sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Con Gái Người Giữ Ký Ức - Chương 19-20

Chương 19Tháng Bảy Năm 1988

DAVID HENRY NGỒI TRÊN GÁC TRONG PHÒNG LÀM VIỆC TẠI NHÀ của ông. Qua khung cửa sổ đã bao năm mưa nắng dãi dầu và hơi xiêu vẹo, khung cảnh con phố lập lòe, gợn sóng và có phận méo mó. Ông nhìn con sóc nhặt một quả hạch rồi trèo lên cây tiêu huyền tán lá ép sát cửa sổ. Rosemary đang quỳ bên hiên nhà, mái tóc dài đung đưa mỗi khi cô cúi xuống để trồng củ và cây một năm trong những luống hoa vừa đào. Cô đã biến đổi cả khu vườn, mang những cây hoa hiên từ vườn nhà bạn về, trồng lanh cạnh ga ra, ở đó hoa lanh nở rộ, tràn ngập một màu xanh nhạt như sương mù. Jack ngồi gần cô, đang chơi với một chiếc xe thùng. Nó là một đứa bé khỏe mạnh, giờ đã lên năm, tính tình vui vẻ, ngoan ngoãn, với đôi mắt nâu thẫm và mấy vệt hung đỏ trên mái tóc hoe vàng. Thằng bé khá cứng đầu. Trong những buổi tối David trông nó khi Rosemary đi làm, Jack nằng nặc đòi tự làm mọi thứ. Cháu lớn rồi, nó tuyên bố, vài lần trong một ngày, vẻ rất kiêu hãnh và trịnh trọng.

David cho nó được làm mọi thứ nó muốn, trong khuôn khổ an toàn và hợp lý. Sự thật là ông thích ngắm thằng bé. Ông thích đọc truyện cho Jack, cảm nhận sức nặng và hơi ấm của nó, đầu nó tựa lên vai ông khi lơ mơ ngủ. Ông thích cầm lấy bàn tay nhỏ nhắn đầy tin tưởng của nó khi hai ông cháu đi bộ trên vỉa hè ra cửa hàng. David đau lòng nhận ra rằng những ký ức của ông về Paul ở tuổi đó rất thưa thớt, rất mờ nhạt. Khi ấy ông còn đang gây dựng sự nghiệp, phải rồi, còn bận bịu với phòng khám của mình - và việc chụp ảnh nữa - nhưng sự thật là chính tội lỗi của ông khiến ông trở nên xa cách. Những khuôn mẫu cuộc sống của ông giờ đã trở nên rõ ràng đến nhói lòng. Ông đã giao con gái mình cho Caroline Gill và cái bí mật ấy đã bén rễ, sinh sôi và đơm hoa kết trái giữa gia đình ông. Trong bao nhiêu năm trời ông về đến nhà để nhìn thấy Norah, đang pha đồ uống hay khoác áo tạp dề, ông đã nghĩ bà đáng yêu làm sao nhưng ông hầu như chẳng hiểu gì về bà hết.

Ông chưa bao giờ có đủ can đảm để cho bà biết sự thật, vì biết rằng mình sẽ mất bà mãi mãi - và có lẽ cả Paul nữa - nếu ông nói ra. Vì vậy ông dành cả đời mình cho công việc và, xét trên những phương diện của cuộc sống mà ông còn kiểm soát được, ông đã rất thành công. Nhưng, đáng buồn thay, ông chỉ còn nhớ một vài khoảnh khắc rời rạc ngắn ngủi trong năm tháng thơ ấu của Paul, với sự chính xác của những tấm ảnh: Paul ngủ gật trên sofa, một tay sã xuống, mái tóc sẫm rối bời. Paul đứng trên ván trượt, kêu ầm ĩ vì sợ hãi và phấn khích khi sóng vỗ quanh đầu gối. Paul ngồi bên chiếc bàn nhỏ trong phòng chơi, tô màu thật chăm chú, mải mê với nhiệm vụ của mình đến độ không nhận ra David đang đứng ở ngưỡng cửa ngắm nhìn. Paul, quăng dây câu ra xa tít trên mặt nước tĩnh lặng, giữ cần thật chắc, gần như nín thở, trong khi họ chìm trong bóng chiều chạng vạng chờ cá đớp mồi.

Những ký ức ngắn ngủi, đẹp đến gần như không chịu nổi. Rồi đến những năm tháng thiếu niên, khi Paul trở nên xa cách hơn cả Norah, làm rung chuyển cả căn nhà bằng âm nhạc và cơn giận dữ của nó.

David gõ lên cửa sổ, vẫy tay với Jack và Rosemary. Ông đã mua căn nhà này, một căn nhà đôi, rất nhanh chóng, chỉ nhìn qua một lần rồi về nhà gói ghém đồ đạc luôn ngay khi Norah vẫn còn ở công ty. Đó là một căn nhà hai tầng đã cũ, được chia gần như chính xác thành hai phần, với vài bức vách mỏng chia đôi những căn phòng lớn trước đây, ngay cả cầu thang, một thời từng rất rộng rãi và duyên dáng, cũng được chia đôi. David chọn căn nhà rộng hơn và đưa Rosemary chìa khóa căn còn lại, trong sáu năm ròng họ đã sống bên nhau, bị chia cách bởi những bức tường mỏng nhưng ngày nào cũng nhìn thấy nhau. Thỉnh thoảng Rosemary cũng cố trả tiền thuê nhà, nhưng David từ chối tất, ông khuyên cô nên quay lại trường và học lấy mảnh bằng; rồi sau này cô có thể trả lại ông. Ông biết những việc làm của mình không hoàn toàn xuất phát từ lòng vị tha, tuy vậy ông cũng không lý giải nổi nữa, ngay cả với bản thân mình, vì sao cô lại có ý nghĩa quan trọng với ông đến thế. Cháu lấp vào chỗ trống của đứa con gái mà chú đã cho đi, một lần cô đã nói như vậy. Ông gật đầu, rồi ngẫm lại, nhưng cũng không phải, không hẳn. Còn hơn thế nữa, ông cho rằng Rosemary hiểu bí mật của ông. Ông đã kể hết mọi chuyện cho cô với sự gấp gáp nhường ấy, lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng, cô lắng nghe mà không hề phán xét. Ở đó ông tìm thấy tự do, David có thể hoàn toàn là chính mình khi ở bên Rosemary, người đã nghe hết những gì ông đã làm, không xua đuổi ông và cũng chẳng kể cho ai khác biết. Kể cũng lạ, qua năm tháng, Rosemary và Paul đã xây dựng một tình bạn, ban đầu còn miễn cưỡng, về sau biến thành những cuộc tranh luận tiếp diễn đầy nghiêm túc về các vấn đề cả hai bên cùng quan tâm - chính trị, âm nhạc và công bằng xã hội - tranh luận nảy sinh ngay giữa bữa tối trong những lần ghé thăm hiếm hoi của Paul và kéo dài đến tận khuya.

Đôi khi, David nghĩ đây là cách để Paul giữ khoảng cách với ông, cách để có mặt ở nhà ông mà không phải đả động đến những vấn đề quá đỗi riêng tư. Thỉnh thoảng David cũng cố gợi chuyện, nhưng Paul luôn chọn đúng lúc ấy để bỏ đi, đẩy ghế ra và ngáp dài, đột nhiên tỏ ra mệt mỏi.

Giờ thì Rosemary ngẩng đầu lên, đưa cổ tay gạt lọn tóc vương trên má, và vẫy tay chào lại ông. David cất mấy tập hồ sơ rồi đi xuống hành lang hẹp. Trên lối ông đi qua cánh cửa để ngỏ dẫn vào phòng Jack. Lẽ ra cánh cửa này phải bị khóa lại khi căn nhà được ngăn làm đôi, nhưng một tối, không hiểu do điều gì thôi thúc, David đã thử xoay nắm đấm cửa và nhận ra cửa không khóa. Giờ đây, thật nhẹ nhàng, ông đẩy cửa vào. Rosemary đã sơn căn phòng của Jack màu xanh lơ, giường và bàn phấn nằm chỏng chơ một góc, trắng tinh sạch sẽ. Một loạt hình cắt giấy scherenschnitte phức tạp, gồm hình mẹ và các con, trẻ em chơi đùa dưới tán cây, tinh xảo và sống động, được dán trên nền xanh sẫm, đóng khung treo trên bức tường phía xa. Rosemary đã trưng bày những hình cắt này trong một buổi triển lãm nghệ thuật tổ chức năm trước, và điều khiến cô ngạc nhiên, là những đơn đặt hàng bắt đầu được gửi đến tới tấp, hết đợt này đến đợt khác. Tối tối, cô thường ngồi bên chiếc bàn bếp, dưới ánh đèn rực rỡ, cắt hết hình này đến hình khác, mỗi hình đều khác nhau. Cô không thể hứa chắc với mọi người mình sẽ cắt hình gì; cô không chịu bị bó buộc bởi bất cứ hình ảnh nào. Bởi vì hình ảnh đã có sẵn ở đó, cô giải thích, nó ẩn mình trên giấy và trong từng cử động của tay cô, không có hình nào lặp lại lần thứ hai.

David đứng dậy, lắng nghe âm thanh của căn nhà: tiếng nước nhỏ tí tách khe khẽ, và tiếng ì ì của chiếc tủ lạnh cũ kỹ. Mùi nước hoa và phấn trẻ em hăng hắc; một chiếc váy ngủ vắt trên ghế đẩu đặt trong góc. Ông hít vào mùi hương của cô, của Jack, rồi đóng chặt cửa và đi tiếp trên dải hành lang hẹp. Ông chưa bao giờ nói với Rosemary về cánh cửa chưa khóa; nhưng ông cũng chưa bao giờ bước qua cánh cửa ấy. Đó là một giới hạn danh dự đối với ông, dù có vụ tai tiếng kia, ông chưa bao giờ lợi dụng cô, chưa bao giờ tự tiện xâm phạm cuộc sống riêng tư của cô.

Dẫu vậy, ông thấy vui khi biết rằng cánh cửa vẫn ở đó.

Còn nhiều giấy tờ phải giải quyết, nhưng David vẫn đi xuống tầng dưới. Đôi giày chạy của ông để ở hiên sau nhà. Ông xỏ chân vào, buộc chặt dây, rồi đi vòng ra phía trước. Jack đang đứng vặt hoa hồng bên hàng rào mắt cáo. David ngồi xổm xuống và kéo thằng bé lại gần, cảm thấy sức nặng êm ái, nhịp thở đều đặn của nó. Jack sinh vào tháng Chín, lúc chập tối, khi ấy trời vừa mới nhá nhem. David đã lái xe đưa Rosemary tới bệnh viện, và ông đã ngồi với cô trong sáu tiếng trở dạ, cùng chơi cờ và mang đá viên cho cô. Không giống như Norah, Rosemary không hào hứng lắm với việc sinh nở tự nhiên; cô đã yêu cầu được gây tê ngay khi có thể, và khi quá trình co bóp chậm lại, cô được tiêm Pitocin để kích thích chuyển dạ. David đã nắm tay cô khi những cơn đau mạnh lên, nhưng khi họ đưa cô vào phòng sinh ông lại đứng bên ngoài. Nơi đó quá riêng tư, không phải chỗ của ông. Tuy vậy, ông là người đầu tiên sau Rosemary được bế Jack, và ông đã yêu nó như con của chính mình vậy.

"Ông có mùi lạ quá," Jack nói, đẩy ngực David ra.

"Tại cái áo sơ mi cũ hôi rình của ông đấy," David đáp.

"Chú đi chạy bộ à?" Rosemary hỏi. Cô ngồi tựa lên gót chân, phủi đất bẩn trên tay. Dạo này cô hơi mảnh khảnh, gần như xương xẩu, và ông thấy lo lắng về nhịp độ làm việc của cô, cách cô đốt sức vào học tập và công việc. Cô đưa tay chùi những giọt mồ hôi lấm tấm trên trán, để lại một vệt đất.

"Ừ. Chú không thể xem mấy tập hồ sơ bảo hiểm ấy thêm một phút nào nữa."

"Cháu tưởng chú đã thuê người làm rồi."

"Chú thuê rồi. Cô ấy sẽ làm tốt thôi, chú nghĩ thế, nhưng đến tuần sau cô ấy mới bắt đầu làm việc được."

Rosemary gật đầu, trầm ngâm. Những sợi lông mi nhạt của cô ánh lên. Cô vẫn còn trẻ, mới hai mươi hai tuổi, nhưng cô là người mạnh mẽ và chuyên tâm, cô mang trong mình sự cả quyết của một phụ nữ lớn hơn cô nhiều tuổi.

"Tối nay cháu phải đi học à?" ông hỏi, và cô gật đầu.

"Buổi cuối cùng đấy ạ. Ngày mười hai tháng Bảy."

"À ừ. Chú quên khuấy đi mất."

"Chú bận nhiều việc mà."

Ông gật đầu, cảm thấy hơi có lỗi, bối rối trước ngày tháng. Mười hai tháng Bảy; không thể ngờ được thời gian trôi nhanh đến thế. Rosemary đã đi học trở lại sau khi sinh Jack, cũng vào đúng cái tháng Một ảm đạm năm đó, khi ấy ông đã rời bỏ phòng khám nơi ông đang làm việc vì một người đàn ông từng là bệnh nhân của ông trong suốt hai mươi năm trời đã bị đuổi ra khỏi cửa vì thiếu bảo hiểm y tế. Ông đã gây dựng phòng khám của riêng mình, và nhận chữa bệnh cho bất cứ ai tìm đến, dù có bảo hiểm hay không. Ông không còn chữa bệnh vì tiền nữa. Paul đã học xong đại học, và món nợ của nó đã trả xong từ lâu, nó có thể làm gì tùy thích. Dạo này, giống như các bác sĩ thời xưa, ông được trả công bằng sản phẩm, hoặc rau quả trồng tại nhà, hoặc bất cứ thứ gì người ta có thể trả cho ông. Ông nghĩ rằng mình sẽ tiếp tục sống thế này chừng chục năm nữa, tiếp bệnh nhân hàng ngày nhưng dần dần sẽ giảm bớt số cuộc hẹn, cho đến khi phạm vi hoạt động của ông chỉ còn bó hẹp trong căn nhà này, khu vườn này, những chuyến đi tới tiệm tạp hóa và tiệm hớt tóc. Norah có lẽ sẽ vẫn bay vòng quanh thế giới như một con chuồn chuồn, nhưng cuộc sống như vậy không phải dành cho ông. Ông đã bén rễ ở một chỗ; những cái rễ ăn sâu vào lòng đất.

"Hôm nay cháu có một bài thi Hóa học cuối kỳ," Rosemary nói, đoạn tháo găng tay ra, "và rồi hoan hô, thế là xong." Ong kêu vo vo giữa đám hoa kim ngân. "Cháu còn chuyện này nữa muốn nói với chú," cô nói, rồi kéo thẳng vạt quần soóc, ngồi xuống bên ông trên bậc thềm bê tông ấm áp.

"Nghe có vẻ nghiêm trọng nhỉ."

Cô gật đầu. "Vâng. Cháu vừa được một nơi nhận vào làm hôm qua. Công việc rất tốt."

"Ở đây à?"

Cô lắc đầu, mỉm cười vẫy tay với Jack khi thằng bé cố nhào lộn rồi ngã lăn ra bãi cỏ. "Vấn đề là ở đấy. Chỗ làm đó ở Harrisburg cơ ạ."

"Gần chỗ mẹ cháu ở rồi," ông nói, thấy tim mình se lại. Ông biết cô muốn sống gần ông, và ông cũng mong như thế. Nhưng chuyển đi vẫn luôn là một khả năng có thực. Hai năm trước, sau khi bố cô đột ngột qua đời, Rosemary đã làm lành với mẹ và chị gái, và họ rất mong mỏi cô quay về nhà để nuôi nấng Jack gần với gia đình.

"Vâng. Đấy là công việc rất phù hợp với cháu: tuần làm việc bốn ngày, mỗi ngày mười tiếng. Họ còn trả tiền cho cháu tiếp tục đi học nữa. Cháu có thể lấy thêm bằng vật lý trị liệu. Nhưng cái chính là làm thế cháu sẽ có thêm thời gian dành cho Jack."

"Cháu còn được đỡ đần nhiều nữa chứ," ông nói. "Mẹ cháu sẽ đỡ cho cháu. Cả chị gái cháu nữa."

"Vâng. Được thế thì tốt quá. Dù cháu rất yêu Kentucky, nhưng nơi đây chưa bao giờ là nhà cháu cả, không hẳn."

Ông gật đầu, mừng cho cô, nhưng không đủ tự tin để nói ra. Có những lúc ông đã tưởng tượng, chỉ về mặt lý thuyết thôi, rằng ông có thể sửa lại căn nhà theo ý muốn: ông sẽ cho phá bỏ những bức tường, mở rộng không gian, căn nhà đôi sẽ dần dần chuyển thành ngôi nhà duyên dáng cho một gia đình như trước kia. Nhưng những giả thiết của ông chỉ tính đến mặt không gian và sự thoáng khí, có thể dễ dàng bị gạt sang bên để nhường chỗ cho niềm vui được nghe thấy tiếng bước chân cô và tiếng cử động khe khẽ ở gian nhà bên, hay bị đánh thức giữa đêm tối bởi tiếng khóc của Jack văng vẳng xa xa.

Nước dâng lên mắt ông. Ông cười lớn.

"Chà chà," ông nói, đoạn gỡ mắt kính ra. "Chú nghĩ chuyện này sớm muộn gì cũng xảy ra thôi. Chúc mừng cháu nhé."

"Bọn cháu sẽ về thăm chú," cô nói. "Chú cũng đến thăm mẹ con cháu nữa nhé."

"Ừ, phải rồi," ông đáp. "Chú chắc chắn ta còn gặp lại nhau nhiều mà."

"Hẳn rồi." Cô đặt tay lên đầu gối ông. "Chú ạ, cháu biết là chú cháu mình chưa bao giờ nói về chuyện này. Cháu còn chẳng biết phải bắt đầu như thế nào, thật đấy. Nhưng việc đó có ý nghĩa với cháu biết bao - những việc chú đã làm để giúp đỡ cháu ấy - cháu biết ơn chú lắm. Cháu biết ơn chú suốt đời."

"Chú thì lại luôn bị buộc tội cố gắng quá sức để cứu giúp mọi người cơ đấy," ông đáp.

Cô lắc đầu. "Về nhiều phương diện, chú đã cứu vớt cuộc đời cháu."

"Ừm. Nếu đúng thế thật thì chú cũng mừng. Chỉ có ông trời mới biết chú đã gây ra bao nhiêu mất mát ở những nơi khác. Dường như chú không bao giờ có thể làm được nhiều điều tốt cho Norah như thế."

Có một khoảng im lặng giữa hai người, tiếng máy cắt cỏ ở phía xa kêu ì ì.

"Chú phải nói cho cô ấy biết," Rosemary khẽ nói. "Cả Paul nữa. Chú phải nói đi." Jack đang ngồi xổm giữa lối đi, vun hàng đống sỏi lại, để đá trôi rơi qua kẽ ngón tay. "Cháu không có tư cách để nói gì cả, cháu biết thế. Nhưng Norah phải được biết về Phoebe. Cô ấy không biết gì, như thế là không được. Cô ấy phải tin là không có chuyện tằng tịu gì giữa chú và cháu nữa."

"Chú đã nói sự thật cho cô ấy biết rồi. Rằng chúng ta chỉ là bạn."

"Phải. Đúng là thế. Nhưng làm sao cô ấy tin được?"

David nhún vai. "Đó là sự thật."

"Không phải tất cả sự thật. Chú David, theo một cách kỳ quặc nào đó, chúng ta vẫn có một mối liên hệ với nhau, chú và cháu, nhờ có Phoebe. Vì cháu biết bí mật đó. Vấn đề là, cháu từng thích cảm giác đó: cháu cảm thấy mình thật đặc biệt vì cháu biết điều không ai biết cả. Chẳng phải đấy cũng là một thứ quyền lực hay sao, biết được một bí mật? Nhưng sau này cháu lại không thích nữa. Dù sao cháu cũng không phải người có quyền được biết, đúng không?"

"Không." David nhặt một cục đất lên và bóp vụn nó giữa các ngón tay. Ông nghĩ đến những lá thư của Caroline, ông đã cẩn thận đốt hết khi chuyển sang căn nhà này. "Chú nghĩ là không."

"Đấy. Chú thấy chưa? Chú sẽ nói chứ? Nói cho cô ấy biết."

"Chú không biết nữa, Rosemary. Chú không hứa chắc được đâu."

Họ ngồi im lặng dưới nắng trong vài phút, ngắm Jack cố lộn vòng vòng trên bãi cỏ. Nó là một thằng bé tóc hoe vàng, nhanh nhẹn, có tố chất vận động viên bẩm sinh, nó rất thích chạy nhảy và leo trèo. David đã trở về từ Tây Virginia để giải thoát mình khỏi nỗi đau đớn và mất mát ông đã giữ kín trong lòng suốt bao năm qua. Khi June ra đi ông đã không có cách nào để nói về những gì đã mất, không thực sự có cách nào để tiếp tục cuộc sống. Thời ấy, nói đến cái chết thậm chí còn là một điều xúc phạm, vì vậy họ chỉ im lặng. Họ đã để mặc cho nỗi đau mãi dở dang như thế. Bằng cách nào đó, việc quay trở lại cho ông cơ hội để xoa dịu nó. Ông đã về tới Lexington trong tình trạng kiệt quệ, phải, nhưng lại thấy thanh thản và vững tin. Sau ngần ấy năm, cuối cùng ông cũng tìm được lòng can đảm để cho Norah quyền tự do làm lại cuộc đời mình.

* * *

Khi Jack ra đời, David đã lập cho nó một tài khoản đứng tên Rosemary, và một tài khoản cho Phoebe, đứng tên Caroline. Việc đó khá đơn giản; ông vẫn giữ số bảo hiểm xã hội của Caroline, và ông có cả địa chỉ của bà. Thám tử tư mất chưa đến một tuần để tìm ra Caroline và Phoebe, đang sống ở Pittsburgh, trong một căn nhà hẹp cao tầng gần đường cao tốc. David đã lái xe đến đó và đỗ trên phố, ông đã định bước lên những bậc thềm ấy và gõ cửa. Ông muốn cho Norah biết những gì đã xảy ra, nhưng ông không thể làm thế mà không nói cho bà biết nơi Phoebe đang sống được. Norah sẽ muốn được gặp con gái họ, ông chắc chắn vậy, có lẽ ông sẽ không chỉ thay đổi cuộc đời mình, hay cuộc đời của Norah hoặc Paul. Ông đến đây để nói cho Caroline biết điều ông định làm.

Làm như thế có đúng không? Ông không biết. Ông ngồi im trong xe. Trời đã nhập nhoạng tối, ánh đèn pha lấp loáng trên những vòm tiêu huyền. Phoebe đã lớn lên ở đây, những con phố trở nên thân thuộc đến mức con bé coi đó là một điều hiển nhiên, vỉa hè bị lật lên bởi rễ cây, tấm biển báo nguy hiểm khẽ rung lên trong gió, dòng xe cộ tấp nập – tất cả những thứ đó, đối với con gái ông, đều là biểu tượng của chốn quê nhà. Một cặp vợ chồng đẩy chiếc xe nôi đi ngang qua, rồi đèn trong phòng khách ngôi nhà Caroline sống bật sáng. David ra khỏi xe và đứng ở bến xe buýt, cố gắng không tỏ ra quá lộ liễu dù khi ấy ông đang nhìn chằm chằm vào ô cửa sổ qua bãi cỏ tối đen. Trong nhà, đi đi lại lại giữa căn phòng sáng trưng, Caroline đang thu dọn phòng khách, gom nhặt các tờ báo và gấp chăn. Bà đeo một chiếc tạp dề. Những cử động của bà vừa khéo léo vừa chăm chú.Bà đứng dậy và vươn thẳng người lên, ngoái đầu lại nói.

Và rồi David nhìn thấy con bé: Phoebe, con gái ông. Nó ở trong phòng ăn, đang sắp bàn ăn. Nó có mái tóc sẫm và khuôn mặt nhìn nghiêng rất giống Paul, và trong khoảnh khắc trước khi con bé quay ra để lấy lọ muối, David có cảm tưởng như đang nhìn thấy con trai ông. Ông dấn một bước lên, Phoebe biến mất khỏi tầm nhìn rồi trở lại với ba chiếc đĩa. Con bé lùn và vóc người chắc chắn, tóc khá mỏng, được cột gọn lại sau gáy. Nó đeo cả kính nữa. Dù vậy, những điểm tương đồng vẫn rất rõ ràng trong mắt David: kia là nụ cười của Paul, cái mũi của thằng bé, biểu hiện của Paul khi nó đang tập trung đều hiện lên khuôn mặt Phoebe khi con bé chống tay lên hông, ngắm nghía bàn ăn. Caroline bước vào căn phòng đứng bên cạnh Phoebe, vòng tay quanh người nó để ôm một cái thật nhanh và âu yếm, rồi cả hai cùng cười vang.

Lúc ấy trời đã tối hẳn. David đứng đó, đờ đẫn, ông mừng vì không có nhiều người đi bộ lắm. Từng đám lá bay xào xạc trên vỉa hè khi gió thổi qua, ông kéo chiếc áo choàng sát vào người thêm. Ông nhớ rõ cảm giác của mình trong cái đêm vợ trở dạ, như thể ông đang đứng ngoài chính cuộc đời mình và nhìn mình đi qua từng sự kiện. Giờ đây ông hiểu rằng mình không thể kiểm soát được tình hình lúc này, ông hoàn bị gạt ra ngoài lề, cứ như ông chưa hề tồn tại vậy. Phoebe là vô hình đối với ông trong suốt những năm qua: chỉ còn là một ý niệm, không phải một đứa bé. Nhưng nó ở đây, đang đặt những cốc nước lên bàn. Con bé ngước mắt lên, một người đàn ông với mái tóc lởm chởm sẫm màu bước vào nói gì đó khiến nó mỉm cười. Rồi họ ngồi xuống bàn, ba người bọn họ, bắt đầu ăn uống.

David quay lại chiếc xe của mình. Ông hình dung ra cảnh Norah, đứng bên ông trong bóng tối, nhìn con gái họ sống cuộc sống của nó, không mảy may biết đến sự tồn tại của họ. Ông đã gây cho Norah nỗi đau này; sự lừa dối của ông đã khiến bà đau khổ nhiều hơn mức ông có thể tưởng tượng nổi và ngoài tầm chủ định. Nhưng ông có thể tránh cho bà lần này. Ông có thể lái xe đi và để mặc quá khứ. Và đó là điều ông đã làm, rốt cuộc, ông đã lái xe cả đêm xuyên vùng Ohio bằng phẳng.

* * *

“Cháu không hiểu” Rosemary nhìn ông “Sao chú không hứa được? Đấy là việc nên làm cơ mà.”

“Nó sẽ gây ra quá nhiều đau đớn.”

“Chú làm sao biết được chuyện gì sẽ xảy ra nếu không thử làm.”

“Nhưng chú có thể đoán được.”

“Nhưng chú David à – hứa với cháu là chú sẽ suy nghĩ về việc đó đi?”

“Ngày nào chú cũng nghĩ về nó.”

Cô bối rối lắc đầu, rồi nở một nụ cười nhẹ nhàng, buồn bã.“Thế thì thôi vậy. Còn một chuyện nữa.”

“Ừ?”

“Stuart và cháu sắp làm đám cưới.”

“Cháu vẫn còn quá trẻ để lập gia đình mà,” ông đáp ngay, và cả hai người cùng cười phá lên.

“Cháu già khọm như những ngọn đồi rồi ấy chứ,” cô nói. “Quá nửa thời gian cháu đều cảm thấy thế.”

“Ừ,” ông đáp. “Thôi lại chúc mừng cháu vậy. Không bất ngờ lắm, nhưng cũng là tin vui.”Ông nghĩ đến Stuart Wells, cao ráo, dáng thể thao. Lực lưỡng là từ hiện lên ngay trong đầu ông lúc ấy. Stuart là bác sĩ chuyên khoa hô hấp. Anh ta đã yêu Rosemary nhiều năm nay, nhưng cô đã bắt anh phải chờ đến khi cô học xong. “Chú mừng cho cháu, Rosemary ạ. Đó là một chàng thanh niên tử tế. Mà cậu ấy cũng yêu Jack nữa. Cậu ấy có làm việc ở Harrisburg không?”

“Chưa ạ. Anh ấy đang tìm. Hợp đồng của anh ấy sẽ kết thúc trong tháng này.”

“Thị trường lao động ở Harrisburg thế nào?”

“Cũng bình thường thôi ạ. Nhưng cháu cũng chẳng lo lắm. Stuart rất giỏi.”

“Chú chắc là cậu ta phải giỏi lắm.”

“Chú đang giận kìa.”

“Không. Không, không hề. Nhưng tin cháu báo làm chú thấy buồn. Buồn và già.”

Cô cười. “Già khọm không?”

Ông cũng cười theo: “Già hơn thế nhiều chứ.”

Họ im lặng một lúc. “Mọi việc chỉ mới xảy ra thôi,” Rosemary nói. “Tất cả đến cùng một lúc trong tuần vừa rồi. Cháu không muốn nói gì trước về công việc đó cho đến khi nào thật chắc chắn. Thế rồi, khi cháu được nhận vào làm, Stuart và cháu quyết định sẽ làm đám cưới. Cháu biết như thế thì đột ngột quá.”

“Chú thích Stuart,” David nói. “Chú cũng mong được chúc mừng cậu ấy.”

Cô mỉm cười. “Thật ra, cháu tự hỏi không hiểu chú có dẫn cháu đến cho chú rể trong lễ cưới được không.”

Ông quay sang nhìn cô, làn da cô tai tái, niềm hạnh phúc không thể kìm nén thêm nữa tỏa sáng rạng ngời qua nụ cười của cô.

“Chú rất lấy làm hân hạnh,” ông trịnh trọng đáp.

“Lễ cưới sẽ được tổ chức ở đây. Một buổi lễ nhỏ, đơn giản và rất kín đáo thôi. Hai tuần nữa.”

“Cháu không bỏ phí chút thời giờ nào nhỉ.”

“Cháu còn chẳng phải nghĩ ngợi gì nữa,” cô nói. “Mọi việc hình như đều suôn sẻ cả.” Cô liếc nhìn đồng hồ và thở dài. “Cháu phải đi đây.” Cô đứng dậy, phủi sạch hai tay. “Đi nào, Jack.”

“Nếu cháu muốn, chú sẽ trông chừng thằng bé cho, trong khi cháu đi thay quần áo.”

“Thế thì may quá. Cảm ơn chú.”

“Rosemary.”

“Dạ?”

“Thỉnh thoảng gửi ảnh cho chú nhé? Ảnh của Jack khi nó lớn lên ấy? Ảnh của hai mẹ con cháu khi cháu chuyển sang nhà mới nữa, được không?”

“Vâng. Tất nhiên rồi.” Cô khoanh tay lại và đá chân lên mép bậc thềm.

“Cảm ơn cháu,” ông nói giản dị, lại cảm thấy bối rối trước những cách ông đã vận dụng để bỏ lỡ chính cuộc đời mình, ông chìm đắm suy tư như khi làm việc với ống kính máy ảnh hay lúc ngập chìm trong nỗi đau buồn. Mọi người cho rằng ông ngừng chụp ảnh vì người phụ nữ tóc sẫm ở Pittsburgh và bài bình luận không chút xu nịnh của bà ta. Ông không được yêu mến nữa, họ lạm bàn thêm, từ đó ông mất hết hứng thú. Không ai có thể tin được rằng chỉ đơn giản là ông không quan tâm nữa, nhưng đó là sự thật. Ông đã không động đến máy ảnh kể từ ngày ông đến đứng bên ngã ba sông. Ông đã từ bỏ, nghệ thuật và thủ thuật, từ bỏ cái nhiệm vụ tinh tế nhưng mệt mỏi, cố gắng biến đổi thể giới xung quanh thành một thứ hoàn toàn khác, chuyển những bộ phận cơ thể sang sự vật và chuyển những sự vật thành bộ phận cơ thể. Đôi khi tình cờ bắt gặp những tấm ảnh mình đã chụp, in trong sách, treo trên tường văn phòng hay ở nhà, ông giật mình bởi vẻ đẹp lạnh lẽo, sự chính xác máy móc của chúng – và thậm chí nhiều khi, giật mình bởi cuộc kiếm tìm đầy khao khát ẩn trong sự trống rỗng của từng bức ảnh.

“Cháu không thể ngăn thời gian ngừng trôi được,” ông nói. “Cháu không thể giữ ánh sáng lại. Cháu chỉ có thể ngẩng mặt lên và để ánh sáng tràn lên mặt cháu. Thế nên, Rosemary ạ, chú muốn có mấy tấm ảnh. Của cháu và Jack. Dù sao bằng cách này chú còn được nhìn thấy hai mẹ con. Khi nhìn vào đấy chú sẽ vui lắm.”

“Cháu sẽ gửi thật nhiều,” cô hứa, tay chạm lên vai ông. “Cho chú ngập trong ảnh thì thôi.”

Ông ngồi trên bậc thềm chờ cô thay quần áo, lười biếng phơi mình dưới nắng. Jack chơi với cái xe của nó. Chú nên nói cho cô ấy biết. Ông lắc đầu. Sau hôm nhìn căn nhà của Caroline như một kẻ tọc mạch, ông đã gọi một luật sư ở Pittsburgh và cho lập các tài khoản thụ hưởng kia. Khi ông chết, họ sẽ không phải trải qua bất cứ thủ tục chứng thực di chúc nào. Jack và Phoebe sẽ được lo lắng đến nơi đến chốn, còn Norah không cần phải biết.

Rosemary quay lại, người sực nức mùi xà phòng Ivory, cô mặc váy và đi giày bệt. Cô cầm tay Jack và quàng chiếc ba lô màu xanh ngọc lên vai. Trông cô thật trẻ trung, mạnh mẽ và mảnh mai, mái tóc cô ướt đẫm, khuôn mặt hơi cau lại chăm chú. Cô sẽ gửi Jack ở nhà người trông trẻ trên đường đi.

“Ôi”, cô nói “mải nói chuyện, cháu suýt thì quên mất: Paul vừa gọi đấy ạ.”

Tim David đập nhanh hơn. “Thật à?”

“Vâng, sáng nay. Ở chỗ cậu ấy lúc đấy là nửa đêm rồi; cậu ấy vừa đi biểu diễn về. Cậu ấy nói đang ở Seville. Cậu ấy đã đến đấy được ba tuần nay rồi, giờ đang học ghi ta kiểu flamenco với ai đấy – cháu chả nhớ lắm, nhưng có vẻ cũng là người nổi tiếng lắm.”

“Thằng bé có vui vẻ không?”

“Có ạ. Nghe chừng cậu ấy vui lắm.Cậu ấy không để lại số điện thoại. Chỉ nói là sẽ gọi lại thôi.”

David gật đầu, ông mừng vì Paul vẫn khỏe mạnh. Mừng vì nó đã gọi về.

“Chúc cháu thi tốt nhé,” ông nói, đoạn đứng đậy.

“Cảm ơn chú. Chỉ cần cháu thi đỗ là ổn ấy mà.”

Cô mỉm cười, rồi vẫy tay chào và dắt Jack đi theo con đường đá hẹp dẫn ra vỉa hè. David nhìn cô đi, cố gắng ghi vào đầu khoảnh khắc này – chiếc ba lô sinh động, tóc cô phất phơ sau lưng, bàn tay không của Jack giơ ra để nhặt lá và que – mãi mãi. Tất nhiên, làm vậy cũng vô ích mà thôi; ông quên dần mọi thứ sau mỗi bước cô đi. Đôi khi những tấm ảnh của mình khiến ông sửng sốt, những bức ảnh ông tình cờ tìm thấy trong các hộp cũ hoặc cặp tài liệu, những khoảnh khắc ông thậm chí không nhớ nổi mình đã nhìn thấy lúc nào: ảnh chụp chính ông cười với những người ông không nhớ tên, Paul với nét mặt David chưa bao giờ thấy trong đời mình. Rồi sau một năm nữa, hay năm năm nữa, ông sẽ còn nhớ gì về giây phút này đây? Ánh nắng rải trên tóc Rosemary, cặn đất bẩn trong móng tay cô, mùi xà phòng thơm thoang thoảng.

Và dù sao, như thế cũng đã là quá đủ.

Ông đứng dậy, vươn vai, rồi chạy ra công viên. Chạy được chừng một dặm, ông bỗng nhớ ra một việc khác đã luẩn quẩn trong đầu ông suốt cả buổi sáng, một sự kiện quan trọng trong ngày hôm nay, hơn cả bài thi của Rosemary: mười hai tháng Bảy. Sinh nhật Norah. Bà đã bốn mươi sáu tuổi.

Không thể tin nổi. Ông chạy, những sải chân dài thoải mái, nhớ đến Norah trong ngày cưới của họ. Họ đã bước ra ngoài, dưới ánh nắng hanh cuối đông, và đứng trên vỉa hè bắt tay khách khứa. Gió thổi mạng che mặt của bà tung bay, quệt nhẹ lên má ông, những bông tuyết muộn từ trên cây sơn thù du rơi rơi như những cánh hoa bay.

Ông vẫn chạy, nhưng không theo con đường tới công viên nữa, mà chuyển hướng quay về khu nhà cũ của mình. Rosemary nói đúng. Norah nên biết. Ông sẽ nói cho bà biết ngay hôm nay. Ông sẽ đến căn nhà cũ của họ, Norah vẫn còn sống ở đó, và chờ đến khi bà về nhà, ông sẽ nói cho bà biết, dù ông không tưởng tượng ra Norah sẽ phản ứng ra sao.

Tất nhiên chú không thể biết được, Rosemary đã nói vậy. Cuộc sống là thế mà, chú David. Liệu trong nhiều năm trước, chú có thể tưởng tượng được mình sẽ sống trong căn nhà đôi chật chội u ám này không? Trong một triệu năm nữa, liệu chú có bao giờ tưởng tượng ra sẽ gặp cháu không?

Phải, cô nói đúng: cuộc sống ông đang sống không phải cuộc sống mà ông đã tưởng tượng ra cho mình. Ông đã đến thành phố này như một người lạ, nhưng giờ đây những con phố vụt qua trước mắt ông thật quá quen thuộc: không một bậc thềm nào hay một hình ảnh còn sót lại nào mà không gắn với một kỷ niệm. Ông đã nhìn thấy những cái cây này được trồng xuống, thấy chúng lớn lên. Ông chạy qua những ngôi nhà ông biết rõ, những ngôi nhà ông đã ghé thăm để cùng ăn tối hoặc uống trà, những nơi ông đã tới ngay khi nhận được điện thoại báo cấp cứu, đứng trong đêm khuya trên hành lang hay phòng chờ, ghi đơn thuốc, gọi xe cứu thương. Từng lớp, từng lớp ngày tháng và hình ảnh, cô đặc và đan xen, thật đặc biệt đối với riêng ông. Norah có thể đi qua nơi này, hoặc Paul cũng vậy, và nhìn thấy điều gì đó hoàn toàn khác biệt nhưng cũng chân thực y như vậy.

David chạy xuống con phố cũ. Ông đã không ghé qua đây nhiều tháng rồi, và ông ngạc nhiên khi thấy những hàng cột ngoài hiên đã gẫy gục, mái nhà giờ đây được đỡ bằng hai thanh dầm hai nhân bốn. Sàn lát hiên có vẻ đã mục, nhưng không thấy có thợ sửa chữa. Lối vào trống không; Norah vẫn chưa về. Ông rảo chân qua bãi cỏ vài lần để lấy hơi, rồi ra chỗ chiếc chìa khóa được giấu dưới viên gạch kế bên bụi đỗ quyên. Ông vào nhà và uống một ít nước. Căn nhà xông lên mùi ẩm mốc. Ông mở một ô cửa sổ ra. Gió thổi tung tấm rèm trắng mỏng manh. Đó là rèm mới, cả gạch lát sàn và chiếc tủ lạnh cũng vậy. Ông lấy thêm một cốc nước nữa. Sau đó ông đi quanh nhà, tò mò muốn biết xem còn thứ gì thay đổi nữa không. Những thứ nhỏ nhặt, ở khắp nơi: một tấm gương mới trong phòng ăn, bộ xa lông kê trong phòng khách đã được bọc vải mới và kê lại.

Trên gác, các phòng ngủ vẫn như cũ, căn phòng của Paul là ngôi đền của những tội lỗi tuổi trẻ, với áp phích của nhóm tứ tấu vô danh dán trên tường, những cuống vé đính trên một tấm bảng, tường sơn màu xanh sẫm ghê rợn, chẳng khác nào một cái hang. Thằng bé đã theo học trường Juilliard, và mặc dù David đã chúc nó thành công và trả một nửa học phí cho nó, Paul vẫn chỉ nhớ đến thời quá khứ xa xưa trước đó, hồi David chưa tin tưởng tài năng của con trai có thể đảm bảo cho nó một chỗ đứng trong cuộc đời này. Nó luôn gửi những tờ bướm giới thiệu chương trình và các bài bình luận, cùng với bưu ảnh từ tất cả các thành phố nó đã đến lưu diễn, như để nói Đấy bố nhìn đi, con đã thành công rồi đấy. Như thể chính bản thân Paul cũng không thể tin nổi. Đôi khi David vượt hàng trăm dặm đường hoặc hơn, đến Cincinnati, Pittsburgh, Atlanta hoặc Memphis, để ngồi ở tận hàng ghế cuối trong khán phòng tối om xem Paul biểu diễn. Đầu nó cúi xuống chiếc ghi ta, những ngón tay khéo léo, những nốt nhạc như một thứ ngôn ngữ vừa bí ẩn vừa đẹp đẽ, khiến David xúc động trào nước mắt. Nhiều khi tất cả những gì ông có thể làm là ngăn mình không sải bước dọc lối đi tối om giữa hai hàng ghế, chạy đến ôm chặt lấy Paul. Nhưng tất nhiên ông không bao giờ làm thế; nhiều lúc, ông chỉ lặng lẽ rời đi.

Phòng ngủ lớn được sắp đặt vô cùng ngăn nắp, không được dùng tới. Norah đã chuyển sang căn phòng ngủ nhỏ hơn ở phía trước; trong phòng tấm trải giường đã nhăn nhúm. David giơ tay ra định vuốt cho phẳng, nhưng rồi đến phút cuối ông rút tay lại, dường như đó là một sự xâm phạm quá thô bạo. Sau đó ông quay xuống nhà dưới.

Ông không thể hiểu nổi; đã chiều muộn rồi và lẽ ra Norah phải về đến nhà rồi chứ. Nếu bà không về sớm, ông đành rời khỏi đây thôi.

Có một tập giấy nhớ đặt trên bàn cạnh điện thoại, mảnh giấy trên cùng chi chít những ghi chú khó hiểu: Gọi Jan trước 8:00 để sắp lại lịch; Tim vẫn chưa chắc chắn làm; giao hàng, trước 10:00. Đừng quên – Dunfree và vé. Ông xé tờ giấy đó ra thật cẩn thận, vuông vắn, đặt ở chính giữa bàn, rồi mang cả tập giấy ra bàn ăn sáng, ngồi xuống, và bắt đầu viết.

Con gái chúng ta chưa chết. Caroline Gill đã đưa con bé đi và nuôi nấng nó ở một thành phố khác.

Ông xé tờ đó đi.

Anh đã đem cho con gái của chúng ta.

Ông thở dài và đặt bút xuống.Ông không thể làm được điều này; ông không thể tưởng tượng nổi cuộc sống của mình sẽ ra sao nếu không có gánh nặng bí mật mà ông đang mang. Ông nghĩ nó giống như một kiểu hành xác. Làm thế là tự hủy hoại bản thân mình, ông biết thế, nhưng đời là vậy. Có người hút thuốc, có người nhảy từ trên máy bay xuống, có người uống tràn cung mây rồi nhảy vào xe phóng như điên mà không cài dây an toàn. Đối với ông, là bí mật này. Tấm rèm mới quét lên cánh tay ông. Xa xa, vòi nước trong phòng tắm dưới nhà nhỏ từng giọt tí tách, thứ âm thanh đã khiến ông muốn phát điên bao nhiêu năm nay, ông đã luôn muốn sửa nó. Ông giật tờ giấy khỏi tập giấy nhớ, xé vụn ra rồi nhét vào túi để vứt đi sau. Sau đó ông ra ga ra sục sạo những đống dụng cụ mà ông đã bỏ lại cho tới khi tìm thấy một cây cờ lê và một bộ vòng đệm. Có lẽ trong một ngày thứ Bảy nào đó ông đã mua chúng vì chính mục đích này.

Phải mất hơn một tiếng ông mới sửa xong vòi nước trong phòng tắm. Ông tháo rời từng món ra và cọ sạch cặn bẩn bám trên lưới lọc, thay gioăng, siết chặt các vít. Nấm đấm cửa bằng đồng đã mờ đục. Ông đánh lại cho bóng, dùng chiếc bàn chải đánh răng cũ tìm thấy trong lon cà phê dưới bồn rửa. Khi ông làm xong thì đã sáu giờ, vẫn còn sớm trong buổi tối giữa mùa hè, ánh nắng vẫn tràn qua cửa sổ nhưng giờ góc chiếu thấp hơn, xiên xiên trên sàn nhà. David đứng trong phòng tắm một lúc, cảm thấy vô cùng hài lòng trước cái nắm đấm cửa sáng bóng, trước không gian tĩnh lặng. Chuông điện thoại đổ dồn trong bếp và một giọng nói xa lạ vang lên, hối hả báo về những tấm vé đi Montreal, rồi tự ngắt lời mình và nói, Ôi chết tiệt, phải rồi, tôi quên mất chị đang đi nghỉ ở châu Âu với Frederic. Ông cũng nhớ việc này – bà đã nói cho ông biết, nhưng ông để nó tự trôi khỏi tâm trí mình; không, ông đã cố gạt nó ra khỏi đầu – rằng bà đã đi nghỉ ở Paris. Rằng bà đang hẹn hò với một người khác, một người Canada sống ở Quebec, ông ta làm việc ở tòa nhà của hãng IBM và nói tiếng Pháp. Giọng nói của bà thay đổi khi bà nói về ông ta, dường như dịu dàng hơn, thứ giọng ông chưa từng nghe bà nói bao giờ. Ông tưởng tượng ra Norah, vừa kẹp điện thoại trên vai vừa nhập thông tin vào máy vi tính, rồi chợt ngước mắt lên và nhận ra rằng đã quá giờ ăn tối. Norah, sải những bước dài trên hành lang sân bay, dẫn các đoàn khách ra xe buýt, đến nhà hàng, khách sạn, theo những cuộc thám hiểm, tất cả đều được bà chuẩn bị thật chỉn chu.

Chà, ít ra thì bà cũng sẽ vui vì mấy cái vòi nước. Cả ông cũng vui – ông đã làm rất cẩn thận, tỉ mỉ. Ông đứng trong bếp, vươn dài hai tay để chuẩn bị kết thúc buổi chạy bộ, rồi nhặt tập giấy lên.

Anh đã sửa bồn rửa trong phòng tắm rồi, ông viết. Chúc mừng sinh nhật.

Rồi ông ra khỏi nhà, khóa cửa lại sau lưng, và chạy đi.

Chương 20Tháng Bảy Năm 1988

NORAH NGỒI TRÊN GHẾ ĐÁ TRONG KHU VƯỜN ĐIỆN LOUVRE, một cuốn sách để mở trong lòng, ngắm những chiếc lá dương bạc rung rinh nổi bật trên bầu trời. Chim bồ câu lạch bạch lội trong đám cỏ ngay sát chân bà, mổ lích chích, lê theo những đôi cánh óng ánh đủ màu.

“Thằng bé đến muộn mất,” bà nói với Bree ngồi ngay bên cạnh, đôi chân dài bắt chéo lại ở mắt cá, đang đảo qua tờ tạp chí. Bree, giờ đã bốn tư tuổi, vẫn rất xinh đẹp, cao ráo và yểu điệu, đôi hoa tai màu xanh ngọc lướt nhẹ lên làn da màu ô liu, mái tóc thuần một màu trắng bạc. Trong quá trình xạ trị bà đã cắt tóc thật ngắn, nói rằng bà không định bỏ phí thêm giây phút nào của cuộc đời để làm đỏm nữa. Bà may mắn và bà biết được điều đó; họ đã phát hiện ra khối u sớm và giờ bà đã thoát khỏi bệnh ung thư năm năm nay. Dẫu vậy những gì đã trải qua khiến bà thay đổi, cả những điều to lớn và nhỏ nhặt. Bà cười nhiều hơn và nghỉ ngơi nhiều hơn. Bà dành những ngày cuối tuần để làm tình nguyện cho dự án xây nhà từ thiện; khi đang xây nhà ở miền Đông Kentucky bà đã gặp một người đàn ông hài hước, khỏe mạnh và thân thiện, một mục sư vừa góa vợ. Ông tên là Ben. Họ gặp lại nhau trong một dự án ở Florida, và một lần khác nữa ở Mexico. Trong chuyến đi cuối cùng, họ đã kín đáo làm đám cưới.

“Paul sẽ đến thôi,” Bree nói, ngẩng đầu lên.“Dù sao đây cũng là ý nó cơ mà.”

“Thì đúng thế,” Norah đáp. “Nhưng nó đang yêu. Chị chỉ mong nó vẫn còn nhớ thôi.”

Không khí nóng và khô. Norah nhắm mắt lại, nhớ về cái ngày cuối tháng Tư Paul xuất hiện ở văn phòng khiến bà hết sức bất ngờ, cậu ghé qua nhà chỉ vài tiếng giữa hai buổi lưu diễn. Cao và vẫn gầy lỏng khỏng, cậu ngồi trên mép bàn làm việc của bà, vừa chuyền cục chặn giấy từ tay sang tay kia vừa mô tả những kế hoạch cho chuyến lưu diễn mùa hè xuyên châu Âu, cậu sẽ dành trọn sáu tuần ở Tây Ban Nha để học với các nghệ sĩ ghi ta ở đó. Bà và Frederic đã lên lịch cho chuyến đi Pháp, và khi Paul phát hiện ra họ sẽ ở Paris cùng một ngày, cậu đã nhặt vội cây bút trên bàn và nguệch ngoạc mấy chữ LOUVRE trên tờ lịch tường trong văn phòng Norah: Năm giờ, ngày 21 tháng Bảy. Gặp con trong vườn, con sẽ đưa mẹ đi ăn tối.

Vài tuần sau cậu đi châu Âu, thỉnh thoảng lại gọi về cho bà từ các nhà nghỉ quê mùa hay khách sạn nhỏ ven biển. Cậu đã yêu một nữ nghệ sĩ chơi sáo, thời tiết rất đẹp, bia ở Đức thì ngon thôi rồi. Norah lắng nghe; bà cố gắng không lo lắng hay hỏi han quá nhiều. Dù gì thì Paul cũng dã trưởng thành, cao một mét tám, màu da sẫm giống David. Bà tưởng tượng ra cảnh cậu đi chân trần dạo bộ dọc bãi biển, cúi xuống thì thầm điều gì đó với bạn gái, hơi thở của cậu mơn man trên tai cô.

Bà quá dè dặt đến nỗi thậm chí không bao giờ dám hỏi cậu về lịch trình chuyến đi, vì vậy khi Bree gọi từ bệnh viện ở Lexington về, bà đã không biết liên lạc với cậu bằng cách nào để báo cái tin động trời: David, khi đang chạy trong vườn ươm cây, đã lên cơn đau tim nguy kịch và qua đời.

Bà mở mắt ra. Cảnh vật vừa sống động vừa mờ ảo trong hơi nóng cuối chiều hè, lá cây lấp lánh trên nền trời xanh ngắt. Bà đã bay về nhà một mình, tỉnh dậy trên máy bay giữa những giấc mơ đầy âu lo, thấy mình đang tìm kiếm Paul. Bree giúp bà vượt qua đám tang, và không để bà trở lại Paris một mình.

“Chị đừng lo,” Bree nói. “Nó sẽ đến thôi.”

“Nó đã bỏ lỡ đám tang,” Norah nói.“Chị sẽ mãi day dứt về chuyện đó. Họ chưa bao giờ giải quyết mọi chuyện cho thật rốt ráo, David và Paul ấy. Chị không nghĩ Paul có thể vượt qua được cái chết của David.”

“Còn chị thì có à?”

Norah nhìn Bree, mái tóc lông nhím ngắn ngủn và nước da sáng, đôi mắt xanh của em gái, bình thản và chăm chú. Bà quay đi.

“Nghe giống như câu Ben hỏi. Chị nghĩ hình như em đã dành quá nhiều thời gian với các mục sư rồi đấy.”

Bree cười lớn, nhưng bà vẫn không chịu thôi, “Ben có hỏi đâu,” bà nói. “Là em đấy chứ.”

“Chị không biết nữa,” Norah chậm rãi đáp, nghĩ đến David trong lần cuối cùng bà gặp ông, ông đang ngồi trên hiên nhà uống một cốc trà đá sau cuộc chạy bộ. Họ đã ly dị được sáu năm và trước đó đã chung sống với nhau mười tám năm ròng: bà đã biết ông hai mươi lăm năm trời, một phần tư thế kỷ, quá nửa cuộc đời bà. Khi Bree gọi điện để báo tin về cái chết của ông, ban đầu bà chỉ cảm thấy sững sờ. Không thể tưởng tượng được thế giới không có David. Phải đến tận mãi sau, sau đám tang, nỗi đau mới xâm chiếm tâm can bà. “Có quá nhiều điều chị ước rằng mình đã nói với anh ấy. Nhưng ít ra bọn chị cũng đã nói chuyện. Đôi khi anh ấy chỉ ghé qua: để sửa thứ gì đó, để chào một câu. Anh ấy cô đơn, chị nghĩ vậy.”

“Anh ấy có biết về Frederic không?”

“Không. Một lần chị đã cố nói cho anh ấy biết, nhưng hình như anh ấy không chịu nghe.”

"Thế thì đúng kiểu của David rồi,” Bree bình luận. “Anh ấy và Frederic khác hẳn nhau”

“Phải. Phải, đúng thế thật.”

Hình ảnh Frederic ở Lexington, đứng ngoài trời trong bóng tối nhập nhoạng, đổ tro vào lớp đất quanh bụi đổ quyên cao quá đầu bà. Họ gặp nhau mới hơn một năm trước trong một ngày khô hạn, ở một công viên khác. Công ty IBM, khách hàng bà đã dành rất nhiều công sức theo đuổi, vẫn là một trong những mục tiêu sinh lợi nhất của bà, vì vậy bà đã tham gia buổi dã ngoại thường niên bất chấp cơn đau đầu và tiếng sấm đì đùng phía xa. Frederic đang ngồi một mình, trông có phần khô khan và trầm lặng. Norah lấy cho mình một đĩa thức ăn và ngồi kế bên ông. Nếu ông không muốn nói chuyện phiếm thì cũng không sao. Nhưng khi bị kéo khỏi dòng suy tư, ông mỉm cười và chào đón bà nồng nhiệt, ông nói tiếng Anh bằng giọng Pháp lơ lớ; ông đến từ Quebec. Họ nói chuyện hàng giờ liền trong khi cơn bão mạnh dần lên, những người khác đã thu dọn đồ đạc ra về. Khi mưa bắt đầu rơi, ông mời bà đi ăn tối.

“Thế Frederic đâu rồi?” Bree hỏi. “Chẳng phải chị nói anh ấy sẽ đến còn gì?”

“Anh ấy định đến, nhưng lại vừa nhận được điện thoại gọi tới Orleans làm việc. Anh ấy có vài người họ hàng ở đó. Một người anh em họ xa của anh ấy sống ở một nơi tên là Chateauneuf. Chẳng lẽ em không muốn sống ở một nơi có tên như thế sao?”

“Ngay cả ở đấy thì cũng có kẹt xe và những ngày mệt mỏi thôi.”

“Chị hy vọng là không. Chị mong rằng họ sẽ đi chợ mỗi sáng và trở về nhà với bánh mì tươi và những lọ đầy hoa. Dù sao chị cũng đã khuyên Frederic nên đi. Anh ấy và Paul là những người bạn tốt, nhưng để một mình chị báo tin này cho nó thì hơn.”

“Phải. Em cũng đang tính đi đây, ngay khi nào thằng bé đến.”

“Cảm ơn em,” Norah nói, cầm lấy tay em. “Cảm ơn em vì tất cả. Vì đã giúp rất nhiều việc cho đám tang. Chị không thể vượt qua được tuần vừa rồi nếu không có em.”

“Chị nợ em nhiều lắm đấy,” Bree đáp, miệng mỉm cười. Rồi trầm ngâm. “Em nghĩ đó là một đám tang đẹp, nếu được nói như vậy. Có rất nhiều người. Em thật sự bất ngờ khi biết David đã giúp đỡ ngần ấy cuộc đời.”

Norah gật đầu. Chính bà cũng thấy ngạc nhiên, nhà thờ nhỏ của Bree chật cứng người, đến nỗi khi lễ tang được cử hành, ba người bọn họ bị dồn lại đứng tít phía sau. Những ngày trước đó chỉ còn là một vệt ký ức mờ nhạt, Ben ôn tồn hướng đẫn bà chọn nhạc và Kinh Thánh, bình đựng tro và hoa, giúp bà viết cáo phó. Tuy nhiên, có những việc cụ thể ấy để mà làm cũng đỡ, và Norah đã thực hiện nhiệm vụ một cách hiệu quả nhưng trong tâm trạng đờ đẫn tê dại. Hẳn mọi người sẽ thấy lạ, khi bà khóc nức nở, những từ ngữ đẹp đẽ cũ rích bỗng có một ý nghĩa mới mẻ, nhưng thực ra không phải bà đau đớn chỉ vì mình David. Nhiều năm trước họ đã đứng bên nhau trong lễ tưởng niệm con gái họ, và ngay cả khi ấy nỗi đau mất mát vẫn lớn dần lên giữa hai người.

“Là do phòng khám đấy mà,” Norah nói. “Phòng khám anh ấy đã điều hành ngần ấy năm. Đa số mọi người đều đã từng là bệnh nhân của anh ấy.”

“Em biết. Nhiều thật. Hình như ai cũng nghĩ anh ấy là một vị thánh.”

“Họ có lấy anh ấy đâu,” Norah đáp.

Lá cây rung rinh trên nền trời xanh nóng nực. Bà đảo mắt khắp công viên lần nữa, tìm xem Paul có ở đó không, nhưng chẳng thấy gì khác.

“Ôi,” Norah nói. “Chị vẫn chưa thể tin được David đã mất.” Kể cả ngay lúc này, khi nhiều ngày đã trôi qua, những lời ấy vẫn khiến bà thoáng rùng mình. “Không hiểu sao, chị thấy mình già quá.”

Bree cầm lấy tay bà, và họ ngồi lặng lẽ trong vài phút. Lòng bàn tay Bree thật mượt mà ấm áp trên tay bà, và Norah cảm thấy khoảnh khắc ấy trải ra, lớn dần lên, như có thể ôm trọn cả thế giới. Bà nhớ thứ cảm giác tương tự của nhiều năm về trước khi Paul vẫn còn là một đứa bé ẵm ngửa còn bà ngồi trong đêm tối êm dịu, vỗ về nó. Giờ nó đã lớn, nó đứng trên sân ga tàu hỏa, trên vỉa hè dưới vòm lá rung rinh hay sải chân bước trên phố. Nó dừng lại trước các tủ kính bày hàng, thò tay vào túi lấy vé, hay che mắt dưới ánh mặt trời. Nó đã bứt khỏi cơ thể bà và giờ đây, thật đáng kinh ngạc, nó đi vòng quanh thế giới mà không có bà ở bên. Bà nghĩ đến Frederic, nhớ ông ngồi trong phòng họp, đầu gật gù khi đọc lướt qua đống giấy tờ, ép tay lên bàn chuẩn bị phát biểu. Lông tay ông đen sẫm, những móng tay vuông dài. Ông cạo râu hai ngày một lần, và nếu có quên, lớp râu mới nhú của ông cọ vào cổ bà khi ông siết chặt bà trong đêm, hôn vào dái tai để kích thích bà. Ông không ăn bánh mì hay đồ ngọt; và nếu báo sáng bị giao trễ ông sẽ rất cáu tiết. Tất cả những thói quen nhỏ nhặt ấy, hoặc dễ thương hoặc đáng ghét, đều thuộc về Frederic. Tối nay bà sẽ gặp ông ở căn nhà nghỉ bên sông. Họ sẽ uống rượu và bà sẽ tỉnh dậy giữa đêm khuya, ánh trăng tràn vào, hơi thở đều đều nhẹ nhàng của ông choán đầy căn phòng. Ông muốn làm đám cưới, và đó cũng chính là một quyết định nữa.

Cuốn sách của Norah tuột khỏi tay, bà cúi xuống nhặt lên. Hình bức tranh Đêm đầy sao của Van Gogh trên tờ bướm bà dùng để đánh dấu trang xoay ngược lại. Khi bà ngồi thẳng dậy, Paul đang đi ngang qua công viên.

“Ô kìa,” bà kêu lên, lòng tràn ngập cảm giác khoan khoái quen thuộc mỗi lần gặp cậu: con người này, con trai bà, đang đứng đây trên mặt đất này. Bà đứng dậy. “Nó đến kìa, Bree. Paul đến thật rồi!”

“Thằng bé đẹp quá,” Bree nhìn theo, giờ bà cũng đã đứng dậy. “Chắc giống em đấy.”

“Chắc vậy,” Norah đồng tình. “Nhưng không biết nó thừa hưởng tài năng ấy từ ai nhỉ, trong khi chị với David thì đến một nốt nhạc bẻ đôi còn chẳng biết.”

Tài năng của Paul, phải. Bà nhìn cậu đi xuyên qua công viên. Một điều bí ẩn, tài năng ấy, và một món quà.

Paul giơ một tay lên vẫy, cười hớn hở, Norah cũng bước về phía con, để lại cuốn sách trên ghế. Tim bà đập rộn ràng vì phấn khích và sung sướng, vì cả nỗi đau và rối bời; toàn thân bà run lên. Thế giới biến đổi biết bao, trước sự hiện diện của cậu! Cuối cùng bà cũng tới chỗ Paul và siết cậu thật chặt. Cậu mặc áo sơ mi trắng xắn cao tay áo, quần soóc ka ki. Bà cảm nhận rõ rệt cơ bắp qua lớp vải, khớp xương rắn chắc, hơi nóng tỏa từ cơ thể cậu, và chỉ trong tích tắc, bà thấu hiểu khao khát ghi lại từng khoảnh khắc của David. Không ai có thể đổ lỗi cho ông, không, không ai có thể buộc tội ông vì đã muốn đi sâu vào từng giây phút thoảng qua, để hiểu được bí ẩn chứa bên trong nó, để lấn át những mất mát, đổi thay và chuyển động.

“Chào mẹ,” Paul nói, đoạn lùi lại để nhìn bà. Răng cậu trắng lóa, thẳng hàng, hoàn hảo; giờ cậu đã có một hàm râu đen thẫm. “Gặp mẹ ở đây thích thật,” cậu nói, rồi cười lớn.

“Ừ, thích thật.”

Bree đã đứng bên cạnh Norah. Bà bước lên phía trước và ôm chầm lấy Paul.

“Dì phải đi đây,” bà nói. “Dì đến để chào cháu một tiếng thôi. Trông cháu bảnh quá Paul ạ. Cuộc sống lang thang hợp với cháu đấy.”

Cậu mỉm cười: “Dì không ở lại được à?”

Bree liếc sang Norah. “Không,” bà đáp. “Nhưng dì sẽ sớm gặp lại cháu, thế nhé?”

“Vâng,” Paul nói, rồi cúi xuống hôn lên má bà. “Thế cũng được ạ.”

Norah đưa cổ tay lên chùi mắt khi Bree quay lưng bước đi.

“Sao thế mẹ?” Paul hỏi ngay, giọng bỗng trở nên nghiêm trọng. “Có chuyện gì phải không?”

“Con ra ngồi đây đi,” bà nói, cầm lấy tay cậu.

Đi bên nhau, hai mẹ con quay lại chiếc ghế đá bà vừa ngồi, khiến đám bồ câu cánh lông ngũ sắc vỗ cánh bay tứ tán. Bà cầm cuốn sách lên, ngón tay mân mê cái kẹp sách.

“Paul, mẹ có một tin buồn. Bố con mất cách đây chín ngày rồi. Bố bị đau tim.”

Mắt cậu mở to vì sốc và đau đớn, cậu quay đi, không nói năng gì mà chỉ nhìn chằm chằm về phía con đường mình đã đi để tới chỗ mẹ, để tới giây phút này.

“Đám tang tổ chức khi nào ạ?” cuối cùng cậu cũng mở miệng.

“Tuần trước. Mẹ xin lỗi con, Paul. Không có đủ thời gian để tìm con nữa. Mẹ đã nghĩ đến việc liên hệ với Đại sứ quán để giúp tìm con, nhưng mẹ chẳng biết phải bắt đầu từ đâu. Nên hôm nay mẹ mới đến đây, chỉ mong con sẽ tới.”

“Suýt nữa con đã lỡ tàu rồi,” cậu nói, vẻ suy tư. “Suýt nữa con đã không đến được.”

“Nhưng con đã đến rồi đấy thôi,” bà nói. “Con đang ở đây mà.”

Cậu gật đầu và ngả về phía trước, khuỷu tay chống lên đầu gối, hai tay siết lại ở giữa. Bà nhớ cậu từng ngồi như thế hồi còn nhỏ, gắng hết sức để che giấu nỗi buồn của mình. Cậu siết chặt tay, rồi buông ra. Bà nắm lấy tay con. Những đầu ngón tay đã chai sần sau bao năm chơi nhạc. Họ ngồi đó một lúc lâu, nghe gió thổi xào xạc qua tán lá.

“Con buồn cũng phải thôi,” cuối cùng bà nói. “Ông ấy là bố con mà.”

Paul gật đầu, nhưng khuôn mặt cậu vẫn khoặm lại như nắm đấm. Cuối cùng cậu cũng cất lời, nhưng giọng nói thì gần như lạc đi.

“Con chưa bao giờ nghĩ bố sẽ ra đi. Con chưa bao giờ nghĩ mình sẽ bận tâm. Dường như hai bố con chưa bao giờ nói chuyện được với nhau thực sự cả.”

“Mẹ hiểu.” Bà hiểu thật. Sau khi nhận được điện thoại của Bree, Norah đã đi dọc con phố rợp bóng cây, khóc như điên dại, bà giận vì David đã ra đi, không cho bà lấy một cơ hội giải quyết mọi chuyện với ông, một lần và mãi mãi. “Nhưng trước đó, chỉ riêng nói chuyện thôi cũng là một lựa chọn cơ mà.”

“Vâng. Con cứ đợi bố nói trước.”

“Mẹ nghĩ bố cũng chờ đợi chính điều đó.”

“Ông ấy là bố con,” Paul nói.“Ông ấy phải biết nên làm gì chứ.”

“Ông ấy yêu con,” bà nói. “Đừng nghĩ bố không yêu con.”

Paul cười một tiếng cụt lủn, cay đắng. “Không. Nghe thì hay lắm, nhưng không đúng sự thật. Con đã đến nhà ông ấy và cố thử xem; con cùng đi dạo với bố rồi nói chuyện linh tinh, nhưng chẳng bao giờ đi xa hơn mức ấy. Con chẳng làm được gì khiến bố hài lòng cả. Có lẽ bố sẽ hạnh phúc hơn nếu có một đứa con trai khác chứ không phải con.” Giọng cậu vẫn bình thản, nhưng nước đã dâng đầy lên khóe mắt và chảy dài trên má cậu.

“Con yêu,” bà nói. “Bố yêu con. Bố yêu con thật mà. Bố luôn nghĩ con là đứa con tuyệt vời nhất.”

Paul chùi mạnh những giọt nước mắt trên má. Norah cảm thấy nỗi đau đớn và buồn rầu dâng đầy cổ họng, phải mất một lúc sau bà mới nói được.

“Bố con,” cuối cùng bà lên tiếng, “rất khó giãi bày với bất cứ ai về bản thân mình. Mẹ không hiểu là vì đâu. Bố con lớn lên trong cảnh nghèo khổ, và ông luôn lấy thế làm hổ thẹn. Mẹ ước gì ông thấy được có bao nhiêu người đến dự đám tang ông ấy, Paul à. Hàng trăm người. Đó là nhờ tất cả những gì bố con đã làm ở phòng khám. Mẹ mang theo cả danh sách khách đến viếng đây; con có thể tự mình xem. Rất nhiều người yêu quý ông ấy.”

“Rosemary có đến không?” cậu hỏi, quay lại đối mặt với bà.

“Rosemary à? Có.” Norah ngừng lời, để làn gió ấm áp mơn man trên mặt bà. Bà đã thoáng thấy Rosemary khi buổi lễ kết thúc, cô ngồi ở hàng ghế dưới cùng trong bộ váy màu xám giản dị. Mái tóc của cô vẫn dài nhưng trông cô đã già dặn hơn, ổn định hơn. David vẫn luôn khăng khăng là không có chuyện gì giữa hai người bọn họ cả; trong thâm tâm, Norah biết đó là sự thật. “Không phải họ yêu nhau đâu,” Norah nói. “Bố con và Rosemary ấy. Không như con nghĩ đâu.”

“Con biết.” Cậu ngồi thẳng dậy. “Con biết mà, Rosemary nói với con rồi. Con tin cô ấy.”

“Thật à? Khi nào?”

“Từ lúc bố đưa cô ấy về nhà. Ngay từ ngày đầu tiên.” Trông cậu có vẻ không thoải mái, nhưng cậu lại nói tiếp. “Thỉnh thoảng con vẫn nhìn thấy cô ấy ở nhà bố. Khi con ghé qua thăm ông. Có khi cả ba người cùng ăn tối luôn. Hoặc có những lúc bố không có ở nhà, con lại đi dạo loanh quanh với Rosemary và Jack. Con có thể nói chắc là không có chuyện gì xảy ra giữa hai người bọn họ cả. Nhiều lúc bạn trai của cô ấy cũng đến chơi. Con không biết nữa. Cứ lạ lạ sao ấy. Nhưng con quen rồi. Cô ấy khá tốt, Rosemary ấy. Cô ấy không phải là lý do khiến con chưa bao giờ nói chuyện được thực sự với bố.”

Norah gật đầu. “Nhưng Paul à, con rất có ý nghĩa đối với bố. Con ạ, mẹ biết con muốn nói gì, bởi vì mẹ cũng cảm thấy thế. Khoảng cách ấy. Sự dè dặt ấy. Cảm giác có một bức tường ngăn quá cao mà ta không thể vượt qua nổi. Sau một thời gian mẹ đã thôi không cố gắng, rồi sau một thời gian nữa mẹ cũng thôi không chờ đợi sẽ có một cánh cửa hiện ra trên đó. Nhưng phía sau bức tường ấy, bố yêu cả hai mẹ con mình. Mẹ không biết nhờ đâu mẹ biết điều đó, nhưng mẹ vẫn biết.”

Paul không nói gì. Thỉnh thoảng cậu lại đưa tay chùi nước mắt.

Không khí đã mát mẻ hơn, và mọi người bắt đầu đi dạo quanh vườn, những cặp tình nhân tay trong tay, những cặp vợ chồng đi cùng con cái, những người đi dạo một mình. Một đôi vợ chồng già tiến lại gần. Bà vợ cao, tóc đã điểm bạc, còn ông chồng bước đi chậm chạp, lưng hơi còng xuống, tay chống gậy. Bà vợ quàng tay qua khuỷu tay ông và cúi xuống nói với ông điều gì đó, ông gật đầu, nghĩ ngợi, cau mày, rồi nhìn qua khu vườn, ra ngoài cánh cổng, về phía thứ gì đó bà muốn chỉ cho ông xem. Norah chợt nhói lòng khi thấy cảnh tượng thân mật ấy. Đã có lúc bà tưởng tượng mình và David đi bên nhau ở tuổi này, quá khứ của họ xoắn bện với nhau như dây leo, vấn vít quanh những nụ chồi, búp lá. Ôi chao, bà đã lỗi thời mất rồi, ngay cả niềm tiếc nuối của bà cũng lỗi thời. Bà đã nghĩ rằng, sau khi lấy chồng, bà sẽ là một nụ hoa xinh xắn, được bao bọc trong đài hoa chắc chắn, kiên cố. Được bao bọc và bảo vệ, từng lát cắt cuộc đời của bà bao lấy nhau.

Nhưng thay vào đó bà đã tìm thấy con đường cho riêng mình, bà đã gây dựng cả một doanh nghiệp, nuôi Paul khôn lớn, đã đi vòng quanh thế giới. Bà là cánh hoa, là đài hoa, là cuống, là lá; bà là chiếc rễ dài thân trắng đâm sâu vào lòng đất. Và bà hạnh phúc.

Khi đi ngang qua, đôi vợ chồng già nói tiếng Mỹ, họ đang tranh luận xem nên ăn tối ở đâu. Giọng nói của họ giống người miền Nam – chắc là Texas, Norah đoán thế - và ông chồng muốn kiếm nhà hàng nào có món bíp tết, phục vụ các món quen.

“Con chán mấy người Mỹ lắm rồi”, Paul nói, ngay khi đôi vợ chồng vừa đi khỏi tầm nghe. “Lúc nào gặp được người Mỹ nào khác thì mừng mừng tủi tủi. Làm như trên thế giới không có hai trăm năm mươi triệu người như chúng ta ấy. Làm như họ phải tìm cho ra vài người Pháp, vì mình đang ở Pháp vậy.”

“Con hay nói chuyện với chú Frederic nhỉ.”

“Vâng. Sao lại không nhỉ? Nói chuyện với chú Frederic về thói hợm hĩnh của dân Mỹ thì đúng là gãi trúng chỗ ngứa rồi. À mà chú ấy đâu rồi mẹ?”

“Đi công tác rồi. Tối nay chú ấy sẽ đến.”

Hình ảnh ấy lại vụt qua đầu bà, Frederic bước qua cửa phòng khách sạn, thả chùm chìa khóa lên bàn trang điểm và vỗ lên túi để chắc chắn chiếc ví vẫn còn ở đó. Ông mặc sơ mi sặc sỡ, bắt sáng, cổ đứng khuy cài, mỗi tối ông bước vào và vắt cà vạt lên ghế, giọng nói trầm trầm của ông gọi tên bà. Có lẽ giọng nói chính là điều đầu tiên bà yêu ở ông. Họ có nhiều điểm chung – con cái đã lớn, đều đã ly hôn, công việc nhiều áp lực – nhưng vì cuộc sống của Frederic đã diễn ra ở một đất nước khác, một nửa là bằng thứ ngôn ngữ khác, nên Norah ngay lập tức cảm thấy nó thật kỳ thú, vừa thân thuộc lại vừa xa lạ. Một đất nước vừa cũ kỹ vừa mới mẻ.

“Chuyến đi của mẹ tốt đẹp chứ?” Paul hỏi. “Mẹ có thích nước Pháp không?”

“Ở đây mẹ vui lắm,” Norah đáp, và đó là sự thật. Frederic cho rằng giao thông ùn tắc đã làm hỏng Paris, nhưng đối với Norah nét quyến rũ vẫn không hề giảm sút. Bánh mì, bánh ngọt, bánh kếp được bán ở các quầy nhỏ trên phố, mái hình chóp của những tòa nhà cổ, những tháp chuông. Cả những âm thanh nữa, của thứ ngôn ngữ réo rắt như suối chảy, thỉnh thoảng lại có từ vút lên như sỏi rơi. “Thế còn con? Chuyến lưu diễn thế nào? Con vẫn đang yêu đấy chứ?”

“À, vâng,” cậu trả lời, khuôn mặt hơi giãn ra. Cậu nhìn thẳng vào mắt bà. “Mẹ sắp lấy chú Frederic phải không?”

Bà dí ngón tay trên góc nhọn của tờ bướm. Đó là một câu hỏi, hẳn rồi, đã luẩn quẩn trong tâm trí bà mọi lúc mọi nơi. Bà có nên thay đổi cuộc sống của mình không? Bà yêu Frederic, bà chưa bao giờ hạnh phúc đến thế, mặc dù trong hạnh phúc bà vẫn có thể thấy được sẽ có lúc những thói quen dễ thương của ông khiến bà phát cáu, và ngược lại. Ông thích những điều giản dị; tính ông tỉ mỉ đối với tất cả mọi thứ từ góc gập khăn đến biểu thuế. Với nét tính cách đó, chứ không phải cái gì khác, ông khiến bà nghĩ đến David. Bà đã đủ lớn tuổi, đủ từng trải, để biết rằng không có gì là hoàn hảo cả. Không có gì giữ nguyên mãi, chính bà cũng vậy. Nhưng sự thật là khi Frederic bước vào phòng, không khí dường như được lưu thông, được tăng sinh khí, khiến bà rộn ràng cảm xúc. Bà muốn được thấy điều gì sẽ xảy ra tiếp theo.

“Mẹ không biết,” bà chậm rãi trả lời. “Bree sẵn sàng mua lại công ty. Frederic còn hai năm hợp đồng nữa, nên bây giờ chú ấy và mẹ chưa cần quyết định ngay. Nhưng mẹ có thể hình dung ra cuộc sống của mình với chú ấy. Mẹ cho rằng đấy là bước đi đầu tiên.”

Paul gật đầu. “Lần trước cũng thế hả mẹ? Mẹ biết sẽ ra sao à, với bố ấy?”

Norah nhìn cậu, không biết phải trả lời thế nào.

“Có và không,” cuối cùng bà nói. “Bây giờ mẹ thực tế hơn rồi. Thế nên mẹ chỉ muốn mình được chăm sóc thôi. Trước đây mẹ không hiểu rõ bản thân mình lắm.”

“Bố thích coi sóc mọi thứ mà.”

“Phải. Đúng thế.”

Paul cười một tràng đanh và ngắn. “Con không thể tin được là bố đã đi rồi.”

“Mẹ hiểu,” Norah nói. “Mẹ cũng vậy.”

Hai mẹ con ngồi một lúc lâu trong im lặng, gió thổi dịu dàng quanh họ. Norah lật tờ bướm, nhớ không khí mát lạnh trong bảo tàng, tiếng bước chân vọng lại vang vang. Bà đã đứng gần một tiếng đồng hồ trước bức tranh này, ngắm nhìn những xoáy màu, những nhát cọ dứt khoát và sống động. Van Gogh đã khắc họa điều gì nhỉ? Thứ gì đó lung linh, thứ gì đó thật khó nắm bắt. David đã đi qua cuộc đời, dùng chiếc máy ảnh của ông ngắm vào từng chi tiết nhỏ nhặt nhất, bị ám ảnh bởi ánh sáng và bóng tối, ông đã cố gắng để giữ lại từng khoảnh khắc của sự vật. Giờ thì ông đã ra đi và cả cách ông nhìn thế giới cũng đã mất theo ông.

Paul đứng dậy, vẫy tay về phía bên kia công viên, nỗi buồn trên khuôn mặt cậu nhường chỗ cho một nụ cười rạng rỡ, nồng nhiệt, hiển nhiên là rất chăm chú, và chỉ riêng cho ai đó mà thôi. Norah dõi theo ánh mắt cậu ngang qua bãi cỏ khô thì thấy một cô gái trẻ với khuôn mặt thon dài và làn da màu trái sồi chín, mái tóc sẫm tết thành những bím nhỏ xíu buông xuống tận eo. Cô có thân hình khá mảnh mai, mặc chiếc váy in hoa vải mềm; ở cô ẩn chứa nét duyên dáng và e ấp của một vũ nữ.

“Michelle đấy,” Paul nói, cậu đã đứng dậy từ khi nào. “Con sẽ quay lại ngay. Michelle đấy.”

Norah nhìn cậu chạy về phía cô như bị hút bởi một thứ lực hấp dẫn, khuôn mặt Michelle tươi tỉnh hẳn lên khi nhìn thấy cậu. Cậu khum tay ôm lấy mặt cô khi họ hôn nhau, rồi cô giơ tay lên để lòng bàn tay hai người chạm vào nhau thật nhanh và nhẹ, một cử chỉ quá âu yếm khiến Norah phải nhìn lảng đi chỗ khác. Sau đó họ cùng đi qua công viên, đầu cúi xuống, chuyện trò to nhỏ. Khi cả hai dừng lại, Michelle đặt tay lên cánh tay Paul, và Norah hiểu rằng cậu đã nói cho cô biết.

“Bác Henry,” cô nói, bắt tay bà khi họ đến chỗ ghế đá. Những ngón tay của cô dài và mát lạnh. “Cháu rất tiếc về chuyện bố của Paul.”

Giọng của cô cũng hơi là lạ: cô đã sống nhiều năm ở London. Ba người bọn họ ngồi trong vườn chuyện trò dăm phút. Paul gợi ‎ cả ba cùng đi ăn tối, và Norah rất muốn nói có. Bà muốn ngồi nói chuyện với Paul cho đến khuya, nhưng bà cũng thấy phân vân, vì hiểu rằng giữa Paul và Michelle tồn tại một thứ tình cảm ấm áp, nồng nhiệt, một niềm khao khát muốn ở riêng bên nhau. Bà lại nghĩ đến Frederic, có lẽ giờ này đã trở lại nhà nghỉ, cà vạt vắt trên lưng ghế đẩu.

“Để mai nhé?” bà nói. “Mẹ con ta cùng ăn sáng được không? Mẹ muốn nghe tất cả mọi thứ về chuyến đi của con. Mẹ muốn biết cả về những nghệ sĩ ghi ta flamenco ở Seville nữa.”

Trên đường đi ra ga tàu điện ngầm, Michelle khoác tay Norah. Paul đi trước hai người, bờ vai rộng, người gầy lỏng khỏng.

“Bác đã nuôi dạy một cậu con trai thật tuyệt vời,” cô nói. ”Tiếc là cháu không được biết về bố anh ấy.”

“Để biết được về ông ấy – thì trong trường hợp nào cũng khó cả cháu ạ. Nhưng đúng, bác cũng rất tiếc.” Họ đi thêm vài bước nữa. “Cháu thích chuyến lưu diễn không?”.

“Ôi, đúng là cảm giác tự do tuyệt vời, được đi thăm thú khắp nơi,” Michelle bình luận.

Đó là một buổi tối êm dịu, ánh đèn rực rỡ ở bến tàu điện ngầm làm lóa mắt cả ba người khi đi xuống. Tiếng tàu điện lanh canh ở xa xa, âm vang xuyên dọc đường hầm. Không khí sực lên những mùi lẫn lộn: mùi nước hoa và, bên dưới đó, là mùi kim loại, mùi dầu hăng hắc.

“Mai khoảng chín giờ con tới nhé,” Norah bảo Paul, cố nói to để át đi tiếng ồn ào xung quanh. Và rồi, khi con tàu lại gần hơn, bà ngả người vào sát tai câu, hét lên.

“Ông ấy yêu con! Ông ấy là bố con, và ông ấy yêu con!”

Khuôn mặt Paul giãn ra trong chốc lát: đau đớn và mất mát. Cậu gật đầu. Không có thời gian làm gì hơn. Con tàu đang lao sầm sập về phía bọn họ, và trong luồng gió đột ngột ấy bà cảm thấy trái tim mình tràn trề cảm xúc. Con trai bà, ở đây trên mặt đất này. Và David, kỳ lạ làm sao, đã ra đi rồi. Con tàu dừng lại, rít lên, những cánh cửa thủy lực bật mở cùng tiếng xì xì. Norah lên tàu và ngồi cạnh cửa sổ, thoáng thấy lần cuối hình ảnh của Paul, đang đi, tay thọc sâu trong túi, đầu cúi gầm. Mới đó mà đã biến mất.

Khi bà về đến bến đỗ, không khí tràn ngập thứ ánh sáng lờ mờ của buổi chạng vạng. Bà đi dọc con đường rải sỏi về đến nhà nghỉ, tòa nhà sơn màu vàng nhạt, lấp lánh dạ quang nhè nhẹ, những chiếc hộp treo trên cửa sổ tràn ngập hoa. Căn phòng im ắng; đồ đạc vương vãi của bà vẫn ở nguyên chỗ cũ; Frederic chưa đến. Norah ra cửa sổ nhìn xuống dòng sông và đứng đó một lúc lâu, nghĩ đến lúc David cõng Paul trên vai chạy khắp căn nhà đầu tiên của họ, nghĩ đến ngày ông ngỏ lời cầu hôn, hét thật to với bà để át tiếng nước chảy, chiếc nhẫn mát lạnh trượt xuống ngón tay bà. Nghĩ đến bàn tay Paul và Michelle, lòng bàn tay áp lên nhau.

Bà ra chỗ chiếc bàn nhỏ và để lại lời nhắn: Frederic em ở sân trong ấy.

Khoảng sân trong, bao quanh bởi những chậu cọ, nhìn ra sông Seine. Những chiếc bóng đèn bé xíu được mắc trên cây, trên hàng rào sắt. Norah chọn một chỗ nơi bà có thể nhìn thấy con sông và gọi một ly rượu. Bà đã bỏ quên cuốn sách của mình ở đâu đó – có lẽ là ở trong vườn Điện Louvre. Đánh mất cuốn sách khiến bà có cảm giác tiêng tiếc. Đó là không phải là loại sách người ta sẽ mua đến lần thứ hai, chỉ là thứ gì đó nhẹ nhàng, loại sách đọc giết thời gian thôi. Câu chuyện gì đó về hai chị em gái. Giờ thì bà sẽ không bao giờ biết được truyện kết thúc như thế nào.

Hai chị em gái. Có lẽ một ngày nào đó bà và Bree sẽ viết một cuốn sách. Ý nghĩ ấy khiến Norah mỉm cười, và người đàn ông ngồi ở chiếc bàn liền kề, vận bộ com lê trắng, trên tay là ly rượu khai vị nhỏ xíu, mỉm cười lại với bà. Thế là lại bắt đầu: có lúc bà bắt tréo chân hoặc hất tóc về phía sau, những cử chỉ mời gọi là tinh vi, cho đến khi ông ta đứng dậy rời khỏi bàn và đến ngỏ lời ngồi cùng. Bà đã từng yêu thích quyền lực của điệu nhảy này và cảm giác khám phá. Nhưng tối nay bà chỉ nhìn lảng đi chỗ khác. Người đàn ông châm một điếu thuốc lá, và khi thuốc tàn hết ông ta trả tiền rồi bỏ đi.

Norah ngồi nhìn dòng người đi lại phản chiếu trên làn nước đen lung linh của con sông. Bà không thấy Frederic lại gần. Nhưng rồi bàn tay ông đặt lên vai bà, bà quay lại, và ông hôn bà, một bên má, rồi đến bên kia, và ép môi ông lên môi bà.

“Chào em,” ông nói, đoạn ngồi xuống phía bên kia bàn. Ông không cao lắm, nhưng vóc dáng rất cân đối, với bờ vai rộng nhờ nhiều năm bơi lội. Ông là một nhà phân tích hệ thống, và Norah thích sự chắc chắn của ông, khả năng nắm bắt và bàn luận những vấn đề tổng quát, không bao giờ bị sa đà vào những chi tiết vụn vặt. Tuy vậy đó cũng chính là điểm đôi khi bà thấy khó chịu – ông luôn cho rằng thế giới là một nơi ổn định và dễ đoán trước.

“Em chờ lâu chưa?” ông hỏi. “Em đã ăn gì chưa?”

“Chưa.” Bà gật đầu về phía ly rượu, gần như đầy nguyên. “Cũng chưa lâu lắm. Mà em sắp chết đói đến nơi rồi đây.”

Ông gật đầu. “Tốt. Xin lỗi anh đến muộn. Tàu bị hoãn chuyến.”

“Không sao mà. Anh đi Orleans thế nào?”

“Chán chết. Nhưng anh có một buổi đi ăn trưa với ông anh họ vui lắm.” Ông bắt đầu nói còn Norah ngả người xuống ghế, đề từ ngữ bao trùm lấy bà. Bàn tay Frederic mạnh mẽ và khéo léo. Bà nhớ cái ngày ông đóng cho bà một bộ giá sách, ông làm việc miệt mài trong ga ra suốt mấy ngày cuối tuần, vỏ bào từ lớp gỗ mới đùn xuống khi máy bào đi qua.. Ông không ngại làm việc, hay quấy rối bà khi bà đang dở tay trong bếp, ông vòng tay quanh eo và hôn vào gáy bà cho tới khi bà chịu quay lại hôn ông mới thôi. Ông hút tẩu, bà không thích thế, hay làm việc quá nhiều, và lái xe trên đường cao tốc quá nhanh.

“Em nói với Paul rồi hả?” Frederic hỏi. “Nó có sao không?”

“Em không biết. Em hy vọng là không. Mai thằng bé sẽ đi ăn sáng cùng chúng ta. Nó lại muốn than phiền về những người Mỹ hợm hĩnh đấy mà.”

Frederic cười ha hả. “Tốt,” ông nói. “Anh thích con trai em đấy.”

“Nó đang yêu. Cô gái ấy cũng dễ thương lắm, cái cô mà nó yêu ấy: tên là Michelle. Mai cô ấy cũng đi cùng..”

“Tốt,” Frederic lại nói, rồi đan tay mình vào tay bà. “Cảm giác đang yêu thật tuyệt.”

Họ gọi món cho bữa tối, thịt bò xiên ăn với cơm thập cẩm, và kêu thêm rượu. Phía dưới, con sông đen thẫm trôi lặng lẽ, và khi họ nói chuyện Norah thầm nghĩ cứ ngồi yên một chỗ mới dễ chịu làm sao. Ngồi đây uống rượu giữa Paris, ngắm chim vỗ cánh tung bay từ những vòm cây in bóng, bên dưới con sông trôi lững lờ. Bà nhớ những chuyến xe điên rồ lên tận Ohio khi còn trẻ, làn nước lấp lánh muôn màu kỳ dị, bờ kè đá vôi dốc đứng, gió thổi tung tóc bà.

Nhưng giờ đây bà ngồi im lặng, chim chóc bay qua khắc những hình đen thẫm lên nền trời màu chàm. Bà ngửi thấy mùi nước, mùi khói xe, mùi thịt quay, và mùi bùn ẩm ướt của con sông. Frederic lại đốt tẩu và rót thêm rượu, mọi người dạo bộ trên vỉa hè, đi trong buổi tối đang nhường chỗ cho bóng đêm, những tòa nhà gần đó nhòa dần vào không gian đang tối thẫm lại. Từng ngọn đèn sáng lên trên cửa sổ. Norah gấp khăn ăn và đứng dậy. Mọi vật như quay cuồng, bà choáng váng vì hơi rượu, vì độ cao, vì mùi thức ăn sau một ngày dài tràn ngập cả đau buồn lẫn hạnh phúc.

“Em không sao chứ?” Frederic hỏi, nghe như từ xa xăm vọng lại.

Norah chống một tay lên bàn, thở hổn hển. Bà gật đầu, không thể nói át lại tiếng vọng của dòng sông, mùi hương của bờ kè tối đen, những ngôi sao cuộn lên tứ phía, xoáy tròn, rừng rực sức sống.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx