sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Con Gái Người Giữ Ký Ức - Chương 07-08

Chương 7Tháng Năm năm 1965

NORAH ĐI TRƯỚC ANH, DI CHUYỂN TỰA NHƯ MỘT VỆT ÁNH SÁNG, sắc trắng và xanh thoáng ẩn thoáng hiện giữa đám cây: vừa mới hiện ra, lát sau đã mất hút. David bước theo sau. thỉnh thoảng lại cúi xuống nhặt đá. Những hốc tinh sù sì, hóa thạch nổi trong từng phiến đá. Rồi cả trong một viên hình đầu mũi tên nữa. Anh cầm từng viên trong tay một lúc, thích thú với sức nặng và hình thù của chúng, với cảm giác mát lạnh đọng trên lòng bàn tay, sau đó mới nhét hết vào túi. Hồi anh còn bé, những chiếc kệ trong phòng anh lúc nào cũng bừa bộn đá, và tới tận bây giờ anh vẫn không cưỡng lại được những bí mật và khả năng của chúng, mặc dù cúi mình xuống giữa lúc Paul nằm trong túi địu tì sát vào ngực cùng chiếc máy ảnh cọ bên hông thật là bất tiện.

Phía xa, Norah đã dừng lại để vẫy anh, rồi dường như lại biến mất sau bức tường đá màu xám nhẵn nhụi. Có vài người khác, đầu đội mũ lưỡi trai màu xanh đồng bộ, bất thần ùa ra từ chính bức tường xám đó, người nọ nối sau người kia. David tiến lại gần hơn, anh nhận ra có một dải bậc thang dẫn lên chiếc cầu đá tự nhiên nằm khuất sau tầm mắt. Cậu đi cẩn thận đấy, một người phụ nữ đang đi xuống nhắc. Trên kia dốc không tưởng được đâu. Trơn nữa chứ. Rồi thở hổn hển không ra hơi, bà dừng lại và đưa tay áp lên tim.

Thấy mặt bà ta tái nhợt, hơi thở đứt quãng, David cũng dừng lại. “Kìa chị? Tôi là bác sĩ đây. Chị có sao không?”

“Đánh trống ngực thôi mà,” bà ta phẩy tay. “Tôi bị như thế từ lâu rồi.”

Anh đặt tay lên cổ tay mũm mỉm của bà để nghe mạch, mạch đập nhanh nhưng đều, rồi chậm lại dần theo từng nhịp đếm của anh. Đánh trống ngực: người ta hay dùng thuật ngữ này bừa bãi để chỉ mọi ca tim đập nhanh, nhưng bản thân anh ngay lập tức biết rằng bà ta không gặp vấn đề gì nghiêm trọng hết. Không giống như em gái anh, chỉ cần chạy từ đầu này qua đầu kia căn phòng là lại thở dốc và xây xẩm mặt mày đến độ bị ép phải ngồi xuống ngay. Bệnh tim, ông bác sĩ ở Morgantown đã nói vậy, và lắc đầu. Ông không nói rõ hơn, mà cũng chẳng còn quan trọng nữa, ông không thể làm gì hơn. Nhiều năm sau đó, khi đang học ở trường y, David vẫn còn nhớ những triệu chứng của em và cặm cụi đọc sách tới khuya để tự mình chẩn đoán bệnh trạng: hẹp động mạch chủ, hoặc dị tật van tim. Không rõ là cái nào đúng, nhưng June luôn cử động chậm chạp và thở rất khó nhọc, tình trạng của em càng ngày càng xấu đi theo thời gian, tới những tháng cuối đời thì làn da em chỉ còn màu tái nhợt xanh xao. Em yêu những con bướm, thích đứng quay mặt về phía mặt trời với đôi mắt nhắm nghiền, thích ăn mứt nhà làm phết trên bánh quy dẹt mẹ anh mua trên thị trấn. Lúc nào em cũng hát líu lo, hay khe khẽ ngâm nga những giai điệu mình tự nghĩ ra, mái tóc em có màu rất lợt, gần như bạc trắng, đúng ra là màu sữa bơ. Nhiều tháng trời sau khi em chết, anh vẫn hay choàng tỉnh dậy giữa lúc đêm khuya, tưởng như mình còn nghe thấy giọng nói khe khẽ của em, reo lên như gió qua những rặng thông.

“Chị nói chị bị thế này từ lâu rồi sao?” anh nghiêm giọng hỏi, đoạn buông tay bà ra.

“Ôi chao, bị suốt đấy,” bà ta đáp. “Các bác sĩ bảo với tôi là cũng không nghiêm trọng gì đâu. Chỉ hơi khó chịu thôi.”

“Chà, tôi nghĩ chị sẽ ổn thôi,” anh nói. “Nhưng đừng ép mình quá đấy.”

Bà ta cảm ơn anh, rồi xoa đầu Paul nói. Anh nhớ trông chừng cháu bé cẩn thận đấy. David gật đầu và dấn bước, một tay che đầu Paul và thận trọng leo lên giữa những bức tường đá ẩm ướt. Anh thấy trong lòng thư thái – thật dễ chịu khi giúp được những người đang gặp khó khăn, khi an ủi được họ - điều mà dường như anh không làm nổi cho những người mình yêu thương nhất. Paul khẽ đập tay lên ngực anh, rồi túm lấy chiếc phong bì anh nhét trong túi: lá thư của Caroline Gill, vừa được đưa tới văn phòng của anh sáng hôm đó. Anh chỉ mới đọc một lần, thật nhanh, rồi cất ngay đi vừa lúc Norah bước vào, cố giấu vẻ bối rối trên mặt. Chúng tôi vẫn khỏe, Phoebe và tôi, thư viết. Cho tới giờ, cảm ơn trời, tim con bé vẫn chưa có gì bất thường.

Anh nhẹ nhàng nắm lấy những ngón tay bé nhỏ của Paul. Con trai anh ngước lên, đôi mắt tròn xoe tò mò, anh bỗng cảm thấy trong lòng tràn ngập tình yêu thương vô bờ.

“Này,” David mỉm cười nói. “Bố yêu con lắm, cậu nhỏ ạ. Nhưng không được ăn cái đấy, nghe chưa?”

Paul nhìn anh với đôi mắt sẫm tròn xoe, rồi xoay đầu, áp má lên ngực David, tỏa ra làn hơi ấm sực. Thằng bé đội một cái mũ trắng thêu hình những chú vịt vàng óng do chính tay Norah làm trong những ngày lặng lẽ, thao thức sau tai nạn. Cứ mỗi con vịt hiện ra là David lại thấy nhẹ nhõm thêm chút ít. Khi rửa cuộn phim đã chụp hết trong chiếc máy ảnh mới, anh đã nhìn thấy nỗi đau của nàng, khoảng trống trong tim nàng: căn phòng nọ nối tiếp căn phòng kia nơi ngôi nhà cũ họ từng sống, thảy đều trống trơn, hình chụp cận cảnh những khung cửa sổ, cái bóng u buồn của tay vịn cầu thang, những ô gạch lát nền, xiên xẹo và vẹo vọ. Và cả vết chân của Norah, những dấu máu ngoằn ngoèo. Anh đã vứt hết cả mấy tấm hình đi, cùng với phim âm bản, tất cả, nhưng chúng vẫn ám ảnh anh. Và sợ rằng sẽ mãi như thế. Thật ra, anh đã nói dối; anh đã gửi con gái họ tới một nơi khác. Những hậu quả đau đớn sẽ còn theo mãi một sự thật tất yếu và đơn giản làm sao. Nhưng thời gian cũng trôi qua, tính đến nay đã gần ba tháng, và Norah dường như đã trở lại là chính mình. Nàng làm vườn, cười rộ lên mỗi khi nói chuyện với bạn bè trên điện thoại, hay nhấc bổng Paul khỏi xe cũi đẩy bằng đôi tay duyên dáng, mảnh mai của mình.

David ngắm nhìn nàng, và tự nhủ rằng nàng đang rất hạnh phúc.

Giờ những chú vịt vui vẻ đang nảy lên nảy xuống theo từng bước chân, rồi sáng bừng khi David nhô đầu khỏi lối cầu thang hẹp và bước lên cây cầu đá tự nhiên bắc ngang qua hẻm núi. Norah bận một chiếc quần sóoc vải bông chéo và áo không tay, nàng đứng giữa cầu, mũi đôi giày thể thao trắng nhô ra sát bờ đá. Từ từ, với sự khéo léo của một vũ công, Norah dang rộng hai tay và uốn cong lưng, mắt nhắm lại, như thể nàng đang hiến mình cho bầu trời.

“Norah!” anh kêu thất thanh. “Nguy hiểm lắm!”

Paul áp bàn tay bé xíu lên ngực David. A, thằng bé kêu lên ngay khi nghe David nói nguy hiểm, từ này được nó áp dụng cho ổ cắm điện, cầu thang, lò sưởi, ghế, và lần này là cho cái khoảng không hun hút ngay dưới chân mẹ nó.

“Đẹp quá!” Norah hét lên, rồi thả tay xuống. Nàng xoay người lại, khiến sỏi đá dưới chân trượt đi và văng ra khỏi gờ đá. “Anh lại đây mà xem!”

Anh thận trọng bước lên cầu và đến đứng bên nàng nơi gờ đá. Những hình thù nhỏ xíu di chuyển chậm chạp trên lối đi ở tít xa phía dưới, nơi một con sông cổ đã từng chảy qua. Lúc này những ngọn đồi đã thay da đổi thịt, tràn ngập nhựa sống mùa xuân, hàng trăm mảng màu lục khác nhau nổi bật trên nền trời xanh trong vắt. Anh hít vào một hơi thật dài, cố chống lại cảm giác chóng mặt, sợ hãi đến mức không dám liếc nhìn Norah. Anh đã muốn giải thoát cho nàng, muốn bảo vệ nàng khỏi mất mát và đớn đau; anh đã không hiểu được rằng nỗi mất mát sẽ bám theo nàng dai dẳng đến mãi mãi và nhào nặn cuộc đời nàng như một dòng nước. Chính bản thân anh cũng không lường trước được nỗi đau mà mình phải gánh chịu, nỗi đau đớn xoắn bện cùng những mối chỉ thảm đạm đã dệt nên quá khứ của anh. Khi anh mường tượng ra hình ảnh đứa con gái anh đã từ bỏ, anh nhìn thấy khuôn mặt em gái mình, mái tóc bợt bạt cùng nụ cười nghiêm nghị của em.

“Để anh chụp một tấm nhé,” anh nói, chầm chậm lùi về phía sau một bước, rồi lại một bước nữa. “Em ra đứng ở giữa cầu đi. Chỗ đấy ánh sáng đẹp hơn.”

“Đợi em chút nhé,” nàng đáp lại, tay chống lên hông. “Cảnh đẹp quá đi mất.”

“Norah,” anh nhắc. “Em đang làm anh lo đấy.”

“Ôi, David,” nàng nói, mặt hất lên nhưng vẫn không quay lại nhìn anh. “Sao lúc nào anh cũng lo lắng quá thế? Em không sao đâu mà.”

Anh không trả lời, cảm nhận rõ hai lá phổi của mình đang run lên, thấy nhịp thở sâu bên trong mình nhộn nhạo. Anh cũng có cảm giác như thế khi mở lá thư của Caroline, đề tên địa chỉ phòng khám cũ của anh bằng nét chữ gầy guộc của cô, bị che khuất phân nửa bởi một con tem chuyển tiếp. Trên thư đóng dấu bưu điện của Toledo, Ohio. Cô còn gửi kèm ba bức hình chụp Phoebe, một đứa trẻ sơ sinh mặc một chiếc váy hồng. Địa chỉ gửi trả thư là một hòm thư bưu điện, không phải ở Toledo mà là Cleveland. Cleveland, nơi anh chưa từng đặt chân đến, có vẻ chính là nơi Caroline đang sống cùng con gái anh.

“Mình đi khỏi đây đi em,” cuối cùng anh lại lên tiếng. “Để anh chụp cho em một tấm nhé.”

Nàng gật đầu, nhưng khi anh bước tới chỗ an toàn ở chính giữa cây cầu rồi quay lưng lại, Norah vẫn còn đứng sát mép cầu, mặt hướng về phía anh, hai cánh tay khoanh lại, miệng mỉm cười.

“Anh chụp luôn ở đây đi,” nàng nói. “Ngắm sao cho giống như em đang đi giữa không trung ấy nhé.”

David ngồi xổm xuống, xoay núm điều chỉnh của máy ảnh, hơi nóng bốc lên từ những mỏm đá vàng nhẵn nhụi. Paul oằn người đẩy anh và bắt đầu quấy nhặng lên. David sẽ nhớ mãi – tất cả những gì không thể thấy lại và không thể ghi lại – khi ảnh hiện lên dưới lớp nước rửa phim, dần thành hình. Anh căn khuôn hình Norah trong ống ngắm, gió luồn qua tóc nàng, làn da nàng rám nắng và săn chắc, anh tự hỏi không hiểu nàng có giấu anh điều gì không.

Không khí mùa xuân ấm áp, thoảng hương thơm dìu dịu. Họ cuốc bộ quay xuống, đi qua những cửa hàng cùng đám đỗ quyên tím ngắt và những cây nguyệt quế núi. Norah dẫn cả nhà tách khỏi đường cái và đi vào giữa đám cây cối, lần theo một con lạch nhỏ cho tới khi ra đến một khoảng đất ngập nắng mà nàng vẫn nhớ như in vì có rất nhiều dâu dại. Gió luồn nhè nhẹ qua hàng cỏ cao, những chiếc lá dâu dại xanh thẫm lấp lánh sát mặt đất. Không khí tràn ngập một mùi hương ngòn ngọt, tiếng côn trùng vo ve và hơi nóng.

Họ bày hết thức ăn cho buổi dã ngoại ra: pho mát và bánh quy giòn cùng mấy chùm nho. David ngồi trên tấm khăn trải, để đầu Paul tựa lên ngực mình trong khi anh cởi chiếc đai địu trẻ, đầu chợt mơ màng nghĩ tới cha mình, chắc nịch và khỏe mạnh, những ngón tay thô kệch nhưng khéo léo nắm trọn bàn tay David mỗi khi ông dạy anh cầm rìu, vắt sữa hay đóng đinh lên những tấm ván ốp bằng gỗ tuyết tùng. Đó chính là cha anh, người luôn nồng mùi mồ hôi và nhựa thông, thoảng hơi đất đen vùng mỏ nơi ông làm việc vào mùa đông. Ngay cả khi David vào trung học, mặc dù phải trọ lại trên thị trấn cả tuần để tiện đến trường, anh vẫn thích đi bộ về nhà mỗi cuối tuần để thấy cha mình đang đứng đó trên hiên nhà, miệng ngậm tẩu thuốc.

Nào, Paul kêu lên. Vừa được thả ra, cu cậu cởi phăng ngay một chiếc giày. Nó ngắm nghía chiếc giày chăm chú, rồi quăng xuống đất tức thì và bò về phía thảm cỏ bên ngoài tấm khăn trải. David ngắm thằng bé giật một nắm cỏ dại cho vào miệng, những đường nét nhỏ xíu trên khuôn mặt thoáng ngạc nhiên trước mùi vị của cỏ. Đột nhiên, David thấy cồn lên ước muốn bố anh vẫn còn sống để nhìn thấy con trai anh.

“Món này ghê quá hả?” anh dịu dàng nói, đoạn lau sạch mấy lá cỏ cùng nước dãi lem nhem trên cằm Paul. Norah lúi húi bên cạnh anh, lặng lẽ và nhanh nhẹn bày đồ bạc cùng khăn ăn ra. Anh vẫn quay mặt đi; anh không muốn nàng nhìn thấy mình đang xao động dữ dội đến thế. Anh rút trong túi ra một mẩu hốc tinh, Paul bèn giơ cả hai tay chộp lấy, xoay xoay nó trong tay.

“Lỡ thằng bé cho cục đá vào mồm thì sao?” Norah nói, đoạn ngồi xuống bên anh, gần đến mức anh có thể cảm thấy hơi ấm phả ra từ người nàng, mùi mồ hôi và xà phòng thơm tỏa ngập không gian.

“Chắc không đâu,” anh nói, lấy lại cục đá và đưa Paul một chiếc bành quy. Mẩu hốc tinh ấm và ướt. Anh giơ nó lên đập thật mạnh xuống đá, khối hốc tinh vỡ ra để lộ lớp nhân tím lấp lánh tựa pha lê.

“Đẹp quá,” Norah thì thầm, đảo nhẹ nắm vụn trong tay.

“Biển cổ đấy,” David nói. “Qua nhiều thế kỷ nước đọng lại bên trong và hóa thành những tinh thể.”

Cả nhà ăn uống uể oải, rồi cùng nhau đi nhặt dâu dại chín mềm đượm nắng mặt trời ấm áp. Paul vốc từng nắm cho vào mồm, nước dâu chảy dọc cổ tay thằng bé. Hai con diều hâu lừ đừ đảo qua đảo lại trên bầu trời xanh sâu thẳm. Ù ù, Paul vừa nói vừa giơ cánh tay mũm mỉm lên chỉ trỏ. Lát sau, thằng bé ngủ thiếp đi, Norah đặt cu cậu nằm trên khăn trải trong bóng râm bụi cỏ.

“Thích thật đấy,” Norah ngắm con, đoạn ngả lưng lên một tảng đá. “Chỉ có ba người chúng ta ngồi phơi nắng.”

Chân nàng đang để trần, anh đưa tay mát xa hai bàn chân nàng, những đốt xương mảnh ẩn dưới da thịt.

“Ôi,” nàng nhắm mắt lại nói, “dễ chịu thật đấy. Anh làm em ngủ mất thôi.”

“Cố thức đi em,” anh nói. “Nói cho anh nghe em đang nghĩ gì nào?”

“Em không biết nữa. Em chỉ đang nhớ đến cánh đồng nhỏ kế bên trang trại cừu. Hồi em và Bree còn nhỏ, bọn em vẫn hay ra đó chờ bố về. Bọn em hái được bao nhiêu là hoa dã quỳ với cà rốt dại. Ánh nắng khi ấy cũng y như lúc này – giống một cái ôm thật chặt ấy. Mẹ em mang hoa cắm vào lọ bày khắp nhà.”

“Dễ thương quá,” David nói, anh bỏ bàn chân của nàng ra và chuyển sang mát xa chân kia. Ngón tay cái của anh lướt nhẹ trên vết sẹo mảnh trắng nhợt mà vụn kính đèn flash để lại. “Anh thích tưởng tượng ra cảnh em đang ở đó.” Làn da của Norah thật mềm mại. Anh vẫn còn nhớ những ngày ngập nắng hồi anh còn nhỏ, trước khi bệnh tình của June xấu đi, khi ấy cả gia đình anh cùng đi đào sâm, một thứ cây mỏng manh giấu mình trong bóng râm giữa những tán cây. Bố mẹ anh đã gặp nhau trong những cuộc tìm kiếm như thế. Anh còn giữ tấm ảnh cưới của hai người, và đúng vào ngày Norah và anh làm lễ cưới, Norah đã tặng anh tấm ảnh được lồng trong khung gỗ sồi xinh xắn. Mẹ anh có làn da sáng và mái tóc dợn sóng, vòng eo thon nhỏ, và một nụ cười phảng phất. Bố anh có hàm râu rậm rạp, đứng ngay sau mẹ, chiếc mũ cầm trong tay. Sau đám cưới họ rời tòa án và chuyển tới sống trong căn nhà nhỏ bố anh dựng trên sườn núi nhìn ra những cánh đồng của họ. “Bố mẹ anh thích sống gần thiên nhiên,” anh nói thêm. “Mẹ anh trồng hoa ở khắp nơi. Bên bờ con suối chảy qua nhà anh còn có đám củ cải Ấn Độ mọc nữa.”

“Tiếc là em chưa bao giờ được gặp bố mẹ anh. Chắc hai người tự hào về anh lắm.”

“Anh không biết nữa. Chắc vậy. Bố mẹ mừng vì thấy cuộc sống của anh có vẻ dễ dàng hơn.”

“Mừng chứ,” nàng chầm chậm gật đầu, rồi mở mắt ra liếc nhìn Paul, thằng bé ngủ trông mới bình yên làm sao, những đốm nắng rớt nhẹ trên khuôn mặt nó. “Nhưng chắc cũng buồn nữa chứ? Tới lúc Paul lớn và chuyển tới nơi khác sống, có lẽ em sẽ cảm thấy thế.”

“Ừ,” anh gật đầu. “Đúng thế. Bố mẹ vừa tự hào lại vừa luyến tiếc nữa. Hai người không thích thành phố. Họ chỉ tới thăm anh có đúng một lần hồi anh ở Pittsburgh.” Anh vẫn còn nhớ cảnh bố mẹ anh ngồi ngượng nghịu trong căn phòng đơn của ký túc xá, mẹ anh giật thót người mỗi khi tiếng còi tàu rít lên. Hồi đó June vừa mới mất, và khi họ cùng ngồi nhấm nháp cà phê loãng bên chiếc bàn học ọp ẹp của anh, anh nhớ mình đã chua xót nghĩ rằng bố mẹ mình không còn biết nghĩ phải làm gì nữa khi không còn June trên đời để lo lắng săn sóc. Em đã là trung tâm trong cuộc sống của hai người suốt một thời gian rất dài. “Bố mẹ chỉ ở lại với anh có một đêm. Sau khi bố mất, mẹ anh đến sống với em gái bà ở Michigan. Bà không dám đi máy bay, mà cũng chưa bao giờ học lái xe. Sau lần đó, anh chỉ còn gặp bà có đúng một lần.”

“Thế thì buồn quá anh ạ,” Norah nói, vừa đưa tay phủi vết bẩn bám trên bắp chân.

“Ừ,” David nói. “Buồn lắm.” Anh nghĩ tới June, nghĩ tới mái tóc của em vàng rực lên dưới ánh nắng hè, mùi hương tỏa ra từ làn da em – mùi xà phòng, hơi ấm và cả hơi kim loại, như một đồng xu – tràn ngập trong gió mỗi khi hai anh em ngồi xổm cạnh nhau, cùng cầm gậy đào đất. Anh đã yêu em rất rất nhiều, cả tiếng cười trong trẻo của em. Và anh ghét phải về nhà để rồi nhìn thấy em nằm đờ ra trên chiếc đi văng kê ngoài hiên nhà những ngày nắng, khuôn mặt mẹ đầy âu lo khi bà ngồi sát bên cái thân hình loẻo khoẻo của đứa con gái, khe khẽ hát trong khi tẻ ngô và bóc vỏ đỗ.

David nhìn Paul, thằng bé nằm ngủ ngon lành trên tấm khăn trải, đầu ngoẹo sang một bên, những món tóc dài hơi xoăn rủ xuống cái cổ ẩm ướt. Ít nhất thì con trai anh cũng tránh được nỗi đau ấy. Paul sẽ không phải lớn lên mà phải chịu đựng nỗi đau mất đi đứa em gái của mình, như David đã phải chịu. Nó sẽ không bị buộc phải tự lo cho chính mình chỉ vì em gái nó không thể làm được điều đó.

Ý nghĩ đó, và tác động của nỗi chua xót kia, khiến David nghẹt thở. Anh rất muốn tin rằng mình đã đúng khi giao con gái cho Caroline Gill. Hoặc ít nhất anh cũng đã viện được những lý do đúng đắn. Nhưng hình như không phải thế. Hình như không phải Paul là người được anh bảo vệ trong cái đêm bão tuyết quay cuồng ấy, mà chỉ là một phiên bản thất lạc của chính bản thân anh mà thôi.

“Sao anh nhìn mông lung vậy,” Norah quan sát anh.

Anh xích lại gần nàng hơn, rồi cùng tựa lưng xuống phiến đá.

“Bố mẹ anh đã ấp ủ nhiều mơ ước về anh,” anh nói. “Nhưng những mơ ước đó lại không giống với mơ ước của chính anh.”

“Nghe giống em và mẹ em ấy,” Norah nói, rồi vòng tay quanh đầu gối. “Mẹ em nói tháng sau sẽ tới thăm chúng ta. Em nói với anh chưa nhỉ? Bà được bay miễn phí.”

“Thế chẳng phải tốt hay sao? Paul sẽ làm cho bà bận bịu luôn.”

Norah cười vang. “Phải thế không? Đấy là lý do chính cho chuyến đi của bà mà.”

“Norah, em mơ ước gì?” anh hỏi. “Em mơ ước gì cho Paul?”

Norah không trả lời ngay. “Em nghĩ chắc em mong con được hạnh phúc.” Cuối cùng nàng cũng cất lời. “Bất cứ điều gì khiến con hạnh phúc, em đều mong nó có được. Em không quan tâm đó là gì, miễn là con lớn lên trở thành người tốt và luôn thành thật với bản thân mình. Và rộng lượng, mạnh mẽ như bố nó nữa.”

“Không,” David nói, giọng không vui lắm. “Em sẽ không muốn con lại giống anh đâu.”

Nàng chăm chú nhìn anh, vẻ ngạc nhiên. “Sao lại không?”

Anh không trả lời. Ngập ngừng mất một lúc lâu, Norah mới tiếp lời.

“Có chuyện gì không ổn hả anh?” nàng hỏi, giọng không có vẻ gì công kích mà rất trầm ngâm, như thể khi nói ra nàng cũng đang cố gắng tìm ra câu trả lời. “Ý em là giữa hai chúng ta ấy, David à.”

Anh không trả lời, anh đang cố gắng kìm nén cơn giận đang đột ngột dâng lên. Tại sao nàng lại cứ khuấy tung mọi chuyện lên cơ chứ? Tại sao nàng không để quá khứ ngủ yên và tiếp tục cuộc sống của mình? Nhưng nàng đã lại nói tiếp.

“Mọi thứ đã không còn như cũ nữa kể từ ngày Paul ra đời và Phoebe chết. Còn anh thì vẫn không chịu đả động gì đến con bé cả. Cứ như là anh muốn xóa sạch cái thực tế là con bé đã từng tồn tại vậy.”

“Norah, em muốn anh nói gì đây? Tất nhiên là cuộc sống không thể giống như cũ được rồi.”

“Đừng cáu, David. Đấy chỉ là một kiểu đối phó tình huống thôi, phải không? Nếu thế em sẽ không nói gì liên quan đến con bé nữa. Nhưng em không rút lại đâu. Những gì em vừa nói là sự thật.”

Anh thở dài.

“Đừng làm hỏng ngày vui này, Norah,” cuối cùng anh nói.

“Em có làm gì đâu,” nàng nói, đoạn quay đi. Nàng nằm xuống tấm khăn trải và nhắm mắt lại. “Em hoàn toàn hài lòng về ngày hôm nay.”

Anh nhìn nàng một lúc, ánh nắng rực sáng trên mái tóc vàng của nàng, lồng ngực nàng nhô lên rồi hạ xuống nhịp nhàng theo từng hơi thở. Anh muốn lại gần và lần tay theo những đường cong tinh tế trên xương sườn nàng; anh muốn hôn lên những mấu khớp nơi các đốt xương gặp nhau rồi từ đó tỏa rộng ra như một đôi cánh.

“Norah,” anh nói. “Anh không biết phải làm sao. Anh không biết em muốn gì.”

“Không,” nàng đáp. “Anh không biết đâu.”

“Em có thể nói cho anh biết mà.”

“Em nghĩ em nói được. Có lẽ em sẽ nói. Họ có yêu nhau nhiều không?” đột nhiên nàng hỏi, ánh mắt vẫn không mở ra. Giọng nói của nàng vẫn dịu dàng và bình thản, nhưng anh cảm nhận được sự căng thẳng đang lan dần trong không gian. “Bố mẹ anh ấy?”

“Anh không biết nữa,” anh đáp chậm rãi, thận trọng, cố gắng xác định động cơ gì khiến nàng hỏi một câu như thế. “Họ yêu nhau. Nhưng bố anh thường xuyên phải đi xa. Anh cũng nói rồi đấy, cuộc sống của họ vất vả lắm.”

“Bố em yêu mẹ em nhiều hơn là bà yêu ông,” Norah nói, và David thấy một cảm giác bất an nhói lên trong tim mình. “Ông yêu bà, nhưng dường như ông không thể bộc lộ tình yêu của mình theo cách khiến bà hài lòng. Bà chỉ luôn nghĩ ông là một người lập dị, có phần hơi ngốc nghếch nữa. Trong nhà em thường im ắng lắm, càng lúc càng tĩnh lặng hơn… Mọi người cũng khá kiệm lời khi ở nhà nữa,” nàng nói thêm, và anh chợt nghĩ đến những buổi tối bình lặng của họ, đầu nàng cúi xuống trên chiếc mũ trắng với những chú vịt.

“Im lặng tích cực đấy chứ,” anh nói.

“Đôi lúc thôi.”

“Còn những lúc khác?”

“Em vẫn còn nghĩ về nó, David ạ,” nàng nói, đoạn xoay người sang và bắt gặp ánh nhìn chăm chú của anh. “Con gái của chúng ta ấy. Không hiểu trông nó như thế nào.”

Anh không trả lời, và khi anh nhìn, nàng lặng lẽ khóc, mặt vùi trong đôi bàn tay. Sau một lúc, anh ngồi sát lại và khẽ chạm tay vào nàng; nàng gạt nước mắt.

“Còn anh?” nàng gặng hỏi, giọng quyết liệt. “Chẳng lẽ anh chưa bao giờ thấy nhớ nó sao?”

“Có,” anh đáp thành thật. “Lúc nào anh cũng nghĩ đến con bé.”

Norah đặt bàn tay lên ngực anh, và rồi đôi môi nàng, thấm đỏ nước quả dâu dại, ép lên đôi môi anh, một thứ vị ngọt ngào đến nhói tim tựa như sự ham muốn lan tỏa trên đầu lưỡi anh. Anh thấy mình ngã xuống, ánh nắng chan hòa trên làn da anh, và bầu ngực nàng khẽ phập phồng như con chim nhỏ dưới tay anh. Nàng lần tìm cúc áo chiếc sơ mi anh đang mặc, tay chạm phải lá thư anh giấu trong túi áo.

Anh cởi sơ mi ra, nhưng ngay cả trong lúc ấy, khi anh vòng tay quanh người nàng lần nữa, trong đầu anh vẫn ong ong lên ý nghĩ, Anh yêu em, anh yêu em nhiều lắm, nhưng anh đã nói dối em. Và khoảng cách giữa hai người, ban đầu chỉ vài li thôi, ngắn như một hơi thở, dần rộng và sâu xuống, trở thành một cái hang lớn mà chính anh đang đứng chơi vơi trên mép. Anh vùng mình ra, lùi người lại dưới khoảng tranh tối tranh sáng, những đám mây vụt qua đầu anh rồi tản đi, và tảng đá được sưởi nắng ấm sực áp trên lưng anh.

“Sao vậy?” nàng hỏi, vuốt ve ngực anh. “Ôi, David, có chuyện gì vậy anh?”

“Không có gì.”

“David” nàng thì thào. “Ôi David. Đi mà anh.”

Anh ngập ngừng, gần như sắp sửa thú nhận tất cả mọi chuyện, nhưng rồi anh lại không thể nói ra nổi.

“Chuyện ở phòng khám ấy mà. Một bệnh nhân. Anh không thể gạt nó ra khỏi đầu được.”

“Kệ đi anh,” nàng nói. “Em phát ngán với công việc của anh rồi.”

Những con diều hâu tung cánh bay vút lên bầu trời cao, và ánh nắng ấm sực. Vạn vật xoay tròn, mỗi lần lại quay về với đúng điểm xuất phát. Anh phải nói cho nàng biết; những câu chữ đã ứ lên đầy lưỡi anh. Anh yêu em, anh yêu em nhiều lắm, nhưng anh đã nói dối em.

“Em muốn có thêm một đứa con nữa, David ạ.” Norah nói, nàng đang ngồi thẳng dậy. “Paul đã đủ lớn, còn em cũng đã sẵn sàng rồi.”

David sững sờ, mất một lúc lâu anh không nói năng gì.

“Paul mới có một tuổi thôi mà em,” cuối cùng anh cũng cất lời.

“Vậy thì sao? Người ta nói nên dồn tất cả việc khăn tã, chăm con vào làm luôn một thể, như thế thì sẽ dễ xoay sở hơn.”

“Ai nói cơ?”

Nàng thở dài. “Em biết là anh sẽ không đồng ý mà.”

“Không phải anh không đồng ý.” David thận trọng đáp.

Nàng không trả lời.

“Chỉ có điều tính như thế vẫn chưa đúng lúc lắm,” anh nói. “Vậy thôi.”

“Anh không đồng ý. Anh không đồng ý, nhưng anh không muốn thừa nhận.”

Anh lặng thinh, anh nhớ tới lúc Norah đứng sát rìa cây cầu. Nhớ cả những bức ảnh nàng chụp mấy thứ chẳng đâu vào đâu, và lá thư trong túi áo anh. Anh chẳng mong gì hơn là làm sao cho cái kết cấu mong manh của cuộc sống hiện tại được bảo vệ an toàn, để mọi thứ giữ nguyên như nó vốn thế. Mong sao cuộc đời đừng thay đổi, mong sao trạng thái cân bằng mong manh giữa bọn họ được bền vững dài lâu.

“Mọi chuyện lúc này đểu ổn cả,” anh dịu dàng nói. “Sao lại phải xáo trộn hả em?”

“Thế còn Paul thì sao?” Nàng gật đầu về phía thằng bé, nó vẫn đang ngủ ngon lành và bình yên trên tấm khăn trải. “Nó nhớ con bé.”

“Làm sao nó nhớ được,” David đốp lại bằng gọng gay gắt.

“Chín tháng,” Norah nói. “Cùng lớn lên bên nhau. Làm sao nó không nhớ cho được, dù chỉ chút gì thôi?”

“Chúng ta vẫn chưa sẵn sàng,” David nói. “Anh vẫn chưa sẵn sàng.”

“Đấy không chỉ là chuyện của riêng anh,” Norah nói. “Dù sao thì anh cũng có ở nhà mấy đâu. Có lẽ chỉ mình em nhớ con bé thôi, David ạ. Thật sự, nhiều lúc em có cảm giác con đang ở đâu đây rất gần, chỉ ngay ở phòng bên thôi, thế mà em đã quên mất nó. Em biết là chuyện đó nghe có vẻ điên rồ, nhưng đó hoàn toàn là sự thật.”

Anh không trả lời, mặc dù anh hiểu rất rõ nàng muốn nói gì. Bầu không khí đượm hương dâu. Ngày xưa mẹ anh rất hay đun mứt dâu trên chiếc bếp lò xây ngoài sân, bà khuấy đều hỗn hợp sủi đầy bọt khi dâu tan dần thành nước xi rô, tráng bình thủy tinh bằng nước sôi rồi xếp kín những bình lấp lánh như đá quý lên giá. Anh và June được ăn mứt ngay giữa mùa đông, hai anh em múc vụng hàng thìa mứt đầy mỗi lần mẹ không để ý rồi nấp dưới tấm vải dầu trải bàn để liếm cho kỳ sạch mới thôi. Cái chết của June đã khiến mẹ anh hoàn toàn suy sụp, và David không còn tin tưởng mình có thể thoát khỏi bàn tay của bất hạnh nữa. Về mặt thống kê mà nói, họ khó có thể có thêm đứa con nữa cũng bị mắc bệnh Down, nhưng dù gì chuyện đó vẫn có khả năng xảy ra, bất kỳ chuyện gì cũng có thể xảy ra; và anh không thể mạo hiểm được.

“Nhưng có thể một đứa con nữa cũng chẳng giúp giải quyết được mọi chuyện đâu, Norah. Đấy không phải là lý do đúng đắn.”

Sau một hồi lặng thinh nàng đứng dậy, phủi sạch quần soóc rồi vùng vằng đi xuyên qua đồng cỏ.

Chiếc áo sơ mi của anh nằm nhàu nhĩ ngay bên cạnh, mép phong bì trắng tinh hơi nhô ra. David không cầm lên, không cần thiết nữa rồi. Bức thư rất ngắn, và dù mới chỉ nhìn qua mấy tấm ảnh có một lần, anh vẫn thấy chúng hiện lên rõ ràng như thế chính tay mình đã chụp. Mái tóc của Phoebe sẫm và dày, giống hệt Paul. Đôi mắt con bé màu nâu, và nó giơ cả hai nắm tay mũm mĩm lên huơ huơ trong không khí, dường như đang cố với vật gì đó nằm ngoài khuôn hình của máy ảnh. Có lẽ Caroline đang giữ máy ảnh. Anh đã thoáng thấy bóng cô trong buổi lễ tưởng niệm, cái dáng dong dỏng cao và đầy cô độc trong chiếc áo choàng đỏ, ngay sau đó anh đã tìm đến căn hộ nơi cô sống, không rõ mình đến vì mục đích gì, chỉ biết là phải gặp cô. Nhưng khi đó Caroline đã đi rồi. Căn hộ của cô vẫn y nguyên như cũ, với những đồ đạc thấp bè và bức tưởng giản dị; cái vòi nước nhỏ từng giọt tí tách trong phòng tắm. Chỉ có điều không gian quá tĩnh lặng, các giá sách đều trống trơn. Ngăn kéo bàn và tủ quần áo không còn lại thứ gì. Trong bếp, ánh sáng nhờ nhờ hắt xuống tấm vải sơn lót màu đen trắng. David đứng im lặng, chỉ còn nghe thấy tiếng tim mình đập từng hồi bồn chồn.

Lúc này anh nằm dài, từng cụm mây trôi lững lờ trên đầu, nắng gắt rồi lại râm mát. Anh đã không cố tìm Caroline, và vì lá thư của cô cũng không đề địa chỉ trả lại, nên anh cũng không biết phải bắt đầu từ đâu. Con bé nằm trong tay cô đấy, anh đã nói vậy. Nhưng anh lại thấy xúc động mạnh trong chính những khoảnh khắc lạ thường: khi anh ngồi một mình trong văn phòng mới; hay khi đang rửa ảnh, ngắm nhìn hình ảnh hiện lên đầy bí ẩn trên mặt giấy trắng trơn, hay nằm dài trên mặt đá ấm áp trong khi Norah, tự ái và giận dữ, vùng vằng bỏ đi.

Anh mệt nhoài, và thấy mình chìm dần vào giấc ngủ. Côn trùng kêu vo vo dưới nắng, anh thoáng lo về sự xuất hiện của lũ ong. Những viên đá nằm trong túi quần ép sát lên chân anh. Nhớ những đêm hồi còn nhỏ, nhiều lúc anh thấy bố ngồi trên chiếc ghế đu nơi hiên nhà, những hàng dương điểm đầy những đốm sáng lấp lánh sinh động của đom đóm. Chính trong một đêm như thế, bố anh đã đưa cho anh một viên đá tròn nhẵn, một viên đá hình đầu rìu ông tìm thấy lúc đào mương. Phải đến hơn hai ngàn năm tuổi rồi đấy, ông nói. Thử tưởng tượng mà xem, David. Nó đã từng nằm trong những bàn tay khác, từ thuở xa xưa cách đây lâu lắm rồi, nhưng cũng vẫn dưới ánh trăng ấy mà thôi.

Lần đấy là một. Còn có những lần khác khi hai bố con đi bắt rắn chuông. Từ lúc nhá nhem tối cho tới khi bình minh lên, họ luồn lách trong rừng, vai vác chạc cây, túi vải cùng một chiếc hộp kim loại đeo lủng lẳng trên tay David.

Đối với David, trong những ngày như thế, thời gian như ngừng lại, mặt trời tỏa sáng vĩnh hằng trên cao và từng đám lá khô chuyển mình dưới chân anh. Thế giới thu lại chỉ còn mình anh, bố anh cùng lũ rắn, rồi lại trải rộng ra, bầu trời cao và rộng thêm mãi, xanh thăm thẳm hơn sau mỗi bước đi, và vạn vật bỗng chậm hẳn lại đúng giây phút anh nhận thấy có vật gì đó chuyển động giữa những màu sắc của đám đất bẩn và lá khô, đó là những mảng màu hình thoi mà mắt người chỉ nhìn thấy được khi con rắn bắt đầu chuyển mình. Bố anh đã dạy anh cách đứng bất động, quan sát cặp mắt vàng khè, cái lưỡi liên tục thè ra rồi thụt vào. Sau mỗi lần lột xác, cái đuôi chuông lại dài thêm ra một chút, vì vậy căn cứ vào tiếng đuôi rung giữa khu rừng im ắng người ta có thể đoán được tuổi của con rắn, kích thước của nó và số tiền nó có thể mang lại. Với những con lớn nhất, vẫn được các sở thú và các nhà khoa học, đôi khi là dân buôn rắn thèm muốn, họ có thể kiếm được năm đô mỗi con.

Ánh nắng xuyên qua những tán cây hắt lên nền đất rừng những đốm sáng, gió thổi vi vu. Rồi bỗng có tiếng đuôi rắn rung lên, cái đầu rắn ló ra, và cánh tay của bố anh, mạnh mẽ và vững chãi, phóng cành chạc xuống kìm chặt cổ con rắn. Những cái nanh nhô dài ra, sục thẳng vào lớp đất ẩm, tiếng đuôi con rắn rung lên càng thêm điên dại và cuồng giận. Bằng hai ngón tay cực khỏe, bố anh kẹp chặt hai bên mép con rắn đang ngoác ra hết cỡ và nhấc con vật lên: nó lạnh, khô, thân mình oằn oại như một ngọn roi da. Ông thả con rắn vào chiếc túi vải và thít chặt miệng túi, cái túi đã trở thành một vật thể sống, ngọ nguậy trên mặt đât. Bố anh quẳng nó vào chiếc hộp kim loại và sập nắp lại. Không nói với nhau câu nào, hai bố con lại đi tiếp, trong đầu nhẩm tính món tiền kiếm được từ lũ rắn. Vào mùa hè và cuối thu, có những tuần hai người kiếm được tới hai lăm đô bằng cách này. Tiền này dùng để mua thực phẩm; những lần họ tới phòng khám ở Morgantown, phí khám bệnh cũng trả bằng tiền đó.

David!

Tiếng Norah gọi vẳng đến tai anh mơ hồ, gấp gáp, xuyên qua quá khứ xa xăm, qua cánh rừng và vọng đến hiện tại. Anh chống khủy tay nhổm dậy, nhìn thấy nàng đang đứng bên rìa cánh đồng dâu tây chín ở tít phía xa, vẻ mặt sững sờ bởi vật gì đó dưới đất. Anh bỗng thấy adrenaline trào lên cùng nỗi sợ hãi. Rắn đuôi chuông rất thích những thân cây ngoài nắng giống khúc gỗ kề bên chỗ nàng đứng; chúng thường đẻ trứng trong lớp gỗ mục màu mỡ. Anh liếc nhìn Paul, thằng bé đang ngủ ngon lành dưới bóng râm, rồi anh bật dậy chạy như điên, lá kế dại cào xước mắt cá chân anh, dâu tây bị giẫm nát kêu lép bép dưới chân, anh đã thọc tay sẵn vào túi quần và nắm chặt cục đá to nhất. Khi đã chạy tới đủ gần để thoáng thấy dải màu đen thẫm của con rắn, anh thu hết sức ném mạnh cục đá. Viên đá nhờ nhờ chậm rãi xẻ một đường vòng cung trên không trung rồi chuyển hướng. Nó rơi xuống cách chỗ con rắn chừng mười lăm phân và vỡ tan, nhân đá tím ngắt một màu sinh động và lấp lánh.

“Anh làm gì vậy?” Norah kêu lên.

Anh đã chạy tới nơi nàng đứng. Vừa thở hổn hển, anh vừa cúi xuống nhìn. Không phải rắn, chỉ là một cành cây sẫm màu nằm trên khúc gỗ vỏ khô sần.

“Anh tưởng em đang gọi anh,” anh nói, vẻ bối rối.

“Phải.” Nàng giơ tay chỉ một cụm hoa màu phơn phớt nằm ngay ngoài rìa bóng râm. “Củ cải Ấn Độ kìa. Giống hoa mẹ anh trồng hồi xưa ấy. David, anh làm em sợ quá.”

“Anh tưởng đấy là rắn,” anh nói, đoạn ra dấu về phía cành cây, lắc lắc đầu lần nữa để cố rũ sạch hình ảnh quá khứ. “Rắn đuôi chuông. Chắc tại anh nằm mơ. Anh cứ nghĩ em đang kêu cứu.”

Trông nàng có vẻ hoang mang. Anh lại lắc đầy để xua tan giấc mơ. Thốt nhiên anh thấy mình ngớ ngẩn khủng khiếp. Cành cây chỉ là cành cây thôi, còn sao nữa. Một ngày dường như bình thường đến lố bịch. Chim chóc hót ríu rít, và lá trên cây lại khẽ xào xạc.

“Sao anh lại mơ thấy rắn?” nàng hỏi.

“Anh từng phải bắt rắn,” anh đáp. “Để bán lấy tiền.”

“Bán lấy tiền?” nàng lặp lại, vẻ khó hiểu. “Tiền để làm gì?”

Khoảng cách giữa hai người lại rộng ra, cái vực thẳm của quá khứ mà anh không thể nào vượt qua. Tiền mua thức ăn, tiền cho những chuyến đi lên thị trấn. Nàng đến từ một thế giới khác, làm sao nàng hiểu được.

“Chúng giúp anh có tiền đi học, những con rắn ấy.” anh đáp.

Nàng gật đầu, dường như còn muốn hỏi thêm điều gì, nhưng lại thôi.

“Mình về đi anh,” nàng nói, tay xoa xoa vai. “Đi đón Paul rồi về nhà thôi.”

Họ đi qua cánh đồng, trở lại bãi cỏ và gói ghém các thứ. Norah bế Paul; còn anh xách chiếc giỏ đựng đồ dã ngoại.

* * *

Họ bước đi, David chợt nhớ tới lúc bố anh đứng giữa phòng khám của ông bác sĩ, những tờ giấy bạc xanh rơi như lá bay xuống mặt quầy thu ngân. Cứ mỗi tờ rơi xuống, David lại nhớ đến những con rắn, đuôi rung lên và cái mồm há ra thành hình chữ V trong vô vọng, lớp da mát lạnh dưới từng ngón tay anh, và sức nặng của chúng. Tiền bán rắn. Anh chỉ là một cậu bé, tám hay chín tuổi, và đó là điều duy nhất anh có thể làm được.

Việc đó và bảo vệ June. Con trông em nhé, mẹ anh hay nhỏm đầu lên khỏi lò nướng và nhắc anh. Con cho gà ăn rồi dọn chuồng gà và nhổ cỏ ngoài vườn nhé. Và nhớ trông June nữa.

David đã làm theo lời mẹ dặn, dù không được tốt lắm. Anh trông chừng June nhưng không ngăn em bới đất cát và bôi lên đầy tóc. Anh không dỗ dành khi em vấp phải đá và ngã lăn ra, khuỷu tay xây xát hết cả. Tình yêu anh dành cho em gái xoắn chặt cùng nỗi oán giận, đến độ anh không thể điều hòa nổi hai thứ tình cảm đó. Lúc nào em cũng ốm đau, vì trái tim yếu ớt và vì những trận cảm lạnh mùa nào cũng hành hạ em, khiến em thở khò khè hổn hển suốt. Nhưng khi anh bước trên con đường từ trường về nhà, mấy tập sách lủng lẳng đeo trên lưng, chính June luôn là người đứng chờ anh, là June luôn nhìn anh và hiểu hôm ấy anh vui hay buồn, là người luôn muốn biết mọi chuyện đã xảy ra. Ngón tay em nhỏ nhắn, em thích vỗ nhẹ lên người anh, hơi gió khẽ lay động mái tóc dài lơ thơ.

Cho đến một ngày cuối tuần anh rời trường về nhà thì thấy căn nhà vắng tanh, lặng như tờ, tấm khăn kỳ lưng vắt vẻo trên thành bồn tắm và không khí xông lên lạnh buốt. Anh ngồi bệt trên hiên nhà, đói và lạnh, chờ đợi. Rất lâu sau đó, khi trời đã nhá nhem, anh thấy mẹ đi từ trên đồi xuống, hai tay khoanh lại. Bà không nói năng gì cho tới khi bước lên bậc thang. Sau đó bà ngước nhìn anh và nói, David, em con mất rồi. June mất rồi. Mái tóc mẹ buộc túm chặt phía sau gáy, tĩnh mạch trên thái dương bà giần giật và đôi mắt bà đỏ hoe vì khóc. Bà mặc chiếc áo len xám mỏng manh bó sát, và bà nói, David, con bé đi rồi. Khi anh đứng dậy và ôm lấy bà, bà khuỵu xuống, khóc òa lên, và anh hỏi, Khi nào cơ, bà đáp, ba hôm trước, thứ Ba, lúc đấy mới sáng sớm và mẹ ra ngoài để lấy nước, đến khi mẹ quay về nhà im ắng lắm nên mẹ biết ngay. Con bé đi rồi. Ngừng thở rồi. Anh ôm mẹ, và không còn nghĩ được phải nói gì nữa. Nỗi đau mà anh cảm nhận được nằm trong tận cùng tâm can anh, và trên tất cả là cảm giác tê dại khiến anh không thể khóc nổi. Anh choàng một tấm chăn lên vai mẹ. Anh pha cho bà một tách trà rồi ra chuồng gà, thấy có nhiều trứng bà vẫn chưa nhặt, và anh gom hết. Anh cho gà ăn và vắt sữa bò. Anh làm tất cả những công việc bình thường ấy, nhưng khi anh bước vào, căn nhà vẫn âm u, không khí im ắng, và June đã không còn.

Davey, rất lâu sau đó, mẹ anh mới cất tiếng gọi, từ cái góc tối tăm nơi bà đang ngồi, Con hãy trở lại trường đi. Cố mà học cái gì đó có ích cho đời. Nghe câu ấy, anh cảm thấy giận sôi gan; anh muốn cuộc đời của anh chỉ thuộc về chính anh, không còn bị vướng bận bởi những đau buồn, mất mát này. Anh cảm thấy có lỗi bởi June đang nằm dưới ba tấc đất còn anh vẫn đứng đây; anh vẫn còn sống, không khí vẫn chảy vào rồi chảy ra từ buồng phổi của anh; và anh cảm nhận được nó, và cả nhịp đập của trái tim anh. Con sẽ trở thành bác sĩ, anh nói, mẹ anh không nói gì, nhưng một lúc sau bà gật đầu và đứng dậy, kéo cánh áo len sát vào người thêm. Davey, mẹ muốn con cầm quyển Kinh Thánh ra đây, lên đây với mẹ rồi thề đi. Mẹ muốn con tuyên bố chính thức, và thật rõ ràng. Rồi hai mẹ con cùng leo lên sườn đồi. Khi họ đến nơi thì trời đã tối, đứng dưới rặng thông lao xao gió reo, bên ánh sáng lập lòe của cây đèn dầu, anh đọc to, Chúa là người dẫn dắt con. Mình không muốn. Nhưng mình muốn, anh thầm nghĩ, trong khi miệng vẫn đọc. Con muốn.Mẹ anh khóc nấc lên và họ lặng lẽ xuôi theo triền đồi trở về nhà, ở đó anh đã viết cho bố một bức thư để báo tin. Anh gửi đi ngay thứ Hai, ngày anh trở lại với thị trấn, với sự ồn ã và những ánh đèn rực rỡ. Anh đứng phía sau chiếc quầy đóng bằng gỗ sồi đã bị mài mòn đến nhẵn thín sau bao năm dãi dầu, và bỏ bức thư trắng giản dị vào hòm.

* * *

Khi họ về tới nơi đỗ xe, Norah dừng lại để ngó xuống bờ vai đã ửng hồng vì nắng. Nàng đang đeo kính mát, nên lúc nàng ngước lên nhìn anh, anh không nhận biết được thái độ của nàng khi ấy ra sao.

“Anh không phải cố tỏ ra mình là người hùng như thế đâu,” nàng nói. Những từ nàng nói ra thẳng đuột và rành rọt, anh có thể nói ngay là nàng đã suy nghĩ kỹ, có lẽ là tự nhẩm trước trên suốt quãng đường về.

“Anh không cố tỏ ra anh hùng.”

“Không à?” Nàng quay mặt đi. “Em nghĩ là có đấy,” nàng nói. “Cũng là lỗi tại em. Trong suốt thời gian dài em đã mong có người giải thoát cho mình, em nhận ra thế. Nhưng giờ thì không cần nữa. Anh không cần phải bảo vệ em mọi lúc mọi nơi nữa. Em ghét lắm.”

Rồi nàng ngồi vào xe và quay mặt đi. Dưới những vệt nắng lấp lóa, bàn tay Paul giơ lên với tóc nàng, và David bỗng cảm thấy nỗi sợ hãi đến chếnh choáng dâng lên, anh không biết là vì đâu; anh biết, nhưng không thể khống chế được nó. Và cả giận dữ: đột nhiên anh thấy cơn giận bùng lên. Giận chính mình, giận cả Caroline, cô đã không làm theo những gì anh yêu cầu, cô đã khiến tình hình vốn đã bi đát trở nên tồi tệ hơn. Norah ngồi phịch xuống ghế trước và đóng sầm cửa lại. Anh thọc tay vào túi để lấy chìa khóa nhưng thay vì thế, anh lại lôi ra khối hốc tinh cuối cùng còn sót lại, một cục đá xám trơn nhẵn, hình cầu. Anh nắm chặt cục đá đang ấm dần lên trong lòng bàn tay, nghĩ đến tất cả những bí mật mà thế giới đang chứa trong nó: những tầng đá, ẩn sâu dưới lớp đất thịt và cỏ dại; những cục đá vô tri ấy, và trái tim lấp lánh ẩn giấu bên trong nó.

Chương 8Tháng Năm Năm 1970

ChÁU BỊ DỊ ỨNG ONG,” NORAH NÓI VỚI CÔ GIÁO TRONG KHI vẫn quan sát Paul chạy trên lớp cỏ mới mọc phủ kín sân chơi. Thằng bé leo lên đỉnh cầu trượt rồi ngồi xuống một lúc, hai tay áo trắng ngắn ngủn bay phấp phới trong gió, và nó trượt xuống, vừa chạm đất đã nhảy lên, mặt mày hớn hở. Hoa đỗ quyên đang đến độ nở rộ, và không khí, ấm áp như làn da, rộn lên tiếng côn trùng, chim chóc. “Bố cháu cũng bị dị ứng như thế. Bệnh nặng lắm.”

“Chị đừng lo,” cô Throckmorton đáp. “Chúng tôi sẽ để ý cháu cẩn thận.”

Cô Throckmorton vẫn còn trẻ măng, chỉ vừa ra trường, mái tóc sẫm màu xoăn tít tràn đầy sức sống. Cô mặc một chiếc váy dài và đi đôi xăng đan bệt chắc chắn, đôi mắt cô không phút nào rời đám trẻ đang chơi đùa trên sân. Ở cô toát lên sự điềm tĩnh, năng lực, sự chuyên chú và lòng nhân hậu. Tuy vậy, Norah vẫn không hoàn toàn tin rằng cô hiểu rõ việc mình đang làm.

“Có lần thằng bé nhặt được một con ong,” nàng tiếp, “một con ong chết rồi; tức là, con ong đấy rơi ngay trên bậu cửa sổ. Chỉ vài giây sai, mình mẩy nó đã sưng vù lên như trái bóng rồi.”

“Chị Henry, chị đừng lo,” cô Throckmorton lại nói, giọng có vẻ thiếu kiên nhẫn. Đoạn cô xoay người bước đi, giọng nói trong trẻo của cô nghe thật điềm tĩnh, như tiếng chuông rung, cô phải ra giúp một bé gái bị cát bay vào mắt.

Norah đứng nán lại một chút dưới ánh nắng xuân, ngắm nhìn Paul. Thằng bé đang chơi đuổi bắt, hai má đỏ ửng lên, vừa chạy hai tay vừa buông thõng xuống hai bên sườn – hồi mới sinh, nó cũng ngủ trong tư thế ấy. Tóc thằng bé màu sẫm, còn lại thì đều giống Norah, ai cũng nói vậy, cả đường nét khuôn mặt lẫn nước da sáng. Nàng nhìn thấy chính mình trong hình ảnh thằng bé, điều đó đúng, cả những đặc điểm của David nữa, từ khuôn xương hàm của Paul đến hai vành tai, cung cách thằng bé hay đứng, vừa khoanh hai tay lại, vừa lắng nghe lời cô giáo nói. Nhưng về cơ bản Paul vẫn là chính mình. Nó yêu âm nhạc và suốt ngày ngâm nga những bài hát nó tự nghĩ ra. Mặc dù mới lên sáu, thằng bé đã giữ chân hát sô lô ở trường, nó bước lên phía trước với vẻ ngây thơ và tự tin khiến Norah phải sửng sốt, giọng hát ngọt ngào của nó vút lên giữa khán phòng trong trẻo và du dương tựa làn suối reo.

Giờ nó đang ngồi xổm cạnh một thằng bé khác, cu cậu này đang cầm que khều lá rơi trong vũng nước đen ngòm. Đầu gối bên phải của thằng bé bị trầy da, mảnh băng gạc bị xô lệch. Ánh nắng nhảy nhót trên mái tóc sẫm ngắn ngủn. Norah ngắm con, thằng bé đang cực kỳ chăm chú và hoàn toàn mê mải với công việc của mình, nàng bỗng choáng ngợp bởi sự tồn tại quá ư giản dị của thằng bé. Paul, con trai nàng. Ở đây, trong thế giới này.

“Norah Henry! Đúng là người tôi cần gặp đây rồi.”

Nàng quay lại và thấy Kay Marshall, mặc chiếc quần ôm màu hồng cùng chiếc áo len màu hồng kem, đi đôi giày da đế bệt màu vàng đồng, đeo hoa tay vàng lấp lánh. Cô ta đang đẩy chiếc xe nôi đan bằng liễu gai kiểu cổ trong đó chở đứa nhỏ mới sinh trong khi cô con gái lớn, Elizabeth bước sóng đôi bên mẹ. Elizabeth sinh sau Paul một tuần, vào đúng độ xuân bất ngờ ùa về ngay sau con bão tuyết bất thường năm ấy. Sáng nay cô bé mặc một chiếc váy hồng chấm bi và đi đôi giày da trắng đóng khéo léo. Cô bé nôn nóng dứt khỏi Kay rồi chạy vù qua sân chơi tới chỗ mấy chiếc xích đu.

“Trời đẹp quá,” Kay vừa nhìn theo con gái vừa nói. “Chị khỏe không, Norah?”

“Tôi khỏe,” Norah nói, cố gắng kìm nén ước muốn chạm vào mái tóc cô ta, nàng cũng ý thức rõ ràng về chiếc áo trắng giản dị và cái váy xanh mình đang mặc, cùng cách phục sức đi kèm rất ít đồ nữ trang. Dù Norah nhìn thấy cô ta trong thời điểm nào hoặc ở bất cứ đâu, Kay Marshall vẫn luôn như vậy: điềm tĩnh và thảnh thơi, chỉn chu tới từng chi tiết, những đứa con của cô ta luôn ăn mặc cực kỳ gọn gàng và cư xử rất lễ độ. Kay là hình mẫu bà mẹ mà Norah vẫn luôn hướng đến, một bà mẹ có thể xử lý mọi tình huống bằng vẻ bình tĩnh tự nhiên và phong thái ung dung. Norah ngưỡng mộ cô ta, và cả ghen tỵ nữa. Thậm chí đôi khi nàng bất chợt nghĩ giá như mình có thể được như Kay, giá như nàng trầm tĩnh hơn, bớt lo âu đi, biết đâu cuộc hôn nhân của nàng đã khá hơn; biết đâu nàng và David đã hạnh phúc hơn.

“Tôi khỏe,” nàng lặp lại, mắt nhìn xuống đứa bé đang giương đôi mắt to tròn lên nhìn nàng đầy vẻ tò mò. “Xem Angela lớn chưa kìa!”

Rồi Norah hấp tấp cúi xuống và bế con bé lên, đứa con gái thứ hai của Kay, cũng mặc đồ hồng phớt giống chị nó. Thân hình con bé nhẹ và ấm trong vòng tay Norah, nó vỗ bàn tay nhỏ lên má Norah rồi cười khanh khách. Norah cảm thấy khoan khoái vô cùng, nàng nhớ hồi bằng này tuổi Paul cũng như thế, nhớ mùi hương xà phòng và sữa tỏa ra từ thằng bé, làn da mềm mại của nó. Nàng đưa mắt nhìn khắp sân; thằng bé lại đang chạy, nó đang chơi đuổi bắt. Giờ nó đã đi học, có cuộc sống riêng. Nó không thích ngồi ôm mẹ nữa chỉ trừ lúc ốm hay khi muốn nài mẹ kể chuyện trước khi đi ngủ. Có lẽ không bao giờ nó có thể bé lại được như xưa nữa, không bao giờ nó trở lại thành thằng bé ngồi trên chiếc xe đạp ba bánh màu đỏ, tay cầm que vừa khua khoắng các vũng nước vừa hát véo von nữa.

“Tính đến hôm nay là con bé tròn mười tháng tuổi rồi đấy,” Kay nói. “Chị tin nổi không?”

“Không,” Norah đáp. “Thời gian trôi nhanh quá.”

“Chị đã đi qua trường chưa?” Kay hỏi. “Chị có biết chuyện vừa xảy ra không?”

Norah gật đầu. “Đêm qua Bree đã gọi cho tôi.” Nàng đã đứng sững người, một tay cầm ống nghe còn tay kia đặt trên ngực, mắt theo dõi cái tin rợn người qua TV: bốn sinh viên bị bắn chết tại Kent State: Ngay tại Lexington, tình hình căng thẳng đã bao trùm khắp nơi suốt nhiều tuần lễ, báo chí tràn ngập tin tức về chiến tranh, những cuộc biểu tình lẫn bạo động, cả thế giới biến loạn và đổi thay.

“Đáng sợ quá,” Kay nói, nhưng giọng vẫn nhẹ nhàng, có vẻ bất bình hơn là lo lắng, đúng chất giọng mà có lẽ cô ta sẽ dùng khi nói về vụ ly dị của ai đó. Cô ta đỡ lấy Angela, hôn lên trán con, rồi dịu dàng đặt nó xuống xe nôi.

“Tôi biết,” Norah tán thành. Nàng cũng nói với tông giọng y như vậy, nhưng đối với nàng cảm giác âu lo dường như là thứ gì đó rất đỗi riêng tư, nó phản chiếu những gì đã giày vò trái tim nàng trong suốt bao năm trời. Trong một tích tắc nàng bỗng thấy nhói lên lòng ghen tị sâu cay. Kay sống vô tư lự, không biết đến mất mát, và tin tưởng rằng mình sẽ luôn được bình an; còn thế giới của Norah đã thay đổi kể từ khi Phoebe chết. Tất cả niềm vui của nàng giờ chỉ còn là những phút giải khuây nhạt nhẽo – bởi nỗi mất mát ấy và mối lo sợ về những mất mát tiếp theo mà nàng nhìn thấy trong từng khoảnh khắc. David luôn khuyên nàng thả lỏng, khuyên nàng tìm kiếm sự giúp đỡ, khuyên nàng không nên tự ép bản thân mình quá mức. Anh giận dữ với những dự án, hội nhóm, kế hoạch của nàng. Nhưng Norah không thể nào ngồi yên một chỗ được; như thế khiến nàng cảm thấy bất an. Vì thế nàng sắp xếp các cuộc hội họp và lấp kín lịch các ngày, trong đầu luôn thường trực một ý nghĩ đen tối là nếu nàng lơ là cảnh giác, dù chỉ là một khoảnh khắc, tai họa sẽ ập đến. Cảm giác này trở nên tệ hại nhất vào tầm sáng muộn; thời điểm ấy hầu như khi nào nàng cũng uống nhanh một ly rượu – rượu gin, đôi khi là vodka – để xoa dịu bản thân cho tới chiều. Nàng yêu cái cảm giác thanh thản, lan tỏa khắp người như ánh sáng. Nàng đã giấu rất kỹ mấy cái chai để David khỏi nhìn thấy.

“À,” Kay nói. “Tôi muốn báo lại về việc dự bữa tiệc của chị ấy. Chúng tôi sẽ tới, nhưng chắc hơi muộn một chút. Tôi mang gì được đây?”

“Chỉ đi người không là được,” Norah đáp. “Hầu như mọi thứ đều đã sẵn sàng hết rồi. Có điều tôi còn phải về nhà dỡ một cái tổ ong nữa.”

Đôi mắt Kay hơi trố ra. Cô ta sinh ra trong một gia đình giàu có lâu đời ở Lexington và có “gia nhân”, đấy là theo cách cô ta vẫn gọi. Gia nhân trông nom bể bơi, gia nhân quét dọn, gia nhân cắt cỏ và gia nhân lo việc bếp núc. David vẫn luôn nói Lexington giống hệt như lớp đá vôi mà từ đó nó được dựng lên: sự phân cấp giai tầng, những lớp người và phương thức sở hữu khác nhau, thành phố của bạn được đóng khung trong một thứ tôn ti trật tự nghiêm ngặt đã tồn tại bao đời nay. Nếu Kay có cả người lo diệt côn trùng thì cũng chẳng có gì lạ.

“Tổ ong kia à? Khổ thân chị quá!”

“Vâng,” Norah đáp. “Ong vò vẽ. Nó làm tổ ở chỗ ga ra ấy.”

Nàng thấy khoan khoái vì đã khiến Kay sốc, dù chỉ chút đỉnh; nàng thích cái âm thanh chắc nịch của nhiệm vụ đang đặt ra phía trước. Ong. Dụng cụ. Dỡ chiếc tổ. Norah mong sao công việc này sẽ choán hết buổi sáng của nàng. Nếu không, có thể nàng sẽ lại lái xe như đã làm nhiều bận trong suốt mấy tuần vừa rồi, nàng phóng đi như điên, chai rượu dẹt bằng bạc vứt trong túi xách. Nàng có thể phóng ra sông Ohio trong chưa đầy hai tiếng. Tới Louisville, Maysville hoặc như một bữa, lên tận Cincinnati. Nàng thường đậu xe bên sườn dốc của sông rồi ra khỏi xe, ngắm nghía dòng nước cuồn cuộn chảy không ngừng phía xa.

Tiếng chuông reo vang và bọn trẻ bắt đầu ùa vào lớp. Norah ngóng tìm mái tóc sẫm của Paul, nàng dõi theo con cho tới khi thằng bé mất hút. “Tôi rất muốn hai đứa con chúng mình hát cùng nhau,” Kay nói, đoạn hôn gió với Elizabeth. “Paul có một chất giọng tuyệt vời. Đúng là tài năng thiên bẩm.”

“Thằng bé yêu âm nhạc lắm,” Norah đáp. “Từ xưa đã vậy rồi.”

Quả đúng như vậy. Có một lần, khi mới được ba tháng tuổi, trong lúc nàng chuyện gẫu với bạn bè, đột nhiên thằng bé cất tiếng bập bẹ, một chuỗi âm thanh tràn ngận khắp căn phòng như những đóa hoa bất thần đổ xuống từ một cột sáng, khiến tất cả mọi người đều im bặt.

“Thật ra, còn có chuyện khác tôi muốn nhờ chị, Norah à. Buổi lễ gây quỹ tôi tính tổ chức trong tháng sau đó. Chủ đề buổi lễ là Cinderalla, nên tôi đã gửi giấy mời để tập họp càng nhiều trẻ con đóng vai trò người phục vụ càng tốt. Tôi đang nghĩ đến Paul.”

Trái với bản chất, Norah bỗng cảm thấy vô cùng hài lòng. Nàng đã hết hy vọng nhận được những lời mời như vậy nhiều năm về trước, kể từ sau đám cưới và vụ ly dị đầy tai tiếng của Bree.

“Người phục vụ à?” nàng lặp lại để tiếp nhận cái tin này,

“Phải, đó là phần hay nhất,” Kay thẽ thọt. “Mà không chỉ đóng vai người phục vụ thôi đâu. Paul còn được hát riêng nữa. Một bản song ca. Với Elizabeth.”

“Tôi hiểu rồi,” Norah nói, nàng thật sự hiểu. Giọng Elizabeth trong nhưng rất mỏng. Con bé thường hát với một vẻ tươi vui gượng gạo, giống như những nụ hoa xuân giữa tháng Giêng, đôi mắt đầy lo lắng quét khắp lượt khán giả. Thiếu giọng Paul, giọng con bé sẽ không đủ độ ngân vang.

“Nếu thằng bé có thể tham gia thì mọi người sẽ vui lắm đấy.”

Norah chậm rãi gật đầu, nàng thấy thất vọng và bực bội với chính bản thân mình vì đã quan tâm. Nhưng giọng của Paul rất trong và vang; chắc thằng bé sẽ thích đóng vai người phục vụ. Và ít nhất bữa tiệc này, cũng như những con ong, sẽ cho nàng thêm một điểm tựa trong những ngày tới.

“Tuyệt vời!” Kay nói. “Ôi, tuyệt quá. Tôi mong là chị không thấy phiền,” cô ta thêm. “tôi đã tự tiện thuê trước một bộ lễ phục cỡ nhỏ cho thằng bé rồi. Tôi biết là chị sẽ đồng ý mà!” Cô ta liếc nhìn đồng hồ, vẻ vội vã, có lẽ chuẩn bị đi đâu đó. “Rất vui được gặp chị,” cô ta nói thêm, vừa bước vừa vẫy tay, đẩy chiếc xe nôi đi.

Sân chơi vắng tanh. Một cái vỏ kẹo lóe sáng lấp lánh, lăn tròn trên thảm cỏ xuân tươi tốt và mắc vào giữa những đóa đỗ quyên hồng rực. Norah đi qua mấy cây xích đu sơn màu rực rỡ và ngồi vào xe. Con sông, dòng xoáy bình thản của nó, đang vẫy gọi nàng. Hai tiếng thôi là nàng đã có thể ở đó rồi. Sức mê hoặc của cuốc xe tốc độ cao, của cơn gió thổi phần phật, của nước, gần như không thể cưỡng lại nổi, mạnh mẽ tới mức trong đợt nghỉ lễ vừa rồi của trường học, nàng đã rất sốc khi thấy mình đang ở Louisville, Paul sợ điếng người, ngồi im re trên ghế sau, mái tóc nàng rối bù vì gió và chai rượu gin đã gần như cạn sạch. Sông kìa con, nàng đã nói vậy khi đứng đó nắm bàn tay nhỏ của Paul, mắt dõi theo con nước cuồn cuộn, ngầu lên bùn đất. Giờ mẹ con mình đi vườn thú nhé, đoạn nàng tuyên bố, như thể đó đã luôn là mục đích duy nhất của nàng vậy.

Nàng rời trường học và lái xe vào thành phố, xuyên qua những con phố với hai hàng cây bên đường, đi qua ngân hàng và tiệm nữ trang, nỗi khao khát mênh mông như bầu trời. Nàng chạy chậm lại khi đi ngang qua công ty Du lịch Thế giới. Hôm qua, nàng vừa mới phỏng vấn cho một vị trí ở đó. Nàng nhìn thấy quảng cáo trên báo, và bị thu hút bởi những hình vẽ xinh xắn trên các ô cửa sổ của tòa nhà gạch thấp: những bãi biển và tòa nhà lấp lánh, bầu trời và màu sắc sống động. Khi mới đến nàng cũng không thực muốn có công việc đó lắm; và rồi đột nhiên nàng lại muốn. Mặc chiếc váy lanh bó in hoa, nàng ngồi đó ôm khư khư chiếc ví trắng trong lòng, nàng đã khao khát công việc này hơn tất cả mọi thứ trên đời. Đại lý này do một người đàn ông tên là Pete Warren làm chủ, ông ta đã năm mươi tuổi và hơi hói trên đỉnh đầu, ông ta hay gõ bút chì lạch cạch lên tập bìa kẹp hồ sơ và pha trò giễu nhóm Mèo Hoang[10]. Ông ta thích nàng, nàng có thể đoán ra ngay, mặc dù bằng cấp của nàng chỉ là bằng Ngữ văn và chẳng có chút kinh nghiệm nào. Theo kế hoạch thì hôm nay ông ta sẽ cho nàng biết kết quả.

Phía sau nàng, ai đó đang bấm còi inh ỏi. Norah tăng tốc. Con đường này chạy xuyên qua thành phố và cắt ngang đường cao tốc. Nhưng khi nàng lái gần tới trường đại học, giao thông đông đúc hơn. Đường đông nghẹt người khiến xe nàng bò chậm dần rồi phải dừng lại hẳn. Nàng ra khỏi xe và bỏ mặc nó ở đó. Phía xa xa, từ sâu trong khuôn viên trường, những tiếng nói rộ lên mơ hồ, vừa nhịp nhàng vừa ồn ã, thanh âm trầm bổng tràn đầy sức sống tựa như những nụ chồi đang bung nở trên cây cối. Cảm giác bồn chồn và khắc khoải của nàng dường như được khỏa lấp bởi khoảnh khắc ấy, và nàng hòa mình vào dòng người đang chuyển động.

Mùi mồ hôi và dầu hoắc hương tràn ngập không gian, ánh nắng sưởi ấm cánh tay nàng. Nàng nhớ đến trường tiểu học, cách đây có một dặm, nhớ đến trật tự ở đó cũng như những quy phạm, nàng nhớ đến giọng nói bất bình của Kay Marshall, và lại dấn bước. Những bờ vai, cánh tay, mái tóc sượt qua người nàng. Dòng người di chuyển chậm dần rồi dồn lại; đã có một đám đông tụ tập nơi tòa nhà ROTC [11], ở đó hai anh thanh niên đứng trên bậc thang, một người cầm chiếc loa. Norah cũng dừng lại, nàng nghển cổ xem chuyện gì đang diễn ra. Một trong hai thanh niên mặc vest và đeo cà vạt, tay giơ cao lá cờ Mỹ với những đường sọc ngang dập dờn. Nàng quan sát thấy người thanh niên kia, cũng ăn mặc chỉnh tề, giơ cao nắm tay ngay sát mép lá cờ. Ban đầu ngọn lửa gần như vô hình, chỉ là một làn hơi nóng phảng phất, và rồi lửa bén vào vải, bùng lên trên nền màu lá, trên nền xanh lục xen lẫn xanh dương của buổi ban ngày.

Norah nhìn tất cả mọi chuyện diễn ra như trong một cuốn phim quay chậm. Qua bầu không khí chập chờn, nàng nhìn thấy Bree chạy xung quanh đám đông đứng ngay sát tòa nhà, phát các tờ rơi. Mái tóc dài buộc túm đuôi ngựa lúc lắc trên chiếc áo cánh rộng màu trắng của cô. Con bé đẹp quá, nàng tự nhủ, thoáng thấy nét cương quyết và lòng nhiệt thành hiển hiện trên gương mặt em gái chỉ trong tích tắc trước khi cô biến mất. Nỗi ghen tị lại cồn lên trong nàng, bừng bừng như lửa đốt: ghen tị với Bree, với sự kiên định và tự do của cô. Norah rẽ đám đông dấn tới.

Nàng lại thoáng thấy em gái hai lần nữa – mái tóc vàng của cô vụt qua, khuôn mặt cô nhìn nghiêng – rồi cuối cùng nàng cũng đến được chỗ Bree. Khi đó Bree đang đứng trên lề đường, nói chuyện với một cậu thanh niên có mái tóc hung hung đỏ, hai người nói chuyện chăm chú quá, phải đến khi Norah chạm vào tay Bree mới quay ngoắt lại, bối rối và bất ngờ, mặt ngẩn ra một lúc lâu rồi mới nhận ra chị gái.

“Norah à?” Cô nói. Cô đặt tay lên ngực anh chàng tóc đỏ, cử chỉ tự tin và âu yếm tới mức khiến trái tim Norah se lại. “Đây là chị gái em,” Bree giải thích. “Norah, đây là Mark.”

Anh ta gật đầu nhưng không cười và bắt tay Norah, vẻ mặt thăm dò nàng.

“Họ đốt cờ kìa,” Norah nói, một lần nữa ý thức rất rõ rằng trang phục mình khoác trên người chẳng ăn nhập gì với quang cảnh quanh đây cũng như trước đó trên sân chơi, bởi những lý do hoàn toàn khác biệt.

Đôi mắt nâu của Mark hơi nhíu lại, anh ta nhún vai.

“Họ đã từng chiến đấu ở Việt Nam,” anh ta nói. “Nên tôi cho là họ có lý do của riêng mình.”

“Mark đã mất nửa bàn chân ở Việt Nam.”

Norah bỗng thấy mình liếc xuống nhìn đôi ủng của Mark, dây buộc cao đến mắt cá chân.

“Nửa phần trước,” anh ta nói, đoạn gõ gõ bàn chân phải. “Mấy ngón chân và một số phần nữa.”

“Tôi hiểu,” Norah nói, cảm thấy ngại ngùng không để đâu cho hết.

“Mark à, anh chờ bọn em một phút được không?” Bree hỏi.

Anh ta liếc nhìn đám đông đang kích động. “Khó đấy. Anh sắp phát biểu rồi.”

“Rồi rồi. Em sẽ quay lại ngay,” cô nói, đoạn cầm tay Norah, kéo nàng ra xa mấy bước, khom người dưới vòm cây đinh tán.

“Chị làm gì ở đây vậy?” cô hỏi.

“Chị cũng chẳng biết nữa,” Norah đáp. “Chị buộc phải dừng lại khi gặp đám đông này, vậy thôi.”

Bree gật đầu, đôi hoa tai màu bạc của cô lóe sáng lấp lánh. “Tuyệt quá, phải không nào? Phải có đến năm ngàn người ở đây ấy chứ. Lúc đầu bọn em chỉ dám mong có vài trăm người thôi. Do vụ Kent State đây mà. Thế là hết.”

Hết cái gì cơ? Norah tự nhủ, quanh nàng, những chiếc lá cây rung rinh. Ở đâu đó, cô Throckmorton đang gọi học sinh còn Pete Warren ngồi ghi vé dưới những tấm áp phích du lịch rực rỡ. Lũ ong vo ve biếng nhác trong bầu không gian ngập nắng bên nhà ga ra nhà nàng. Thế giới có thể đi đến hồi hết trong một ngày như thế này hay sao?

“Đấy là bạn trai của em à?” cô hỏi. “Anh chàng em kể với chị ấy?”

Bree gật đầu, khẽ mỉm cười ý nhị.

“Ôi chao, xem em kìa! Em đang yêu chứ gì.”

“Em nghĩ vậy,” Bree thì thào, mắt liếc về phía Mark. “Em nghĩ vậy.”

“Ừm, chị mong là anh ta đối xử tốt với em,” Norah nói, chợt giật mình khi lại nghe thấy tiếng của mẹ, âm điệu y hệt. Nhưng Bree đang quá hạnh phúc, cô chỉ cười.

“Anh ấy đối xử với em tốt lắm,” cô nói. “Chị này, cuối tuần em đưa anh ấy đến nhé? Đến bữa tiệc của chị ấy?”

“Được,” Norah đáp, nhưng thật lòng nàng chẳng dám chắc.

“Tuyệt. À, Norah, chị đã nhận được công việc chị thích chưa?”

Những chiếc lá đinh tán rung rinh quanh nàng như những trái tim xanh mềm mại, phía ngoài kia đám đông đang gầm gừ và lắc lư.

“Chị chưa biết,” Norah đáp, nghĩ đến khu văn phòng rực rỡ, trang nhã. Đột nhiên nàng cảm thấy những khao khát của mình thật quá tầm thường.

“Thế buổi phỏng vấn thế nào?” Bree hỏi dồn.

“Tốt. Tốt lắm. Chị chỉ không chắc giờ chị còn thích công việc đó nữa không, vậy thôi.”

Bree gài một lọn tóc ra sau tai và cau mày.

“Sao không? Norah, chỉ mới ngày hôm qua thôi chị còn phát điên vì công việc đó. Chị đã rất hào hứng cơ mà. Lại là David hả? Lại bảo chị không làm được chứ gì?”

Norah bực bội lắc đầu. “David còn chẳng biết nữa cơ. Bree, chỗ đấy bất quá cũng chỉ là một cái văn phòng bé tí. Tẻ nhạt. Trưởng giả. Mình chả nên chết già ở đấy làm gì.”

“Em không phải là chị,” Bree nói, giọng sốt ruột. “Chị không phải là em. Chị muốn công việc đó, Norah ạ. Vì sự hấp dẫn. Trời ạ, vì tự do nữa.”

Đúng thế thật, nàng đã muốn công việc đó, nhưng cơn giận của nàng lại đang bùng lên, điều đó cũng đúng nốt: với Bree, người đang đứng đây để kích động những cuộc cách mạng, thì giao phó nàng cho một cuộc sống theo giờ hành chính mới là tốt.

“Chị chỉ ngồi đánh máy, chứ có được đi đâu đâu. Đợi tới lúc được đi thì cũng chắc phải mất hàng năm trời. Đấy không phải là những gì chị đã tưởng tượng về cuộc đời mình, Bree ạ.”

“Thế đi di máy hút bụi mới là đúng à?”

Norah nghĩ tới những đợt gió táp rát mặt, đến con sông Ohio cuồn cuộn chảy, chỉ cách đây có tám mươi dặm đường. Nàng mím môi không đáp.

“Chị làm em điên mất, Norah à. Sao chị lại sợ thay đổi thế nhỉ? Sao chị không là chính mình và để mặc thế giới xoay vần đi?”

“Chị có,” nàng nói. “Chị đang là chính mình. Em không hiểu đâu!”

“Chị đang rúc đầu vào cát. Em chỉ thấy mỗi thế.”

“Em chẳng thấy gì cả, ngoài mấy cậu trai chưa vợ.”

“Rồi rồi. Thế là đủ rồi.” Bree chỉ bước một bước là đã bị nuốt chửng bởi đám đông: một chút sắc màu thấp thoáng, rồi vụt biến mất.

Norah đứng lặng một lúc dưới vòm cây đinh tán, người run lẩy bẩy vì cơn giận ngùn ngụt. Nàng bị làm sao vậy? Sao nàng có thể ghen tị với Kay Marshall, sau đó là với Bree, vì những lý do hoàn toàn trái ngược đến thế?

Nàng rẽ đám đông quay trở lại xe. Sau cơn náo loạn và kích động của đám người biểu tình, đường phố trở lại với vẻ tẻ nhạt, thiếu màu sắc và quy phạm một cách đáng ngại. Nàng đã mất quá nhiều thời gian rồi, chỉ còn hai tiếng nữa nàng sẽ phải đi đón Paul. Không còn thời gian cho dòng sông nữa. Về đến nhà, trong căn bếp đầy nắng, Norah tự pha cho mình một ly gin với tonic. Chiếc ly cứng cáp và mát lạnh trong tay nàng, những cục đá kêu lanh canh lóe lên ánh sáng dễ chịu. Đi qua phòng khách, nàng dừng lại một lúc trước tấm ảnh chụp nàng đứng trên cầu đá tự nhiên. Khi nhớ lại ngày hôm ấy – cuộc đi bộ và buổi picnic của họ - nàng chưa bao giờ nghĩ tới giây phút này. Thay vào đó, nàng nhớ cả thế giới đã trải rộng dưới chân mình, nắng và gió ve vuốt làn da nàng. Để anh chụp cho em một kiểu nhé, David nói, giọng nài nỉ, nàng quay ra thì thấy anh đã khom gối, chăm chú lấy nét để lưu giữ một khoảnh khắc không bao giờ thực sự tồn tại. Nàng đã đoán đúng về chiếc máy ảnh, và tự thấy hối hận về chuyện đó. David, đam mê tới mức ám ảnh, đã xây hẳn một buồng tối để tráng phim trên ga ra.

David. Không hiểu sao càng ngày anh càng trở nên bí ẩn, nhưng cũng thân thuộc hơn trong mắt nàng như vậy? Anh đã bỏ lại một cặp khuy măng séc bằng hổ phách trên chiếc giá kê dưới mấy bức ảnh. Norah nhặt lên và nắm trong lòng bàn tay; lắng nghe tiếng đồng hồ tích tắc nhẹ nhàng trong phòng khách. Mấy viên đá ấm lên trong tay nàng, nàng cảm thấy dễ chịu với cảm giác trơn mượt của chúng. Nàng tìm thấy đá ở khắp nơi, đá dồn từng nắm trong túi của David, đá rải rác trên bàn trang điểm, đá lẩn giữa các phong bì trong ngăn kéo bàn làm việc. Có đôi lúc nàng nhác thấy bóng David và Paul ở sâu sau, hai bố con chụm đầu vào nhau cùng xem một viên đá đẹp nào đó. Ngắm nhìn họ, trái tim nàng luôn rộng mở với một niềm hân hoan dè dặt. Những giây phút như thế rất hiếm hoi; David ngày càng bận rộn hơn. Dừng lại đi, Norah rất muốn nói như vậy. Chỉ một lát thôi. Hãy dành chút thời gian. Con trai anh lớn nhanh chưa kìa.

Norah bỏ cặp khuy măng séc vào túi và cầm ly rượu đi ra sân. Nàng đứng dưới cái tổ mỏng tang như giấy, ngắm nhìn những con ong bay vo ve xung quanh tổ rồi biến vào trong. Thỉnh thoảng bị hấp dẫn bởi mùi rượu gin ngọt ngào, một con bay sát lại gần nàng. Nàng nhấp từng ngụm và ngắm nhìn. Từng thớ thịt, từng tế bào của nàng đều giãn ra theo một chuỗi phản ứng nhịp nhàng, tựa như nàng đang uống từng hớp hơi ấm của buổi ban ngày. Nàng uống nốt ly rượu, đặt chiếc ly trên lối xe vào nhà, rồi quay đi tìm đôi găng và mũ làm vườn, đi vòng qua chiếc xe đạp ba bánh của Paul. Thằng bé đã quá lớn để đi chiếc xe này; nàng nên đóng gói cất đi cùng những món khác thì hơn: quần áo mặc hồi bé, những món đồ chơi cũ của nó. David không muốn có thêm đứa con nào nữa, và tới giờ, khi Paul bắt đầu đi học, nàng cũng đã thôi không còn đôi co với anh về vấn đề đó nữa. Thật khó mà tưởng tượng nổi nếu phải quay lại với khăn tã và những bữa ăn đêm cho con lúc hai giờ sáng, mặc dù nàng vẫn luôn khao khát được ôm một đứa trẻ nữa trong vòng tay: giống như Angela hồi sáng nay, hơi ấm và sức nặng của con bé thật dễ chịu. Kay thật quá may mắn, vậy mà cô ta thậm chí còn không nhận thức được điều đó.

Norah xỏ găng và bước ra dưới nắng. Nàng không có chút kinh nghiệm nào với ong vò vẽ hay ong mật, trừ một lần nàng bị một con đốt vào ngón chân hồi tám tuổi, vết châm chỉ đau nhức trong một tiếng đồng hồ là tự khỏi. Khi Paul nhặt con ong đã chết từ sàn nhà lên và hét lên đau đớn, nàng không cảm thấy sợ hãi chút nào. Nàng nghĩ chỉ cần chườm đá lên chỗ sưng, rồi ôm thằng bé thật lâu trên xích đu trước hiên nhà; thế là ổn. Nhưng những nốt phồng rộp và mẩn đỏ nổi lên từ bàn tay nhanh chóng lan ra khắp người. Khuôn mặt thằng bé sưng húp híp, thế là nàng vội gọi David, giọng hoảng hốt. Anh biết ngay chuyện gì đang xảy ra, và phải tiêm cho thằng bé thuốc gì. Chỉ sau giây lát, Paul đã có thể thở dễ dàng hơn. Không sao đâu, David nói. Quả có vậy thật, nhưng nàng vẫn phát ốm lên vì sợ. Nếu hôm đấy David mà không có ở nhà thì sẽ ra sao?

Nàng ngắm nghía những con ong trong vài phút, đầu chợt nghĩ tới những người biểu tình trên đồi, tới thế giới bất ổn, mờ ảo. Nàng đã làm những gì mọi người trông đợi ở nàng, luôn là thế. Nàng đã vào đại học và nhận một công việc bình thường; rồi kết hôn suôn sẻ. Vậy mà kể từ khi các con ra đời – là Paul, tuột xuống cầu trượt với hai cánh tay vung vẩy, và Phoebe, vẫn hiện diện theo cách nào đó thông qua chính sự vắng mặt của mình, vẫn đến trong những giấc mơ, vẫn đứng ở góc khuất nào đó trong từng giây từng phút – Norah không còn có thể nhìn thế giới xung quanh bằng con mắt cũ nữa. Những mất mát khiến nàng thấy mình bất lực, và nàng chống lại nó bằng cách lấp đầy mỗi ngày nàng sống.

Giờ đây nàng chủ tâm nghiên cứu các dụng cụ. Nàng sẽ tự tay xử lý đám côn trùng này.

Chiếc cuốc cán dài nặng trịch trên tay nàng. Nàng chậm chạp nâng nó lên rồi liều lĩnh phạt ngang cái tổ, lưỡi cuốc cắt rất ngọt qua lớp vỏ mỏng như giấy. Nàng thấy sợ, trước sức mạnh tấn công của đòn mở đầu. Nhưng khi nàng thu cuốc lại, những con ong vò vẽ, giận dữ và kiên quyết, túa ra khỏi chiếc tổ rách nát và bay thẳng theo nàng. Một con châm vào cổ tay nàng, một con đốt lên má. Nàng vứt cuốc và chạy trốn vào nhà, sập mạnh cửa rồi đứng chống lưng lên đó, hổn hển thở không ra hơn.

Phía bên ngoài, cả bầy ong bay lượn, kêu vo vo giận dữ quanh chiếc tổ vỡ. Vài con còn đậu lên bậu cửa sổ, lớp cánh mỏng khẽ phe phẩy. Đông đúc, giận dữ - chúng khiến nàng nhớ đến những sinh viên mà nàng trông thấy sáng hôm đó; khiến nàng nghĩ đến chính mình. Nàng vào trong bếp pha thêm một ly rượu nữa, xoa một ít rượu gin lên má và cổ tay, vết ong đốt ở hai chỗ này đã bắt đầu sưng lên. Vị rượu gin trong mát, lâng lâng, khiến một cảm giác êm dịu và ấm áp của sức sống cùng quyền lực lan khắp cơ thể nàng. Còn một tiếng nữa nàng mới phải đi đón Paul.

“Được rồi, lũ ong chết tiệt,” nàng nói to thành tiếng. “Giờ chúng mày sẽ biết tay.”

Có một lọ thuốc diệt côn trùng trong tủ quần áo, để phía trên áo khoác, giày và máy hút bụi – một cái máy Electrolux màu xanh ánh thép, mới nguyên. Norah nhớ lại lúc Bree gạt lọn tóc vương trên má. Di máy hút bụi – cả cuộc đời mình chị chỉ muốn thế thôi sao?

Norah đi được nửa đường tới chỗ cánh cửa thì chợt nghĩ ra một cách.

Những con ong còn đang bận bịu, chúng đã kịp bắt tay vào sửa sang chiếc tổ, và dường như không để ý đến Norah khi nàng bước ra ngoài, trên tay xách chiếc máy Electrolux. Nàng đặt nó trên lối xe vào nhà, chiếc máy lạc lõng và kỳ dị như một con lợn có nước da xanh ánh thép. Norah đi găng tay, đội mũ, mặc thêm áo khoác và quấn một chiếc khăn quanh mặt. Nàng cắm điện vào máy hút bụi và bật công tắc, để nó kêu rù rù một lúc, tiếng máy ngoài trời nghe êm lạ thường, sau đó nàng nhặt chiếc vòi hút lên. Thật liều lĩnh, nàng gí vòi vào phần tổ còn sót lại. Lũ ong kêu vo vo và bay tán loạn giận dữ - má và cánh tay nàng nằm trong đúng tầm ngắm của chúng – nhưng chúng nhanh chóng bị hút vào chiếc máy, tạo ra âm thanh lộp bộp như những hạt sồi rơi trên nóc nhà. Nàng khua vòi hút trong không khí, nó giống như một chiếc đũa thần vậy, gom hết sạch đám côn trùng giận dữ, xé vụn cả chiếc tổ. Chẳng mấy chốc nàng đã xử lý xong cả đàn. Nàng để máy tiếp tục chạy trong khi nghĩ cách để bao vòi hút lại; nàng không muốn những con ong cần cù và kiên tâm này thoát ra ngoài. Đó là một ngày nắng ấm áp, rượu khiến nàng thấy lâng lâng dễ chịu. Nàng cắm vòi phun xuống đất, nhưng chiếc máy bắt đầu kêu như quá tải. Bỗng nàng để ý thấy ống xả của chiếc ô tô: đúng rồi, vòi hút cắm vào đấy thì vừa in. Trong lòng cực kỳ thỏa mãn, phấn chấn với công việc vừa hoàn thành, Norah tắt công tắc máy và trở vào nhà.

Trong phòng tắm, ánh nắng tràn vào lênh láng qua những khung cửa mờ hơi nước, nàng cởi khăn mũ, ngắm mình trong gương. Đôi mắt lục thẫm, mái tóc vàng óng, khuôn mặt hốc hác vì lo lắng. Mái tóc dính bết và làn da đầm đìa mồ hôi. Một nốt rộp đỏ sưng tướng trên má nàng. Nàng khẽ cắn môi, tự hỏi David sẽ nghĩ gì khi nhìn thấy nàng trong bộ dạng này. Tự hỏi không hiểu mình thực sự là ai, tại sao trong chốc lát nàng lại gắng hết sức để làm vừa lòng Kay Marshall, ngay sau đó lại cố hòa nhập với đám bạn của Bree, rồi lái xe như điên ra bờ sông, và không đâu đem lại cho nàng cảm giác như nhà mình? David sẽ thấy mặt nào của con người nàng? Hay đơn giản chỉ là người phụ nữ nằm bên anh hàng đêm? Chính nàng, phải, nhưng không giống như nàng từng thấy. Và cũng chẳng giống người phụ nữ mà anh đã từng thấy, cũng như cách nàng nhìn người đàn ông mình đã cưới làm chồng mỗi tối khi anh về nhà, cẩn thận vắt chiếc áo vest lên lưng ghế tựa, và mở tờ báo chiều ra đọc.

Nàng lau khô tay và đi lấy đá chườm lên bên má bị sưng. Chiếc tổ ong treo lơ lửng, tả tơi và trống trải, dưới mái hiên ga ra. Chiếc Electrolux đứng chồm hỗm trên lối xe vào nhà, nối với ống xả ô tô bằng một cái vòi ruột xếp nếp dài lòng thòng, trông như chiếc dây rốn bạc lấp lánh trong nắng. Nàng tưởng tượng đến lúc David về nhà, tổ ong đã biến mất, sân sau được trang hoàng, một bữa tiệc được chuẩn bị hoàn hảo đến từng chi tiết. Anh sẽ ngạc nhiên lắm, nàng mong như vậy, và hài lòng nữa chứ.

Nàng liếc đồng hồ. Đã đến giờ đi đón Paul. Bước xuống bậc thang ở cửa hậu, Norah dừng lại, lần tay vào túi để tìm chìa khóa nhà. Một tiếng ồn kỳ dị phát ra từ lối xe vào nhà khiến nàng ngước lên. Nghe như tiếng vo ve, mới đầu nàng còn cho là lũ ong sắp chạy thoát. Nhưng không trung xanh thẳm vẫn trong veo, trống trải. Rồi tiếng vo ve chuyển thành tiếng lẹt xẹt, không khí sực lên mùi ozone, mùi dây điện cháy. Những thứ đó, Norah nhận biết có phần hơi chậm chạp, đều là từ chiếc máy Electrolux mà ra. Nàng rảo chân chạy xuống bậc cầu thang. Khi chân nàng vừa chạm lớp nhựa đường, tay vẫn còn vung lên trong bầu không khí mùa xuân trong trẻo, bất thình lình chiếc máy Electrolux nổ tung và bắn ra xa, bay vèo qua thảm cỏ rồi đập mạnh vào hàng rào, bẻ gãy nguyên một thanh ván. Cái máy xanh rơi xuống giữa bụi đỗ quyên, khói cuộn lên từng đám dầu mỡ, rít lên như một con thú bị thương.

Norah cứng đờ người, hai tay vẫn sải rộng, tê liệt như trong những bức ảnh của David, cố gắng định thần xem chuyện gì đang xảy ra. Một mẩu ống xả đã bị giật tung khỏi xe. Vừa nhìn thấy nó, nàng đã hiểu: hơi xăng tích tụ trong ruột máy hút bụi vẫn còn nóng, khiến chiếc máy nổ tung. Norah nghĩ đến Paul, dị ứng với ong, một thằng bé có chất giọng trong như tiếng sáo, nếu khi đó thằng bé ở nhà, rất có thể nó đang đứng ngay trên đường bay của máy hút bụi.

Khi nàng còn đang mải nhìn, thì một con ong chui ra từ chiếc ống xả bốc khói và bay đi.

Không hiểu sao, điều đó chẳng khác nào một giọt nước tràn ly đối với Norah. Nỗi nhọc nhằn của nàng, sự khéo léo của nàng, thế mà giờ đây, bất chấp tất cả, lũ ong sắp sửa trốn thoát. Nàng chạy qua bãi cỏ. Bằng một động tác nhanh nhẹn, không chút do dự, nàng mở chiếc máy Electrolux, xông vào giữa đám khói dày để lôi chiếc túi đầy bụi bẩn và côn trùng ra, vứt nó xuống đất và giậm chân thình thịch lên như một vũ điệu hoang dại. Cái túi giấy bị rách một bên mép và một con ong rơi ra; bàn chân nàng di ngay lên con vật. Nàng đang chiến đấu vì Paul, nhưng cũng để hiểu chính bản thân mình nữa. Chị ngại thay đổi, Bree nói như vậy.Sao chị không là chính mình đi? Là gì đây? Norah phân vân suốt cả ngày. Là gì đây? Trước đây nàng từng biết: nàng đã là một đứa con ngoan, một sinh viên và một nhân viên trực tổng đài điện thoại đường dài, những vai trò nàng đã hoàn thành dễ dàng và tự tin. Rồi nàng cũng đã là một người vợ, một bà mẹ, và nhận ra rằng những từ ngữ ấy quá hạn hẹp để bao chứa hết những trải nghiệm nàng có.

Ngay cả sau khi lũ ong trong túi chắc chắn đã chết hết, Norah vẫn nhảy nhót trên đống bùi nhùi, điên dại và hăng hái. Có điều gì đó đang diễn ra, điều gì đó đã thay đổi, bên ngoài kia và trong trái tim nàng. Đêm hôm đó, khi tòa nhà ROTC trong khuôn viên trường đại học bị thiêu rụi đến tận móng, ánh lửa rực cháy trong đêm xuân ấm áp, Norah sẽ mơ thấy ong vò vẽ và ong mật, những con ong nghệ to lớn, hiền hòa bay là là giữa đám cỏ cao. Hôm sau nàng sẽ thay chiếc máy hút bụi mới mà không đả động gì về vụ tai nạn với David. Nàng sẽ hủy bỏ đơn đặt bộ lễ phục dùng cho bữa tiệc gây quỹ của Kay, nàng sẽ nhận công việc kia. Hấp dẫn, phải, và phiêu lưu, một cuộc sống của riêng nàng.

Tất cả sẽ xảy ra, nhưng trong khoảnh khắc này nàng không nghĩ tới điều gì khác ngoài chuyển động của bàn chân và chiếc túi dần chuyển thành một đống dơ bẩn những cành và vòi châm. Ở phía xa, đám đông người biểu tình gào thét, âm thanh lớn dần lên, xuyên qua làn không khí mùa xuân trong lành đến tận nơi nàng đứng. Máu chảy giần giật hai bên thái dương nàng. Những gì đang xảy ra ở đó cũng đang xảy ra tại nơi đây, trong cái tĩnh lặng của mảnh sân sau, trong những khoảng không sâu kín nơi trái tim nàng: một sự bùng phát, theo cách nào đó khiến cuộc sống không còn như trước kia nữa.

Một con ong lượn vo vo gần những bụi đỗ quyên rực đỏ và giận dữ bay đi. Norah rời khỏi cái túi giấy nhão nhoẹt. Vừa mê muội, vừa tỉnh táo, nàng đi qua bãi cỏ, chìa khóa móc trên ngón tay. Nàng ngồi vào xe, như thể đó chỉ là một ngày như bao ngày khác, và phóng đi đón con.

-----------------

[10] nhóm siêu anh hùng trong bộ truyện tranh cùng tên của Mỹ, tác giả là Jim Lee và Brandon Choi

[11] viết tắt của cụm từ ‘Reserve Officers’ Training Corps’: Chương trình đào tạo sĩ quan trù bị, đây là chương trình đào tạo sĩ quan đi kèm với đào tạo đại học của bộ binh Mỹ


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx