tặng quà gì cho hợp tới khi nàng nhìn thấy chiếc máy này trên kệ trưng bày ở cửa hàng Sears. Vỏ màu đen và crôm sáng loáng, với những núm nút, cần bẩy và con số phức tạp khắc quanh thân ống kính, chiếc máy ảnh có hình dạng từa tựa như những dụng cụ y tế của David. Anh chàng bán hàng rất trẻ và nhiệt tình, đã quảng cáo với nàng đủ loại thông tin kỹ thuật kiểu như khẩu độ, độ dài tiêu cự, và cả ống kính góc ngắm rộng. Những thuật ngữ đó ào vào đầu nàng như nước lũ nhưng nàng lại chỉ thích sức nặng của chiếc máy trên tay, đường nét thanh lịch của nó, và cái cách thế giới thu lại trong khuôn hình thật chuẩn xác khi nàng ghé mắt qua ống ngắm.

Rồi, thật thận trọng, nàng đẩy chiếc cần gạt bằng bạc. Một tiếng click rồi tách, vang rất to trong căn phòng, khi cửa trập mở ra. Nàng bấm chiếc nút nhỏ, lên phim- nàng còn nhớ lúc người bán hàng nói cụm từ đó, lên phim, giọng anh ta cao vống lên một lúc, vượt lên hẳn dòng âm thanh ồn ã trong cửa hiệu. Nàng nhòm qua ống ngắm, lấy khuôn hình chiếc bàn bẩn một lần nữa, rồi bật hai nút khác để lấy nét. Lần này, khi nàng bật cửa trập, chiếc đèn flash bất ngờ nổ tung, bắn văng ra tận chân tường. Mắt hoa lên, nàng lật máy ảnh lại và xem xét chiếc bóng đèn, giờ đã đen thui lại và vỡ tan. Nàng thay bóng, làm mấy ngón tay bỏng rát, nhưng dường như nàng không cảm thấy đau nữa.

Nàng đứng dậy và liếc nhìn đồng hồ: đã 9h45.

Mưa nhỏ, rơi rả rích. David đã đi bộ đến chỗ làm, và nàng mường tượng ra cảnh anh uể oải lê bước về nhà trên những con phố tối tăm. Trong một cơn thôi thúc, nàng vớ lấy áo khoác và chùm chìa khóa xe- nàng sẽ tới bệnh viện để làm anh bất ngờ một phen.

Trong xe lạnh cóng. Nàng lùi xe ra khỏi lối vào, mò mẫm tìm máy sưởi và theo thói quen cũ lại quay xe sai hướng. Ngay cả sau khi nhận ra mình đã nhầm, nàng vẫn tiếp tục lái xe trên những con phố hẹp mưa giăng kín, trở về ngôi nhà cũ của họ, nơi ấy nàng đã từng trang hoàng căn phòng trẻ với hy vọng trong trẻo biết bao, nơi ấy cũng chính là nơi nàng ngồi ru Paul trong bóng tối. Nàng và David đã nhất trí rằng chuyển chỗ ở là một quyết định sáng suốt, nhưng sự thực là nàng không thể chịu được cái cảm giác phải bán nơi này đi. Hầu như ngày nào nàng cũng ghé qua đây. Cuộc sống mà con gái nàng đã nếm trải, những gì Norah đã có với con bé đều diễn ra trong căn nhà ấy.

Căn nhà hầu như không thay đổi gì, chỉ khác là tối om mà thôi: hiên trước rộng rãi với bốn cây trụ sơn trắng, phiến đá vôi đẽo thô và chỉ có một đốm đèn còn sáng. Kế bên là nhà bà Michaels, chỉ cách có vài bước chân, bà đang đi đi lại lại trong bếp, rửa bát đĩa và chăm chú nhìn vào đêm tối; kia là ông Bennett ngồi trên chiếc ghế tựa, rèm cửa để ngỏ, tivi vẫn bật. Norah hầu như tin chắc rằng, chỉ cần đi vài bước nữa thôi, nàng sẽ lại sống ở nơi này. Nhưng cánh cửa mở ra những căn phòng trống trơn, lạnh lẽo, nhỏ bé đến se lòng.

Rảo bước quanh căn nhà vắng lạnh, Norah cố hết sức để suy nghĩ tỉnh táo. Dường như lúc này rượu càng ngấm sâu vào nàng hơn và nàng hầu như không nhận thức được thời gian nữa. Một tay nàng cầm chiếc máy ảnh mới của David. Thực tế, chứ không phải quyết định. Máy còn chụp được mười lăm tấm hình nữa và trong túi nàng cũng có sẵn đèn flash dự phòng. Nàng chụp một tấm hình chiếc đèn chùm, khi đèn flash lóe lên, nàng cảm thấy thật thỏa mãn, vì từ giờ nàng có thể giữ mãi hình ảnh ấy bên mình, sau hai mươi năm nữa, nàng sẽ không bao giờ phải choàng dậy giữa đêm khuya mà không nhớ nổi từng chi tiết, từng đường viền vàng duyên dáng ấy.

Nàng đi hết phòng này tới phòng khác, vẫn say trong hơi men nhưng có chủ đích hẳn hoi, những ô cửa sổ, giá treo đèn, những đường vân xoắn trên nền nhà. Dường như việc nàng ghi lại từng tiểu tiết đều vô cùng hệ trọng. Lúc ấy, một chiếc đèn dùng rồi đã bị cháy rơi tuột khỏi tay nàng và vỡ tan tành; khi nàng lùi bước, những mảnh thủy tinh cào rách gót chân nàng. Nàng xem xét bàn chân lồng trong bít tất một lúc, thích thú và ấn tượng vì mình đã say đến mức này- chắc nàng đã bỏ đôi giày ướt ngoài cửa trước, do thói quen cũ. Nàng lang thang khắp căn nhà thêm hai lần nữa, ghi nhớ những công tắc đèn, cửa sổ, đường ống từng dùng để dẫn khí gas lên tầng hai. Chỉ đến khi đi xuống cầu thang nàng mới nhận thấy chân mình đang rỉ máu, để lại một vệt bẩn: những dấu hình trái tim gớm ghiếc, biểu tượng Valentine nhỏ xíu vẽ bằng máu. Norah thấy sốc và bỗng sởn gai ốc trước sự tàn phá mà nàng đã chủ định gây ra.

Nàng tìm thấy đôi giày của mình, rồi bước ra ngoài. Gót chân nàng giần giật khi nàng ngồi vào xe, chiếc máy ảnh vẫn còn đeo lủng lẳng trên cổ tay.

Về sau, nàng không còn nhớ mấy về chuyến xe, chỉ còn hình ảnh những con phố hẹp tối tăm, gió thổi xào xạc qua tán lá, ánh đèn loang loáng trên những vũng nước và nước táp vào bánh xe. Nàng không còn nhớ tiếng kim loại va vào nhau, chỉ còn hình ảnh cái thùng rác sáng lấp lánh bất thần bay vèo tới phía trước xe. Ướt đầm trong nước mưa, chiếc thùng dường như lơ lửng một lúc cho tới khi bắt đầu rồi xuống. Nàng nhớ là nó đập lên mui xe rồi lăn ngược lên và đập vỡ tấm kính chắn gió; nàng nhớ chiếc xe đã nẩy bật trên lề đường và từ từ dừng lại chính giữa gốc một cây sồi lá kim. Nàng không còn nhớ mình đã va vào kính chắn gió, nhưng trông nó giống một cái mạng nhện, những đường nứt lan rộng ra xung quanh, mỏng manh, tinh tế và chuẩn xác. Khi nàng áp tay lên trán, tay nàng từ từ trượt xuống, vấy đầy máu.

Nàng không ra khỏi xe. Cái thùng rác nằm lăn lóc trên đường. Những hình hài đen thẳm - những con mèo - lấp ló bên rìa thùng, đứng rải rác thành một vòng cung. Ánh đèn lóe lên trong căn nhà ở bên phải, và một người đàn ông bận áo choàng và dép lê chạy ra, hối hả bước xuống vỉa hè tới chỗ chiếc xe của nàng nằm.

“Cô có sao không?”, anh ta cúi xuống để nhìn qua cửa xe khi nàng chậm chạp quay kính xe xuống. Không khí buổi đêm mát lạnh táp vào mặt nàng. “Ngoài này có chuyện gì vậy? Cô có sao không? Trán cô đang chảy máu kìa”, anh ta nói tiếp, đoạn rút một chiếc khăn tay từ trong túi ra.

“Không sao đâu”, Norah đáp, đưa tay gạt chiếc khăn tay của anh ta, nó nhàu nhĩ một cách đáng ngờ. Nàng lại áp nhẹ lòng bàn tay lên trán, quệt sạch một vệt máu khác. Chiếc máy ảnh, vẫn còn lủng lẳng trên cổ tay nàng, đập vào vô lăng. Nàng tháo ra và cẩn thận đặt xuống ghế bên cạnh mình. “Ngày kỷ niệm của tôi đấy”, nàng thông báo với người lạ mặt. “Gót chân tôi cũng bị chảy máu nữa.”.

“Cô có cần đi gặp bác sĩ không?”, người đàn ông hỏi.

“Chồng tôi là bác sĩ”, Norah đáp, nàng nhận thấy người đàn ông tỏ vẻ ngập ngừng và biết có lẽ mình vừa cư xử rất ngớ ngẩn. Có lẽ là đang cư xử rất ngớ ngẩn ngay lúc này ấy chứ. “Anh ấy là bác sĩ đấy”, nàng lặp lại với giọng cả quyết. “Tôi sẽ đi tìm anh ấy”.

“Tôi không chắc cô có lái xe được không,” người đàn ông nói. “Sao cô không để xe lại đây và để tôi gọi xe cấp cứu?”.

Mắt nàng đẫm lệ trước cử chỉ tử tế của anh ta, nhưng rồi nàng tưởng tượng ngay ra cảnh ấy, ánh đèn, tiếng còi hú và những bàn tay dịu dàng. David sẽ vội vã chạy đến và thấy nàng trong phòng cấp cứu, rũ rượi, bê bết máu me và vẫn còn say xỉn: một vụ tai tiếng và một nỗi nhục nhã.

“Không!”, nàng nói, thận trọng với từng ngôn từ của mình. “Tôi ổn mà, thật đấy! Có một con mèo chạy qua làm tôi giật mình đấy mà. Nhưng nói thật là tôi ổn. Tôi sẽ về nhà, để chồng tôi sẽ xử lý về thương này. Không sao thật mà!”

Người đàn ông ngập ngừng một lúc lâu, đèn đường hắt ánh bạc lên mái tóc anh ta, rồi anh nhún vai, gật đầu một cái và bước lùi lại nơi lề đường. Norah lái xe thật cẩn thận, chậm rãi, bật đèn xi nhan trên con phố vắng tanh. Qua kính chiếu hậu, nàng nhìn thấy anh ta, tay khoanh lại, mắt theo dõi nàng cho tới khi nàng rẽ ở góc đường và biến mất.

Không gian tĩnh lặng khi nàng lái xe về qua những con phố quen thuộc, hơi men bắt đầu tan dần. Căn nhà mới của nàng sáng sực ánh đèn trên tất cả các ô cửa sổ, tầng trên và tầng dưới, ánh sáng tràn ra ngoài như một loại chất lỏng, như thứ gì đó đã đày tràn không thể bị giữ lại nữa. Nàng đậu xe trên lối vào nhà và bước ra, nàng đứng một lúc trên bãi cỏ ướt sũng, mưa rơi rả rích và đọng thành hạt trên mái tóc, trên áo choàng của nàng. Trong nhà, nàng thoáng thấy David ngồi trên sofa. Paul nằm trong vòng tay anh, thằng bé đang ngủ say, đầu khẽ tựa lên vai bố. Nàng nghĩ đến quang cảnh lúc nàng đi, rượu đổ tung tóe và dây giấy vắt ngổn ngang, món thịt quay nham nhở. Nàng xốc lại áo choàng và hối hả bước lên bậc cửa.

“Norah!”, David gặp nàng ở cửa, tay vẫn bế Paul. “Norah, chuyện gì xảy ra với em vậy? Em đang chảy máu kìa!”.

“Không sao đâu. Em ổn mà”, nàng nói, đoạn gạt tay David ra khi anh cố đỡ nàng. Chân nàng đau nhói, nhưng nàng thấy vui vì cơn đau rứt buốt, nó cân bằng lại cơn chấn động trong đầu nàng, dường như cơn đau ấy chạy dọc cơ thể nàng trong một chuỗi liền lạc và giữ cho nàng đứng vững. Paul ngủ có vẻ say, hơi thở của thằng bé chậm và đều. Nàng nhẹ nhàng áp lòng bàn tay lên cái lưng nhỏ xíu của nó.

“Bree đâu rồi anh?”, nàng hỏi.

“Nó đi tìm em đấy”, David nói. Anh liếc mắt qua phòng ăn và nàng dõi theo hướng nhìn của anh, thấy bữa tối tanh bành, những dải dây rơi vương vãi trên sàn nhà. “Thấy em không có ở nhà, anh sợ quá nên gọi cho nó. Nó đưa Paul sang đây, rồi ra ngoài tìm em.”

“Em ở nhà cũ đấy,” Norah nói. “Em đâm phải một cái thùng rác”. Nàng đưa tay lên trán và nhắm mắt lại.

“Em đã uống rượu.” Anh tuyên bố bằng giọng điềm tĩnh.

“Uống rượu và ăn tối. Anh đã về muộn.”.

“Có tận hai chai rượu cạn sạch cơ mà, Norah”.

“Bree đã ở đây. Chờ anh lâu quá!”.

Anh gật đầu. “Bọn choai choai đêm nay, mấy đứa bị tai nạn ấy? Bọn nó nốc bia bí tỉ. Anh rất hoảng, Norah ạ”.

“Em có say đâu”.

Chuông điện thoại reo vang và nàng nhấc máy, ống nghe nặng trĩu trong tay. Là Bree, giọng cô hối hả như nước chảy, nôn nóng muốn biết chuyện gì đã xảy ra. “Chị ổn mà,” Norah nói, cố gắng giữ giọng thật bình tĩnh và rõ ràng. “Chị ổn”. David nhìn nàng, xem xét đường sẫm màu trên lòng bàn tay nàng nơi đọng lại những giọt máu khô. Nàng co ngón tay che lại và quay đi.

“Đây,” khi nàng gác máy, anh chạm lên tay và nàng nói thật dịu dàng: “Em ra đây”.

Họ đi lên gác. Trong khi David đặt Paul vào nôi, Norah xoa xoa chỗ tất rách và ngồi xuống thành bồn tắm. Mọi vật đã trở nên rõ ràng và vững chãi hơn, và nàng thấy lóa mắt trước ánh đèn sáng rực, cố gắng sắp xếp lại những sự việc đã xảy ra trong buổi tối theo đúng trình tự. Khi David quay lại, anh bèn gạt mấy món tóc vương trên trán nàng, động tác của anh nhẹ nhàng và chính xác, và bắt đầu lau rửa vết thương.

“Hy vọng em đã bỏ lại người kia trong tình trạng tồi tệ hơn thế này,” anh nói, và nàng tưởng tượng ra có lẽ anh cũng nói câu tương tự với những bệnh nhân đã tới phòng khám của anh: dăm ba mẩu chuyện trò lặt vặt, rồi đùa cợt, những câu vô thưởng vô phạt để phân tán tâm trí người bệnh khỏi công việc anh đang làm.

“Chẳng còn ai nữa đâu,” nàng nói, thầm nghĩ tới người đàn ông tóc ánh bạc đã cúi xuống nhìn vào cửa xe nàng. “Một con mèo làm em giật mình, rồi em bị lạc tay lái. Nhưng tấm kính chắn gió- au!” nàng kêu lên khi anh rịt thuốc sát trùng lên vết thương. “Au, David, đau quá.”

“Không đau lâu đâu em”, anh nói, đoạn đặt tay lên vai nàng một lúc. Sau đó anh quỳ xuống bên bồn tắm và nắm lấy bàn chân nàng trong tay.

Nàng ngắm anh gắp những mảnh thủy tinh ra. Anh làm thật cẩn thận và bình tĩnh, hoàn toàn đắm chìm trong những suy nghĩ của riêng mình. Nàng biết anh sẽ chữa chạy cho bất cứ một bệnh nhân nào khác với những cử chỉ y như vậy.

“Anh tốt với em quá!”, nàng thì thầm, hòng mong có thể nối lại khoảng cách giữa hai người, khoảng cách chính nàng đã tạo ra.

Anh lắc đầu và tạm ngưng việc đang làm, ngẩng đầu lên.

“Tốt với em,” anh chậm chạp nhắc lại. “Sao em lại về đấy hả Norah, về ngôi nhà cũ của chúng mình ấy? Sao em lại không muốn rời bỏ nó?”

“Bởi vì đó là thứ cuối cùng”, nàng đáp ngay, thấy ngạc nhiên trước giọng nói chắc chắn và đầy đau buồn của mình. “Cách cuối cùng để chúng ta rời bỏ con bé.”.

Trong chớp ánh mắt trước khi anh nhìn lảng đi, nét căng thẳng, giận dữ thoáng vụt qua trên khuôn mặt David rồi nhanh chóng bị kìm lại.

“Có điều gì em nói mà anh không làm không? Anh nghĩ căn nhà mới này sẽ khiến cả hai ta hạnh phúc. Nó sẽ giúp hầu hết mọi người hạnh phúc, Norah ạ!”.

Nghe giọng anh nói, trong Norah tràn ngập nỗi sợ hãi, nàng có thể đánh mất luôn cả anh nữa. Bàn chân nàng giần giật, và đầu nàng nữa, nàng nhắm mắt lại thật nhanh trước ý nghĩ về khung cảnh mà nàng vừa gây ra. Nàng không muốn mắc kẹt vĩnh viễn trong cái đêm câm lặng tăm tối này, khi David dường như ở một nơi rất xa mà nàng không tài nào với tới được.

“Thôi được rồi,” nàng nói. “Mai em sẽ gọi cho đại lý nhà đất. Chúng ta nên đồng ý bán thôi!”.

Cuốn phim quá khứ giờ đã khép lại sau những lời nàng vừa nói, một hàng rào mong manh và yếu ớt như băng tuyết đã thành hình. Nó sẽ ngày càng dày lên và vững chắc hơn. Rồi nó sẽ trở thành bất khả xâm phạm, và mờ đặc. Norah cảm thấy điều ấy đang xảy ra và nàng e sợ nó, nhưng điều khiến nàng sợ hãi hơn lúc này là điều gì sẽ xảy ra nếu nó đổ vỡ. Phải, họ sẽ tiếp tục sống. Đây sẽ là món quà của nàng, cho David và cho Paul.

Còn Phoebe, nàng sẽ để nó sống mãi trong tim mình.

David lấy một chiếc khăn bông quấn bàn chân nàng lại và ngồi tựa trên hai gót chân.

“Em ạ, anh không nghĩ chúng ta nên quay lại đó”, anh nói, giọng anh đã dịu hơn sau khi nàng tỏ ra biết lỗi. “Nhưng chúng ta có thể. Nếu em thực sự muốn như vậy, chúng ta có thể bán căn nhà này đi và quay lại đó.”.

“Không”, nàng nói, “Chúng ta đang sống ở đây kia mà”.

“Nhưng em cứ buồn rầu như thế,” anh nói. “Đừng buồn! Anh không quên đâu, Norah à. Không quên ngày kỷ niệm của chúng ta. Không quên con gái của chúng ta, không quên một chút gì hết.”

“Ôi, David”, nàng nói, “Em để quên quà của anh trong xe rồi.”. Nàng nghĩ đến chiếc máy ảnh, nhớ chính xác từng cái nút và cần gạt của nó. Người giữ ký ức, trên chiếc hộp đựng ghi mấy dòng này, bằng những chữ in nghiêng màu trắng; nàng bỗng nhận ra đó là lý do khiến nàng mua nó - để anh có thể lưu giữ lại mọi khoảnh khắc, để anh không bao giờ quên.

“Không sao đâu,” anh nói, rồi đứng dậy. “Em đợi nhé. Ngồi đây đợi anh!”.

Anh chạy xuống tầng dưới. Nàng ngồi trên thành bồn tắm một lúc lâu, rồi đứng dậy và tập tễnh lê qua hành lang để tới phòng Paul. Tấm thảm xanh sẫm dày dặn trải dưới chân nàng. Nàng đã vẽ những đám mây lên bức tường màu xanh lơ và treo một giàn sao trên chiếc nôi. Paul ngủ yên dưới những ngôi sao lơ lửng, tấm chăn bị đạp ra, còn đôi bàn chân nhỏ xíu thõng xuống. Nàng dịu dàng hôn thằng bé và gài lại chân cho nói, rồi đưa tay lên vuốt mái tóc mềm mại, chạm nhẹ ngón trỏ vào lòng bàn tay của nó. Giờ thằng bé đã lớn lắm rồi, đã đi được và đang bập bẹ tập nói. Những buổi tối hôm nào dường như đã trôi xa hàng năm trời, những lúc Paul được chăm chút bế ẵm từng tí một còn David đem hoa thủy tiên vào bày khắp nhà: “Những ngày ấy đâu rồi ?”. Nàng nhớ đến chiếc máy ảnh, và nhớ lúc nàng lang thang trong căn nhà vắng lạnh của họ, quyết tâm ghi lại từng chi tiết nhỏ như một cách chống lại thời gian.

“Norah?” David bước vào phòng và đứng sau lưng nàng. “Em nhắm mắt lại đi.”.

Một dải dây mát lạnh sáng lấp lánh trên da nàng. Nàng nhìn xuống và nhìn thấy một viên ngọc lục bảo, một viên đá dài sẫm màu, tiệp với sợi dây vàng nổi bật trên nền da. Cho hợp với chiếc nhẫn nàng đeo, anh nói. Cho hợp với màu mắt nàng.

“Đẹp quá”, nàng thì thầm và sờ tay lên chất vàng âm ấm. “Ôi, David.”.

Rồi anh đặt tay lên vai nàng, và trong chớp mắt nàng lại đứng giữa tiếng nước vỗ nơi cối xay bột, hạnh phúc bao trùm lấy nàng như bóng đêm. Đừng thở, nàng tự nhủ. Đừng cử động. Nhưng chẳng thể nào ngăn được vạn vật. Ngoài trời, mưa rơi nhè nhẹ, và hạt giống cựa mình dưới lớp đất đen ẩm ướt. Paul thởi dài và trở mình trong giấc ngủ. Sớm mai nó sẽ thức dậy, lớn lên và thay đổi. Họ sẽ sống cuộc sống của mình ngày này qua ngày khác, mỗi ngày lại đưa họ đi thêm một bước rời xa dần đứa con gái đã mất.

Chương 6Tháng Ba Năm 1965

N

ƯỚC TỪ VÒI SEN ĐỔ XUỐNG RÀN RẠT VÀ HƠI NƯỚC BỐC LÊN PHỦ MỜ TẤM GƯƠNG VÀ Ô CỬA SỔ, che khuất vầng trăng xanh tái. Caroline đi tới đi lui trong buồng tắm quét sơn tím bé tí tẹo, trên tay ôm chặt Phoebe. Hơi thở của con bé nhè nhẹ và gấp, trái tim nhỏ bé của nó đập thình thịch. Cố gắng lên con yêu. Caroline thì thầm, vuốt ve mái tóc sẫm mềm mại của con bé. Cố khỏe lên nhé, bé ngoan, cố lên con. Mệt rã rời, cô dừng bước ngắm vầng trăng ngoài cửa sổ, một đốm sáng len giữa những cành cây tiêu huyền, lúc ấy cơn ho của Phoebe lại trỗi dậy, tận sâu trong lồng ngực con bé. Thân hình nó cứng đờ trong tay Caroline khi con bé đẩy không khí qua vòm họng nhỏ hẹp, tiếng nghe rát và khò khè. Đó là bệnh bạch hầu thanh quản, một bệnh đã được nhắc đến trong giáo trình. Caroline xoa xoa lên lưng Phoebe, lưng con bé chẳng lớn hơn bàn tay cô là bao. Khi cơn ho vừa dứt, cô lại tiếp tục đi đi lại lại để không rơi vào trạng thái ngủ đứng. Mới trong năm nay thôi đã hơn một lần cô giật mình tỉnh dậy thì thấy mình vẫn đứng nguyên vẹn còn Phoebe, kỳ diệu thay, vẫn an toàn trong vòng tay cô.

Cầu thang kêu kẽo kẹt, rồi đến mấy tấm ván sàn, tiếng nghe gần hơn, và cánh cửa màu tím bật mở kéo theo luồng không khí lạnh buốt. Doro bước vào, chị khoác một chiếc áo choàng lụa đen bên ngoài váy ngủ, mái tóc hoa râm xõa xuống bờ vai.

“Tệ lắm hả em?”, chị cất tiếng hỏi. “Nghe tiếng sợ quá. Có cần chị đi lấy xe không?”.

“Em nghĩ là không cần đâu. Nhưng chị đóng cửa giùm em được không? Có hơi nước cũng đỡ nhiều đấy.”.

Doro đóng cửa lại rồi ngồi lên thành bồn tắm.

“Bọn em lại đánh thức chị dậy rồi”, Caroline nói, hơi thở của Phoebe phả nhè nhẹ lên cổ cô. “Xin lỗi chị nhé.”

Doro nhún vai. “Em biết chị ngủ thế nào rồi đấy. Đằng nào thì chị vẫn đang thức đọc sách mà.”.

“Có gì thú vị không?” Caroline hỏi. Cô đưa cổ tay áo chùi lên cửa sổ; ánh trăng rải xuống mảnh vườn phía dưới cách đây ba tầng lầu và chiếu sáng chan hòa như nước chảy trên cỏ.

“Tạp chí khoa học ấy mà. Tẻ chết đi được, chị còn thấy thế nữa là. Đọc để dỗ giấc thôi.”.

Caroline mỉm cười. Doro có bằng tiến sĩ vật lý; chị làm việc tại trường đại học, đúng phân khoa mà ông cụ thân sinh ra chị đã từng nắm chức trưởng khoa. Leo March, một con người lỗi lạc và tiếng tăm lừng lẫy, giờ đã ở tuổi tám mươi, tuy chân tay còn khỏe mạnh nhưng trí nhớ và giác quan đã sút kém. Một tháng trước, Doro đã thuê Caroline làm bầu bạn với ông cụ.

Một món quà, chính là công việc này: cô biết. Cô lái xe từ đường hầm Fort Pitt lên chiếc cầu cao bắc ngang qua sông Monongahela, những ngọn đồi xanh nhô cao bên dòng nước phẳng lặng, thành phố Pittsburgh đột ngột hiện lên lung linh trước mắt cô, gần gũi và sống động. Ngỡ ngàng trước sự rộng lớn và vẻ đẹp huy hoàng của nó, cô thở gấp và nhấn ga chậm lại, chỉ sợ mình sẽ lạc tay lái.

Suốt một tháng ròng cô sống trong một khách sạn rẻ tiền nằm ở ngoại ô thành phố, khoanh tròn các loại quảng cáo tìm người và nhìn món tiền dành dụm của mình teo tóp dần. Khi cô tới dự cuộc phỏng vấn này, lòng phấn khích đã chuyển thành vẻ hoảng loạn đến đờ dại. Cô bấm chuông và đứng trên hiên nhà, chờ đợi. Những đóa hoa thủy tiên vàng rực rỡ rung rinh trên thảm cỏ xuân xanh tốt; ở căn nhà kế bên, một người phụ nữ khoác áo choàng thêu mặc ở nhà đang quét đám muội vương trên bậc thềm. Những người sống trong căn nhà đó còn chẳng thèm để ý; chiếc ghế ngồi ô tô của Phoebe đã phủ đầy một lớp sạn bẩn tích tụ từ mấy ngày liền. Bụi rải như tuyết đen, dấu chân của Caroline in xuống chỗ mờ chỗ tỏ sau lưng cô.

Cuối cùng thì Dorothy March, một người cao ráo và mảnh dẻ mặc bộ đồ thể thao màu xám, cũng ra mở cửa. Caroline phớt lờ cái nhìn cảnh giác chị ta dành cho Phoebe, cô nhấc cái ghế của con bé lên, bước vào nhà. Cô ngồi xuống mép một chiếc ghế tựa khá chênh vênh, lớp nệm nhung từng có màu đỏ thắm như rượu đã ngả sang sắc hồng, ngoại trừ mấy chỗ sẫm màu hơn xung quanh đinh tán bọc vải. Dorothy March ngồi xuống đối diện cô, trên chiếc trường kỷ bọc da nứt nẻ, một đầu được gia cố thêm bằng một cục gạch. Chị châm một điếu thuốc. Trong một lúc lâu, chị chỉ ngắm nghía Caroline, đôi mắt xanh tinh nhanh và linh động. Chị chưa nói ngay điều gì cả. Sau rốt, chị cũng hắng giọng, rồi phả ra một hơi khói.

“Nói thật nhé, tôi không tin tưởng một đứa trẻ ranh lắm đâu”, chị nói.

Caroline rút tờ lý lịch ra. “Tôi đã làm y tá trong mười lăm năm liền. Tôi có vô khối kinh nghiệm và tâm huyết để làm công việc này.”

Dorothy March cầm mấy tờ giấy bằng bàn tay không hút thuốc và đưa lên đọc.

“Chà, xem ra cô có nhiều kinh nghiệm thật. Nhưng ở đây còn không ghi cô đã làm việc ở đâu. Cô chẳng trình bày rõ ràng gì cả.”

Caroline ngập ngừng. Cô đã nghĩ ra hàng tá câu trả lời khác nhau cho câu hỏi này ở hàng tá cuộc phỏng vấn khác nhau những tuần trước đó, và tất cả đều chẳng có tác dụng gì cả.

“Bởi vì tôi đã bỏ trốn”, cô nói, đầu óc như quay cuồng. “Tôi đã chạy trốn cha của Phoebe. Vì vậy tôi không thể nói cho chị biết tôi từ đâu đến, và cũng không thể đưa cho chị một lá thư giới thiệu nào. Đó là lý do duy nhất tôi vẫn chưa kiếm được việc. Tôi là một y tá xuất sắc, và thẳng thắn mà nói, chị rất may mắn vì tìm được tôi đấy, nhất là với mức lương chị định trả”.

Nghe vậy Dorothy phá lên cười the thé, nghe rợn cả người. “Ăn nói mới táo tợn chưa! Thưa cô, đây là công việc làm toàn thời gian tại nhà tôi. Vì cớ gì mà tôi phải vồ vập nhận ngay một người hoàn toàn xa lạ cơ chứ?”.

“Tôi sẽ bắt đầu ngay từ bây giờ, chỉ cần được nuôi ăn ở thôi,” Caroline vẫn kiên trì, cô nghĩ đến căn phòng ở nhà nghỉ với lớp giấy dán tường tróc luôm nhuôm và cái trần phòng cáu bẩn, căn phòng mà cô không đủ tiền để trả thậm chí chỉ cho một đêm nữa. “Trong vòng hai tuần. Tôi làm việc, sau đó chị có thể quyết định.”

Điếu thuốc trên tay Dorothy March đã cháy hết. Chị nhìn nó, rồi dụi xuống cái gạt tàn đã đầy tràn.

“Nhưng cô tính xoay sở thế nào?”, chị trầm ngâm. “Lại còn thêm đứa bé nữa? Bố tôi không phải là một bệnh nhân. Mà ông cũng không phải là một bệnh nhân kiên nhẫn đâu đấy, tôi cam đoan với cô như thế.”

“Chỉ một tuần thôi,” Caroline đáp ngay. “Nếu trong một tuần chị cảm thấy không thích tôi, tôi sẽ đi ngay.”

Đến giờ gần một năm đã trôi qua. Doro đứng trong căn phòng tắm mù mịt hơi nước. Ống tay áo choàng lụa đen in đầy những hình con chim vùng nhiệt đới sặc sỡ tụt xuống tận khuỷu tay. “Để chị bế nó cho. Trông em mệt quá rồi, Caroline ạ.”

Cơn khò khè của Phoebe đã dịu bớt và da dẻ con bé dần tươi trở lại, đôi má giờ đã phơn phớt hồng. Caroline chuyền con bé sang, cảm thấy rõ hơi lạnh đột ngột khi con bé không còn trong vòng tay mình nữa.

“Tình hình bố chị hôm nay thế nào?”, Doro hỏi. “Cụ có gây phiền phức cho em chút nào không?”.

Mất một lúc Caroline vẫn không trả lời. Cô đã quá mệt mỏi, một năm qua cô đã đi quá xa, từ cảnh huống này sang cảnh huống khác, và cuộc sống đơn độc chỉn chu của cô đã bị xáo trộn hoàn toàn. Không hiểu bằng cách nào, cô lại có mặt trong căn phòng tắm sơn tím nhỏ bé này, trở thành mẹ của Phoebe, thành bạn đồng hành với một người đàn ông lỗi lạc nhưng trí óc đã lẫn lộn, thành một người bạn kỳ lạ nhưng đáng tin cậy của người phụ nữ này, Doro March: một năm trước đây thôi họ vẫn còn là những người xa lạ, những người phụ nữ có thể lướt qua nhau trên phố mà không buồn liếc nhau đến lần thứ hai, giữa đôi bên cũng chẳng có chút liên hệ nào, vậy mà giờ đây cuộc sống của họ đã xoắn bện vào nhau bởi những nhu cầu thường nhật cùng một lòng tôn trọng bền chặt và nghiêm cẩn.

“Ông cụ không chịu ăn. Ông kêu em đã bỏ bột giặt vào khoai tây nghiền. Chà - nói thế nào nhỉ, cũng như ngày thường thôi.”.

“Tính ông không thế, em biết mà.”, Doro nhẹ nhàng. “Không phải lúc nào ông cụ cũng như thế.”.

Caroline tắt vòi hoa sen và ngồi lên thành bồn tắm màu tím.

Doro hất hàm về phía ô cửa sổ mờ hơi nước. Đôi bàn tay Phoebe xanh tái như những ngôi sao, nổi bật trên nền chiếc áo choàng của chị. “Mảnh đất đằng xa trên đồi là nơi bọn chị chơi đùa hồi xưa. Trước khi người ta xây đường cao tốc kia. Bọn diệc hay làm tổ trên cây, em biết chuyện đó không nhỉ? Cứ tới mùa xuân mẹ chị lại trồng hoa thủy tiên ở đấy, phải đến hàng trăm củ ấy. Ngày nào bố chị cũng đi tàu từ trường về nhà lúc sáu giờ, ông sẽ đi thẳng tới đó và hái cho mẹ chị một bó hoa đầy. Em không biết ông trước kia như thế nào đâu,” chị nói. “Em không biết đâu.”

“Em biết”, Caroline nói khẽ. “Em đã nhận ra điều đó rồi mà.”.

Họ im lặng một lúc. Vòi nước nhỏ từng giọt và hơi nước cuộn lên.

“Chị nghĩ con bé ngủ rồi,” Doro nói. “Con bé sẽ ổn chứ?”.

“Vâng, em nghĩ thế.”.

“Con bé bị làm sao vậy, Caroline?”. Giọng nói của Doro giờ đầy quan tâm, từng câu từng chữ của chị phát ra thật dứt khoát. “Em à, chị chẳng biết gì về trẻ con cả, nhưng ngay cả người như chị đây cũng cảm thấy có điều gì đó không ổn. Phoebe rất xinh, rất ngoan, nhưng có gì đó không ổn, đúng không? Con bé đã gần một tuổi mà giờ nó mới chỉ đang tập ngồi dậy là sao?”.

Caroline nhìn xuyên qua ô cửa sổ đọng từng vệt dài hơi nước, ngắm mặt trăng rồi nhắm mắt lại. Khi còn là một đứa trẻ sơ sinh, sự ù lì của Phoebe dường như, hơn bất cứ điều gì khác, là một món quà của sự thầm lặng, của lòng tận tụy, và Caroline có thể cho phép mình tin rằng không có điều gì là bất thường cả. Nhưng sau sáu tháng, khi Phoebe đã lớn hơn nhưng vẫn quá nhỏ bé so với tuổi của nó, chỉ lọt thỏm trong vòng tay cô, khi ánh mắt Phoebe dõi theo chuyển động của chùm chìa khóa, đôi lúc con bé còn vẫy tay nhưng không bao giờ cố vươn ra để tóm lấy, khi con bé không có biểu hiện gì của khả năng tự ngồi dậy, Caroline bắt đầu đưa Phoebe tới thư viện vào những ngày cô được nghỉ. Ngồi bên chiếc bàn đóng bằng gỗ sồi ở thư viện Carnegie, giữa những căn phòng trần cao vút rộng rãi, thoáng đãng, cô chất đống sách cùng các bài báo và bắt đầu đọc, những cuộc hành trình ghê rợn tới các nhà cứu tế tăm tối, những cuộc đời ngắn ngủi, không có chút tia hy vọng nào. Đó làm một cảm xúc kỳ dị, giống như bụng cô bị khoét thủng một lỗ sâu mỗi khi đọc tới từng chữ. Và Phoebe vẫn ở đó, trằn mình trong chiếc ghế ô tô, con bé nhoẻn cười, vẫy vẫy tay và ê a: một đứa trẻ, không phải một ca bệnh kinh điển.

“Phoebe có triệu chứng Down,” cô ép mình tự phải nói ra. “Thuật ngữ gọi như vậy.”.

“Ôi, Caroline,” Doro nói. “Chị rất tiếc. Có phải đó là lý do khiến em bỏ chồng không? Em nói anh ta không muốn có nó mà. Ôi em thân yêu, chị rất, rất lấy làm tiếc.”

“Đừng chị à”, Caroline nói, đoạn cô giơ tay ra để đỡ lấy Phoebe. “Con bé rất xinh.”.

“Ừ, phải. Phải, nó xinh lắm. Nhưng Caroline à. Con bé sẽ ra sao đây?”.

Thân hình Phoebe ấm và nặng trong vòng tay cô, mớ tóc sẫm mềm mại lòa xòa nổi bật trên làn da tái. Caroline, vừa e sợ lại vừa thận trọng, vuốt lên má con bé thật nhẹ nhàng.

“Chúng ta sẽ ra sao đây? Ý em là, nói thực em nghe nào, Doro. Chị có bao giờ tưởng tượng cuộc đời chị sẽ như thế này không?”

Doro nhìn lảng đi, có gì đó như nỗi đau lướt qua khuôn mặt chị. Nhiều năm về trước, vị hôn phu của chị đã bỏ mạng khi liều lĩnh nhảy từ trên một cây cầu xuống sông. Doro đã quá đau đớn vì anh ta và không bao giờ kết hôn, không bao giờ có những đứa con mà chị hằng mơ ước.

“Không”, cuối cùng chị cất lời. “Nhưng chuyện này thì khác.”

“Tại sao? Tại sao lại khác?”

“Caroline,” Doro nói, đặt tay lên cánh tay cô. “Thôi đừng nói nữa em. Em mệt rồi. Chị cũng vậy.”

Caroline đặt Phoebe vào nôi trong lúc tiếng chân Doro bước xuống cầu thang vẳng lại khe khẽ. Lúc ngủ say dưới ánh đèn đường mờ ảo hắt qua cửa sổ, trông nó cũng giống như bất cứ đứa trẻ nào khác, tương lai của con bé vẫn còn mông lung, thật chẳng khác nào đáy đại dương, vẫn còn ẩn chứa biết bao bí ẩn. Xe cộ trườn lên những cánh đồng thời thơ ấu của Doro, ánh đèn pha nhảy nhót trên tường, và Caroline hình dung ra cảnh những con diệc bay vù lên trên đồng lầy, cánh sải dài trong ánh sáng vàng mờ ảo của buổi ban mai. Con bé sẽ ra sao? Thực ra, lắm lúc Caroline nằm thao thức giữa đêm khuya, trăn trở không nguôi cũng vì chính câu hỏi đó.

Trong phòng riêng của cô, những tấm rèm do chính tay bà cụ thân sinh của Doro đan móc và treo lên cửa sổ mấy chục năm về trước phủ xuống những mảng tối tinh tế, ánh trăng đủ sáng để xuyên qua lớp rèm. Trên bàn làm việc có một chiếc phong bì đựng ba tấm hình của Phoebe, kế đó là một tờ giấy gấp đôi. Caroline mở ra và đọc lại những gì mình đã viết.

Bác sĩ Henry,

Tôi viết những dòng này để thông báo chúng tôi vẫn khỏe, Phoebe và tôi. Chúng tôi vẫn an toàn và hạnh phúc. Tôi có một công việc rất tốt. Về cơ bản, Phoebe là một đứa trẻ khỏe mạnh, mặc dù thỉnh thoảng vẫn gặp vấn đề về hô hấp. Tôi gửi cả ảnh nữa. Cho tới giờ, cảm ơn trời, tim con bé vẫn chưa có gì bất thường.

Lẽ ra cô nên gửi đi - cô đã viết từ mấy tuần tước - nhưng mỗi lần định gửi cô lại nghĩ tới Phoebe, đến cái cảm giác êm ái mỗi khi chạm vào tay nó, hay tiếng ê a của nó mỗi khi nó vui, và cô không thể nào làm được nữa. Cô lại cất lá thư đi và nằm xuống, chẳng mấy chốc đã chìm vào giấc ngủ miên man. Cô bỗng mơ thấy khu sảnh đợi nơi phòng khám với mấy cái cây ủ rũ, những chiếc lá lay động bởi hơi nóng, và rồi bừng tỉnh, khắc khoải lo lắng không biết mình đang ở đâu.

Đây, cô tự nhủ, tay sờ lên mấy tấm chăn mát lạnh. Mình đang ở đây.

* * *

Buổi sáng khi Caroline thức dậy, căn phòng tràn ngập ánh sáng và tiếng đàn trumpet. Nằm trong nôi, Phoebe đang huơ huơ tay như thể nốt nhạc là những sinh vật nhỏ bé có cánh, giống như bướm hay đom đóm, mà con bé có thể bắt lấy. Caroline sửa soạn áo xống cho cả hai rồi bế nó xuống tầng dưới, cô dừng lại ở tầng hai, nơi Leo March đang thu mình vào trong văn phòng sơn vàng ngập nắng của ông, sách vương vãi khắp đi văng, ông nằm trên đó, tay đan sau đầu, mắt nhìn trân trân lên trần nhà. Caroline đứng bên ngưỡng của nhìn ông - cô không được phép bước vào căn phòng này trừ phi được mời - nhưng ông không nhận ra sự có mặt của cô. Một người đàn ông già nua, cái đầu đã hói chỉ còn lại một nhúm tóc bạc lơ thơ, vẫn mặc nguyên bộ quần áo từ hôm trước, say sưa lắng nghe tiếng nhạc ầm ĩ tuôn ra từ dàn loa, làm rung chuyển cả căn nhà.

“Bác có muốn ăn sáng không ạ?, cô gào to.

Ông phẩy tay, ý rằng mình sẽ tự lo lấy. Vậy thì tốt thôi.

Caroline đảo qua bếp pha cà phê. Ngay cả ở dưới này, cô vẫn nghe thấy tiếng kèn trumpet văng vẳng. Cô đặt Phoebe lên chiếc ghế ăn, cho nó uống nước xốt táo, ăn trứng cùng pho mát mềm. Ba lần cô đặt chiếc thìa vào tay con bé là ba lần thìa rơi xuống chiếc khay kim loại.

“Không sao”, Caroline nói to, nhưng trái tim cô se lại. Tiếng Doro lại văng vẳng: Con bé sẽ ra sao? Ra sao đây? Mười một tháng tuổi, lẽ ra con bé phải cầm nắm được những vật nhỏ rồi chứ?

Cô dọn sạch bếp và sang phòng ăn gấp đồ giặt ủi vừa rút trên dây phơi, vải vóc thơm nồng hơi gió. Phoebe nằm ngửa trên xe cũi đẩy, miệng ê a, tay đập lên những chiếc vòng và đồ chơi Caroline đeo trên đầu nó. Thỉnh thoảng Caroline dừng việc để chỉnh lại mấy món đồ sặc sỡ, với hy vọng rằng Phoebe, bị hấp dẫn bởi màu sắc, sẽ khua cho chúng quay tít.

Sau chừng nửa tiếng đồng hồ, tiếng nhạc bỗng ngưng bặt, rồi chân Leo xuất hiện trên bậc thang trong đôi giày da đánh xi bóng loáng và thắt buộc chỉn chu, mắt cá chân để trần xanh xao lấp ló dưới ống quần ngắn phải tới vài centimet so với mức thông thường. Từ từ từng chút một, ông hiện ra trong tầm mắt - một người đàn ông cao kều, thân hình đã một thời rất tráng kiện và cơ bắp, nhưng giờ các thớ thịt chỉ còn bám lỏng lẻo trên cái khung xương khẳng khiu.

“A, tốt lắm”, ông nói, gật gù với đống đồ giặt ủi. “Chúng ta cần một cô giúp việc như thế đấy.”.

“Bác ăn sáng không?” cô hỏi.

“Tôi tự làm lấy được.”

“Thế thì bác làm đi.”

“Tôi sẽ tống cổ cô trước bữa trưa,” ông nói vọng ra từ trong bếp.

Tiếp đó là tiếng nồi niêu xoong chảo rơi loảng xoảng, tiếng ông cụ chửi rủa. Caroline tưởng tượng ra ông đang phải cúi lom khom để nhồi nhét hết đống xoong chảo trở vào tủ đựng chén đĩa. Cô phải tới giúp ông - nhưng thôi, cứ để ông tự xoay xở lấy. Trong mấy tuần đầu làm việc, cô còn ngần ngại không dám mở miệng đáp trả, không dám giật mình mỗi lần Leonard March gọi, cho tới khi Doro nói riêng với cô. Dào ôi, cô có phải là người hầu kẻ ở đâu. Mọi chuyện cứ nói với tôi là được; cô không cần phải nghe mọi thứ ông cụ sai bảo. Cô làm tốt lắm, cô cứ ở lại đây, chị đã nói vậy, và Caroline hiểu rằng thời kỳ thử việc của cô đã chấm dứt.

Leo đi ra, tay bưng một đĩa đầy trứng tú hụ và một cốc nước cam.

“Không phải lo”, cô chưa kịp mở miệng, ông đã nói trước. “Tôi đã tắt cái lò nướng chết tiệt đấy rồi. Giờ tôi lên gác ăn sáng cho yên thân đây.”

“Xin bác ăn nói cho cẩn thận,” Caroline nói.

Ông gầm gừ trong miệng rồi dận chân thình thịch trên gác. Cô ngừng tay, bỗng nhiên thấy nghẹn ngào muốn khóc, cô dõi theo một con chim hồng y thoắt đậu xuống bụi tử đinh hương dưới cửa sổ, rồi bay đi ngay. Cô đang làm gì ở đây vậy nhỉ? Không hiểu ước muốn nào đã đẩy cô đến quyết định hệ trọng này, đến cái cảnh không thể quay đầu trở lại như thế này? Và rốt cuộc, số phận của cô sẽ ra sao đây?

Sau vài phút, tiếng nhạc trumpet lại nổi lên ầm ầm trên gác và chuông cửa reo lần thứ hai. Caroline bế Phoebe lên khỏi chiếc xe cũi đẩy.

“Họ đến rồi.”, cô nói, đoạn giơ cổ tay lên chùi mắt. “Đến lúc luyện tập rồi.”.

Sandra đã trực sẵn dưới hiên nhà. Caroline vừa mở cửa cô đã ập vào, một tay bế Tim, còn tay kia kéo lê theo một túi vải to vật vã. Cô ta cao lớn, khung xương thô kệch, tóc vàng hoe, tràn đầy sức sống; cô ngồi bệt xuống giữa tấm thảm không chút câu nệ, rồi dốc túi đổ ra một chồng đống đồ chơi xếp khối.

“Xin lỗi chị, tôi đến muộn quá,” cô ta nói. “Đường sá ùn tắc kinh quá đi mất. Chị sống ở gần trung tâm thành phố thế này mà không phát điên lên à? Như tôi thì chắc muốn rồ luôn rồi. Mà thôi, xem tôi có cái gì này. Nhìn mấy món đồ chơi xếp khối tuyệt chưa này - đồ nhựa đấy, màu sắc phong phú lắm. Tim thích trò chơi này lắm đấy.”

Caroline cũng ngồi xuống sàn nhà. Cũng như Doro, Sandra là một người bạn lạ thường, một người mà trong cuộc sống trước kia của mình có lẽ Caroline sẽ không bao giờ biết đến. Họ đã gặp nhau trong thư viện giữa một ngày tháng Giêng ảm đạm, lúc ấy Caroline, phát ngấy vì chuyên gia và những số liệu chuyên môn ảm đạm, đóng sập quyển sách lại trong tuyệt vọng. Sandra ngồi cách đó hai bàn, cũng lọt thỏm giữa những chồng sách của chính mình, những quyển sách có bìa và gáy giống với đống sách của Caroline khủng khiếp, cô nhìn lên. Ôi chao, tôi hiểu chị đang nghĩ gì. Tôi cũng điên dầu lắm rồi đây, khéo đập vỡ tan cửa sổ được ấy.

Họ bắt đầu trò chuyện: lúc đầu hãy còn thận trọng, rồi sau lời lẽ cứ thế tuôn ra. Con trai của Sandra tên Tim đã gần tròn bốn tuổi. Cậu bé cũng bị Down, nhưng Sarah lại không hay biết. Sarah có để ý thấy thằng bé phát triển chậm hơn ba đứa còn lại của cô, nhưng cô chỉ nghĩ đơn giản là chậm thôi, chứ không cho rằng có nguyên do gì khác. Là một bà mẹ bận rộn, cô chỉ mong Tim có thể làm được những gì mà anh chị nó đã làm được, và nếu thằng bé có chậm hơn thì cũng không sao hết. Thằng bé biết đi lúc lên hai, tập đi toilet khi lên ba. Kết quả chẩn đoán đã làm cả gia đình sững sờ; lời khuyên của bác sĩ rằng nên đưa Tim vào một nhà cứu tế nào đó - đã khiến cô nổi giận mà bắt tay vào hành động.

Caroline lắng nghe chăm chú, từng câu từng lời khiến lòng cô thêm phấn chấn.

Họ rời khỏi thư viện và đi uống cà phê. Có lẽ Caroline sẽ không bao giờ quên những giây phút ấy, sự hứng khởi mà cô cảm thấy, như thể cô vừa thức dậy sau một giấc mơ dài nặng nề. Họ cùng phỏng đoán điều gì sẽ xảy ra, nếu cứ giả định là con mình có thể làm tất cả mọi việc. Có lẽ sẽ không nhanh. Có lẽ sẽ không giống như những gì sách nói. Nhưng nếu họ bỏ hết những biểu đồ tăng trưởng và phát triển kia đi, thay vào đó là những mục tiêu, kế hoạch rõ ràng và gắt gao của mình thì sao? Nếu họ kiên trì hy vọng bất chấp cả thời gian? Làm thế thì có hại gì đâu? Sao lại không thử cơ chứ?

Phải, sao lại không nhỉ? Họ bắt đầu gặp nhau thường xuyên, ở đây hoặc ở nhà Sandra khi có mặt cả mấy đứa con trai lớn bướng bỉnh của cô. Họ mang theo sách vở và đồ chơi, bài nghiên cứu và những câu chuyện, và cả kinh nghiệm của riêng mình – Caroline có kinh nghiệm của một y tá, Sandra lại có kinh nghiệm của một giáo viên và một bà mẹ của bốn đứa con. Có rất nhiều phương pháp chỉ xuất phát từ suy nghĩ thông thường. Ví dụ khi Phoebe cần học lẫy, cứ đặt một quả bóng màu sặc sỡ ngoài tầm với của nó; khi Tim cần học cách kết hợp hành động, cứ đưa cho thằng bé một chiếc kéo cùn cùng tập giấy màu và để nó tự cắt. Những dấu hiệu tiến bộ biểu hiện rất chậm chạp, đôi khi không thể nhận thấy được, nhưng đối với Caroline, những giờ phút ấy đã trở thành sự cứu rỗi.

“Hôm nay trông chị mệt mỏi quá,” Sandra nói.

Caroline gật đầu. “Tối qua Phoebe bị ho bạch hầu. Thực sự tôi cũng không biết con bé trụ được bao lâu nữa. Tai của Tim sao rồi?”

“Tôi thích ông bác sĩ mới lắm,” Sandra nói, đoạn ngồi ngả ra. Ngón tay của cô dài và thô; cô mỉm cười với Tim và đưa cho thằng bé một cái cốc màu vàng. “Ông ấy có vẻ tận tâm lắm, chứ không xua chúng tôi đi đâu. Nhưng mà tình hình cũng chẳng có gì sáng sủa hơn. Tim hơi có vấn đề về thính giác, thế nên thằng bé học nói mới chậm như thế. Đây này, con ngoan,” cô nói, gõ nhẹ lên cái cốc thằng bé vừa đánh rơi. “Cho cô Caroline với em Phoebe xem con làm được gì nào.”

Tim chẳng buồn quan tâm; lớp sợi thảm đã thu hết sự chú ý của thằng bé, nó đưa tay luồn qua lớp sợi hết lần này tới lần khác, đầy hào hứng và thích thú. Nhưng Sandra vẫn tỏ ra kiên quyết, bình tĩnh và dứt khoát. Rốt cuộc, thằng bé cùng cầm cái cốc vàng lên, áp miệng cốc lên má một lúc, rồi đặt cốc lên sàn nhà và bắt đầu đem những chiếc cốc khác xếp chồng lên nhau thành một cái tháp.

Suốt hai tiếng đồng hồ sau đó, họ chơi với bọn trẻ và trò chuyện. Sandra có quan điểm dứt khoát đối với mọi vấn đề và không ngần ngại bày tỏ ý kiến của mình. Caroline thích ngồi trong phòng khách nói chuyện với người phụ nữ thông minh, mạnh mẽ này, như những người mẹ với nhau. Dạo này Caroline bỗng thấy nhớ mẹ da diết, mẹ cô đã qua đời cách đây cả chục năm rồi, cô ước sao mình có thể gọi điện cho bà và xin bà lời khuyên hay chỉ cần bà ghé qua đây chốc lát để trông thấy cô bế Phoebe trên tay. Không biết mẹ cô có phải nếm trải những cảm giác này – tình yêu thương lẫn nỗi lo âu – khi Caroline lớn lên? Chắc là có, và đột nhiên Caroline thấu hiểu tuổi thơ của mình theo một cách khác. Mối lo sợ thường trực về bệnh bại liệt – cái cảm giác đó, theo cách kỳ dị của riêng nó, chính là tình yêu. Và những giờ làm việc cật lực của cha cô, sự chuyên chú cẩn trọng về chuyện chi tiêu gia đình được nói đến trong mỗi tối – đó cũng là tình yêu.

Cô không có mẹ bên cạnh nhưng đã có Sandra, và những buổi sáng tâm sự cùng nhau đã trở thành niềm vui trong tuần của cô. Họ kể cho nhau nghe những câu chuyện từ cuộc sống của mình, chia sẻ quan điểm và kinh nghiệm làm mẹ, cùng vui cười khi Tom cố xếp chồng những chiếc cốc trên đầu họ, khi Phoebe cố với cao hơn, cao hơn để tóm lấy quả bóng màu sặc sỡ và cuối cùng, vượt qua được chính bản thân mình, nó đã biết lẫy. Cũng trong buổi sáng hôm đó, Caroline vẫn thấy chưa chắc chắn, nên đã vài lần cô thử đung đưa chùm chìa khóa xe trước mặt Phoebe. Chùm chìa khóa bắt nắng sáng lấp lánh, và đôi bàn tay nhỏ xíu của Phoebe xòe ra, những ngón tay ngọ nguậy, mở rộng như cánh sao biển. Tiếng leng keng, những đốm sáng: con bé cố với lấy chùm chìa khóa. Nhưng dù có gắng sức tới đâu, nó cũng không tài nào tóm được.

“Thôi để lần sau,” Sandra nói. “Cứ chờ xem sao. Rồi sẽ được thôi.”

Tới trưa Caroline giúp họ khuân đồ ra xe, rồi đứng trên hiên nhà, tay bế Phoebe, thấm mệt nhưng hạnh phúc, cô vẫy tay trong khi Sandra đánh ô tô ra đường.

Khi cô trở vào trong nhà, chiếc đĩa hát của Leo đang kẹt, nó nhai đi nhai lại ba khuông nhạc hết lần này tới lần khác.

Ông già xấu tính, cô tự nhủ, chân bước lên cầu thang. Lão già gớm ghiếc.

“Bác tắt cái thứ đấy đi không được sao ?” cô xẵng giọng, đoạn đẩy cửa vào. Nhưng chỉ thấy chiếc đĩa hát vấp giữa căn phòng trống trơn. Leo đã không còn ở đó.

Phoebe khóc ré lên, dường như tự bên trong, con bé có một sự nhạy cảm đặc biệt đối với xung đột và căng thẳng. Có thể ông đã lẻn qua cửa hậu trong lúc cô còn đang dở tay giúp Sandra. Ôi, ông ta quả là thông minh, mặc dù dạo này đã có lúc ông để quên giày ở cả trong tủ lạnh. Ông thấy khoái chí vô cùng mỗi lần chơi khăm cô như thế. Đã ba lần Leo trốn đi, trong đó có một lần ông trần như nhộng.

Caroline hối hả chạy xuống cầu thang và xỏ chân vào đôi giày lười lạnh toát và nhỏ xíu của Doro. Cô lấy thêm một chiếc áo khoác cho Phoebe, áo vẫn để sẵn trong xe đẩy của nó – về phần mình, cô không để ý tới.

Trời phủ đầy những cụm mây xám nặng. Phoebe khóc thút thít, đôi tay nhỏ xinh của nó đập liên hồi khi họ bước qua ga ra để ra ngõ. Mẹ biết rồi. Caroline xoa đầu nó, miệng thì thầm. Mẹ biết rồi, con yêu, mẹ biết rồi. Cô nhận ra dấu chân của Leo trên một mảng tuyết đang tan dần, một vết sâu hoắm của đôi ủng ông đi, và thấy nhẹ nhõm hẳn. Ông đã đi theo lối này, và ông có mặc quần áo.

À, ít nhất thì ông cũng có đi ủng.

Đi hết khu nhà kế bên, cô tới chỗ 105 bậc thang dẫn xuống Đồng Koening. Chính Leo đã nói cho cô biết số bậc ở đó vào một buổi tối ngay sau bữa ăn đêm, ấy là lúc ông còn đang lịch sự nền nã. Giờ ông đang đứng dưới chân dải cầu thang xi măng dài dằng dặc, tay buông thõng hai bên, mái tóc bạc lởm chởm, trông ông mới hoảng hốt, bối rối và đau đớn làm sao, tới độ cơn giận dữ của cô bỗng chốc tan biến. Caroline không ưa Leo March – ông chẳng phải người dễ mà ưa nổi – nhưng sự oán ghét cô dành cho ông thường pha chút lòng trắc ẩn. Bởi trong những giây phút như lúc này, cô nhận ra cả thế giới đang nhìn nhận ông ra sao, họ chỉ thấy một ông già bạc nhược và lẩn thẩn, chứ không phải một bộ óc vĩ đại đã và vẫn đang là Leo March.

Ông quay lại và trông thấy cô, chỉ sau giây lát, vẻ thất thần đã tan biến trên gương mặt ông.

“Nhìn đây!” ông gào lên. “Nhìn đây, cô ả, rồi khóc đi nhé !”

Nhanh như chớp, mặc kệ tuyết đã đóng thành một dải băng nằm bất động giữa những bậc thang, Leo chạy lên chỗ cô đứng, chân đưa thoăn thoắt như được trợ lực bởi chất adrenaline quen thuộc và một thứ nhu cầu bức thiết nào đó.

“Tôi cá là cô chưa bao giờ được thấy cái gì như vậy đâu,” ông chạy tới những bậc trên cùng, vừa nói vừa thở hổn hển.

“Ông nói đúng,” Caroline nói. “Cháu chưa thấy bao giờ thật. Mà cháu cũng mong là không bao giờ phải thấy lần nữa.”

Leo cười phá lên, cặp môi ông ửng lên một màu hồng sinh động trên sắc da tái nhợt.

“Tôi trốn được cô rồi nhá,” ông nói.

“Bác đâu đã đi được xa.”

“Tôi có thể lắm chứ. Nếu tôi chủ tâm. Đợi lần sau mà xem.”

“Lần sau nhớ mang theo áo choàng,” Caroline khuyên.

“Để lần sau,” ông nói, khi hai người nhấc chân bước đi. “Tôi sẽ trốn đến tận Timbuktu.”

“Bác dám không,” Caroline nói, cảm giác mệt mỏi bao trùm khắp cơ thể cô. Những củ nghệ tây óng lên sắc tím và trắng trên lớp cỏ xanh mướt; Phoebe khóc ngằn ngặt. Cô thấy nhẹ nhẹ người vì đã đưa được Leo về cùng, vì thấy ông vẫn an toàn, cô vui mừng vì đã ngăn được chuyện không may. Sẽ là lỗi của cô, nếu như ông đi lạc hay bị thương, vì cô đã quá chú tâm vào Phoebe, đã hàng tuần nay nó chỉ biết với, vẫn chưa học được cách tóm lấy đồ vật.

Họ đi thêm mấy bước nữa mà không nói năng gì.

“Cô là một phụ nữ thông minh,” Leo nói.

Cô đứng khựng lại trước thềm gạch, sững sờ.

“Sao? Bác nói sao kia?”

Ông nhìn cô, hoàn toàn minh mẫn, đôi mắt ánh lên màu xanh biếc mê hoặc giống hệt mắt Doro.

“Tôi nói cô thông minh. Trước cô con gái tôi đã thuê tới tám nữ y tá khác nhau. Chẳng có người nào trụ lại được quá một tuần. Tôi cá là cô không biết chuyện đấy đâu nhỉ.”

“Không,” Caroline nói. “Cháu không biết thật.”

* * *

Sau đó, trong lúc lau dọn nhà bếp và mang rác đi đổ, Caroline nghĩ mãi về những lời Leo nói. Mình rất thông minh, cô tự nhủ, đứng đờ đẫn trong con hẻm cạnh thùng rác. Không khí ẩm và lạnh. Hơi thở của cô phả ra thành những làn khói nhỏ. Thông minh cũng chẳng kiếm cho con một tấm chồng đâu, mẹ cô gay gắt độp lại, nhưng ngay cả điều đó cũng không làm suy giảm chút nào cảm giác khoan khoái của Caroline trước câu nói tử tế đầu tiên Leo dành cho cô.

Caroline đứng một lúc lâu nữa trong bầu không khí lạnh toát, cảm giác thật dễ chịu khi bốn bề đều tĩnh lặng. Phía dưới đồi, các ga ra nằm so le nhau, cái nọ nối tiếp cái kia. Dần dần, cô bỗng nhận thấy một bóng người đứng cuối ngõ. Một người đàn ông cao lớn, mặc chiếc quần jean sẫm màu và khoác chiếc áo jacket màu nâu, màu sắc trang phục trầm đến nỗi gần như biến anh ta trở thành một phần trong khung cảnh tiết cuối đông. Có điều gì ở anh ta – điều gì đó trong cách anh ta đứng và nhìn thật chăm chú về phía cô – khiến Caroline thấy bất an. Cô đậy cái nắp kim loại của thùng rác lại rồi khoanh tay trước ngực. Anh ta đang tiến về phía cô, một người đàn ông to cao, vai rộng và bước rất nhanh. Chiếc áo jacket của anh ta không phải màu nâu, mà là những ô vuông mờ, kẻ đỏ. Anh ta rút một chiếc mũ màu đỏ tươi trong túi ra và đội lên đầu. Caroline chợt cảm thấy yên tâm đến kỳ lạ trước cử chỉ này, mặc dù cô không hiểu là vì đâu.

“Này cô,” anh ta gọi. “Chiếc Fairlane của cô dạo này chạy tốt không?”

Nỗi lo sợ của cô càng tăng thêm, cô quay lưng lại nhìn căn nhà, những ô gạch đen in trên nền trời trắng xóa. Đúng rồi, kia là phòng tắm phòng cô, đêm qua cô đã đứng ở đó để ngắm ánh trăng chiếu trên bãi cỏ. Kia là cửa sổ phòng cô, vẫn hé mở để đón không khí mùa xuân se lạnh, gió thổi khiến tấm rèm thêu ren khẽ lay động. Khi cô quay lưng lại, người đàn ông đã dừng bước, giờ chỉ cách cô có vài bước chân. Cô biết anh ta, cô hiểu điều này trong từng chân tơ kẽ tóc, với cảm giác thanh thản nhẹ nhõm trước cả khi đầu óc kịp định hình thành ý nghĩ. Nhưng chuyện này quá kỳ dị, sao cô có thể tin nổi.

“Làm sao mà ... “ cô dợm giọng.

“Cũng không dễ đâu!” Al vừa nói vừa cười vang. Trên cằm anh ta giờ đã phủ một lớp râu mềm, hàm răng sáng lóa lên. Đôi mắt sẫm màu của anh trông thật ấm áp, thân thiện và tươi vui. Cô vẫn còn nhớ lúc anh trút thịt muối vào đĩa cô, lúc anh vẫy tay từ buồng lái chiếc xe tải màu bạc khi xe lăn bánh. “Cô đúng là người khó tìm thật đấy. Nhưng cô đã nói đi Pittsburgh. Tình cờ làm sao cứ hai tuần tôi lại dừng ở đây một lần. Đi tìm cô gần như đã là sở thích của tôi rồi đấy.” Anh mỉm cười. “Bây giờ không biết tôi phải làm gì đây.”

Caroline không nói được câu nào. Được gặp lại anh cảm giác thật dễ chịu nhưng cũng khiến cô bối rối biết bao. Đã gần một năm nay cô không cho phép bản thân nghĩ quá lâu hay quá nhiều về cuộc đời mà cô đã rời bỏ, nhưng giờ nó lại trỗi dậy mạnh mẽ và cồn cào hơn bao giờ hết: mùi của nước tẩy rửa và ánh nắng nơi phòng đợi, cảm giác mỗi khi về nhà, về với căn hộ gọn gàng, yên ả sau một ngày dài, tự sửa soạn cho mình một bữa ăn giản dị, và mỗi tối ngồi thư giãn với một cuốn sách trên tay. Cô đã sẵn lòng rời bỏ những thú vui ấy để nắm lấy sự đổi thay này cũng chỉ bởi một cơn thôi thúc không nói thành tên ở đâu đó sâu thẳm trong tâm can. Thế mà giờ đây trái tim cô lại xao động, cô nhìn đăm đăm xuống con ngõ, như thể cô sẽ bất thần nhìn thấy cả David Henry đứng đó. Đột nhiên cô hiểu ra, đó là lý do tại sao cô chưa bao giờ gửi bức thư kia đi. Lỡ đâu David lại muốn lấy lại Phoebe – hoặc Norah muốn thế thì sao?

Nghĩ tới đó, nỗi hoảng loạn bao trùm lấy cô.

“Anh làm thế nào vậy?” Caroline hỏi dồn. “Sao anh tìm ra tôi? Tại sao?”

Al hơi chùn lại, rồi anh nhún vai. “Tôi ghé qua Lexington để chào cô một câu. Nhưng căn nhà của cô trống trơn cả. Đang sơn lại. Cô hàng xóm kia bảo cô đã đi được ba tuần rồi. Chắc tại tính tôi không thích những thứ bí ẩn, nên tôi cứ nghĩ mãi về cô.” Đoạn anh ta ngừng lời, dường như đang cân nhắc không biết có nên nói tiếp hay không. “Vả lại – khỉ thật, tôi thấy thích cô, Caroline ạ, và tôi đoán là cô đang gặp trục trặc gì đấy, nên mới bỏ đi như thế. Thật ra ngay từ cái ngày cô đứng trên bãi đỗ xe ấy, trông cô đúng là một người đang bị rắc rối vây quanh. Tôi nghĩ tôi có thể giúp cô một tay. Tôi nghĩ có lẽ cô sẽ cần san sẻ.”

“Tôi vẫn sống ổn,” cô nói. “Đấy. Giờ thì anh nghĩ sao?”

Cô không định thế, nhưng lời lẽ cứ nối nhau tuôn ra, sỗ sàng và cay nghiệt. Tiếp đó là một khoảng dài im lặng cho tới khi Al cất lời trở lại.

“Tôi nghĩ có lẽ mình đã nhầm lẫn vài chuyện mất rồi.” Al nói. Anh lắc đầu. “Tôi nghĩ chúng ta đã rất quý mến nhau, tôi và cô.”

“Đúng vậy,” Caroline nói. “Tôi chỉ bị sốc quá, vậy thôi. Tôi nghĩ mình đã cắt đứt hết mọi sự ràng buộc rồi.”

Bỗng anh ngước nhìn cô, cặp mắt nâu bắt gặp ánh mắt cô.

“Tôi đã mất hẳn một năm trời,” anh nói. “Nếu cô bận tâm đến việc ai đó lần theo tung tích mình, hãy nhớ lấy điều này. Khi ấy, tôi đã biết phải bắt đầu từ đâu, và tôi đã gặp may. Đầu tiên tôi tìm đến những nhà nghỉ rẻ tiền mà tôi quen biết, dò hỏi về người phụ nữ đi cùng một đứa bé. Mỗi lần tôi lại tới một chỗ khác, và tuần vừa rồi tôi đến được đúng nơi cần đến. Bà trực quầy chỗ cô từng trọ vẫn còn nhớ cô. À, tiện thể nói để cô biết luôn, tuần sau bà ta nghỉ việc rồi.” Anh ta giơ ngón tay cái và ngón tay trỏ lên, gí sát vào nhau. “Chỉ trong một tích tắc nữa thôi là tôi sẽ mãi mãi không được gặp cô nữa.”

Caroline gật đầu, cô nhớ lại người phụ nữ đứng sau quầy tiếp tân, bà có mái tóc bạc trắng búi gọn ghẽ, đôi hoa tai ngọc trai sáng lung linh. Cái nhà nghỉ ấy đã hiện diện trong gia đình bà suốt năm chục năm trời. Lò sưởi kêu tí tách cả đêm, còn những bức tường thì quanh năm ẩm ướt, khiến giấy dán tường bong tróc hết cả. Cô không bao giờ biết được, ai sẽ bước qua ngưỡng cửa này, người phụ nữ nói, đoạn đẩy chiếc chìa khóa lên mặt quầy.

Al hất hàm về phía thùng xe màu xanh lơ của chiếc Fairline.

“Ngay lúc nhìn thấy nó, tôi biết mình đã tìm thấy cô,” anh ta nói. “Con cô sao rồi?”

Cô nhớ lại bãi đỗ xe vắng tanh, ánh sáng xoáy tròn theo những bông tuyết và dần lụi tàn, nhớ cái cách tay anh đặt lên vầng trán bé nhỏ của Phoebe, thật dịu dàng làm sao.

“Anh có muốn vào nhà không?” Cô bỗng nghe thấy chính mình nói. “Vừa đúng lúc tôi định đánh thức con bé dậy. Tôi sẽ pha cho anh một tách trà.”

Caroline dẫn anh ta đi trên dải vỉa hè hẹp và bước lên những bậc cầu thang dẫn tới hiên sau. Cô để anh ta ngồi trong phòng khách rồi trèo lên gác, đầu óc quay cuồng choáng váng, như thể cô đột nhiên nhận thấy mặt đất dưới chân mình quay tròn giữa không trung, khiến cả thế giới quanh cô đảo lộn bất chấp mọi nỗ lực giữ nó đứng yên. Cô thay đồ cho Phoebe và vã nước lên mặt mình, cố gắng trấn tĩnh lại.

Al ngồi bên chiếc bàn trong phòng ăn, mắt nhìn ra cửa sổ. Khi cô bước xuống cầu thang, anh ta quay lại, khuôn mặt nở bừng một nụ cười rạng rỡ. Anh ta dang tay ra đón ngay lấy Phoebe, kêu rằng con bé lớn nhanh quá, xinh xắn quá. Caroline thấy lòng tràn ngập niềm vui sướng, còn Phoebe, thích quá, cười khanh khách, những món tóc sẫm rủ xuống lòa xòa trên má. Al lần tay vào áo sơ mi và lôi ra một chiếc mề đay làm bằng nhựa trong, trên mặt khắc mấy chữ Grand Ole Opry[9] màu xanh ngọc mà anh đã giành được ở Nashville. Hãy đi với tôi, anh đã nói với cô như thế từ bao nhiêu tháng trước đây, vẻ nửa đùa nửa thật.

Và giờ thì anh ở đây, đã trải qua ngần ấy dặm đường để tìm ra cô.

Phoebe khẽ ậm ừ, đoạn giơ tay ra với. Đôi tay con bé cọ lên cổ Al, chỗ xương đòn, lên chiếc sơ mi kẻ ca rô sẫm màu của anh ta. Ban đầu, Caroline còn chưa định thần được chuyện gì đang xảy ra; nhưng đột nhiên, mọi thứ trở nên rõ ràng. Những lời Al nói nhòa đi, hòa lẫn tiếng chân Leo trên gác và tiếng xe cộ đi lại ồn ào ngoài phố, thành một chuỗi âm thanh mà mãi sau này Caroline vẫn còn ghi nhớ trong tâm khảm như những thanh âm của sự may mắn.

Phoebe đang cố với chiếc mề đay. Không chỉ đập tay trong không khí như sáng nay đã làm, nó lấy ngực Al làm chỗ tì, những ngón tay nhỏ bé cào cào chiếc mề đay vào lòng bàn tay cho tới khi nắm chắc mới thôi. Sung sướng trước thành công của mình, con bé cầm chiếc mề đay giật mạnh khiến sợi dây căng thẳng ra, làm Al phải đưa tay lên xoa vết xước trên cổ.

Caroline cũng chạm tay lên cổ, thấy người nóng ran lên vì vui sướng.

Ôi, phải rồi, cô tự nhủ. Nắm lấy, con yêu. Nắm lấy cả thế giới ấy.

------------------

[9] Grand Ole Opry : chương trình ca nhạc thuộc hãng phát thanh WSM ở Nashvile, Tennessee. Đây là chương trình phát thanh hàng tuần có tuổi đời lâu nhất ở Mỹ, bắt đầu từ tháng Mười năm 1925


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx