sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Con Gái Người Giữ Ký Ức - Chương 17-18

Chương 17Tháng Tư Năm 1982

PAUL," MẸ GỌI. TIẾNG GIÀY CAO GÓT NỆN CHÁT CHÚA LÊN những bậc thang chùi sáng bong và sau đó mẹ đã đứng trên ngưỡng cửa, thon thả và hợp mốt trong bộ vest màu xanh hải quân gồm váy bó và áo độn vai dày. Dù mắt vẫn nhắm tịt, nhưng Paul cũng thấy những gì mà mẹ cậu nhìn thấy: quần áo vứt vung vãi khắp sàn nhà, một chồng album và các bản nhạc, chiếc ghi ta cũ dựa vào góc phòng. Mẹ lắc đầu thở dài. "Dậy đi, Paul," bà quát. "Mau lên."

"Ốm," thằng bé thều thào, rồi kéo chăn trùm kín đầu, cố rặn ra giọng khàn đặc. Xuyên qua lớp sợi dệt thưa của chiếc chăn hè nó vẫn nhìn thấy mẹ, tay chống nạnh. Ánh nắng buổi sớm vàng rực trên tóc bà, vừa mới nhuộm hôm qua, lấp lánh sắc đỏ ánh vàng. Cậu nghe thấy mẹ nói chuyện điện thoại với dì Bree, mô tả những lọn tóc nhỏ được cuộn trong giấy bạc và hấp như thế nào.

Mẹ vừa rán thịt bò xay vừa nói chuyện, giọng điềm tĩnh, mắt bà đỏ hoe vì khóc lúc trước đó. Bố đã mất tích, ba ngày nay không ai biết ông còn sống hay đã chết. Đến tối hôm qua ông quay về, đi qua cửa sau như thể ông chưa bao giờ biến mất, và giọng nói gay gắt của hai người dội lên tận tầng hai suốt hàng giờ liền.

"Con nghe đây," bà liếc nhìn đồng hồ nói. "Mẹ biết con không ốm, làm sao con ốm bằng mẹ được. Mẹ cũng muốn ngủ cho hết ngày luôn đây. Thề có trời. Nhưng mẹ không được ngủ, nên con cũng không được ngủ. Bây giờ thì ra khỏi giường và thay quần áo mau lên. Mẹ sẽ thả con ở trường."

"Họng con rát quá," nằn nì, cố giả giọng khàn khàn.

Mẹ lưỡng lự, nhắm mắt, rồi lại thở dài, và Paul biết cậu đã thắng.

"Nếu con đã ở nhà, thì chỉ được ở nhà thôi đấy," bà đe. "Cấm có la cà với nhóm tứ tấu của con. Còn nữa - nghe cho rõ đây - con phải dọn ngay cái chuồng lợn này đi. Mẹ không đùa đâu, Paul. Mẹ đã có đủ thứ phải lo rồi."

"Vâng," cậu rền rĩ. "Rồi ạ. Con sẽ dọn."

Mẹ đứng một lúc nữa mà không nói năng gì. "Chuyện này quả thật rất khó khăn," cuối cùng bà nói. "Khó khăn với cả mẹ nữa. Mẹ muốn ở bên con, Paul ạ, nhưng mẹ đã hứa đưa dì Bree đến gặp bác sĩ rồi."

Cậu tì khuỷu tay nhổm dậy, hơi giật mình khi nghe giọng nói u ám của mẹ. "Dì ổn chứ ạ?"

Mẹ cậu gật đầu, nhưng bà đang nhìn ra ngoài cửa sổ nên không thấy ánh mắt cậu. "Mẹ nghĩ thế. Nhưng dì sắp phải làm ít xét nghiệm nên cũng hơi lo. Chuyện đấy là bình thường thôi. Mẹ đã hứa từ tuần trước là sẽ cùng đi. Trước khi xảy ra chuyện với bố con cơ."

"Không sao đâu," Paul nói, vẫn nhớ phải giả giọng khàn khàn. "Mẹ nên đi với dì. Con ổn mà." Cậu nói bằng giọng vỗ về, nhưng một phần trong thâm tâm cậu vẫn hy vọng bà sẽ không để ý đến những gì vừa nói ra, rằng bà sẽ ở nhà.

"Cũng không lâu đâu. Mẹ sẽ về nhà ngay."

"Bố đâu ạ?"

Bà lắc đầu. "Mẹ không biết. Không có ở nhà. Có gì lạ đâu?"

Paul không đáp, chỉ ngả lưng xuống giường và nhắm mắt lại. Không lạ lắm, cậu thầm nghĩ. Chẳng lạ gì cả.

Mẹ vuốt nhẹ tay lên má Paul, nhưng cậu không động đậy, rồi bà đi mất, để lại một khoảng mát lạnh trên má nó nơi bà vừa chạm vào. Dưới nhà, có tiếng cửa đóng sầm; tiếng dì Bree nói vọng lên từ ngoài sảnh. Bao năm qua hai chị em đã trở nên rất gắn bó, mẹ Paul và dì Bree, gần gũi đến mức trông hai người bắt đầu giống hệt nhau, dì Bree cũng có mái tóc nhuộm highlight vàng, tay xách lủng lẳng chiếc ca táp. Dì vẫn là người sành điệu và dễ hòa đồng, vẫn là người ưa mạo hiểm, là người luôn khuyên Paul làm theo những gì trái tim mách bảo và nộp đơn vào học ở Juilliard như cậu hằng mong muốn. Ai cũng quý Bree: vì sự phiêu lưu và tính tình cởi mở của dì. Dì đã đem lại rất nhiều hợp đồng lớn cho công ty. Dì và mẹ là hai sức mạnh bổ trợ cho nhau, cậu từng nghe dì nói thế. Và Paul cũng nhận thấy điều đó. Dì Bree và mẹ đã đi xuyên suốt cuộc đời của nhau như răng với môi, người này không thể sống thiếu người kia, nhưng luôn luôn xung khắc nhau. Liền sau đó, giọng hai người hòa lẫn vào nhau, trao đổi qua lại, nối tiếp bằng tiếng cười buồn bã của mẹ cậu, tiếng cửa đóng sập lại. Cậu ngồi nhỏm dậy, vươn vai. Tự do rồi.

Căn nhà lặng như tờ, chỉ nghe bình đun nước nóng phát ra tiếng ro ro. Paul đi xuống nhà và đứng trong khoảng sáng mát rượi hắt ra từ tủ lạnh, lấy tay không bốc mì ống trộn pho mát đựng trong đĩa Corningware, mắt sục sạo khắp các ngăn tủ. Chả có gì mấy. Trong tủ đá thằng bé tìm thấy sáu hộp bánh quy Girl Scout, vị sô cô la bạc hà. Cậu vốc một nắm đầy bỏ vào mồm, rồi chiêu thẳng một ngụm sữa từ bình nhựa để trôi hết bánh sô cô la mát lạnh. Thêm một vốc nữa, xong xuôi, bình sữa lủng lẳng trên tay, thằng bé đi qua phòng khách, nơi những tấm chăn của bố nó được trải gọn ghẽ trên chiếc sofa, để tới phòng làm việc.

Cô gái vẫn ở đó, còn đang ngủ. Cậu bỏ vào mồm một chiếc bánh nữa, để bạc hà và sô cô la tan chảy từ từ trong miệng, vừa ngắm nhìn cô gái. Đêm qua những tiếng chì tiếng bấc nghe đã thành quen tai của bố mẹ dội lên tận phòng Paul, và mặc dù họ có đang cãi cọ, cục đá chặn trong họng Paul khi nghĩ đến bố nằm chết ở một xó xỉnh nào đấy, bố ra đi mãi mãi - ngay lập tức đã tan biến. Paul ra khỏi giường và định đi xuống nhà, nhưng đến chiếu nghỉ nó dừng lại, quan sát cảnh tượng đang diễn ra: bố cậu mặc một cái áo sơ mi trắng đã mấy ngày liền chưa giặt, chiếc quần âu lấm đầy bùn, nhàu nhĩ và nhăn nhúm, râu mọc lởm chởm trên khắp mặt còn mái tóc thì rối như tổ quạ; mẹ cậu mặc áo choàng xa tanh màu hồng đào và đi dép bông trong nhà, hai tay khoanh lại trước ngực, mắt nheo nheo, còn cô gái này, người lạ mặt này, đứng trên ngưỡng cửa trong chiếc áo khoác đen rộng thùng thình, bấu chặt ngón tay vào cổ tay áo. Giọng của bố mẹ trộn lẫn vào nhau, gay gắt. Cô gái ngước lên, bứt ra khỏi cơn giận dữ quay cuồng. Mắt cô chạm mắt Paul. Cậu nhìn chằm chằm, dò xét: vẻ mặt xanh xao và ánh mắt hoang mang của cô, đôi tai như được chạm khắc tinh tế. Mắt cô ánh lên một màu nâu trong trẻo, tràn ngập vẻ mệt mỏi. Paul đã muốn bước xuống cầu thang và khum tay ôm lấy khuôn mặt cô.

"Ba ngày," mẹ đang nói, "rồi anh quay về - trời ơi, anh nhìn anh xem, David - trong cái bộ dạng này lại còn thêm cả cô gái này nữa. Đang có thai, có phải anh vừa nói thế không? Còn tôi thì phải cho cô ta vào nhà mình, không được hỏi han gì thêm sao?"

Cô gái bỗng lúng túng và nhìn lảng ngay đi, còn mắt Paul thì lướt xuống dưới bụng cô, trông khá phẳng dưới lớp áo khoác, có điều cô đã đặt một tay lên đó như để che chắn và thằng bé nhìn thấy cái bụng hơi phồng lên dưới lớp áo len cô mặc. Cậu đứng thật im. Cuộc cãi cọ vẫn tiếp tục, dường như sẽ còn lâu mới kết thúc. Cuối cùng, mẹ, môi mím chặt không nói thêm lời nào, kéo những chăn, ga, gối trong tủ ra và ném xuống cầu thang vào người bố, người đã trịnh trọng nắm khuỷu tay cô gái, dẫn cô vào phòng làm việc.

Giờ thì cô ngủ trên chiếc ghế sofa gấp, đầu ngoẹo sang một bên, một tay sã xuống sát mặt. Cậu ngắm nghía cô, làn mi cô hơi chuyển động, ngực khẽ phập phồng. Cô nằm ngửa; bụng hơi vồng lên như một làn sóng. Da thịt Paul bỗng nhộn nhạo cả lên, và cậu thấy hoảng. Cậu đã làm tình với Lauren Lobeglio sáu lần kể từ tháng Ba. Cô ả thường la cà đến xem các buổi tập của nhóm nhạc tứ tấu suốt nhiều tuần lễ, chỉ nhìn cậu, không nói năng gì: một đứa con gái nghiện, nhưng xinh đẹp, và kỳ dị. Một buổi chiều cô ả ngồi nán lại cho đến khi tất cả những thành viên khác trong nhóm nhạc về hết, chỉ còn lại hai người bọn họ trong không gian tĩnh lặng của ga ra, ánh sáng xuyên qua kẽ lá ngoài sân in những cái bóng rung rinh lên nền bê tông. Cô ta kỳ dị nhưng quyến rũ, với mái tóc dày suôn dài, đôi mắt đen lay láy. Cậu vẫn ngồi trên chiếc ghế bập bênh cũ, chỉnh dây đàn ghi ta, phân vân không biết có nên tiến đến chỗ cô ả đang đứng cạnh bức tường treo dụng cụ và hôn ả không.

Nhưng chính Lauren mới là người bước sang bên kia phòng. Cô ả đứng trước mặt Paul một giây, rồi ngã vào lòng cậu, váy tốc lên cao, để lộ đôi chân thon trắng muốt. Người ta vẫn thường nói: nếu Lauren Logeblio đã thích ai thì cô ả sẽ phải chiếm cho bằng được mới thôi. Paul chưa từng nghĩ lời đồn đại này là thật, nhưng cậu đã ở đó, luồn tay xuống dưới chiếc áo thun của cô ả, làn da cô thật ấm áp, bầu vú mềm mượt như nhung dưới bàn tay cậu.

Không nên làm thế. Cậu biết, nhưng cũng giống như khi người ta bị trượt ngã: một khi đã sảy chân, bạn không thể tự dừng lại cho đến khi có một vật gì khác cản bạn lại. Cô ả vẫn luẩn quẩn xung quanh như trước, có điều cảm giác bây giờ rất kích thích, và mỗi khi chỉ còn lại hai người, cậu lại chạy sang bên kia phòng hôn hít ả, lướt tay lên làn da lưng mượt như xa tanh của ả.

Cô gái đang ngủ trên giường thở dài, đôi môi hơi mấp máy. Dính vào là toi đấy, mấy thằng bạn cũng đã cảnh báo cậu về Lauren như thế. Nhất là Duke Madison, thằng này đã phải bỏ học để cưới cô bạn gái từ năm ngoái, bây giờ nó gần như không còn chơi piano nữa, được lúc nào sờ đến cây đàn thì mặt mũi đều lộ rõ vẻ chán chường phờ phạc. Cứ làm cho nó dính bầu là mày tàn đời ngay.

Paul ngắm nhìn cô gái, làn da xanh xao và mái tóc dài sẫm màu, những đốm tàn nhang rải rác. Cô ta là ai nhỉ? Bố cậu, một người máy móc, dễ dự đoán như một cái đồng hồ, đã biến mất hoàn toàn. Đến ngày thứ hai mẹ cậu báo cho cảnh sát, họ tỏ ra dửng dưng, thậm chí còn đùa bỡn, cho đến khi người ta tìm thấy chiếc ca táp của bố cậu trong phòng giữ hành lý của viện bảo tàng ở Pittsburgh, va li cùng máy ảnh của ông ở khách sạn. Họ bắt đầu điều tra một cách nghiêm túc. Người ta đã thấy ông ở gần bàn lễ tân, tranh luận với một phụ nữ tóc sẫm. Cô này hóa ra là một nhà phê bình nghệ thuật, bài phê bình về buổi triển lãm sau đó đã được đăng trên các báo ở Pittsburgh với lời lẽ không lấy gì làm dễ chịu lắm.

Chẳng có gì phải giấu giếm cả, cô ta đã nói hết cho cảnh sát biết.

Rồi đến tối qua, chiếc chìa khóa được tra vào ổ và bố cậu bước vào nhà, dẫn theo một cô gái có thai mà ông nói rằng mình vừa gặp, ông không thể giải thích được vì sao cô lại ở đây. Ông chỉ nói cộc lốc là cô cần được giúp đỡ.

Có cả ngàn cách để giúp, mẹ cậu đã nói thẳng, nhắc đến cô gái như thể cô không đứng ở sảnh chờ, trong chiếc áo khoác rộng thùng thình vậy. Anh có thể đưa tiền. Không thì đưa cô ta đến nơi dành cho các bà mẹ đơn thân cũng được. Chứ không phải là biến mất tăm mất tích mà không nói một lời nào rồi lại lù lù quay về cùng một cô gái lạ đang bụng mang dạ chửa thế này. Trời ơi, David, anh không biết gì sao? Mẹ con tôi đã phải gọi cảnh sát! Chúng tôi cứ nghĩ anh đã chết rồi cơ đấy.

Có khi anh đã chết rồi, ông đáp, và câu trả lời kỳ dị của ông đã dập tắt sự phản đối của mẹ, khiến Paul đứng như đóng đinh tại chỗ trên cầu thang.

Muốn tìm ra những điều cô biết về bố cậu.

Mắt cô chớp chớp rồi mở ra, cô nhìn cậu chăm chăm một lúc, vẫn còn mông lung. Sau đó cô bật dậy rất nhanh, đưa tay vuốt vội mái tóc. Cô đang mặc chiếc áo thun cũ bạc phếch của cậu, chiếc áo màu xanh có biểu tượng của đội Kentucky Wildcats chạy ngang trước ngực mà cậu đã mặc cách đây nhiều năm khi tập chạy. Cánh tay cô dài và mảnh mai, lấm tấm; cậu còn thoáng thấy làn da mượt mà dưới cánh tay, lỗ chân lông, cùng đường cong mềm mại nhô lên của bầu ngực.

"Cậu nhìn cái gì thế?" Cô thả chân xuống sàn.

Cậu lắc đầu, không nói được gì.

"Cậu là Paul," cô nói. "Bố cậu đã kể cho tôi rồi."

"Thật à?" cậu hỏi, ghét cái giọng nôn nóng của chính mình. "Ông ấy nói gì?"

Cô nhún vai, gài tóc ra sau tai, và đứng dậy. "Xem nào. Cậu rất cứng đầu. Cậu ghét ông ấy. Cậu là một tay chơi ghi ta thiên tài."

Paul cảm thấy hơi nóng dâng lên đầy mặt. Bình thường cậu vẫn nghĩ rằng ông thậm chí còn không nhìn thấy cậu, hoặc nếu có thì cũng chỉ nhìn theo những tiêu chuẩn mà cậu chẳng thể đáp ứng.

"Tôi không ghét ông ấy," cậu đáp. "Ngược lại là đằng khác."

Cô khom người thu chăn gối lại, rồi ngồi xuống, tay vẫn ôm cả đống chăn, mắt nhìn quanh.

"Chỗ này đẹp quá," cô nói. "Rồi có ngày tôi cũng sẽ có một căn nhà đẹp như thế này."

Paul cười hoảng. "Cô đang có thai," cậu nói. Đó là nỗi sợ hãi của riêng cậu trong căn phòng đó, nỗi sợ hãi dâng lên mỗi lần cậu lẩy bẩy đi ngang qua ga ra đến chỗ Lauren Lobeglio, bị cuốn hút bởi ham muốn nhục dục không thể cưỡng lại của chính mình.

"Phải. Thế thì sao? Tôi có thai. Chứ có chết đâu."

Cô đốp lại bằng giọng thách thức, nhưng trong đó có cả sự hoảng sợ, sự hoảng sợ mà chính Paul đôi khi cũng cảm thấy, lúc choàng tỉnh giữa đêm khuya, giữa giấc mơ về Lauren, hơi ấm cùng cảm giác mượt mà và giọng nói của cô ả thì thầm vào tai cậu, cậu biết mình không thể dừng lại được dù cả hai đang kéo nhau rơi xuống vực thẳm.

"Cũng có khác gì đâu," cậu nói.

Cô ngước lên giận dữ, nước mắt vòng quanh, như thể cậu vừa tát thẳng vào mặt cô.

"Tôi xin lỗi," cậu nói. "Tôi không có ý gì đâu."

Cô vẫn khóc nức nở.

"Thế cô làm gì ở đây?" cậu chì chiết, cáu tiết vì cô cứ khóc mãi, vì chính sự hiện diện của cô ở đây. "Ý tôi là, cô nghĩ mình là ai mà dám bám chằng chằng lấy bố tôi về đến tận đây?"

"Tôi chẳng nghĩ mình là ai cả," cô nói, cách nói của Paul khiến cô hơi hoảng, cô lau khô mắt, tỏ ra cứng cỏi và xa cách hơn. "Mà tôi cũng không đòi đến đây. Đấy là ý của bố cậu đấy chứ."

"Nghe chả hợp lý gì cả," Paul nói. "Sao ông ấy phải làm thế?"

Cô nhún vai. "Làm sao mà tôi biết được? Tôi đang sống trong căn nhà cũ nơi ông ấy lớn lên thì ông ấy nói là tôi không thể tiếp tục sống ở đó nữa. Đó là nhà của ông ấy, đúng không? Tôi còn nói gì được đây? Sáng ra chúng tôi đi bộ xuống thị trấn, ông ấy mua vé xe buýt rồi chúng tôi về đến đây. Đi xe buýt thật kinh khủng. Chuyển bến lâu không thể tưởng nổi."

Cô túm mớ tóc dài sau gáy rồi cột chặt lại kiểu đuôi ngựa, Paul ngắm nhìn cô, thầm nghĩ đôi tai của cô thật xinh xắn, tự hỏi không hiểu bố cậu có thấy cô xinh đẹp không.

"Căn nhà cũ nào cơ?" Paul hỏi, đột nhiên cảm thấy có gì đó vừa sắc nhọn vừa nóng bỏng xuyên vào ngực mình.

"Tôi nói rồi mà. Căn nhà nơi bố cậu lớn lên ấy. Tôi đã sống ở đó. Tôi chẳng còn nơi nào khác để đi cả," cô nói thêm, mắt liếc ra cửa.

Paul cảm thấy trong lòng mình tràn ngập một thứ cảm xúc không thể gọi tên. Ghen tị, có lẽ vậy, vì cô gái này, kẻ xa lạ xanh xao gầy guộc với đôi tai xinh xắn này, đã từng ở một nơi rất có ý nghĩa với bố cậu, nơi mà chính cậu cũng chưa bao giờ nhìn thấy. Để khi nào bố sẽ đưa con đến đó, bố cậu từng hứa như thế, nhưng bao nhiêu năm đã trôi qua và ông không bao giờ nhắc lại chuyện đó nữa. Dù vậy Paul chưa bao giờ quên, cái dáng bố cậu ngồi giữa căn buồng tối ngổn ngang, cẩn thận nhặt từng tấm ảnh lên. Mẹ của bố, Paul ạ, bà nội của con. Bà đã sống một cuộc đời cơ cực. Bố có một cô em gái, con có biết không nhỉ? Tên cô là June. Cô hát rất hay, giỏi nhạc, giống y như con ấy. Tới bây giờ cậu vẫn còn nhớ mùi hương của bố sáng hôm đó, một mùi hương sạch sẽ, ông đã ăn mặc chỉnh tề để đến bệnh viện, tuy vậy ông vẫn ngồi lại trên sàn buồng tối, tâm tình như thể ông có tất cả thời gian trên đời này. Để kể câu chuyện mà Paul chưa từng nghe bao giờ.

"Bố tôi là bác sĩ," Paul nói. "Ông ấy thích giúp đỡ mọi người."

Cô gật đầu rồi nhìn thẳng vào cậu, mặt tràn ngập cảm xúc gì đó - thương hại, đó là thứ cảm xúc mà cậu đọc thấy, từng đầu ngón tay cậu như nóng ran lên.

"Gì?" cậu hỏi.

Cô lắc đầu. "Chẳng có gì cả. Cậu nói đúng. Tôi cần được giúp đỡ. Thế thôi."

Một lọn tóc tuột khỏi cái đuôi ngựa rơi xuống mặt cô, một lọn tóc rất sẫm ánh đỏ, cậu nhớ lại mái tóc ấy mềm mại biết mấy khi cậu chạm vào lúc cô đang ngủ, mềm và ấm, cố kìm nén ước muốn được giơ tay gài lọn tóc ra sau tai cô.

"Bố tôi có một cô em gái," Paul nói, nhớ lại câu chuyện và giọng nói đều đều, nhẹ nhàng của bố cậu, để thử xem có thật cô đã ở đấy không.

"Tôi biết. June. Cô ấy được chôn cất ở sườn đồi phía trên ngôi nhà. Chúng tôi cũng đã đến đấy rồi."

Cảm giác nóng ran thoáng qua giờ bừng lên khắp người, khiến hơi thở của cậu trở nên nhẹ và nông. Nếu cô biết chuyện này thì cũng có gì quan trọng đâu? Có gì khác đâu? Thế nhưng cậu không thể ngăn nổi mình tưởng tượng ra cô ở đó, đi lên sườn đồi, theo gót bố cậu tới nơi mà cậu chưa bao giờ nhìn thấy.

"Thế thì sao?" cậu nói. "Ừ thì cô đã từng ở đó rồi, thì sao nào?"

Dường như cô định nói gì đó, nhưng rồi cô quay đi và bước qua phòng vào bếp. Mái tóc sẫm màu của cô buộc thành một dải dài, khẽ nảy trên lưng. Vai cô gầy và mảnh, cô bước đi chậm rãi, với vẻ duyên dáng cẩn trọng, hệt như một vũ công.

"Đợi đã," Paul gọi với theo, nhưng khi cô dừng bước cậu lại chẳng biết phải nói gì.

"Tôi cần một chỗ ở," cô ngoảnh đầu lại, dịu dàng nói. "Cậu chỉ cần biết thế thôi, Paul ạ."

Cậu nhìn cô đi vào trong bếp, nghe thấy tiếng cửa tủ lạnh mở ra rồi đóng lại. Sau đó cậu lên gác lấy chiếc cặp giấu kỹ trong ngăn kéo cuối cùng ra, chiếc cặp đựng đầy những tấm ảnh cậu đã giữ lại từ cái đêm nói chuyện với bố.

Cậu mang những tấm ảnh cùng cây đàn ghi ta ra hiên nhà, cởi trần, đi chân đất. Cậu ngồi trên xích đu chơi đàn, mắt vẫn dõi theo cô gái khi cô di chuyển giữa các phòng: bếp, phòng khách, phòng ăn. Nhưng cô hầu như không làm gì nhiều, chỉ ăn ít sữa chua rồi đứng hồi lâu trước giá sách của mẹ cậu, lấy một cuốn tiểu thuyết và ngồi vào sofa.

Cậu vẫn tiếp tục chơi đàn. Âm nhạc xoa dịu tâm hồn cậu, theo cách mà không thứ gì khác có thể thay thế được. Cậu lạc vào một hành tinh khác nơi những ngón tay cậu dường như tự cử động. Từng nốt nhạc đã ở sẵn đó, nốt này nối tiếp nốt kia. Cậu chơi một mạch đến hết bản nhạc rồi dừng tay đàn, mắt nhắm nghiền, để những nốt nhạc tan dần trong không trung.

Không bao giờ lặp lại nữa. Thứ âm nhạc này, giây phút này, không bao giờ nữa.

"Chà chà." Cậu mở mắt ra và thấy cô đang đứng tựa vào khung cửa. Cô đẩy cánh cửa lưới bước ra ngoài hiên, tay cầm một cốc nước, và ngồi xuống. "Chà, bố cậu nói đúng thật," cô nói. "Tuyệt quá."

"Cảm ơn," cậu đáp, đầu cúi xuống để giấu nỗi sung sướng, đúng là gãi trúng chỗ ngứa có khác. Âm nhạc đã xoa dịu cậu; cậu không còn cáu giận nữa. "Còn cô thì sao? Cô có chơi nhạc không?"

"Không. Tôi từng học đàn piano thôi."

"Ở nhà tôi cũng có một cây đàn piano đấy," cậu nói, đoạn gật đầu ra hiệu về phía cánh cửa. "Chơi thử đi."

Cô mỉm cười, mặc dù đôi mắt vẫn nghiêm nghị. "Thôi. Cảm ơn cậu. Tôi đang không có hứng. Vả lại, cậu chơi hay quá đi mất. Y như dân chuyên nghiệp ấy. Tôi có chơi 'Gửi Elise' hay bản nào thì cũng xấu hổ với cậu lắm."

Cậu cũng mỉm cười. "'Gửi Elise' à. Bản đấy tôi cũng biết. Chúng ta có thể chơi song tấu."

"Song tấu à," cô lặp lại, gật gù, rồi hơi cau mày. Sau đó cô nhìn lên. "Cậu là con một à?" cô hỏi.

Cậu giật mình. "Phải mà cũng không phải. Ý tôi là, tôi có một đứa em gái nữa. Em song sinh. Nó chết rồi."

Rosemary gật đầu. "Cậu có bao giờ nghĩ đến cô ấy không?"

"Có chứ." Cậu cảm thấy không thoải mái và nhìn lảng đi chỗ khác. "Cũng không hẳn là nghĩ về nó. Ý tôi là, tôi đã nhìn thấy nó bao giờ đâu. Chỉ là nghĩ xem nó sẽ như thế nào thôi."

Mặt cậu đỏ bừng lên, cậu sốc khi thấy mình có thể giãi bày nhiều đến thế với cô gái này, kẻ lạ mặt đã làm rối tung cuộc sống của bọn họ, cô gái mà cậu thậm chí còn không ưa.

"Được rồi," cậu nói. "Đến lượt cô. Kể cho tôi điều gì đó riêng tư một chút xem nào. Chuyện gì mà bố tôi không biết ấy."

Cô nhìn Paul dò xét.

"Tôi không thích ăn chuối," cuối cùng cô nói, và cậu cười phá lên, rồi đến cô cũng cười. "Không, nói thật mà, tôi không thích. Còn gì nữa nhỉ? Hồi lên năm, tôi bị ngã xe đạp và gãy tay."

"Tôi cũng thế," Paul nói. "Tôi cũng bị gãy tay hồi lên sáu. Tôi bị ngã từ trên cây xuống." Cậu nhớ lại chuyện lúc đó, cái cách bố đã bế cậu lên, bầu trời vụt qua trước mắt, tràn ngập ánh nắng và lá cây, khi bố đưa cậu ra xe. Cậu nhớ cả đôi tay của bố, thật chính xác và dịu dàng khi ông nẹp xương, và họ lại quay về nhà, đi trong ánh nắng dát vàng của buổi chiều tà.

"Này," cậu nói. "Tôi cho cô xem cái này nhé."

Cậu đặt chiếc ghi ta nằm xuống xích đu rồi cầm mấy tấm ảnh đen trắng ram ráp lên.

"Có phải chỗ này không?" cậu hỏi, đoạn đưa một tấm ảnh cho cô. "Nơi cô gặp bố tôi ấy?"

Cô cầm lấy tấm ảnh và xem xét một lúc, rồi gật đầu. "Đúng rồi. Bây giờ thì trông khác rồi. Xem ảnh cũng thấy chỗ này từng là một ngôi nhà đẹp - có mấy tấm rèm rất xinh treo ở cửa sổ, cả hoa nữa chứ. Nhưng bây giờ chẳng còn ai sống ở đấy cả. Căn nhà chỉ để không thôi. Gió tràn vào tận nhà vì cửa sổ vỡ hết rồi. Hồi còn nhỏ bọn tôi từng chơi ở đấy. Chúng tôi từng chạy như điên trên đồi, tôi còn chơi trong ngôi nhà này với mấy anh chị họ nữa. Họ bảo ngôi nhà này bị ma ám, những tôi vẫn thích nó lắm. Tôi chẳng biết vì sao nữa. Nó giống như là một nơi bí mật của riêng tôi ấy. Đôi lúc tôi ngồi trong nhà, vẩn vơ mơ mộng xem sau này mình sẽ ra sao."

Cậu gật đầu, lấy lại tấm ảnh và ngắm nhìn những hình người như cậu đã từng làm hàng trăm lần trước đó, như thể họ có thể trả lời mọi câu hỏi của cậu về bố vậy.

"Chắc cô đã không mơ đến lúc này," cuối cùng cậu nói, mắt ngước lên.

"Không," cô khẽ đáp. "Chưa bao giờ."

Cả hai không nói gì một lúc. Ánh nắng xuyên qua tán cây, hắt bóng xuống sàn hiên nhà phủ sơn.

"Rồi. Lại đến lượt cậu," lát sau cô lên tiếng, mặt hướng về phía cậu.

"Đến lượt tôi á?"

"Nói cho tôi nghe chuyện gì mà bố cậu không biết ấy."

"Tôi sắp vào học ở Juilliard," cậu nói, từ ngữ nối nhau tuôn ra, reo vui như tiếng nhạc. Cậu chưa nói cho ai biết trừ mẹ. "Ban đầu tôi được đưa vào danh sách đợi thôi, nhưng tuần trước tôi vừa được nhận rồi. Lúc đó bố tôi không có ở nhà."

"Chà chà." Cô cười hơi buồn buồn. "Tôi đang nghĩ đến món rau cậu thích cơ đấy," cô nói. "Nhưng cũng tuyệt lắm, Paul ạ. Tôi luôn nghĩ được học đại học thì rất tuyệt."

"Rồi cô cũng sẽ được học đại học thôi mà," cậu nói, đột nhiên nhận ra cô quá thiệt thòi.

"Tôi sẽ đi học. Chắc chắn tôi sẽ di."

"Chắc tôi sẽ phải tự trả tiền học cho mình thôi." Paul nói ướm khi nhận thấy quyết tâm sắt đá của cô, nó lấn át cả nỗi sợ hãi. "Bố tôi đã sắp đặt sẵn cho tôi một sự nghiệp chắc chắn. Ông ấy ghét nghề cầm ca lắm."

"Cậu không biết đâu," cô nói, ánh mắt nhìn lên sắc lạnh. "Cậu không biết tất cả mọi điều về bố cậu."

Paul không biết phải trả lời thế nào, và họ ngồi trong im lặng trong vài phút. Hai người bị ngăn cách với con phố bên ngoài bởi một hàng rào mắt cáo, những sợi dây leo của cây ông lão bò kín rào, những khóm hoa màu tím và trắng nở rộ, thế nên khi hai chiếc xe dừng lại trên lối vào, bố mẹ bất thình lình trở về nhà vào giữa buổi, Paul thoáng thấy họ qua mắt lưới crôm sáng lóa. Cậu và Rosemary nhìn nhau. Tiếng cửa xe đóng sầm lại, dội sang tận bên nhà hàng xóm. Rồi có tiếng chân, và lời qua tiếng lại của bố mẹ, khẽ nhưng kiên quyết vang lên, ngay bên ngoài hiên nhà. Rosemary há miệng ra như định gọi, nhưng Paul phẩy tay lắc đầu, và họ ngồi trong im lặng, chăm chú nghe ngóng.

"Hôm nay," mẹ cậu nói. "Cả tuần nay. Giá mà anh biết anh đã gây ra cho mẹ con tôi bao nhiêu nỗi đau, David ạ."

"Anh xin lỗi. Em nói đúng. Lẽ ra anh phải gọi về. Anh đã định gọi rồi đấy chứ."

"Chỉ thế thôi là đủ hay sao? Có khi tôi cũng thử bỏ đi một lần nhỉ," mẹ nói. "Như anh ấy. Có lẽ tôi cứ biến mất rồi quay lại với một anh chàng trẻ trung điển trai mà chẳng cần giải thích nửa lời. Khi ấy liệu anh sẽ nghĩ gì?"

Im lặng, và Paul nhớ đến đống quần áo sặc sỡ vứt lại trên bờ biển. Cậu nghĩ đến bao buổi tối mẹ không về nhà trước nửa đêm. Chuyện kinh doanh ấy mà, lúc nào mẹ cũng than, rồi tụt giày vứt ở sảnh chờ và lên giường đi ngủ ngay. Cậu quay sang Rosemary, cô đang chăm chú nhìn tay mình, cậu ngồi thật yên, ngắm nhìn cô, tai lắng nghe, chờ đợi xem điều gì sẽ xảy ra tiếp theo.

"Con bé chỉ là một đứa trẻ thôi mà em," cuối cùng bố cậu cũng lên tiếng. "Nó mới có mười sáu tuổi mà lại đang bụng mang dạ chửa, sống một thân một mình trong căn nhà hoang. Anh không thể bỏ mặc nó ở đó được."

Mẹ cậu thở dài. Paul tưởng tượng ra mẹ đang luồn tay vào tóc.

"Đây có phải là khủng hoảng tuổi trung niên không?" mẹ hỏi nhỏ. "Có phải không?"

"Khủng hoảng tuổi trung niên?" Giọng bố cậu đều đều, có vẻ trầm tư, như thể ông đang xem xét lại những dẫn chứng thật cẩn thận. "Anh nghĩ có lẽ là vậy. Anh biết mình bế tắc rồi, Norah ạ. Lúc ở Pittsburgh. Hồi còn trẻ anh rất quyết tâm. Anh đã không có được cái lựa chọn xa xỉ là trở thành một thứ gì đó khác. Anh quay về quê nhà để cố làm rõ một số việc. Và Rosemary ở đó, trong ngôi nhà cũ của anh. Dường như đó không phải là một việc ngẫu nhiên. Anh không biết nữa, anh không thể nào giải thích chuyện này mà không khiến cho nó nghe có vẻ điên rồ được. Nhưng xin em hãy tin anh. Anh không yêu con bé. Không phải vậy đâu. Không bao giờ có chuyện đấy."

Paul nhìn Rosemary. Đầu cô cúi gằm nên cậu không thể đọc được nét mặt cô, nhưng đôi má cô đỏ bừng lên. Cô nhặt một mẩu móng tay gãy, không bắt gặp ánh mắt cậu.

"Tôi không biết tin vào cái gì nữa," mẹ cậu chậm chạp nói. "Cả tuần nay, David ạ, cả các tuần khác nữa. Anh có biết tôi vừa đi đâu về không? Tôi đi với Bree đấy, chúng tôi phải đến gặp bác sĩ chuyên khoa ung thư. Tuần trước dì ấy vừa làm sinh thiết xong: ở bên ngực trái. Đó chỉ là một khối u nhỏ, kết quả chẩn đoán bệnh khá tốt, nhưng đó là khối u ác tính."

"Anh không biết, Norah. Anh xin lỗi."

"Không, đừng động vào người tôi, David."

"Ai làm phẫu thuật cho cô ấy?"

"Ed Jones."

"Tay nghề Ed rất tốt."

"Nên thế. David, tôi không cần thêm cơn khủng hoảng tuổi trung niên của anh nữa đâu."

Paul lắng nghe, cảm thấy từng câu từng chữ cứ chậm dần lại. Cậu nghĩ đến dì Bree, và tiếng cười sắc sảo của dì, dì là người sẵn sàng ngồi cả tiếng đồng hồ để nghe cậu chơi nhạc, âm nhạc tuôn trào quanh họ, vì thế họ chẳng cần phải nói gì thêm. Dì sẽ nhắm mắt lại và ngồi duỗi dài thoải mái trên xích đu, lắng tai nghe. Cậu không thể tưởng tượng nổi cuộc sống này sẽ ra sao nếu thiếu dì.

"Em muốn gì?" bố cậu hỏi. "Em muốn gì ở anh đây, Norah? Anh sẽ ở lại, nếu em muốn, hoặc anh sẽ dọn đi nơi khác. Nhưng anh không thể đuổi Rosemary đi được. Cô ấy chẳng còn nơi nào khác để đi nữa."

Im lặng và cậu chờ đợi, gần như không dám thở nữa, cậu nóng lòng muốn biết mẹ sẽ nói gì, nhưng lại mong bà đừng bao giờ trả lời.

"Thế còn con thì sao?" cậu hỏi, khiến chính bản thân mình cũng sững sờ. "Còn chuyện con muốn gì thì sao?"

"Paul?" Là giọng của mẹ.

"Con ở đây," cậu nói, đoạn cầm cây đàn lên. "Trên hiên nhà ấy. Con và cả Rosemary nữa."

"Ôi trời đất ơi," bố cậu kêu lên. Vài giây sau, ông đã đi vòng ra chỗ bậc thềm. Ông đã tắm rửa, cạo râu từ tối qua và thay một bộ đồ sạch sẽ. Ông gầy gò, trông mệt mỏi. Cả mẹ cậu cũng vậy, mẹ giờ cũng đến đứng cạnh bố.

Paul đứng dậy đối mặt với bố. "Con sắp vào học Juilliard rồi bố ạ. Họ vừa gọi con tuần trước. Con đã được nhận vào. Và con sẽ đi."

Rồi cậu chờ đợi, chờ bố cậu cằn nhằn như mọi bận: rằng sự nghiệp âm nhạc không có gì chắc chắn, kể cả có đi theo dòng nhạc cổ điển. Rằng Paul có rất nhiều lựa chọn; lúc nào cậu cũng có thể chơi nhạc và tận hưởng niềm vui của thú chơi này, ngay cả khi cậu sống bằng nghề khác. Cậu chờ đợi để thấy bố cậu tỏ ra kiên quyết, viện đủ các thứ lý lẽ và giữ thái độ bảo thủ, để Paul có thể tìm cớ trút giận. Người cậu căng lên, sẵn sàng đáp trả, nhưng điều đáng ngạc nhiên là bố cậu chỉ gật đầu.

"Tốt cho con đấy," bố cậu nói, và rồi trong giây lát, khuôn mặt ông dịu lại sung sướng, những nếp nhăn âu lo trên trán giãn ra. Khi ông cất lời, giọng ông dịu dàng và chắc chắn. "Paul, nếu đó là điều con muốn, thì cứ đi đi. Đi và học hành thật chăm chỉ và luôn vui vẻ con nhé."

Paul đứng lúng túng trên hiên nhà. Suốt bao năm qua, mỗi lần cậu và bố nói chuyện, cậu có cảm giác như đang đâm đầu vào tường. Giờ đây bức tường đã biến mất một cách bí ẩn nhưng cậu thì vẫn đang chạy vào khoảng không, choáng váng và hoang mang.

"Paul?" bố cậu nói. "Bố rất tự hào về con, con trai ạ."

Mọi con mắt đều đổ dồn về phía cậu, và lệ dâng lên mắt cậu. Cậu không biết phải nói gì, vì thế cậu bắt đầu bước đi, lúc đầu chỉ để khuất tầm mắt mọi người, để cậu không phải xấu hổ thêm nữa, và sau đó thì cậu chạy thực sự, cây đàn vẫn trong tay.

"Paul!" mẹ cậu gọi với theo, và khi cậu quay đầu lại, chân chạy lùi vài bước, cậu thấy mẹ xanh xao quá, cánh tay bà khoanh lại trước ngực căng thẳng, lọn tóc mới nhuộm bay phất phơ trong gió. Cậu nghĩ đến dì Bree, nghĩ đến những gì mẹ vừa nói, thấy mẹ và dì đã trở nên giống nhau đến mức nào và cảm thấy lo sợ. Cậu nhớ khi bố đứng trên sảnh chờ, quần áo lấm bẩn, những sợi râu đen mọc lởm chởm, tóc tai rối bời. Còn giờ đây, trong buổi sáng hôm nay, ông đã sạch sẽ và điềm tĩnh trở lại, nhưng vẫn có gì thay đổi. Bố cậu - hoàn hảo, chính xác, chắc chắn về mọi việc - đã trở thành một con người khác. Phía sau, bị che khuất một nửa bởi giàn dây leo ông lão, Rosemary đứng im nghe ngóng, tay khoanh lại, mái tóc buông dài chảy xuống bờ vai, và cậu hình dung ra lúc cô ở trong ngôi nhà dựng trên sườn đồi, nói chuyện với bố cậu, cùng ngồi trên xe buýt với ông hàng tiếng đồng hồ đằng đẵng, dường như chính cô đã góp phần vào sự thay đổi của bố cậu, và trong cậu lại cồn lên mối lo sợ không biết sẽ còn điều gì nữa xảy ra với bọn họ.

Vì thế cậu chạy đi.

Đó là một ngày nắng chói chang, trời đã chuyển ấm. Ông Ferry, bà Pool đứng vẫy tay trên hiên nhà họ. Paul giơ cao cây đàn ghi ta lên để chào và chạy tiếp. Cậu chạy cách đó ba dãy nhà, rồi năm, rồi mười. Phía bên kia đường, trước một căn nhà gỗ thấp lè tè, một chiếc xe hơi không người lái ở đó, động cơ vẫn nổ. Có lẽ người chủ xe quên thứ gì đó, vừa chạy vào nhà vồ lấy cặp hoặc áo jacket. Paul dừng lại. Đó là một chiếc Gremlin màu nâu vàng, con xe xấu nhất gầm trời này, bộ khung đã han gỉ. Cậu băng qua đường, mở cửa đằng ghế lái, và ngồi vào trong xe. Không ai hét lên; không ai chạy bổ từ trong nhà ra. Cậu đóng sập cửa lại và điều chỉnh ghế ngồi cho chân có khoảng trống cử động. Cậu đặt cây ghi ta lên chiếc ghế bên cạnh. Đây là kiểu xe số tự động, trong xe vương vãi đầy vỏ kẹo và bao thuốc lá rỗng. Chủ xe này hẳn là một kẻ thảm hại, cậu thầm nghĩ, có thể là một bà chị to son trét phấn dày cộp làm thư ký ở chốn công sở buồn chán và tẻ ngắt nào đó, hoặc làm nghề giặt ủi, có thể lắm, hoặc làm ở ngân hàng. Cậu vào số và lùi xe.

Vẫn không thấy gì: không la hét, không báo động. Cậu nhấn ga và phóng đi.

Cậu chưa lái xe nhiều lắm, nhưng việc này có vẻ cũng giống như làm tình: nếu bạn cứ vờ biết chuyện gì đang xảy ra, thì chẳng mấy chốc bạn sẽ biết, còn tiếp theo chỉ hoàn toàn là vấn đề bản năng thứ hai mà thôi. Hồi còn học trung học, Ned Stone và Randy Delaney vẫn hay la cà xó xỉnh, ngồi lê trên bãi cỏ mãi mới chịu vào lớp, còn cậu thường ngó nghiêng để tìm bóng Lauren Lobeglio, cô ả thỉnh thoảng vẫn hay lê la với bọn này, hơi thở luôn hăng hắc mùi khói thuốc mỗi lần cậu hôn ả.

Cây đàn ghi ta trượt xuống. Cậu dừng xe rồi dùng dây đai an toàn cột chặt nó lại. Một con Gremlin à, cứt thật. Giờ đây cậu lái xuyên qua thành phố, cẩn thận dừng lại ở tất cả các cột đèn giao thông, một ngày xanh ngắt và tràn đầy hứng khởi. Cậu nhớ đến đôi mắt đẫm lệ của Rosemary. Cậu không định làm cô tổn thương, nhưng sự thật là cậu đã khiến cô buồn. Và có điều gì đó đã xảy ra, có gì đó đã thay đổi. Cô là một phần trong đó còn cậu thì không, mặc dù nét mặt bố cậu, chỉ trong một thoáng thôi, tràn ngập niềm hạnh phúc trước cái tin cậu thông báo.

Paul lái đi. Dù có chuyện gì xảy ra đi nữa thì cậu cũng không muốn ở trong ngôi nhà đó. Cậu lái đến đại lộ liên bang nơi con đường tách ra một ngả hướng lên phía Tây, dẫn tới Louisville. Hình ảnh California lấp lánh trong óc cậu: âm nhạc, những bãi biển trải dài ngút mắt. Lauren Lobeglio sẽ tự tìm được một người khác để cặp. Cô ả không yêu cậu mà cậu cũng chẳng yêu cô ả; ả giống như một cơn nghiện, và những gì họ làm chỉ đem lại sự u ám cho mối quan hệ đó, một gánh nặng. California. Rồi chẳng mấy chốc cậu sẽ đứng trên bãi biển, chơi trong một nhóm nhạc và sống cuộc sống nghèo nàn nhưng thảnh thơi suốt mùa hè dài. Đến mùa thu, cậu sẽ tìm cách để vào học Juilliard. Có lẽ sẽ vẫy xe đi nhờ dọc đất nước chẳng hạn. Cậu kéo cửa kính xuống suốt cả đường đi, để làn gió xuân tràn vào bên trong. Chiếc Gremlin hầu như không thể lên đến mức 55 km/h dù cậu đã nhấn ga hết cỡ. Dù vậy, cậu vẫn có cảm giác như mình đang tung bay.

Cậu đã từng đi trên con đường này, theo những chuyến tham quan trường tổ chức đến vườn thú Louisville và trước đó, là trên những cuốc xe điên rồ mẹ cậu đã đi khi cậu còn nhỏ xíu, khi ấy cậu thường ngồi ở ghế sau nhìn cành lá cùng đường dây điện thoại loang loáng vụt qua cửa kính. Lúc ấy mẹ hay hát, rất to, theo tiếng nhạc từ radio phát ra, giọng bà run rẩy, bà hứa với cậu là sẽ dừng lại ăn kem, uống nước, nếu cậu ngoan ngoãn ngồi im. Bao nhiêu năm qua cậu đã ngoan ngoãn, nhưng cũng có gì khác đâu. Cậu đã khám phá ra âm nhạc và trút hết tâm sự của mình vào ngôi nhà vắng lặng, vào cái hố sâu mà cái chết của em gái cậu đã tạo ra trong cuộc sống của họ, rồi cũng chẳng giải quyết được gì. Cậu đã cố gắng hết sức mình để bắt bố mẹ ngước lên khỏi cuộc sống của họ, để nghe thấy vẻ đẹp, niềm vui mà cậu đã tìm thấy. Cậu đã tập rất nhiều và trở nên vô cùng điêu luyện. Vậy mà trong suốt thời gian qua họ cũng chẳng buồn để tâm, dù chỉ một lần, cho đến khi Rosemary bước qua ngưỡng cửa và xáo trộn tất cả. Hoặc có lẽ cô chẳng thay đổi điều gì hết. Có lẽ chính sự hiện diện của cô đã soi rọi một luồng ánh sáng mới mẻ, khám phá lên cuộc sống của họ, thay đổi cách nhìn của bọn họ. Dẫu sao một bức tranh có thể ẩn chứa hàng ngàn nét khác biệt cơ mà.

Cậu đặt một tay lên cây đàn ghi ta, cảm nhận thớ gỗ ấm áp, mượt mà. Cậu nhấn ga hết cỡ, xe leo lên giữa những bức tường đá vôi nơi con đường cao tốc chạy xuyên đồi, rồi lao xuống dốc theo cung đường uốn quanh sông Kentucky, chạy như bay. Cây cầu rít lên dưới bánh xe cậu. Paul mải miết lái đi, cố gắng làm tất cả, trừ suy nghĩ.

Chương 18Tháng Tư Năm 1982

BÊN NGOÀI CÁNH CỬA ỐP KÍNH PHÒNG LÀM VIỆC CỦA NORAH, khu văn phòng lao xao. Neil Simms, giám đốc nhân sự của IBM, bước qua những cánh cửa ngoài, thấp thoáng bóng bộ com lê đen, đôi giày đánh xi bóng lộn. Bree, đang nán lại phòng lễ tân để tập hợp các tờ fax đến, quay lại chào ông ta. Bà mặc bộ đồ công sở vải linen màu vàng và đi đôi giày vàng sậm; vòng vàng sáng choang trôi xuống cổ tay khi bà giơ ra bắt tay ông ta. Dưới vẻ ngoài trang nhã, trông bà gầy và hơi xương xương. Dẫu vậy, tiếng cười của bà vẫn thanh thoát, xuyên qua cả lớp kính đến tận nơi chị gái đang ngồi nói chuyện điện thoại, trên bàn là một cặp tài liệu bắt mắt được Norah chuẩn bị hàng tuần liền, bìa in chữ IBM đen đậm.

"Kìa, Sam," Norah nói. "Tôi đã bảo anh đừng gọi cho tôi rồi, tôi không đùa đâu đấy."

Một khoảng im lặng dài dặc lạnh giá đập vào tai bà. Bà mường tượng ra cảnh Sam ở nhà, ngồi làm việc bên dãy cửa sổ nhìn ra hồ. Ông ta là một nhà phân tích đầu tư, Norah đã gặp ông ta trong nhà để xe sáu tháng trước, trong ánh sáng tù mù gần thang máy. Chìa khóa của bà rơi, và ông ta đã bắt lấy khi nó còn lơ lửng trong không khí, nhanh nhẹn và nhẹ nhàng, bàn tay loang loáng như cá bơi. Của cô phải không? ông ta hỏi, với nụ cười cởi mở thoáng hiện - một câu nói đùa, vì thật ra lúc đó chỉ có hai người bọn họ. Norah thấy rộn lên cảm giác nôn nao quen thuộc, một sự khoan khoái ám muội xuyên vào lòng, bà gật đầu. Ngón tay ông ta lướt qua làn da bà; chùm chìa khóa rơi vào lòng bàn tay bà lạnh buốt.

Đêm hôm đó ông ta để lại một tin nhắn trong điện thoại của bà. Tim Norah đập nhanh hơn, run lên trước giọng nói của ông ta. Tuy vậy, khi đoạn băng ghi âm chạy dứt, bà cố ép mình ngồi xuống và nhẩm đếm những mối tình bà đã kinh qua sau bao nhiêu năm - có mối tình chóng vánh, có mối tình lâu dài, say đắm, có mối tình dở dang, cay đắng và thân mật.

Bốn. Bà lấy mẩu chì đen cùn mòn viết con số ấy bên lề tờ báo sáng. Trên gác, nước nhỏ giọt tí tách trong bồn tắm. Paul đang ngồi trong phòng khách, chơi đi chơi lại một đoạn nhạc bằng cây ghi ta của mình. David ở bên ngoài, cặm cụi trong phòng tối - khoảng cách giữa hai người bọn họ quá lớn, luôn là thế. Norah đã dấn thân vào mỗi cuộc tình ái với cảm giác hy vọng và khát khao một khởi đầu mới mẻ, bà bị cuốn vào cơn lốc những cuộc gặp gỡ bí mật, những điều lạ lẫm và bất ngờ. Sau Howard là hai cuộc tình nối tiếp nhau, ngắn ngủi và ngọt ngào nhưng kéo dài lâu hơn. Mỗi cuộc tình nảy sinh trong những khoảnh khắc mà bà cảm tưởng sự im lặng nặng nề trong nhà sắp khiến mình phát điên, khi cái vũ trụ bí mật của một sự hiện diện khác, bất cứ sự hiện diện nào, cũng là phao cứu sinh đối với bà.

"Norah, làm ơn, em hãy nghe anh nói," Sam nói. Ông ta là một người đàn ông mạnh mẽ, kẻ luôn át vía người khác trong những cuộc đàm phán, một người mà bà không thực sự thích. Trong phòng tiếp tân, Bree quay lại liếc nhìn bà, vẻ dò hỏi, thiếu kiên nhẫn. Rồi rồi, Norah ra dấu qua lớp cửa kính, bà sẽ khẩn trương. Họ đã săn đón IBM suốt gần một năm ròng; chắc chắn bà sẽ khẩn trương. "Anh chỉ muốn hỏi chuyện Paul thôi," Sam vẫn ngoan cố. "Không biết em đã nghe được tin tức gì chưa. Vì anh sẽ luôn sẵn sàng giúp em, được chứ? Em nghe anh nói không, Norah? Anh ở đây là vì em, chỉ vì em thôi đấy."

"Tôi nghe rồi," bà đáp, tự cáu với mình - bà không muốn Sam nhắc đến con trai bà. Paul đã đi mất tăm hai tư giờ nay; một chiếc xe ở cách ba dãy nhà cũng đã mất tích. Bà nhìn thằng bé đi sau cuộc nói chuyện căng thẳng trên hiên nhà, cố nhớ lại mình đã nói những gì, thằng bé đã nghe được những gì, đau đớn khi nhìn thấy vẻ hoang mang hiển hiện trên mặt nó. David đã đúng khi cho Paul lời chúc tốt lành, nhưng không hiểu sao, hành động kỳ quặc đó đã làm cho giây phút ấy càng thêm tồi tệ. Bà đã nhìn Paul chạy vụt đi, cầm theo chiếc ghi ta, và suýt nữa thì chạy theo nó. Nhưng đầu bà đau như búa bổ, và bà tự trấn an mình rằng có lẽ thằng bé cần thêm chút thời gian để tự điều chỉnh. Vả lại, nó chẳng đi xa được đâu - rốt cuộc thì nó có thể đi đâu được?

"Norah?" Sam nói. "Norah, em có sao không?"

Bà nhắm mắt thật nhanh. Ánh mặt trời bình dị sưởi ấm khuôn mặt bà. Cửa sổ phòng ngủ của Sam được ghép từ những miếng kính lục lăng, và trong buổi sáng rực rỡ hôm ấy, ánh sáng và màu sắc chuyển động lung linh trên mọi bề mặt. Cứ như là làm tình trên sàn nhảy ấy, một lần bà đã nói với ông ta như thế, nửa như phàn nàn, nửa vui thích, những vệt màu dài nhảy múa trên tay ông ta, trên làn da trắng xanh của bà. Ngày hôm đó, cũng như mọi ngày kể từ khi họ gặp nhau, Norah đã định chấm dứt mọi chuyện. Rồi ngón tay Sam lần theo dải sáng loang lổ in trên đùi bà, và bà cảm thấy sự cả quyết của mình dần dần mềm ra, nhòa đi, những cảm xúc biến đổi từ trạng thái này sang trạng thái khác theo một chuỗi bí ẩn nào đó, từ màu chàm sậm chuyển sang ánh vàng, cảm giác miễn cưỡng, kỳ lạ thay, bỗng hóa thành ham muốn.

Dẫu vậy, cơn vui thú cũng chẳng kéo dài hơn một cuốc xe về nhà.

"Giờ tôi chỉ quan tâm đến Paul thôi," bà nói, và rồi, bằng giọng rất xẵng, bà thêm, "Sam, tôi chán rồi, thật đấy. Những gì tôi nói hôm nọ hoàn toàn nghiêm túc. Đừng gọi cho tôi nữa."

"Em đang căng thẳng đấy thôi."

"Phải. Nhưng tôi nói thật đấy. Đừng gọi cho tôi nữa. Đừng bao giờ gọi nữa."

Bà gác máy. Tay bà run lên; bà áp chặt nó xuống bàn. Bà cảm giác việc Paul biến mất là một sự trừng phạt: cho cơn giận dữ kéo dài của David, cho cơn giận dữ của chính bà. Chiếc xe thằng bé đánh cắp đã được tìm thấy đêm qua, bị bỏ không bên lề đường ở Louisville, nhưng không có dấu vết nào của Paul. Vì vậy bà và David lại tiếp tục chờ đợi, bất lực đi loanh quanh, xuyên qua hàng lớp im lặng trong ngôi nhà họ. Cô gái đến từ Tây Virginia vẫn ngủ trên chiếc sofa gấp đặt trong phòng làm việc. David không bao giờ động đến cô ta, thậm chí chẳng mấy khi nói chuyện, chỉ trừ lúc hỏi xem cô ta có cần thứ gì không. Dẫu vậy Norah vẫn linh cảm có gì đó giữa hai người bọn họ, một mối dây cảm xúc, sống động và vô cùng nhiệt thành, cảm giác ấy cứa vào tim gan bà, cũng nhiều như nỗi đau mà một mối quan hệ xác thịt ám muội có thể gây ra, mà có lẽ còn hơn thế.

Bree gõ lên mặt kính, rồi hé cánh cửa ra khoảng vài phân.

"Mọi chuyện ổn không chị? Vì Neil đã đến rồi, ở IBM ấy."

"Chị không sao," Norah đáp. "Em thế nào? Em khỏe không?"

"May mà em có mặt ở đây," Bree nói vẻ tươi tỉnh, kiên quyết. "Nhất là khi mọi việc rối tinh rối mù thế này."

Norah gật đầu. Bà đã gọi cho bạn bè của Paul, còn David gọi cho cảnh sát. Cả đêm qua cho đến tận sáng này bà chỉ đi quanh nhà trong chiếc áo choàng tắm, uống cà phê và tưởng tượng ra đủ thứ tai họa có thể ập đến. Cơ hội được đi làm, để cho một phần tâm trí của mình có thể nghĩ đến việc khác, đem lại cảm giác gì đó như sự ẩn náu. "Chị sẽ ra ngay," bà nói.

Khi bà vừa đứng lên thì chuông điện thoại lại đổ dồn, Norah để mặc cơn giận dữ mỏi mệt đẩy mình ra khỏi cửa. Bà sẽ không để Sam quấy rầy nữa, bà sẽ không để ông ta phá hỏng cuộc họp này, không. Những cuộc ngoại tình trước đó đã kết thúc theo một cách khác, hoặc chóng vánh hoặc chậm chạp, trong tình cảm nồng ấm hoặc không, nhưng không có lần nào lại gây nhiều khó chịu đến thế. Đừng bao giờ lặp lại nữa, bà tự nhủ. Hãy chấm dứt chuyện này, và đừng bao giờ lặp lại nữa.

Bà hối hả đi qua hành lang, nhưng Sally chặn bước bà ở quầy lễ tân, và chìa điện thoại ra. "Chị nên nghe máy, chị ạ," cô ta nói. Norah hiểu ngay, bà đón lấy ống nghe, người run rẩy.

"Họ tìm thấy thằng bé rồi." Giọng David trầm trầm. "Cảnh sát vừa gọi. Họ tìm thấy nó ở Louisville, đang ăn trộm đồ trong siêu thị. Con trai chúng ta bị bắt quả tang đang ăn trộm pho mát."

"Nó không sao rồi," bà nói, thở dài mà không nhận ra mình đã nín thở từ nãy giờ, máu lại chảy về từng đầu ngón tay. Ôi chao! Bà đã kiệt quệ mà không biết.

"Phải, nó vẫn khỏe. Chỉ đói thôi, rõ là thế. Anh đang trên đường đi đón nó. Em có muốn đi cùng không?"

"Có lẽ em nên đi. Em không biết nữa, David. Chắc anh nói nhầm rồi." Anh ở nhà với cô bồ của anh thì hơn, suýt nữa thì bà đã thêm vào.

Anh thở dài. "Anh không biết phải nói gì thì mới đúng, Norah? Anh thực sự muốn biết. Anh tự hào về nó, và anh đã nói với nó như thế. Nó bỏ đi và đánh cắp một chiếc xe. Vậy thì anh không hiểu phải nói gì thì mới là đúng đây?"

Quá ít ỏi, quá muộn màng, bà muốn nói thế. Còn cô bồ của anh thì sao? Nhưng bà không nói gì cả.

"Norah, thằng bé đã mười tám tuổi rồi. Nó đã đánh cắp xe. Nó phải chịu trách nhiệm về việc đó."

"Anh thì năm mươi mốt," bà đốp lại. "Anh cũng phải chịu trách nhiệm."

Sau đó là một khoảng im lặng; bà mường tượng ra ông đứng trong văn phòng, tự tin trong chiếc áo blouse trắng, mái tóc sinh động điểm bạc. Không ai nhìn thấy ông khi ấy có thể tưởng tượng được lúc ông bước chân về đến nhà: râu ria lởm chởm, quần áo tơi tả, vấy bẩn, đứng bên cạnh là một cô gái ôm cái bụng bầu trong chiếc áo khoác đen xơ xác.

"Thôi, anh cứ cho em địa chỉ đi," bà nói. "Em sẽ gặp anh ở đó."

"Thằng bé đang ở đồn cảnh sát, Norah. Bốt trung tâm. Thế em nghĩ nó còn ở đâu được nữa, sở thú à? Mà thôi, chờ anh chút. Anh sẽ đọc địa chỉ cho em."

Norah viết địa chỉ vào giấy, ngẩng đầu lên thì thấy Bree đóng cánh cửa chính sau lưng Neil Simms lại.

"Paul có sao không?" Bree hỏi.

Norah gật đầu, bà quá xúc động, quá nhẹ nhõm, đến mức không thể thốt nên lời. Nghe thấy tên con khiến cái tin vừa nghe được trở nên thật hơn. Paul đã an toàn, có lẽ đang bị còng tay, nhưng an toàn. Vẫn còn sống. Các nhân viên công ty quanh quẩn trong phòng lễ tân bắt đầu vỗ tay, còn Bree đi qua căn phòng ôm chầm lấy bà. Gầy quá, Norah thầm nghĩ, nước mắt dâng đầy mắt bà, hai đốt xương bả vai của em gái bà thật mỏng và nhọn, như những đôi cánh.

"Em sẽ lái xe," Bree nói, đoạn cầm lấy tay chị. "Đi nào. Chị kể cho em trên đường đi là được."

Norah để mặc mình bị dẫn xuống sảnh và ra tới thang máy, bị lôi vào chiếc xe đậu trong ga ra. Bree lái xe luồn qua những con phố đông đúc trong khu nội thành trong khi Norah kể lại mọi chuyện, cảm giác thanh thản tràn qua bà như một cơn gió.

"Chị không thể tin nổi," bà nói. "Chị cứ thao thức suốt đêm. Chị biết giờ Paul đã là người lớn. Chị biết chỉ vài tháng nữa nó sẽ đi học đại học, rồi lúc đó chị sẽ không nắm được nó ở đâu, vào lúc nào. Vậy mà chị không thể ngừng lo nghĩ."

"Thằng bé vẫn là con chị mà."

"Lúc nào cũng vậy. Để thằng bé tự lập mới khó làm sao. Khó hơn chị nghĩ nhiều."

Họ lái xe qua những tòa nhà thấp tè tẻ nhạt của công ty IBM, và Bree vẫy tay với chúng. "Chào nhé, Neil," bà nói. "Gặp lại anh sau."

"Mất bao nhiêu là công sức." Norah thở dài.

"Ôi, chị đừng lo. Chúng ta sẽ không mất khách hàng đâu," Bree nói. "Em đã cực kỳ, cực kỳ duyên dáng. Còn Neil là người đàn ông của gia đình. Em cũng ngờ rằng anh ta có vẻ mềm lòng trước những quý cô lâm nạn."

"May có em biến nguy thành an rồi," Norah trả miếng, bà nhớ đến Bree dưới ánh sáng đèn lọc trong phòng ăn nhiều năm về trước, tay vẫy vẫy cuốn sách mỏng dính in những điều cần biết về sữa mẹ.

Bree cười vang. "Cũng chẳng đến mức ấy. Chỉ là em vừa học được cách xử lý những gì mình gặp phải thôi. Rồi chúng ta sẽ có được khách hàng này, chị đừng lo."

Norah không đáp. Những cọc rào trắng trôi qua vùn vụt, mờ nhòe trên nền cỏ xanh tốt. Lũ ngựa đứng đủng đỉnh trên đồng, những kho thuốc lá xám xịt qua mưa nắng, nằm lẻ loi một bên sườn đồi này, rồi trên một sườn đồi khác. Mùa xuân đã chớm về, ở Derby, xuân thường đến sớm hơn, những nụ hồng đã xòe nở. Họ đi qua sông Kentucky, ngầu bùn và lấp lánh ánh sáng. Trên cánh đồng ngay bên kia cầu, một bông thủy tiên khẽ rung rinh, một cái chấm đẹp rực rỡ vụt hiện lên, rồi biến mất. Bà đã đi trên con đường này bao nhiêu lần rồi, gió luồn trên mái tóc, sông Ohio vẫy gọi với bao hứa hẹn, với vẻ đẹp cuồn cuộn trôi chảy của nó? Bà đã bỏ rượu, bỏ những cuốc xe ngợp gió; bà đã mua lại công ty du lịch này và phát triển nó; bà đã thay đổi cuộc đời mình. Nhưng rồi bà ngộ ra, rõ ràng, đột ngột, như thể một luồng sáng chói lòa ùa vào căn phòng: bà chưa bao giờ ngừng di chuyển. Đến San Juan và Bangkok, London và Alaska. Ngã vào vòng tay Howard và những người khác, đến với Sam và tới giây phút này.

"Chị không thể để mất em, Bree ạ," bà nói. "Chị không biết nhờ đâu em có thể bình tĩnh trước mọi việc như thế, vì chị có cảm giác như mình đang bế tắc." Bà nhớ ra hôm qua David đã nói y như vậy, khi đứng trên lối vào, cố gắng giải thích tại sao ông lại đưa Rosemary về nhà. Đã có chuyện gì xảy ra với ông ở Pittsburgh, chuyện gì đã khiến ông thay đổi nhường ấy?

"Em bình tĩnh mà," Bree đáp, "vì chị sẽ không mất em đâu."

"Tốt. Chị thấy vui vì em chắc chắn đến thế. Bởi chị không thể chịu nổi việc đó."

Vài dặm tiếp theo họ chỉ lái xe trong im lặng.

"Chị có nhớ cái sofa cũ màu xanh ọp ẹp của em không?" Cuối cùng Bree cất tiếng hỏi.

"Hơi hơi thôi," Norah nói, đoạn dụi dụi mắt. "Sao cơ?"

Một kho thuốc lá, rồi một kho khác, và tiếp đó là một dải màu xanh dài bất tận.

"Lúc nào em cũng thấy nó sao mà đẹp thế, cái sofa ấy. Rồi đến một ngày - đó là khoảng thời gian thực sự u ám trong cuộc đời em - ánh sáng chiếu vào căn phòng cũng khác, có lẽ là do ngoài trời tuyết đang rơi hay sao đó, em chợt nhận ra cái sofa cũ ấy đã mục nát lắm rồi, có lẽ chỉ còn là một đống bụi. Em biết em phải thay đổi thôi." Bà liếc qua bên kia xe, mỉm cười. "Vì vậy em đến làm việc cho chị."

"Khoảng thời gian u ám ư?" Norah nhắc lại. "Chị luôn nghĩ cuộc sống của em luôn đầy màu sắc. Ít nhất là so với chị. Chị không biết là em cũng có những lúc chán chường đấy, Bree ạ. Có chuyện gì xảy ra thế?"

"Không quan trọng. Cũng lâu rồi mà. Nhưng tối qua em cũng thức trắng đêm. Em cũng có cảm giác y như thế: có điều gì đó đang đổi thay. Nực cười làm sao khi đột nhiên mọi thứ đều có vẻ khác lạ. Sáng nay tự nhiên em thấy mình nhìn chằm chằm vào luồng sáng chiếu vào từ cửa sổ nhà bếp. Nó trải một dải hình chữ nhật dài trên sàn nhà, rồi bóng những chiếc lá non mới nhú rung rinh trong khoảng sáng đó, tạo thành đủ mọi hình thù. Điều đó thật giản dị, nhưng lại đẹp biết mấy."

Norah rà lại tiểu sử Bree, nhớ lại hình ảnh quen thuộc của em gái, không vướng bận lo âu, mạnh mẽ và tự tin vào sự táo bạo của mình khi đứng trên bậc thềm tòa hành chính. Cô gái trẻ ấy đâu rồi? Làm thế nào mà Bree lại trở thành người phụ nữ này, gầy gò và quyết đoán, mạnh mẽ và đơn độc đến thế?

"Ôi, Bree," cuối cùng Norah mới cất nên lời.

"Có phải đấy là án tử hình đâu, Norah." Bree nói giọng khô khốc, chăm chú và cương quyết, giống như bà đang trình bày khái quát về các khoản nợ phải thu vậy. "Giống tiếng chuông báo thức hơn. Em đã đọc một số tài liệu, và cơ hội dành cho em thực sự rất khả quan. Ngay sáng nay em đã nghĩ là nếu không có hội nhóm nào hỗ trợ cho những phụ nữ như em, em sẽ tự lập một hội như thế."

Norah mỉm cười. "Cái giọng đấy thì đúng là em rồi. Đấy là điều dễ chịu nhất trong số những gì em vừa nói đấy." Họ lái đi trong im lặng vài phút nữa rồi Norah lại mở lời, "Nhưng em chưa nói cho chị biết. Những năm trước ấy, khi em không hạnh phúc. Em chưa bao giờ kể với chị cả."

"Phải," Bree đáp. "Bây giờ em đang kể với chị đấy thôi."

Norah đặt tay lên đầu gối Bree, cảm nhận hơi ấm, sự gầy gò của em gái.

"Chị làm gì được không?"

"Cứ sống tiếp thôi, ngày qua ngày. Em có mặt trong danh sách đi lễ ở nhà thờ đấy, việc này cũng giúp em ít nhiều."

Norah nhìn em gái, mái tóc ngắn kiểu cách, khuôn mặt nghiêng nghiêng góc cạnh của em, không biết phải nói sao. Khoảng một năm trước Bree bắt đầu đến một nhà thờ Tân giáo nhỏ ở gần nhà mình. Norah cũng đi cùng em gái một lần, nhưng buổi lễ, với tất cả những nghi thức quỳ và đứng, cầu nguyện và im lặng quá ư phức tạp, đã khiến bà thấy mình thật lạc lõng, như một kẻ ngoài cuộc. Bà ngồi lén nhìn những người ngồi trên các băng ghế khác, tự hỏi không hiểu họ đang cảm thấy thế nào, cái gì đã lôi họ ra khỏi giường và đến nhà thờ trong buổi sáng Chủ nhật đẹp trời này. Khó mà nhận thấy điều gì bí ẩn, khó mà nhận thấy bất cứ điều gì khác trừ ánh sáng trong trẻo và một nhóm người mệt mỏi, tràn trề niềm hy vọng và kính ngưỡng. Bà không bao giờ quay lại đó nữa, nhưng giờ đây đột nhiên bà thấy mình biết ơn sâu sắc bất cứ niềm an ủi nào em gái mình đã thu nhận, bất cứ điều gì Bree tìm thấy ở nơi giáo đường tĩnh lặng ấy mà bà đã không nhìn ra.

Cảnh vật trôi vụt qua: cây cỏ, bầu trời. Rồi sau đó là các tòa nhà, ngày càng nhiều hơn. Họ đã vào tới Louisville, Bree lái xe hòa vào dòng xe cộ đông nghẹt trên đại lộ I-71, đi vào làn đường cao tốc đầy những chiếc xe đang lao đi vun vút. Bãi đậu xe ở sở cảnh sát gần như chật cứng, lấp lánh nhè nhẹ dưới cái nắng ban trưa. Hai chị em ra khỏi xe, tiếng cửa xe sập lại vang vọng, họ đi trên vỉa hè đổ bê tông được viền bởi một hàng cây bụi thấp tè xơ xác, và bước qua cửa xoay, ngập trong ánh sáng lờ mờ như ở dưới mặt nước bên trong tòa nhà.

Paul đang ngồi trên băng ghế ở tít bên kia căn phòng, lưng còng xuống, khuỷu tay tì lên đầu gối còn hai bàn tay lúc lắc uể oải giữa hai gối. Tim Norah thắt lại. Bà đi qua bàn giấy và các nhân viên cảnh sát, lội trong thứ không khí xanh xanh màu nước biển đặc quánh để đến chỗ con ngồi. Trong phòng nóng hầm hập. Một chiếc quạt phe phẩy trên trần nhà ốp gạch cách âm loang lổ vết bẩn. Bà ngồi xuống băng ghế bên cạnh Paul. Cậu chưa tắm, mái tóc dày và bết, mùi mồ hôi và quần áo bẩn nồng nặc, mùi thuốc lá vẫn vấn vít trên người cậu. Những thứ mùi nồng gắt, mùi của một người đàn ông. Ngón tay thằng bé chai sần, thô ráp do tập ghi ta. Giờ Paul đã có cuộc sống riêng của cậu, cuộc sống bí mật của cậu. Đột nhiên bà có cảm giác mình bị coi nhẹ khi thấy thằng bé tự lập đến thế. Là của bà, phải rồi, lúc nào cũng vậy, nhưng không còn là của bà nữa.

"Gặp con mẹ mừng quá," bà nói khẽ. "Mẹ lo lắm, Paul ạ. Cả nhà đều lo cho con."

Thằng bé nhìn bà, đôi mắt tối sầm lại với những tia giận dữ và hoài nghi, rồi đột ngột quay mặt đi, chớp mắt để nén những giọt nước đang chực rơi.

"Người con hôi lắm," cậu nói.

"Phải," Norah tán đồng. "Con hôi thật."

Thằng bé ngó nghiêng hành lang, đôi mắt nó nán lại ở chỗ Bree đang đứng bên bàn tiếp khách, rồi chuyển sang nhìn những cánh cửa xoay đang quay loang loáng.

"Hừm. Chắc con may rồi, ông ta không thèm đến đúng không."

Ý cậu ám chỉ David. Giọng nói của cậu đau đớn quá. Giận dữ nữa.

"Bố đang đến đấy," Norah đáp, cố giữ giọng bình thản. "Bố đến ngay thôi. Dì Bree lái xe đưa mẹ đến đây. Lái như bay ấy, thật đấy."

Bà định chọc cho thằng bé cười, nhưng cậu chỉ gật đầu.

"Dì ổn không?"

"Có," Norah đáp, chợt nghĩ tới cuộc nói chuyện của họ trong xe. "Dì vẫn ổn."

Nó lại gật đầu. "Tốt. Thế thì tốt. Chắc là bố điên lắm hả."

"Chắc thế."

"Con có phải ngồi tù không?" giọng Paul rất khẽ.

Bà hít vào một hơi. "Mẹ không biết. Mẹ hy vọng là không. Nhưng mẹ không biết."

Họ ngồi trong im lặng. Bree đang nói chuyện với một cảnh sát, bà gật đầu, rồi ra hiệu. Phía xa, cánh cửa xoay quay đều, loang loáng hắt ra ánh sáng hoặc bóng tối, đẩy những người lạ mặt vào trong hoặc ra ngoài, từng người một, và rồi David sải bước đến trên sàn nhà lát đá mài, tiếng giày đen kêu lộp cộp, khuôn mặt vừa nghiêm nghị vừa bình thản, một thứ biểu hiện gần như không đọc được. Norah thấy căng thẳng và cảm giác Paul ngồi cạnh bà cũng bồn chồn. Bất ngờ, David đi thẳng đến chỗ Paul và vồ lấy thằng bé ôm chặt, không nói lời nào.

"Con vẫn lành lặn," ông nói. "Ơn trời."

Bà hít vào một hơi thật sâu, nhẹ nhõm vì giây phút này. Một nhân viên cảnh sát có mái đầu húi cua bạc trắng và đôi mắt xanh khác thường đi ngang qua căn phòng, cặp hồ sơ kẹp dưới tay. Ông lần lượt bắt tay Norah và David rồi quay sang Paul.

"Tôi là tôi chỉ muốn tống cổ cậu vào tù thôi," ông ta nói thẳng toẹt. "Một cậu trai thông minh sáng láng đến thế này. Không biết tôi đã gặp bao nhiêu trường hợp như thế sau ngần ấy năm nhỉ, các cậu cứ nghĩ là mình gớm lắm, được tha bổng hết lần này đến lần khác, rồi cuối cùng mới biết thế nào là ăn bùn. Cứ gọi là ngồi tù đến nẫu người rồi mới ngộ ra mình chả là cái đinh gì cả. Thảm hại chưa. Nhưng xem ra hàng xóm nhà cậu muốn xuê xoa cho cậu lần này nên sẽ không kiện cáo gì vụ chiếc xe cả. Vì tôi không nhốt cậu lại được, nên giờ tôi xin trả cậu về cho các bậc phụ huynh coi sóc."

Paul gật đầu. Tay thằng bé run run; cậu thọc sâu tay vào trong túi. Họ nhìn ông cảnh sát xé một tờ giấy ra khỏi cặp hồ sơ, đưa cho David, rồi chậm rãi quay trở lại bàn làm việc.

"Bố đã gọi cho nhà Boland," David giải thích, đoạn gập tờ biên bản lại nhét vào túi áo ngực. "Họ rất biết điều. Tình hình đã có thể tồi tệ hơn nhiều, Paul ạ. Nhưng đừng nghĩ con sẽ không phải trả một xu nào để sửa chữa chiếc xe đâu nhé. Cũng đừng nghĩ là con sẽ được sống nhởn nhơ, trong một thời gian cũng khá dài đấy. Không bạn bè. Không giao du nhé."

Paul gật đầu, nuốt nước bọt.

"Con còn phải tập đàn nữa," nó nói. "Con không thể bỏ nhóm tứ tấu được."

"Không," David nói. "Điều con không thể làm là ăn cắp chiếc xe của hàng xóm và hy vọng rằng cuộc sống vẫn trôi đi như không có chuyện gì xảy ra cả."

Norah cảm nhận được sự căng thẳng và giận dữ của Paul bên mình. Thôi đi, bà thấy mình thầm nghĩ khi nhìn thấy thớ cơ cử động trên hàm Paul. Thôi đi mà, hai người. Đủ lắm rồi.

"Tốt thôi," Paul nói. "Vậy thì con không về nhà nữa. Thà đi tù còn hơn."

"À, vụ này thì chắc chắn bố lo được," David trả lời, giọng lạnh lẽo đầy đe dọa.

"Mời bố," Paul đáp. "Cứ làm đi. Vì con là nhạc công. Con chơi tốt. Và con thà ngủ vạ vật trên phố còn hơn là từ bỏ âm nhạc. Khốn kiếp, con thà chết con hơn."

Một khoảnh khắc trôi qua, một nhịp tim đập. Khi David không đáp, mắt Paul nheo lại.

"Em gái con không biết nó may mắn thế nào vì đã chết đâu," cậu nói.

Norah, đang ép mình đứng thật im, cảm thấy từng câu từng chữ như những mũi băng nhọn hoắt, một nỗi đau nhức nhối, rức buốt, tàn nhẫn. Trước khi kịp nhận ra mình vừa làm gì, bà dang tay tát lật mặt Paul. Những sợi râu mới nhú trên mặt thằng bé cào lên tay bà đau rát - cậu đã là một người đàn ông, không còn là đứa bé con nữa, và bà đã đánh cậu rất đau. Thằng bé quay lại, mặt bàng hoàng, trên má hằn lên một vệt đỏ tấy.

"Paul," David quát, "đừng làm mọi việc tồi tệ thêm nữa. Đừng có tùy tiện nói ra những điều sẽ khiến con phải hối hận suốt cuộc đời."

Tay Norah vẫn còn tê rần, máu bà chảy giần giật. "Đi về nhà," bà nói. "Chúng ta sẽ giải quyết chuyện này ở nhà."

"Anh không biết. Một đêm ngồi tù có lẽ sẽ tốt cho nó."

"Em đã mất một đứa con rồi," bà nói, quay mặt về phía chồng. "Em sẽ không để mất thêm đứa nữa đâu."

Giờ đến lượt David lộ vẻ sửng sốt, như thể chính ông cũng vừa ăn một cái tát. Chiếc quạt trần kêu cọt kẹt, cánh cửa xoay quay đều với tiếng lạch cạch nhịp nhàng.

"Thôi được," David đáp. "Có lẽ như thế là đúng. Có lẽ em đã đúng khi không thèm để ý đến anh. Có trời chứng giám, anh thật sự hối hận vì đã bỏ quên hai mẹ con."

"David?" Norah gọi khi ông quay đi, nhưng ông không đáp. Bà nhìn ông đi sang bên kia phòng và bước vào cửa xoay. Bên ngoài, bóng ông thấp thoáng, một người đàn ông trung niên trong chiếc áo jacket sẫm màu, hòa vào đám đông, rồi biến mất. Quạt trần kêu cọt kẹt giữa cái mùi hỗn độn của mồ hôi chua loét, khoai tây chiên và nước tẩy rửa.

"Con không cố ý..." Paul lí nhí.

Norah giơ tay lên. "Đừng. Mẹ xin con. Đừng nói gì nữa."

Chính Bree, bình tĩnh và nhanh nhẹn, đưa họ ra xe. Họ mở cửa sổ để mùi hôi của Paul bay bớt, và Bree lái xe đi, những ngón tay gầy guộc đặt vững vàng trên vô lăng. Norah, vẻ suy tư, hầu như không để tâm, và phải sau gần nửa tiếng bà mới nhận ra họ không còn đi trên con lộ liên bang mà đang đi chậm lại, trên những con đường nhỏ hơn, xuyên qua vùng nông thôn rực rỡ đang độ vào xuân. Những cánh đồng, chỉ còn một màu xanh ngút mắt, loang loáng lướt qua cửa sổ, những cành cây lấm tấm nụ hoa vừa hé.

"Em lái đi đâu đấy?" Norah hỏi.

"Phiêu lưu tí thôi," Bree đáp. "Rồi chị sẽ biết."

Norah không muốn nhìn bàn tay Bree, xương xẩu quá, những đường gân xanh lè nổi lên rõ mồn một. Bà liếc nhìn Paul trong gương chiếu hậu. Thằng bé ngồi đó, xanh xao và ủ rũ, hai tay khoanh lại, thõng thượt, rõ là đang giận dữ đau đớn. Bà đã sai khi ở đồn cảnh sát, chỉ trích David như thế, rồi tát Paul; bà chỉ khiến mọi việc thêm tồi tệ. Đôi mắt căm giận của thằng bé chạm mắt bà trong gương, và bà bỗng nhớ lúc bàn tay bé xinh mũm mĩm, mềm mại của nó ấp vào má mình, tiếng cười khanh khách vang động khắp các căn phòng. Cũng là cậu bé ấy, đứa con ấy. Nó đâu rồi?

"Phiêu lưu kiểu gì cơ ạ?" Paul hỏi.

"Ái chà, thực ra thì dì đang tìm tu viện Gethsemani."

"Để làm gì cơ?" Norah hỏi. "Có gần đây không?"

Bree gật đầu. "Em thấy bảo là gần. Lúc nào em cũng mong được nhìn thấy nơi đó, lúc đi trên đường em nhận ra chúng ta đang ở rất gần rồi. Thế nên em nghĩ tội gì nhỉ, hôm nay trời đẹp thế cơ mà."

Trời đẹp thật, bầu trời xanh trong, phía chân trời sáng mờ, cây cối tươi tốt tràn đầy nhựa sống, rung rinh trong gió nhẹ. Họ lái xe dọc theo những con đường hẹp chừng mươi phút, rồi Bree đánh xe sang lề đường và bắt đầu lục lọi dưới ghế.

"Hình như em không mang bản đồ theo thì phải," bà nói, rồi nhổm dậy.

"Em đã bao giờ mang bản đồ đâu," Norah đáp, đúng lúc ấy bà nhận ra điều này còn vận cả vào cuộc đời Bree nữa. Nhưng có lẽ điều đó chẳng có gì to tát cả. Bà và David đã khởi đầu cuộc sống với đủ loại bản đồ, và nhìn xem giờ họ đang ở đâu cơ chứ.

Bree dừng lại gần hai ngôi nhà quê sơn trắng giản dị, cửa sổ đóng kín, chẳng thấy bóng một ai, những kho trữ thuốc lá xám xịt qua mưa nắng, đứng chơ vơ trên những sườn đồi phía xa. Đang vào mùa gieo cấy. Phía xa, những chiếc máy cày trườn ngang qua cánh đồng mới xới, theo sau là một đám người gieo những hạt giống cây thuốc lá xanh tươi xuống lớp đất đen. Dưới đường cái, ở xa tận cuối cánh đồng, có một nhà thờ nhỏ xinh sơn trắng, nép dưới bóng tiêu huyền già, bao quanh bởi một hàng păng-xê tím ngắt. Bên hông nhà thờ là một khu nghĩa trang, những bia đá cũ kỹ nghiêng ngả phía sau hàng rào sắt rèn. Nó giống nơi con gái Norah đã được chôn cất đến nỗi bà như nghẹt thở, bà nhớ đến cái ngày tháng Ba xa xưa, thảm cỏ ướt đẫm dưới chân, những đám mây thấp như bị kéo chùng xuống, và David đứng vẻ lặng lẽ xa xăm bên cạnh bà. Tro tàn về với tro tàn, cát bụi về với cát bụi, và thế giới họ từng biết đã thay đổi dưới chân họ.

"Mình ghé qua nhà thờ xem," bà nói. "Chắc sẽ có người biết đường."

Họ đi men theo con đường, rồi bà cùng Bree ra khỏi chiếc xe đỗ bên nhà thờ, cảm thấy mình có vẻ thành thị và lạc lõng khi mặc những bộ đồ công sở thế này. Không khí tĩnh lặng, hơi nóng bức, ánh nắng nhảy nhót qua kẽ lá. Lớp cỏ dưới đôi giày vàng của Bree xanh thẫm và tươi tốt. Norah đặt tay lên cánh tay gầy khẳng khiu của Bree, lên lớp vải linen vàng vừa mềm vừa giòn.

"Em làm hỏng đôi giày mất thôi," bà nói.

Bree nhìn xuống, gật đầu, rồi tụt giày ra. "Em sẽ vào nhà linh mục hỏi," bà nói. "Cửa trước đang mở kia kìa."

"Em đi đi," Norah nói. "Hai mẹ con chị đợi ngoài này thôi."

Bree cúi đầu xuống nhặt giày lên rồi đi qua bãi cỏ xanh rì rậm rạp, có nét gì đó vừa nữ tính lại vừa mong manh ở đôi chân trắng xanh, bàn chân lồng trong tất giấy của bà. Đôi giày màu vàng lủng lẳng trên tay. Đột nhiên, Norah nhớ lúc em gái chạy qua cánh đồng phía sau căn nhà tuổi thơ của họ, tiếng cười lanh lảnh trong thinh không ngập nắng. Khỏe lên nhé, bà thầm nghĩ, nhìn theo em. Ôi, em gái của chị, khỏe lên nhé.

"Mẹ đi loanh quanh một chút đây," bà nói với Paul, thằng bé vẫn ngồi thườn thượt trên băng ghế sau. Bà để mặc cậu ở đó rồi lần theo con đường rải sỏi dẫn ra nghĩa trang. Cánh cổng sắt hé mở nhẹ nhàng, và Norah lang thang giữa những bia đá xám xịt mòn nhẵn. Đã nhiều năm nay bà không lai vãng đến khu nghĩa trang trong trang trại Bentley. Bà quay lại nhìn Paul. Cậu đã ra khỏi xe, đang vươn vai, mắt đeo kính râm.

Cánh cửa nhà thờ sơn đỏ tươi. Nó bật mở rất khẽ khi Norah chạm vào. Thánh đường mờ tối và mát lạnh, các ô cửa sổ ốp kính màu sáng lóa lên, hình những vị thánh và các tích trong Kinh Thánh, chim bồ câu và lửa đều lung linh tựa đá quý. Norah nghĩ đến phòng ngủ của Sam, đến sắc màu phóng túng ở đó, và cảm thấy nơi này trái ngược làm sao, thật tĩnh tại, màu sắc ổn định. sáng lên giữa không gian. Một cuốn sổ dành cho khách đã mở sẵn, bà ký vào đó với nét chữ mềm mại, nhớ đến bà xơ già đã dạy mình lối viết thảo. Norah nán lại một chút. Có lẽ chính sự tĩnh lặng đã khiến bà dấn thêm vài bước xuống lối đi vắng ngắt ở chính giữa Thánh đường: sự tĩnh lặng, cảm giác bình yên và trống trải, ánh sáng chiếu qua ô cửa kính màu, bầu không khí vẩn bụi. Norah đi trong luồng ánh sáng: đỏ, xanh thẫm, vàng.

Các hàng ghế thoảng mùi véc ni. Bà ngồi xuống một băng ghế. Có những chiếc gối quỳ bằng nhung xanh, hơi bám bụi. Bà nghĩ đến chiếc sofa cũ của Bree, và bất chợt ký ức về tổ phụ nữ trong cái đêm xa xưa lại ùa về, những người phụ nữ đã đến thăm nhà bà cùng với quà dành cho Paul. Bà nhớ có lần mình đã giúp họ dọn vệ sinh cho nhà thờ, họ đánh bóng các băng ghế bằng cách ngồi lên miếng giẻ và ép mông trượt trên mặt ghế dài trơn nhẵn. Thế này mới đủ nặng chứ, họ đã đùa như thế, tiếng cười tràn ngập cả Thánh đường. Vì đau đớn mất mát, Norah đã rời xa họ và không bao giờ quay lại, nhưng giờ đây bà chợt ngộ ra rằng họ cũng đã phải trải qua nỗi đau, đã từng mất người mình yêu thương, đã có lúc đau ốm bệnh tật, cũng từng bỏ quên chính bản thân mình và những người khác. Norah đã không muốn trở thành một trong số họ hay đón nhận sự an ủi của họ, và bà rời bỏ họ. Nhớ đến đấy, mắt Norah ầng ậng nước. Ôi chao, xuẩn ngốc làm sao, mất mát của bà đã xảy ra cách đây gần hai thập kỷ rồi. Lẽ ra cảm giác đau đớn này không nên trào lên mạnh mẽ đến thế, như nước suối chảy vậy.

Thật điên rồi. Bà đang khóc rất to. Bà đã chạy thật nhanh, thật xa, để trốn tránh phút giây này, vậy mà nó vẫn xảy ra: một người xa lạ ngủ trên chiếc sofa gấp, đang mơ màng, một mầm sống bí ẩn lớn lên trong cô ta như một bí mật, còn David thì nhún vai quay đi. Bà biết, khi về nhà, bà sẽ thấy ông không còn ở đó nữa, có lẽ va li đã được gói ghém, nhưng những thứ khác vẫn còn nguyên. Bà khóc cho điều mình biết và cho Paul, nỗi căm giận và mất mát trong đôi mắt nó. Cho con gái bà, người chưa từng được biết tới. Cho đôi tay gầy guộc của Bree. Cho vô vàn những cách thức mà tình yêu đã rời bỏ họ, và cho họ, cho tình yêu. Dường như, đau đớn là một nơi hữu hình. Norah khóc, không còn cảm nhận được bất cứ điều gì khác ngoài cảm giác giải thoát bà vẫn nhớ từ khi còn nhỏ; bà nức nở cho đến khi thấy đau nhức, nghẹn thở, và kiệt sức.

Có những con chim, chim sẻ, làm tổ trên các thanh xà ngang. Khi dần tĩnh trí lại, Norah dần nhận thấy những âm thanh khe khẽ, tiếng vỗ cánh. Bà đang quỳ gối, tay đặt lên lưng băng ghế kê trước mặt. Ánh sáng vẫn rọi qua cửa sổ thành từng vệt xiên, đổ thành vũng trên sàn nhà. Lúng túng, bà ngồi thẳng dậy và quệt sạch nước mắt trên mặt. Vài chiếc lông xám đáp xuống những bậc đá dẫn lên bệ thờ. Khi ngước nhìn lên, Norah bỗng thấy một chú chim sẻ đang vỗ cánh nhẹ nhàng trên đầu, một cái bóng nhỏ giữa những cái bóng lớn. Bao nhiêu năm qua, biết bao người đã ngồi đây cùng những bí mật và ước mơ của họ, đen tối và trong sáng. Bà tự hỏi không hiểu những nỗi đau đớn điên dại của họ, giống như của bà, có dịu bớt không. Bà chưa bao giờ nghĩ nơi này sẽ đem lại cho bà cảm giác bình yên đến thế, nhưng sự thật là như vậy.

Khi bà trở ra ngoài, mắt chớp chớp vì ánh nắng, Paul đang ngồi trên một tảng đá trước hàng rào sắt rèn.

Phía xa, Bree đang bước qua bãi cỏ, giày xách lủng lẳng.

Thằng bé gật đầu ra hiệu về phía những tấm bia mộ rải rác trong nghĩa trang. "Con xin lỗi," cậu nói, "vì những gì đã nói. Không phải con cố tình đâu. Con chỉ cố chọc giận bố, nên mới thế."

"Đừng bao giờ nói," Norah bảo thằng bé. "Rằng cuộc đời con là thứ bỏ đi. Đừng bao giờ, đừng bao giờ để mẹ phải nghe thấy nữa. Cũng đừng nghĩ thế nữa."

"Vâng," cậu đáp. "Con thật sự xin lỗi mà."

"Mẹ biết con rất giận," Norah nói. "Con có quyền sống theo cách của mình. Nhưng bố con cũng đúng. Phải có những điều kiện nhất định. Nếu con phá bỏ nó, thì tự đi mà sống một mình."

Bà nói tất cả những lời ấy mà không nhìn thằng bé, và khi quay lại, bà thấy sốc khi thấy mặt cậu méo mó, nước mắt chảy dài xuống hai má. Ôi, thật ra đứa bé ngày xưa vẫn ở đâu đó quanh đây thôi. bà ôm thằng bé thật chặt, chặt hết mức có thể. Cậu cao quá; đầu bà chỉ tới ngực cậu.

"Con à, mẹ yêu con lắm," bà nói vào lớp áo hôi rình của cậu. "Con về mẹ mừng lắm. Mà đúng là con hôi kinh lên được," bà nói thêm, rồi cười phá lên, cả thằng bé cũng cười.

Bà đưa tay lên che mắt, nhìn sang bên kia cánh đồng thấy Bree giờ đã về khá gần.

"Chỗ đấy không xa lắm đâu," Bree gọi to. "Chỉ men theo con đường một chút nữa thôi. Bà ta nói ta không lo lạc đường đâu."

Họ quay vào xe và đi thêm một đoạn nữa dọc con đường hẹp, qua những dải đồi nối nhau. Sau vài dặm, họ bắt đầu thấy thấp thoáng những tòa nhà màu trắng sau hàng cây bách. Rồi đột nhiên Thánh đường Gethsemani hiện ra, kỳ vĩ, trơ trọi và giản dị, nổi bật giữa khung cảnh xanh ngút mắt. Bree đánh xe vào bãi đỗ dưới hàng cây xào xạc. Khi họ ra khỏi xe, chuông bắt đầu ngân vang, gọi các tu sĩ về cầu nguyện. Họ đứng lắng nghe, âm thanh trong trẻo nhạt dần giữa thinh không trong vắt, đàn bò thơ thẩn gần đó và mây uể oải trôi trên đầu.

"Đẹp quá," Bree nói. "Thomas Merton từng sống ở đây, chị biết không? Ông ấy đã đến Tây Tạng để diện kiến Đạt Lai Lạt Ma rồi. Em thích tưởng tượng. ra khoảnh khắc ấy lắm. Em thích tưởng tượng ra cảnh tất cả các vị tu sĩ ở trong đó, ngày qua ngày đều làm những việc như nhau."

Paul gỡ cặp kính râm xuống. Đôi mắt sẫm của thằng bé trong veo. Cậu thò tay vào túi áo và bày những viên đá nhỏ lên nắp ca pô.

"Mẹ có nhớ những thứ này không?" cậu hỏi, khi Norah nhặt một viên lên, ngón tay mân mê chiếc đĩa đá trắng nhẵn mịn ở giữa có một cái lỗ. "Hóa thạch đấy. Của hoa huệ biển. Bố đã dạy con, cái hôm con bị gãy tay ấy. Con đã đi bộ một vòng khi mẹ vào trong nhà thờ. Thứ này có ở khắp nơi."

"Mẹ quên rồi," Norah chậm chạp nói, nhưng rồi ký ức ùa về: chiếc vòng cổ Paul đã làm, bà đã lo lắng biết bao rằng thằng bé có thể bị dây thắt quanh cổ và ngạt thở. Tiếng chuông ngân tan dần trong bầu không khí trong trẻo. Chỉ nhỏ bằng chiếc cúc áo, mẩu hóa thạch nhẹ và ấm trong tay bà. Bà nhớ lúc David bế Paul lên, đưa nó rời khỏi bữa tiệc, rồi bó bột cánh tay thằng bé. David đã cố gắng hết sức để lo chu toàn mọi việc cho cả nhà, để mọi thứ vào đúng trật tự, vậy mà không hiểu sao lại khó khăn đến thế, với tất cả bọn họ, như thể họ đang bơi trong vùng biển nông đã từng bao phủ toàn bộ mảnh đất này.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx