sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Con Gái Người Giữ Ký Ức - Chương 23-24 (KẾT)

Chương 23Mồng 2 Đến Mồng 4 Tháng Bảy Năm 1989

NÀY, ANH NÓI THẾ THÌ DỄ LẮM, PAUL Ạ.” MICHELLE ĐANG đứng bên cửa sổ, hai tay khoanh trước ngực, và khi cô quay lại, đôi mắt cô tối sầm vì xúc động, đồng thời bị che phủ bởi cơn giận dữ. “Anh có thể nói bất cứ điều gì anh muốn về lý thuyết, nhưng thực tế là, một đứa bé sẽ làm thay đổi tất cả mọi thứ - mà đa phần là đối với em.”

Paul ngồi trên chiếc sofa màu đỏ thẫm, ấm áp nhưng thiếu thoải mái trong buổi sáng mùa hè. Cậu và Michelle tìm thấy nó trên phố khi hai người bắt đầu sống chung với nhau ở đây, tại Cincinnati, trong những ngày chuếnh choáng men tình khi việc kéo chiếc ghế lên ba lần cầu thang chẳng nhằm nhò gì. Hoặc có nghĩa là mệt lử, rượu, cười đùa và sau đó là làm tình thật chậm rãi trên mặt sofa nhung ram ráp. Bấy giờ cô quay đi nhìn ra ngoài cửa sổ, mái tóc sẫm khẽ lúc lắc. Một cảm giác trống rỗng vô hình, cồn cào, bao trùm trái tim cậu. Dạo gần đây mọi thứ trở nên mong manh, như một quả trứng vỡ, như thể tất cả có thể nát vụn chỉ sau một cái chạm tay bất cẩn. Cuộc trò chuyện giữa hai người đã khởi đầu khá thân mật, chỉ đơn giản bàn xem ai sẽ chăm sóc con mèo khi cả hai đi vắng: cô sẽ đến Indianapolis biểu diễn, cậu về Lexington đỡ đần cho mẹ. Và giờ đây, đột nhiên, họ lại sa vào khoảng trống của trái tim, gần đây đó dường như là nơi không ngừng chia cách họ.

Paul hiểu mình nên đổi chủ đề.

“Kết hôn không nhất thiết có nghĩa là phải có con mà,” thay vì thế cậu lại nói, vẻ bướng bỉnh.

“Ôi trời, Paul. Nói thật đi. Có một đứa con là khao khát bấy lâu của anh. Thậm chí còn không phải là anh muốn em nữa cơ. Mà là một đứa con tưởng tượng nào kia.”

“Đứa con tưởng tượng của chúng ta,” cậu đáp. “Một ngày nào đó cơ, Michelle. Không phải ngay bây giờ. Em nghe này, anh chỉ muốn đặt vấn đề cưới xin thôi. Có gì to tát đâu.”

Cô thở hắt ra một tiếng bực bội. Căn gác xép có mặt sàn lát gỗ thông và những bức tường trắng, điểm thêm những màu cơ bản của chai lọ, gối đệm. Michelle cũng mặc đồ trắng, làn da và mái tóc cô toả ánh ấm áp như màu sàn nhà. Paul thấy trong lòng đau nhói khi nhìn cô, cậu biết cô đã quyết, thực sự dứt khoát. Rồi chẳng mấy chốc cô sẽ rời bỏ cậu, mang theo cả vẻ đẹp hoang dại và âm nhạc trong cô.

“Hay lắm,” cô nói. “Dù sao em cũng thấy hay. Ở chỗ tất cả những chuyện này được lôi ra bàn ngay khi sự nghiệp của em bắt đầu thăng hoa. Không phải trước đó, mà là bây giờ. Nghe thì có vẻ kỳ quặc, nhưng tự nhiên em nghĩ có khi anh đang muốn chúng ta chia tay thì phải.”

“Vớ vẩn. Chuyện chọn thời điểm thì có liên quan gì.”

“Không hả?”

“Không!”

Họ không nói năng gì trong vài phút và sự im lặng lan toả khắp căn phòng trắng xoá, tràn ngập không gian và ép lên những bức tường. Paul e ngại không dám nói và còn e ngại việc không nói gì hơn, nhưng cuối cùng cậu cũng không thể làm thinh thêm nữa.

“Chúng ta đã sống cùng nhau hai năm nay. Hoặc là mọi việc tiến triển và biến đổi hoặc sẽ nhạt dần. Anh muốn chúng ta tiến xa hơn.”

Michelle thở dài. “Đằng nào mọi việc chả thay đổi, dù có hay không có mảnh giấy ấy[17]. Đó là điều mà anh chưa tính đến. Và dù anh có nói gì đi nữa, đó là một việc to tát. Dù anh có nói gì đi nữa, hôn nhân sẽ thay đổi mọi thứ, và phụ nữ luôn luôn là người phải hy sinh, dù người ta có nói gì đi nữa.”

“Đó chỉ là lý thuyết thôi. Không phải đời thực.”

“Ô kìa! Anh làm em điên mất, Paul ạ - lúc nào cũng nói chắc được cả.”

Mặt trời đã lên cao, trải nắng trên dòng sông và bao phủ căn phòng bằng ánh bạc lấp lánh, hắt những hình thù rung rinh trên trần nhà. Michelle đi vào nhà tắm và đóng chặt cửa lại. Tiếng ngăn kéo bị lục lọi, tiếng nước chảy. Paul bước qua căn phòng đến nơi cô vừa đứng, ngắm nhìn khung cảnh như thể nó sẽ giúp cậu thấu hiểu cô. Sau đó, thật khẽ khàng, cậu gõ nhẹ lên cánh cửa.

“Anh đi đây,” cậu nói.

Im lặng. Rồi cô nói lại. “Tối mai anh về à?”

“Buổi biểu diễn bắt đầu lúc sáu giờ phải không?”

“Phải.” Cô mở cửa phòng tắm và đứng đó, người quấn trong tắm khăn lông trắng, đang xoa kem dưỡng lên mặt.

“Được rồi,” cậu nói, và hôn cô, hít hà mùi hương, làn da mềm mại của cô. “Anh yêu em,” cậu nói, đoạn bước lùi lại.

Cô nhìn cậu một lúc. “Em biết rồi,” cô nói. “Mai gặp lại anh nhé.”

Em biết rồi. Cậu cứ ngẫm nghĩ mãi lời cô nói suốt dọc đường đi Lexington. Cuốc xe kéo dài hai giờ đồng hồ: vượt sông Ohio, luồn lách giữa dòng xe cộ đông đúc gần sân bay, và cuối cùng đi vào vùng đồi xinh đẹp nhấp nhô. Sau đó cậu lái qua những con phố trung tâm tĩnh lặng, những toà nhà vắng tanh, nhớ lại ngày xưa khi phố Main vẫn còn là trung tâm cuộc sống, nơi mọi người tìm đến để mua sắm và ăn uống giao lưu. Cậu nhớ lại lúc đến hiệu thuốc, ngồi bên chiếc máy làm kem đặt phía sau. Những cục kem sô cô la đặt trong cốc kim loại phủ đầy băng tuyết, tiếng máy trộn kêu rù rù; mùi thịt nướng và kháng sinh quyện lẫn vào nhau. Bố mẹ cậu đã gặp nhau ở khu trung tâm. Mẹ đi thang cuốn, nổi bật giữa đám đông như một vầng mặt trời, và bố đã theo gót mẹ.

Cậu lái xe qua toà nhà ngân hàng mới và trụ sở toà án cũ, bãi đất trống hoác một thời là nơi toạ lạc của nhà hát. Một người phụ nữ gầy gò đang đi trên vỉa hè, đầu cúi gằm, hai tay khoanh lại, mái tóc sẫm phất phơ trong gió. Lần đầu tiên sau nhiều năm trời Paul bỗng nhớ đến Lauren Lobeglio, cái cách dứt khoát lặng lẽ cô ả bước qua ga ra trống trơn để đến chỗ cậu tuần này qua tuần khác. Cậu đã chạy đến với ả, lần nữa rồi đến lần sau nữa; cậu đã choàng tỉnh giữa bao đêm đen, lo sợ trước Lauren về những thứ lúc này cậu đang khao khát có với Michelle: hôn nhân, con cái, một cuộc sống gắn bó.

Cậu vừa lái xe, vừa ngâm nga bài hát mới nhất của mình. “A Tree in the Heart” là tên bài hát – có lẽ tối nay cậu sẽ chơi bài này, ở quán rượu Lynagh. Michelle sẽ sốc vì việc đó, nhưng Paul không quan tâm. Dạo này, kể từ ngày bố cậu mất, cậu bắt đầu biểu diễn nhiều hơn tại những sàn diễn bình dân cũng như các phòng hoà nhạc; cậu có thể ôm đàn ghi ta chơi ở các quán bar và nhà hàng, cả những bản nhạc cổ điển lẫn những khúc nhạc thịnh hành mà trong quá khứ cậu luôn khinh bỉ. Cậu không thể giải thích được sự thay đổi trong trái tim mình, nhưng có lẽ nó liên quan đến cảm giác gần gũi của những nơi này, mối liên hệ với khán giả mà cậu cảm thấy, dường như đủ gần để đưa tay ra và chạm lấy. Michelle không chấp nhận; cô cho rằng đó là hậu quả mà nỗi đau để lại, và cô muốn cậu phải vượt qua. Nhưng Paul không thể từ bỏ. Trong suốt những năm thiếu niên, cậu đã chơi nhạc vì giận dữ và khao khát muốn được thấu hiểu, như thể qua âm nhạc cậu có thể đem lại chút trật tự, chút vẻ đẹp vô hình, đến gia đình này. Giờ đây bố cậu đã ra đi, và không còn ai để cậu phải chơi nhạc để chống đối nữa. Vì vậy cậu đã có cảm giác tự do mới mẻ ấy.

Cậu lái xe vào khu phố cũ, đi qua những ngôi nhà trang nghiêm và khoảnh sân trước sâu hút, những vỉa hè và sự tĩnh lặng vĩnh cửu. Cánh cửa trước nhà mẹ cậu đóng im ỉm. Cậu tắt máy và ngồi trong xe một lúc, lắng nghe tiếng chim hót và tiếng rù rù xa xa của máy xén cỏ.

Cái cây mọc trong tim. Bố cậu đã mất một năm nay còn mẹ cậu sắp cưới Frederic và chuyển sang Pháp sống một thời gian, cậu cũng không ở đây với tư cách một đứa trẻ hay người khách ghé thăm mà là một người coi sóc quá khứ. Cậu có quyền lựa chọn, giữ lại cái gì và loại bỏ cái gì. Cậu đã cố gắng nói chuyện với Michelle về điều này, về ý thức trách nhiệm sâu thẳm trong lòng cậu, về những thứ cậu giữ lại từ ngôi nhà thời thơ ấu sẽ ra sao, và ngược lại, những gì cậu có thể để lại cho những đứa con của mình vào một ngày nào đó - mọi điều giúp chúng biết, một cách trực quan sinh động, về những thứ đã làm nên cậu bây giờ. Cậu nghĩ đến bố, người mà quá khứ vẫn mãi là một điều bí ẩn, nhưng Michelle lại nhầm tưởng; cô xù lông lên trước bất cứ lời nói tình cờ nào đả động đến con cái. Ý anh không phải thế, cậu gạt đi, cáu kỉnh, còn cô thì cũng nổi khùng. Dù anh có biết hay không, thì đó chính là điều anh nghĩ.

Cậu ngả lưng ra sau, sục sạo trong túi tìm chìa khoá nhà. Khi mẹ cậu biết những tác phẩm của cha cậu rất giá trị, bà bắt đầu khoá cửa studio, mặc dù hộp ảnh thì vẫn mở tênh hênh trong đó.

Hừm, cậu cũng không muốn nhìn thấy mấy thứ đấy.

Cuối cùng Paul cũng ra khỏi xe, cậu đứng một lúc trên vỉa hè, nhìn quanh khu phố. Trời oi nồng; một cơn gió nhè nhẹ trên cao lướt qua những ngọn cây. Đám lá sồi kim châm vào ánh nắng, tạo ra một cuộc chơi bóng tối trên mặt đất. Lạ thay, không khí dường như tràn ngập những bông tuyết, một thứ chất xám trắng nhẹ như lông hồng đổ xuống từ trời xanh. Paul giơ tay lên giữa không khí ẩm ướt, nóng bức, cảm thấy như đang đứng trong một tấm ảnh của bố cậu, nơi cây cối đâm chồi nảy lộc trong từng đường gân của trái tim, nơi vạn vật không còn là chính nó nữa. Cậu tóm lấy một bông trong lòng bàn tay; khi cậu nắm chặt tay lại và mở ra, da tay lấm tấm một đốm bẩn màu đen. Tàn tro đang đổ xuống như mưa tuyết trong cái nóng oi nồng tháng Bảy.

Cậu để lại dấu chân trên lối đi khi bước lên bậc thềm. Cửa trước không khoá, nhưng trong nhà trống trơn. Xin chào? Paul gọi, đi qua các phòng, đồ đạc đã kéo ra giữa sàn và phủ vải sơn, những bức tường trần trụi đang chờ được sơn. Cậu đã không sống ở đây nhiều năm nhưng rồi cậu bỗng thấy mình dừng lại giữa phòng khách, căn phòng đã bị lột sạch những đặc điểm khiến nó có ý nghĩa. Đã bao lần mẹ cậu trang trí căn phòng này rồi nhỉ? Vậy mà, rốt cuộc nó cũng chỉ là một căn phòng. Mẹ ơi? Cậu gọi, nhưng không có tiếng đáp lại. Lên gác, cậu đứng trên thềm cửa căn phòng của chính mình. Hộp cũng chất đống trong phòng này, đựng đầy những món đồ cũ mà cậu phải phân loại. Bà đã không vứt đi thứ gì; cả những tấm áp phích cũng được cuộn lại gọn gàng và buộc chặt bằng dây cao su. Những hình chữ nhật in mờ mờ trên tường ở nơi từng treo tranh ảnh.

“Mẹ ơi? cậu lại gọi. Cậu leo xuống tầng một và đi ra hiên sau nhà.

Bà đang ở đó, ngồi trên bậc thềm, mặc quần soóc xanh cũ mèm và áo thun trắng bèo nhèo. Cậu dừng lại, không nói nên lời, ngắm nhìn khung cảnh kỳ dị trước mặt. Một ngọn lửa vẫn còn cháy âm ỉ giữa vòng tròn đá, những đốm tàn tro và vụn giấy cháy đen rơi xuống quanh cậu khi ở sân trước cũng có ở đây, vương đầy các bụi cây và trên cả mái tóc mẹ cậu. Giấy tờ vương vãi khắp trên bãi cỏ, dính trên gốc cây, kẹt trên cả những cả những cọc sắt han gỉ của cây xích đu cổ lỗ. Paul bàng hoàng nhận ra mẹ đang đốt những tấm ảnh của bố cậu. Bà nhìn lên, khuôn mặt lem luốc tro than và nước mắt.

“Không sao đâu con,” bà nói, giọng đều đều. “Mẹ đã thôi không đốt nữa rồi. Mẹ giận bố con quá, Paul ạ, nhưng rồi mẹ lại giật mình: Đây cũng là tài sản thừa kế của con mà. Mẹ mới chỉ đốt được một hộp thôi. Đấy là hộp ảnh toàn các cô gái, nên mẹ không nghĩ nó đáng giá lắm.”

“Mẹ đang nói gì vậy?” cậu hỏi, đoạn ngồi xuống bên bà.

Bà đưa cho cậu một tấm ảnh chụp chính cậu, tấm ảnh cậu chưa từng thấy. Khi ấy cậu chừng mười bốn tuổi, ngồi trên chiếc xích đu đặt trên hiên nhà, cúi đầu trên cây đàn ghi ta, đang say sưa chơi nhạc, hoàn toàn vô cảm với mọi thứ xung quanh, chỉ chìm đắm trong âm nhạc. Cậu thấy giật mình vì bố đã chớp được khoảnh khắc này - một khoảnh khắc riêng tư, hoàn toàn phô bày không giấu giếm, một trong những khoảnh khắc trong đời khi Paul cảm thấy tràn ngập sức sống nhất.

“Rồi. Nhưng con vẫn chưa hiểu. Sao mẹ lại giận đến thế?”

Mẹ cậu ép chặt hai tay lên mặt, rất nhanh, và thở dài. “Con có nhớ câu chuyện về buổi đêm con ra đời không, Paul? Trận bão tuyết, rồi suýt nữa bố mẹ đã không đến kịp phòng khám ấy?”

“Có chứ ạ.” Cậu đợi bà nói tiếp, không biết nên nói gì, tuy nhiên bản năng mách bảo cậu rằng việc này hẳn có liên quan đến đứa em gái song sinh của cậu, người đã chết.

“Con có nhớ cô y tá, Caroline Gill không? Mẹ đã kể cho con nghe về cô ấy chưa nhỉ?”

“Có ạ. Nhưng mẹ không nói tên. Chỉ nói là cô ấy có đôi mắt xanh thôi.”

“Đúng đấy. Xanh lắm. Hôm qua cô ấy vừa đến đây, Paul ạ. Caroline Gill ấy. Mẹ chưa gặp lại cô ấy kể từ đêm hôm đó. Cô ấy đem tin đến, tin rất sốc. Mẹ sắp nói với con đây, vì mẹ chẳng biết phải làm gì nữa.”

Bà cầm lấy tay cậu. Cậu không rút ra. Em con, bà nói bằng giọng điềm tĩnh, thực ra đã không chết sau khi ra đời. Nó sinh ra với hội chứng Down, và bố con đã nhờ Caroline Gill đưa nó đến một nhà cứu tế ở Louisville.

“Để giải thoát cho chúng ta,” mẹ cậu nói, và giọng bà nghẹn lại. “Cô ấy nói thế. Nhưng cô ấy không thể làm được, Caroline Gill ấy. Cô ấy đã mang em con đi, Paul ạ. Cô ấy đã mang Phoebe đi. Trong ngần ấy năm trời em sinh đôi của con vẫn còn sống và khoẻ mạnh, nó lớn lên ở Pittsburgh.”

“Em gái con?” Paul nói. “Ở Pittsburgh? Con mới ở Pittsburgh tuần trước.” Đó không phải một câu trả lời hợp lý, nhưng cậu cũng chẳng biết phải nói gì hơn, cậu thấy trong lòng tràn ngập một cảm giác trống rỗng kỳ dị, một thứ cảm giác thờ ơ đáng ngạc nhiên. Cậu có một cô em gái: riêng cái tin ấy thôi cũng đã đủ lắm rồi. Nó lại còn thiểu năng, không hoàn chỉnh, vì vậy bố cậu đã đem cho nó đi. Đó không phải là sự giận dữ, kỳ lạ thay, mà là nỗi sợ hãi trào lên ngay sau đó, nỗi sợ sinh ra từ những áp lực mà bố cậu đã đặt lên cậu với tư cách là đứa con độc nhất. Nó cũng sinh ra từ đòi hỏi của chính Paul muốn được đi theo con đường của riêng mình, ngay cả khi bố cậu không thể chấp nhận nổi phải bỏ nhà đi. Một nỗi sợ hãi mà Paul đã nhào nặn trong suốt những năm qua, như một nhà giả kim đại tài, để biến thành giận dữ và nổi loạn.

“Caroline đã tới Pittsburgh và bắt đầu một cuộc sống mới,” mẹ cậu nói: “Cô ấy đã nuôi nấng em con. Mẹ nghĩ chắc phải vất vả lắm; chắc chắn vậy, nhất là trong thời gian đầu. Mẹ cố gắng cảm thấy biết ơn vì cô ấy đã đối tốt với Phoebe, nhưng một phần trong mẹ chỉ thấy điên cuồng giận dữ thôi.”

Paul nhắm mắt lại một lúc, cố gắng thu tất cả những điều đó về một mối. Những từ ngữ nghe đều đều, kỳ quặc, và xa lạ. Trong bao nhiêu năm qua cậu đã cố tưởng tượng ra em gái mình, nó sẽ ra sao, nhưng giờ đây cậu không thể hình dung ra chút ý niệm gì về cô.

“Sao ông ấy có thể?” cuối cùng cậu hỏi. “Sao bố có thể giữ kín một bí mật như thế?”

“Mẹ không biết nữa,” mẹ cậu đáp. “Mẹ cũng đã tự hỏi mình câu đó hàng giờ liền. Sao ông ấy có thể? Và tại sao ông ấy lại dám ra đi và để mặc chúng ta tự khám phá ra việc này cơ chứ?”

Họ ngồi đó trong im lặng. Paul nhớ một buổi trưa cùng rửa ảnh với bố vào cái ngày sau khi cậu phá phách căn buồng tối, khi trong lòng cậu tràn đầy mặc cảm tội lỗi và bố cậu cũng vậy, khi bầu không khí tràn ngập những điều họ đã nói và những điều còn chưa nói. Máy ảnh – camera, bố cậu nói, có xuất xứ từ từ chambrecủa tiếng Pháp, nghĩa là phòng. Chụp ảnh có nghĩa là làm việc bí mật. Đó là điều mà cha cậu tin tưởng: rằng mỗi người là một vũ trụ riêng biệt. Những chồi cây bí mật trong trái tim, một nắm xương: đó là thế giới của cha cậu, và nó chưa bao giờ khiến cậu cảm thấy cay đắng hơn giây phút này.

“Con thấy ngạc nhiên tại sao bố không đem cho con nhỉ,” cậu nói, nghĩ rằng cậu đã luôn phải chống đối lại thế giới quan của bố cậu gay gắt đến thế nào. Cậu đã đi ra đời và chơi ghi ta, âm nhạc trào lên trong cậu và ùa vào thế giới, mọi người đều ngoảnh lại, đặt ly rượu xuống, lắng nghe, cả căn phòng chật kín những con người xa lạ bỗng được kết nối với nhau, người này với người kia. “Con chắc là bố muốn làm thế lắm đấy.”

“Paul!” Mẹ cậu cau mặt lại. “Không. Nếu có gì, thì chỉ là bố càng muốn tốt cho con hơn vì tất cả những điều đó thôi. Kỳ vọng nhiều hơn. Đòi hỏi sự hoàn hảo của chính bản thân ông ấy. Đó là một trong những thứ giờ đã trở nên rõ ràng đối với mẹ. Thực ra, đó là phần đáng sợ. Giờ đây khi mẹ đã biết về Phoebe rồi, rất nhiều điều bí ẩn về bố con thành ra dễ hiểu. Cả bức tường mà mẹ luôn cảm thấy – nó hoàn toàn có thật.”

Bà đứng dậy, đi vào nhà, quay lại với hai tấm ảnh polaroid. “Em đây này,” bà nói. “Đây là em gái con. Phoebe.”

Paul cầm lấy và nhìn tấm này đến tấm kia: một tấm ảnh chân dung chụp một bé gái đang mỉm cười, tiếp theo là một tấm chụp ngẫu nhiên cảnh cô bé đang tung một quả bóng rổ. Cậu vẫn đang cố gắng ghi lại những gì mẹ cậu vừa nói: rằng cô bé xa lạ với đôi mắt hình quả hạnh và đôi chân dẻo dai này là đứa em sinh đôi của mình.

“Các con có màu tóc giống nhau này,” Norah dịu dàng nói, rồi lại ngồi xuống bên cạnh cậu. “Nó thích hát, Paul ạ. Cũng đáng nói đấy chứ?” Bà cười. “Và đoán xem – nó còn là một fan bóng rổ nữa cơ đấy.”

Tiếng cười của Paul đanh lại chua chát.

“Hừ,” cậu nói. “Con nghĩ bố chọn nhầm đứa mất rồi.”

Mẹ cậu cầm mấy bức ảnh trong bàn tay lấm lem bụi tro.

“Đừng cay độc thế, Paul. Phoebe mắc hội chứng Down. Mẹ không biết nhiều về bệnh đó, nhưng Caroline có rất nhiều điều cần nói. Nhiều đến nỗi mẹ không thể nhớ hết nổi, thật đấy.”

Paul vẫn di ngón tay trên cái gờ bê tông của bậc thềm và giờ cậu ngừng lại, ngắm nghía máu rỉ ra ở chỗ sượt qua cạnh sắc.

“Không cay độc ấy ạ? Chúng ta đã đến viếng mộ nó,” cậu nói, nhớ lúc mẹ cậu bước qua cánh cổng gang, trên tay ôm đầy hoa, bảo cậu ngồi trong xe đợi. Nhớ lúc bà quỳ gối trên đất bẩn, gieo từng hạt bìm bìm. “Việc đấy thì sao?”

“Mẹ không biết nữa. Đó là đất nhà bác sĩ Bentley, nên chắc chú ấy cũng phải biết chứ. Bố con chưa bao giờ muốn đưa mẹ đến đó. Mẹ phải đấu tranh rất ghê. Lúc đấy mẹ cho là bố con lo mẹ sẽ suy sụp. Ôi, mẹ đã rất giận – cái cách mà bố con luôn biết rõ mọi việc như thế.”

Paul giật mình trước sự gay gắt trong giọng nói của bà, rồi chợt nhớ lại cuộc nói chuyện buổi sáng hôm đó với Michelle. Cậu ép đầu ngón tay cái lên môi và mút vệt máu nhỏ xíu, thấy thích thú với cái vị tanh tanh. Họ ngồi trong im lặng một lúc, nhìn ra mảnh sân sau đầy những đốm tro tàn bay, ảnh rơi vương vãi và những chiếc hộp méo mó.

“Nhưng mà,” cuối cùng cậu nói, “em con bị thiểu năng thì như thế nào? Ý con là cuộc sống hàng ngày ấy.”

Mẹ cậu lại nhìn những tấm ảnh. “Mẹ không biết. Caroline nói là con bé có khả năng hoạt động khá tốt, không biết nghĩa là sao. Nó có một công việc. Một cậu bạn trai. Nó đã được đi học. Nhưng rõ ràng nó không thể thực sự sống độc lập được.”

“Cô y tá này – cái cô Caroline Gill ấy - tại sao bây giờ cô ấy mới đến, sau ngần ấy năm? Cô ấy muốn gì?”

“Cô ấy chỉ muốn nói cho mẹ biết thôi.” mẹ cậu khẽ đáp. “Vậy thôi. Cô ấy không đòi hỏi gì cả. Cô ấy đang mở ra một cánh cửa, Paul ạ. Mẹ thực sự tin như vậy. Đó là một lời mời. Còn chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo là tuỳ thuộc vào chúng ta.”

“Thế đó là gì?” cậu hỏi. “Chuyện gì sẽ xảy ra sau đây”

“Mẹ sẽ đến Pittsburgh. Mẹ biết mình phải gặp con bé. Nhưng sau đó, mẹ chẳng biết làm sao nữa. Liệu mẹ có nên đưa nó về đây không? Đối với con bé chúng ta chỉ là những người xa lạ. Và mẹ còn phải nói chuyện với Frederic nữa; chú ấy cũng cần được biết.” Bà úp mặt vào hai bàn tay một lúc. “Ôi Paul…làm sao mẹ có thể sang Pháp sống hai năm trời và bỏ mặc con bé lại ở đây? Mẹ chẳng biết phải làm thế nào nữa. Như thế là quá nhiều đối với mẹ, ngần ấy chuyện trong cùng một lúc.”

Một cơn gió thổi tung những tấm ảnh bay tung tóe khắp bãi cỏ. Paul ngồi im lặng, cố vật lộn với bao cảm xúc lẫn lộn: giận dữ đối với bố cậu, và sững sờ, buồn bã trước những gì cậu đã để mất. Cả lo lắng nữa; thật kinh khủng khi nghĩ đến chuyện này; nhưng nếu cậu phải chăm sóc cho đứa em gái không thể tự sống một mình được thì sao đây? Làm sao cậu làm được? Cậu thậm chí còn chưa bao giờ gặp một người nào bị thiểu năng, và cậu thấy tất cả những ý niệm mình có trong đầu đều khá tiêu cực. Không có suy nghĩ nào trong số đó có thể phù hợp với cô bé đang mỉm cười rạng rỡ trong tấm ảnh, và cả điều đó cũng khiến cậu thêm lúng túng.

“Con cũng không biết nữa,” Paul đáp. “Có lẽ việc đầu tiên cần làm là dọn dẹp đống ngổn ngang này.”

“Tài sản thừa kế của con đấy,” mẹ cậu nói.

“Không phải chỉ của mình con,” cậu trầm ngâm đáp, cẩn thận ướm từng tờ một. “Của cả em gái con nữa.”

Họ làm việc suốt ngày hôm đó và cả ngày hôm sau, phân loại ảnh và đóng gói lại các hộp, kéo chúng vào tận khoảng sâu mát mẻ bên trong ga ra. Trong khi mẹ cậu gặp các nhân viên quản lý phòng tranh, cậu gọi cho Michelle để giải thích chuyện vừa xảy ra và cũng để báo cho cô rằng cậu sẽ không đến dự buổi biểu diễn của cô được. Cậu nghĩ cô sẽ nổi cáu, nhưng cô chỉ lắng nghe mà không bình luận gì rồi gác máy. Khi cậu cố gọi lại, chỉ có tiếng máy trả lời tự động; chuyện đó kéo dài suốt cả ngày. Hơn một lần cậu đã tính nhảy vào xe và lái như điên về căn nhà ở Cincinnati, nhưng rồi cậu biết làm thế cũng chẳng ích gì. Cậu cũng biết mình không thực sự muốn tiếp tục cuộc sống kiểu đó nữa, luôn luôn yêu Michelle nhiều hơn mức cô có thể đáp lại cậu. Vì vậy cậu tự ép mình ở lại. Cậu quay ra với những việc chân tay để dọn dẹp căn nhà, và đến tối cậu đi bộ vào trung tâm thành phố, đến thư viện để tìm các cuốn sách về hội chứng Down.

Sáng thứ Ba, im lặng, lơ đễnh và tràn ngập lo sợ, cậu cùng mẹ ngồi vào xe của bà, vượt qua con sông và lái xe xuyên dải màu xanh trù phú buổi cuối hè của vùng Ohio. Trời rất nóng, những chiếc là ngô lấp lánh trên nền bầu trời xanh rộng mênh mông. Họ vào đến Pittsburgh giữa dòng xe cộ trở về nhà vào dịp lễ Quốc khánh, đi xuyên đường hầm dẫn ra cây cầu với khung cảnh hùng vĩ đến nghẹt thở của nơi hợp nhất hai dòng sông. Họ luồn lách qua dòng xe khu trung tâm và đi men theo sống Monongahela, đi qua một đường hầm nữa. Cuối cùng họ dừng xe lại trước căn nhà gạch của Caroline Gill nằm trên một con phố đông đúc điểm bằng hành cây thẳng tắp.

Bà ta đã dặn hai mẹ con đỗ xe trong con hẻm và họ làm theo, rồi ra khỏi xe vặn vẹo gân cốt. Phía xa sau một dải cỏ, những bậc thang dẫn xuống một khoảng đất hẹp và căn nhà gạch cao nơi em gái cậu đã lớn lên. Paul ngắm nhìn ngôi nhà, trông thật giống ở Cincinnati, thật khác với tuổi thơ tĩnh lặng của cậu, khác với sự thoải mái và êm đềm nơi ngoại ô. Xe cộ đi lại nườm nượp trên phố, vụt qua những khoảnh sân cắm hộp thư nhỏ tí, để đi vào khu nội thành ngổn ngang nhà cửa xung quanh họ, nóng nực và đông đúc.

Những mảnh vườn chạy dọc theo con hẻm hoa mọc um tùm, hoa thục quỳ và hoa diên vĩ đủ màu sắc, những cánh hoa trắng và tím sinh động nổi bật trên nền cỏ. Trong khu vườn này một người phụ nữ đang lúi húi làm việc, chăm sóc một luống cà chua tươi tốt. Một dải những bụi hoa tử đinh hương chạy dài phía sau lưng bà, những chiếc lá phất phơ mặt sau màu xanh nhạt trong làn gió nhẹ luân chuyển bầu khí nóng mà chẳng làm nó nguội đi chút nào. Người phụ nữ, mặc quần soóc màu xanh thẫm và áo thun trắng, đeo găng tay cotton in hoa sặc sỡ, ngồi nhổm dậy từ chỗ bà ta vừa mới quỳ gối và đưa mu bàn tay quệt lên trán. Xe cộ vẫn vùn vụt lướt qua; bà ta không nghe tiếng họ bước lại gần. Bà ngắt một cái lá trên cây cà chua và áp lên mũi.

“Cô ấy đây hả mẹ?” Paul hỏi. “Có phải cô y tá đấy không?”

Mẹ cậu gật đầu. Bà đã khoanh chặt tay lại trước ngực, vẻ dè chừng. Cặp kính mát che kín đôi mắt bà, nhưng kể cả thế cậu vẫn nhận ra bà đang lo lắng thế nào, yếu đuối và căng thẳng thế nào.

“Ừ. Caroline Gill đấy, Paul, giờ đã đến lúc rồi, mẹ không biết mình có thể làm nổi không. Có lẽ chúng ta nên về nhà thôi con ạ.”

“Mẹ con ta đã đi ngần ấy dặm đường rồi kia mà. Và họ cũng đang mong chúng ta đến nữa.”

Bà nở một nụ cười mệt mỏi yếu ớt. Nhiều ngày nay bà hầu như không thể ngủ được; ngay cả đôi môi bà giờ cũng trắng bợt.

“Không có chuyện họ mong mẹ con mình đến đâu con,” bà nói. “Không hẳn thế.”

Paul gật đầu. Cánh cửa sau bật mở, nhưng cái hình hài đứng dưới hiên nhà vẫn còn ẩn trong bóng tối. Caroline đứng dậy, chùi tay vào quần soóc.

“Phoebe,” bà gọi. “Con đấy à.”

Paul cảm thấy mẹ cậu đứng bên càng thêm căng thẳng hơn, nhưng cậu không nhìn bà. Thay vì thế cậu nhìn lên hiên nhà. Khoảnh khắc đó kéo dài ra, trải rộng thêm, và ánh nắng mặt trời đè nặng lên họ. Cuối cùng cái hình người đấy cũng nhô ra, đang bưng hai cốc nước.

Cậu căng mắt ra nhìn. Cô bé khá lùn, lùn hơn nhiều so với cậu, và mái tóc thì sẫm màu hơn, mỏng và nhẹ hơn, cắt kiểu đầu nấm đơn giản ôm lấy khuôn mặt. Trông cô hơi xanh xao, giống mẹ cậu, và từ khoảng cách này nhìn lại, những đường nét của cô có vẻ khá thanh mảnh trên khuôn mặt to bè, khuôn mặt trông có vẻ hơi phẳng, như thể vừa bị ép vào một bức tường. Đôi mắt cô bé hơi xếch lên, chân tay ngắn ngủn. Cô đã không còn là một cô bé con, giống như trong tấm ảnh, mà đã trưởng thành, bằng đúng tuổi cậu, với vài đốm bạc trên mái tóc. Cũng có vài sợi bạc mọc trên râu cậu, những khi cậu để râu mọc tự do. Cô mặc quần soóc hoa và có vóc người chắc nịch, hơi đầy đặn, hai đầu gối cọ vào nhau mỗi khi cô bước đi.

Ôi, mẹ cậu kêu lên. Bà đã đặt một tay lên tim. Đôi mắt bà đã bị ẩn sau lớp kính râm, và cậu mừng vì điều đó, khoảng khắc này thật quá đỗi riêng tư.

“Không sao đâu mẹ ạ,” cậu nói. “Ta cứ đứng đây một lúc nữa.”

Ánh nắng vẫn gay gắt, xe cộ đi lại nườm nượp. Caroline và Phoebe ngồi bên nhau trên bậc thềm nhà, uống nước.

“Mẹ sẵn sàng rồi,” mẹ cậu nói, và họ đi theo những bậc thang dẫn xuống bãi cỏ ngăn giữa luống rau và đám hoa. Caroline nhìn thấy họ trước; bà đưa tay lên che mắt, nheo nheo mắt dưới ánh nắng, và đứng dậy. Phoebe cũng đứng lên theo, và trong vài giây họ chỉ nhìn nhau qua bãi cỏ. Sau đó Caroline cầm lấy tay Phoebe. Họ gặp nhau bên luống cà chua, những quả to mọng đã bắt đầu chín, tỏa ra khắp không gian một mùi hương sạch sẽ, hơi hăng hăng. Không ai nói gì. Phoebe đăm đăm nhìn Paul, và sau một lúc lâu cô bé dang tay ra trong khoảng không giữa hai người và chạm lên má Paul, thật nhẹ, thật khẽ, như thể xem xem cậu có phải là người thật không. Paul gật đầu mà không nói gì, chỉ nghiêm trang nhìn cô; không hiểu sao, đối với cậu, cử chỉ của cô bé có vẻ hợp lý. Phoebe chỉ muốn làm quen với cậu, có vậy thôi. Cậu cũng muốn làm quen với cô, nhưng cậu không biết phải nói gì với đứa em gái đột nhiên vừa xuất hiện này, người đã từng gắn bó vô cùng thân thiết với cậu nhưng vẫn còn hoàn toàn xa lạ. Cậu cũng cảm thấy thiếu tự tin kinh khủng, vì lo rằng mình sẽ làm gì không phải. Biết nói chuyện thế nào với một người thiểu năng đây? Những cuốn sách cậu đã đọc qua suốt mấy buổi cuối tuần vừa rồi, tất cả những bản mô tả của bệnh viện – không có thứ gì trong số đó chuẩn bị cho cậu đối mặt với một con người thật, người đã chạm vào mặt cậu nhẹ nhàng đến thế.

Rồi chính Phoebe là người giành thế chủ động trước.

“Xin chào,” cô bé nói, rồi giơ tay ta trước mặt cậu một cách trịnh trọng. Paul cầm lấy tay cô bé, cảm nhận những ngón tay của cô thật nhỏ, và vẫn không nói nên lời. “Em tên là Phoebe. Rất vui được gặp anh.” Những từ cô nói nghe dấp dính, khá khó hiểu. Sau đó cô quay sang phía mẹ cậu và lại làm như vậy một lần nữa.

“Chào con,” mẹ cậu nói, nắm lấy tay cô bé, rồi siết chặt tay cô trong hai tay bà. Giọng bà nghẹn lại vì xúc động. “Chào con, Phoebe. Cô cũng rất mừng được gặp con.”

“Trời nóng quá,” Caroline nói. “Sao chúng ta không vào nhà đi nhỉ? Trong đấy quạt đã bật sẵn rồi đấy. Với lại sáng nay Phoebe cũng vừa pha trà đá. Nó đã rất háo hức chờ hai người đến thăm, có phải thế không, con yêu?”

Phoebe mỉm cười gật đầu, đột nhiên có vẻ ngượng nghịu. Họ đi theo cô bé bước vào bầu không khí mát mẻ bên trong căn nhà. Các phòng hơi nhỏ nhưng bài trí không chê vào đâu được, với những món đồ gỗ xinh xắn và những cánh cửa kiểu Pháp để ngỏ giữa phòng khách và phòng ăn. Phòng khách tràn ngập ánh nắng và kê kín những món đồ đạc màu rượu vang xoàng xĩnh. Một chiếc khung cửi khổng lồ nằm ở một góc xa.

“Cháu đang dệt một cái khăn đấy,” Phoebe nói.

“Đẹp quá,” mẹ cậu nói, rồi đi qua căn phòng và lướt ngón tay trên những sợi chỉ, hồng đậm, trắng kem, vàng và xanh lục nhạt. Bà gỡ cặp kính râm và nhìn lên, mắt bà ngấn nước, giọng nói vẫn run run xúc động. “Con tự chọn màu đấy à, Phoebe?”

“Màu yêu thích của cháu đấy ạ,” Phoebe đáp.

“Cô cũng thế,” mẹ cậu nói. “Khi cô bằng tuổi con, đâu cũng là những màu cô rất thích. Các phù dâu của cô đều mặc váy màu hồng đậm và trắng kem, và họ còn cầm hoa hồng vàng nữa.”

Paul ngạc nhiên khi biết điều này; tất cả những bức ảnh cậu từng được xem đều chỉ là ảnh đen trắng.

“Cô có thể lấy cái khăn đấy,” Phoebe nói, rồi ngồi xuống trước khung dệt. “Cháu sẽ làm cho cô.”

“Ôi,” mẹ cậu nói, và nhắm mắt lại thật nhanh. “Phoebe, con ngoan quá.”

Caroline bưng trà đá lên, và bốn người bọn họ ngồi nhấp nhổm trong phòng khách, nói chuyện dè dặt về thời tiết, về thời kỳ phục hưng chớm nở của Pittsburgh trước ý thức về sự sụp đổ của ngành công nghiệp sản xuất thép. Phoebe ngồi lặng lẽ trước khung cửi, đưa con thoi chạy ngược xuôi, thỉnh thoảng lại ngước mắt nhìn lên khi tên cô được nhắc tới. Cô để hết tâm trí vào con thoi, hơi cắn nhẹ môi dưới. Cuối cùng mẹ cậu uống cạn cốc trà và cất lời.

“Chà,” bà nói. “Chúng tôi đã đến đây rồi. Mà tôi cũng không biết chuyện gì đang diễn ra nữa.”

“Phoebe,” Caroline gọi. “Sao con không ra đây ngồi với mọi người?” Im lặng, Phoebe bước tới và ngồi xuống bên Caroline trên ghế dài.

Mẹ Paul bắt đầu nói, bà nói quá nhanh, hai tay siết chặt lại với nhau, đầy lo lắng. “Tôi không biết làm sao cho tốt nhất đây. Chẳng có thứ bản đồ chỉ dẫn nào cho cái tình huống đang xảy ra giữa chúng ta, phải không? Nhưng tôi muốn mở rộng cửa đón Phoebe. Cháu có thể đến sống với chúng tôi, nếu cháu muốn thế. Tôi đã nghĩ về chuyện này rất nhiều trong những ngày qua. Có lẽ phải mất cả đời người mới dàn xếp được cho ổn thỏa.” Nói đến đấy bà dừng lại để lấy hơi, rồi quay ra phía Phoebe, cô bé đang nhìn bà với đôi mắt to tròn uể oải. “Con là con gái của mẹ, Phoebe, con có hiểu không? Đây là Paul, anh trai con.”

Phoebe bèn giữ khư khư lấy tay Caroline. “Đây mới là mẹ cháu,” cô nói.

“Phải.” Norah liếc nhìn Caroline và thử lại. “Đấy là mẹ con,” bà nói. “Nhưng mẹ cũng là mẹ con. Con đã lớn lên trong cơ thể mẹ, Phoebe ạ.” Bà vỗ vỗ vào bụng mình. “Con lớn lên ở trong này này. Nhưng rồi sau đó con ra đời, và mẹ Caroline của con đã nuôi con lớn.”

“Cháu sắp cưới Robert rồi,” Phoebe nói. “Cháu không muốn đến ở với cô đâu.”

Paul, người đã nhìn thấy mẹ mình khổ sở suốt những ngày cuối tuần vừa rồi, thấy đau nhói trước từng từ Phoebe nói ra, như thể cô bé vừa đá cậu. Cậu biết mẹ cậu cũng có cảm giác như thế.

“Không sao đâu, Phoebe,” Caroline nói. “Không ai ép con phải chuyển đi đâu mà.”

“Ý tôi không phải là – tôi chỉ muốn đề nghị…” Mẹ cậu ngừng lại và hít một hơi thật sâu. Đôi mắt bà xanh thẳm, hoang mang. Bà cố nói lại một lần nữa. “Phoebe, Paul và mẹ, cả hai đều muốn hiểu thêm về con. Chỉ thế thôi. Con đừng sợ mẹ và anh nhé, được không? Điều mẹ muốn nói… ý mẹ là… nhà mẹ luôn mở rộng cửa đón con. Bất cứ lúc nào. Dù con có đi đến đâu, con cũng có thể về đó. Và mẹ mong là con sẽ về. Mẹ mong con sẽ về thăm mẹ một ngày nào đó, chỉ vậy thôi. Như thế với con có được không?”

“Có thể ạ,” Phoebe thừa nhận.

“Phoebe,” Caroline nói. “Sao con không dẫn anh Paul đi xem xung quanh một lúc đi? Để cô Henry và mẹ nói chuyện một lúc đã. Mà đừng lo gì nhé, con yêu.” Bà đế thêm, tay đặt nhẹ nhàng lên cánh tay Phoebe. “Không có ai phải đi đâu cả. Mọi việc đều ổn.”

Phoebe gật đầu và đứng dậy.

“Anh muốn xem phòng em không?” cô hỏi Paul. “Em vừa có một cái máy hát mới đấy.”

Paul liếc sang mẹ và bà gật đầu, nhìn theo hai đứa con khi chúng cùng nhau bước qua căn phòng. Paul đi theo Phoebe lên trên gác.

“Robert là ai thế?” cậu hỏi.

“Anh ấy là bạn trai của em. Bọn em sắp làm đám cưới rồi. Anh đã cưới chưa?”

Paul, đột nhiên bị cào xé bởi ký ức về Michelle, lắc đầu. “Chưa.”

“Anh có bạn gái không?”

“Không. Anh đã từng có bạn gái, nhưng chị ấy bỏ đi rồi.”

Phoebe dừng bước ở bậc thang trên cùng và quay lại. Giờ họ đã mắt đối mắt, gần đến nỗi Paul cảm thấy không thoải mái, như thể không gian riêng tư của cậu đang bị xâm phạm. Cậu nhìn lảng đi rồi nhìn lại, cô vẫn nhìn thẳng vào cậu.

“Nhìn chằm chằm vào người khác là không lịch sự đâu,” cậu nói.

“Ồ, trông anh buồn quá.”

“Anh đang buồn,” cậu đáp. “Thật ra, anh đang rất, rất buồn.”

Cô gật đầu, và trong một giây dường như cô đang đồng cảm với nỗi buồn của cậu, vẻ mặt cô thoắt trở nên u ám, rồi một giây sau đó, lại tươi tỉnh.

“Đi anh,” cô nói, rồi dẫn cậu đi dọc hành lang. “Em còn có cả mấy đĩa hát mới nữa cơ.”

Họ ngồi trên sàn nhà trong phòng cô. Tất cả các bức tường đều sơn màu hồng, với rèm kẻ ca rô màu hồng và trắng treo trên cửa sổ. Đây là căn phòng của một cô bé, khắp phòng đầy ắp những thú nhồi bông, các bức tranh màu sắc sặc sỡ treo trên tường. Paul nghĩ đến Robert và tự hỏi liệu có thật là Phoebe sắp kết hôn. Sau đó cậu lại cảm thấy có lỗi vì đã thắc mắc điều đó; tại sao cô bé lại không nên kết hôn, hay làm việc gì khác chứ? Cậu nghĩ đến phòng ngủ trống trong nhà mình, nơi bà ngoại cậu thỉnh thoảng vẫn nghỉ lại khi cậu còn nhỏ. Đó lẽ ra đã là phòng của Phoebe; lẽ ra cô đã có thể đem những món đồ và cả âm nhạc của cô phủ đầy căn phòng đó. Phoebe cho đĩa hát vào máy và vặn to lên, bài “Love, Love Me Do,” rồi hát theo tiếng nhạc với đôi mắt lim dim. Cô có một chất giọng hay, Paul nhận ra, cậu vặn loa nhỏ đi một chút, rồi lướt qua các album khác mà cô có. Cô có rất nhiều đĩa nhạc đang thịnh hành nhưng cũng có cả các đĩa nhạc hòa tấu nữa.

“Em thích kèn trombone, “ cô nói, đoạn giả vờ đưa tay kéo ra thật dài, và khi Paul cười phá lên, cô bé cũng khanh khách cười theo. “Em thích kèn trombone lắm ấy,” cô bé thở dài.

“Anh chơi ghi ta đấy,” cậu nói. “Em biết chưa nhỉ?”

Cô gật đầu. “Mẹ em có nói. Giống John Lennon.”

Cậu mỉm cười. “Hơi hơi thôi,” cậu nói, ngạc nhiên khi thấy mình đang trò chuyện. Cậu đã quen với cách nói của cô, và cậu càng nói chuyện với Phoebe nhiều hơn, cô bé lại càng bộc lộ là chính mình, không để dán mác bất cứ ai khác. “Em đã nghe Andreas Segovia chưa?”

“Rồi ạ.”

“Ông ấy chơi hay lắm. Đấy là nhạc sĩ yêu thích của anh đấy. Để hôm nào anh sẽ chơi đàn cho em nghe nhé.”

“Em thích anh, Paul ạ. Anh thật dễ thương.”

Cậu thấy mình mỉm cười, bị mê hoặc và tâng bốc. “Cảm ơn em,” cậu nói. “Anh cũng thích em.”

“Nhưng em không muốn đến ở với anh đâu.”

“Không sao đâu. Anh cũng không sống với mẹ anh mà,” cậu nói, “Anh sống ở Cincinnati cơ.”

Khuôn mặt Phoebe hớn hở hẳn lên. “Anh sống một mình thôi?”

“Ừ,” cậu nói, biết rằng khi quay lại cậu sẽ thấy Michelle đã bỏ đi rồi. “Có một mình anh thôi.”

“May mắn thật.”

“Anh nghĩ vậy,” cậu đáp giọng trang nghiêm, đột nhiên cậu nhận ra quả có như vậy thật. Những thứ cậu cho là điều tất nhiên trong đời lại là mơ ước Phoebe. “Anh may mắn thật, phải. Đúng thế.”

“Em cũng may mắn lắm,” cô nói, khiến cậu ngạc nhiên. “Robert có một công việc rất tốt, em cũng thế.”

“Công việc của em là gì?” Paul hỏi.

“Em làm ra các bản sao,” cô đáp với một vẻ hãnh diện tinh tế. “Hàng đống hàng đống bản sao.”

“Và em thích công việc đó chứ?”

Cô mỉm cười. “Max làm ở đấy. Cô ấy là bạn em đấy. Bọn em có tận hai mươi ba màu giấy khác nhau cơ.”

Cô ngâm nga nho nhỏ, vẻ hài lòng, khi cẩn thận cất chiếc đĩa đầu tiên đi và chọn một đĩa khác. Những cử chỉ của cô không được nhanh, nhưng rất hiệu quả và chính xác. Paul có thể mường tượng ra lúc cô ở cửa hàng photocopy, làm công việc của mình, cười đùa với cô bạn, thỉnh thoảng lại dừng tay để thưởng thức niềm vui từ chiếc cầu vồng giấy màu hoặc một công việc đã hoàn thành. Dưới tầng một cậu nghe thấy tiếng rì rầm khi mẹ cậu và Caroline Gill bàn luận cần phải làm gì. Cậu bỗng nhận ra, với một cảm giác hổ thẹn sâu sắc, rằng sự thương hại cậu dành cho Phoebe, cũng như quan niệm của mẹ cậu về sự phụ thuộc của cô bé, thật là ngớ ngẩn và không cần thiết. Phoebe thích chính bản thân mình và cô bé thích cuộc sống của mình; cô rất hạnh phúc. Tất cả những nỗ lực của cậu, tất cả những cuộc ganh đua và giải thưởng, sự chống đối dai dẳng và phù phiếm cốt để thỏa mãn bản thân mình và gây ấn tượng với bố cậu – khi đặt cạnh cuộc sống của Phoebe, tất cả dường như cũng trở nên thật ngớ ngẩn.

“Bố em đâu rồi?” cậu hỏi.

“Đi làm rồi ạ. Bố em lái xe bus. Anh có thích đĩa Yellow Submarine không?”

“Có. Có, anh thích lắm.”

Phoebe cười rạng rỡ và bật đĩa nhạc lên.

-------------

[17] Ý nói giấy đăng ký kết hôn

Chương 24Mồng Một Tháng Chín Năm 1989

N

HỮNG NỐT NHẠC TRÀN RA TỪ NHÀ THỜ, HÓA VÀO KHÔNG GIAN NGẬP NẮNG. Đối với Paul, người ta đang đứng ngay bên ngoài những cánh cửa sổ sơn đỏ rực rỡ, âm nhạc gần như có thể nhìn thấy được, như đang len qua tán lá dương, vung vãi trên thảm cỏ như những đốm sáng. Nhạc công đang chơi piano là một người bạn của cậu, một phụ nữ đến từ Peru tên Alexandra, mái tóc đỏ tía của cô được cột chặt sau gáy thành một chiếc đuôi ngựa dài và chính cô, trong những ngày trống trải sau khi Michelle ra đi, đã xuất hiện ở căn hộ cậu ở với xúp, trà đá, đoạn vén rèm và mở cửa sổ, vơ bát đĩa bẩn cho vào bồn rửa. Dậy đi, cứ sụt sịt than khóc mãi như thế thì ích gì, nhất là lại vì một ả chơi sáo. Bọn chúng nó toàn loại phù phiếm cả, cậu chưa biết sao? Tôi cũng không ngờ là cô ta lại chôn chân ở đây được lâu đến thế cơ đấy. Những hai năm. Thành thật mà nói, đúng là một kỷ lục đấy.

Giờ đây những nốt nhạc của Alexandra tuôn chảy như dòng nước bạc, nối theo là một đoạn cao trào vui tươi, nốt nhạc lên cao dần, rồi lặng lại một chút trong ánh nắng. Mẹ cậu hiện ra trên ngưỡng cửa, miệng cười vang, một tay vịn nhẹ lên cánh tay Frederic. Họ cùng bước ra ngoài nắng, dưới cơn mưa gạo và cánh hoa sặc sỡ.

“Đẹp quá,” Phoebe đứng bên cậu nhìn theo.

Cô mặc váy màu xanh ánh bạc, tay phải ôm hờ một đóa hoa thủy tiên cô vừa cầm trong lễ cưới. Cô đang cười, đôi mắt nheo lại vui sướng, lúm đồng tiền hằn sâu trên cả hai gò má bầu bĩnh. Những cánh hoa và hạt gạo bay thành hình vòng cung giữa nền trời rực rỡ; Phoebe cười vang thích thú khi chúng rơi xuống. Paul nhìn cô không chớp mắt: cô gái xa lạ này, em gái song sinh của cậu. Họ đã sóng bước bên nhau trên lối đi giữa hai dãy ghế của ngôi nhà thờ nhỏ này để đến trước bệ thờ, nơi mẹ họ đang chờ cùng Frederic. Cậu bước đi chậm rãi, Phoebe chăm chú và nghiêm trang đi bên cậu, cố gắng làm mọi việc thật chỉn chu, bàn tay cô bé vịn quanh khuỷu tay cậu. Chim én chao liệng trên những thanh xà ngang khi cô dâu chú rể trao lời thề nguyện, ngay từ đầu mẹ đã tin tưởng nhà thờ này, vì bà tỏ ra rất cương quyết trong các cuộc tranh cãi kỳ lạ, bất ngờ, thấm đẫm nước mắt về Phoebe và tương lai của cô, rằng cả hai đứa con sẽ đứng bên bà trong lễ cưới.

Một tiếng phụt, rồi hoa giấy bung ra, một tràng cười vang lên rộn rã. Mẹ cậu và chú Frederic hơi cúi đầu xuống, dì Bree phủi những vụn giấy sặc sỡ trên vai, trên tóc họ. Hoa giấu màu mè vương vãi khắp nơi, khiến bãi cỏ trông như sàn lát đá mài.

“Em nói phải,” cậu nói với Phoebe. “Đẹp thật.”

Cô gật đầu, trông có vẻ trầm ngâm, rồi đưa hai tay vuốt phẳng vạt váy.

“Mẹ anh sắp đi Pháp rồi.”

“Ừ,” Paul đáp, dù cậu thấy thắt lòng trước cách cô chọn từ ngữ: mẹ anh. Một cụm từ ta dùng với người lạ, và tất nhiên mẹ con họ đúng là người lạ. Rốt cuộc, đây chính là điều khiến mẹ cậu đau lòng nhất, những năm tháng đã mất chặn giữa họ, những lời họ nói với nhau vừa cẩn trọng lại vừa khách sáo, thế chỗ cho nơi lẽ ra phải là niềm vui và yêu thương. “Cả anh với em nữa, sau vài tháng nữa,” cậu nói, để nhắc Phoebe về những kế hoạch họ đã thống nhất trước đó. “Anh em mình sẽ sang Pháp để gặp hai người.”

Một thoáng lo lắng, như một đám mây xám, lướt qua mặt Phoebe.

“Chúng ta sẽ quay lại mà,” cậu nhẹ nhành đế thêm, vẫn nhớ cô đã sợ hãi thế nào khi nghe mẹ cậu đề nghị cô bé chuyển sang Pháp sống cùng bà.

Cô gật đầu, nhưng trông vẫn đầy lo lắng.

“Sao thế em?” cậu hỏi. “Có chuyện gì vậy?”

“Ăn ốc sên ạ.”

Paul nhìn cô, sửng sốt. Cậu đã đùa với mẹ và dì Bree lúc đứng ở sảnh trước giờ hôn lễ, trêu chọc về bữa tiệc họ sẽ dự ở Chateauneuf. Phoebe đứng im lặng bên lề cuộc trò chuyện; cậu không nghĩ rằng cô bé đã lắng nghe. Đó cũng là một bí ẩn nữa, sự hiện diện của Phoebe trên cuộc đời này, những gì cô nhìn thấy, cảm thấy và hiểu được. Tất cả những gì cậu biết chắc về cô chỉ có thể viết gọn trong một tấm thẻ chỉ mục: cô yêu mèo, thích đan lát, thích nghe đài và hát trong nhà thờ. Cô rất hay cười, thích ôm ấp, và, cũng giống như cậu, dị ứng với ong.

“Ốc sên cũng không tệ lắm đâu em,” cậu nói. “Thịt nó dai dai. Hơi giống kẹo cao su ấy.”

Phoebe chun mũi nhíu mày rồi cười phá lên. “Eo ôi,” cô nói, “Ghê quá, anh Paul ạ.” Gió vờn nhè nhẹ trên tóc cô bé, và ánh nhìn của cô vẫn gắn chặt vào khung cảnh bày ra trước mắt họ: khách khứa đi đi lại lại, ánh nắng, những chiếc lá, tất cả đều đan vào nhau cùng âm nhạc. Đôi má cô lấm tấm tàn nhang, giống hệt má cậu. Phía xa xa bên kia bãi cỏ, mẹ và chú Frederic cùng nhấc chiếc dao cắt bánh bằng bạc lên.

“Em với Robert,” Phoebe nói, “bọn em cũng sắp làm đám cưới rồi nhé.”

Paul mỉm cười. Cậu đã gặp Robert ngay trong chuyến đi đầu tiên đến Pittsburgh; họ đã cùng đến cửa hàng tạp hóa để gặp cậu ta, cao và tính tình chu đáo, Robert vận bộ đồng phục màu nâu kèm theo một chiếc thẻ ghi tên. Khi Phoebe thẹn thùng giới thiệu hai người với nhau, Robert ngay lập tức cầm lấy tay Paul và vỗ vai cậu, như thể họ vừa gặp lại nhau sau một thời gian dài xa cách. Gặp anh vui quá, Paul ạ. Phoebe và em, chúng em sắp làm đám cưới, nên chẳng mấy chốc mà chúng ta sẽ thành anh em thôi, anh thấy thế nào? Rồi sau đó, rất hào hứng, không chờ nghe câu trả lời, tin tưởng rằng thế giới đúng là một nơi tốt đẹp và rằng Paul cũng có chung niềm vui như mình, cậu ta quay sang Phoebe, vòng tay quanh người cô, và hai người bọn họ đứng đó, cười rạng rỡ.

“Chán quá, Robert không tới dự được nhỉ.”

Phoebe gật đầu. “Robert thích tiệc tùng lắm.”

“Anh không thấy bất ngờ đâu,” Paul đáp.

Paul nhìn mẹ đút một miếng bánh vào miệng chú Frederic, rồi đưa ngón tay cái quệt nhẹ khóe miệng ông. Bà mặt một chiếc váy màu kem, mái tóc ngắn, vàng óng đã ngả bạc, khiến đôi mắt bà trông càng to hơn. Cậu nghĩ đến bố, tự hỏi không hiểu đám cưới của hai người đã diễn ra thế nào. Cậu đã xem những tấm ảnh chụp, đương nhiên, nhưng đó chỉ là bề mặt. Cậu muốn biết ánh sáng hôm đó ra sao, tiếng cười lúc ấy thế nào; cậu muốn biết liệu lúc đó bố cậu có cúi xuống như Frederic đang làm bây giờ, để hôn mẹ sau khi bà liếm chút kem dính trên môi hay không.

“Em thích hoa hồng lắm,” Phoebe nói. “Em muốn đám cưới của em phải có hàng đống hoa màu hồng.” Rồi cô bé bỗng nghiêm trang, cau mày và nhún vai, chiếc váy xanh hơi tụt xuống xương đòn. Cô lắc đầu. “Nhưng em với Robert ấy, bọn em phải tiết kiệm tiền trước đã.”

Gió thổi mạnh thêm. Paul chợt nghĩ đến Caroline Gill, cao và dữ tướng, đứng trên sảnh khách sạn ở trung tâm Lexington với chồng bà, Al và Phoebe. Tất cả bọn họ đã gặp nhau hôm qua, trên dải cỏ phân cách. Ngôi nhà của mẹ cậu đã trống trơn, một tấm bảng ghi NHÀ CHỜ BÁN cắm ở sân trước. Đêm nay, bà và Frederic sẽ bay sang Pháp. Caroline cùng Al đã lái xe từ Pittsburgh đến, và sau bữa điểm tâm trưa mang tính xã giao có vẻ không thoải mái lắm, họ đã để Phoebe lại đây tham dự lễ cưới trong khi hai vợ chồng đi nghỉ ở Nashville. Kỳ nghỉ đầu tiên của riêng hai người, họ đã nói vậy, và dường như họ rất vui. Tuy vậy, Caroline vẫn ôm Phoebe tới hai lần, rồi dừng lại trên vỉa hè, ngoái nhìn qua ô cửa sổ và vẫy tay chào.

“Em có thích Pittsburgh không?” Paul hỏi. Cậu đã được một nơi ở đó mời làm việc, một công việc tốt với dàn nhạc, và cậu cũng được một dàn nhạc khác ở Santa Fe mời tham gia.

“Em thích Pittsburgh lắm,” Phoebe đáp, “Mẹ em bảo là ở đó có lắm bậc thang quá, nhưng em vẫn thích.”

“Có khi anh sẽ chuyển đến đấy sống,” Paul nói, “Em nghĩ sao?”

“Thế thì hay quá,” Phoebe nói. “Anh có thể tới dự đám cưới của em.” Rồi cô thở dài. “Mà đám cưới thì tốn nhiều tiền lắm. Thật không công bằng.”

Paul gật đầu. Không công bằng, không. Không có gì công bằng cả. Không phải những thử thách mà Phoebe phải đối mặt trong một thế giới không chào đón cô, không phải sự thuận lợi tương đối của chính cuộc đời của cậu, không phải những gì bố họ đã làm – không gì cả. Đột nhiên, cậu khát khao dành cho Phoebe mọi đám cưới mà cô muốn. Hoặc ít nhất cũng là một chiếc bánh. Đó sẽ là một cử chỉ nhỏ để bù đắp lại những chuyện khác.

“Các em có thể chạy trốn với nhau,” cậu gợi ý.

Phoebe ngẫm nghĩ, xoay xoay chiếc vòng nhựa màu xanh trên cổ tay. “Không được,” cô nói. “Thế thì bọn em sẽ không có chiếc bánh nào cả.”

“Ô, anh không biết đấy. Không được à? Ý anh là, tại sao lại không?”

Phoebe, cau mày rất ghê, rồi liếc nhìn cậu để xem cậu có đang trêu chọc cô không.

“Không được,” cô trả lời dứt khoát. “Đấy không phải là cách để có một đám cưới đâu, Paul ạ.”

Cậu mỉm cười, xúc động trước sự chắc chắn của cô về cách thế giới xoay vần.

“Em biết sao không, Phoebe? Em nói đúng.”

Tiếng cười và tiếng vỗ tay rộn rã khắp bãi cỏ ngập nắng khi chú Frederic và mẹ cắt xong bánh. Dì Bree, mỉm cười, giơ cao máy ảnh để chụp nốt bức hình cuối. Paul gật đầu ra hiệu về phía chiếc bàn nơi bánh đang được xếp lên những chiếc đĩa nhỏ xinh, rồi mọi người chuyền tay nhau. “Bánh cưới có tận sáu tầng cơ đấy. Mâm xôi và kem tươi ở giữa. Thế nào, Phoebe? Em muốn ăn một chút không?”

Phoebe cười toe và gật đầu thay lời đáp.

“Bánh của em sẽ có tận tám tầng cơ,” cô nói, khi họ đi qua bãi cỏ giữa tiếng người nói, tiếng cười và tiếng nhạc.

Paul cười vang. “Tám thôi à? Sao không phải là mười?”

“Ngốc. Anh đúng là đồ ngốc, Paul ạ,” Phoebe đáp.

Họ đến bên bàn. Những vụn hoa giấy sặc sỡ vương đầy trên vai mẹ cậu. Bà mỉm cười, từng cử động đều thật dịu dàng, và chạm lên tóc Phoebe, vuốt ra sau gáy, như thể cô vẫn còn là một đứa bé gái. Phoebe né người đi, và trái tim Paul thắt lại; đối với câu chuyện này, chẳng có cái kết giản đơn nào hết. Sẽ có những lần thăm viếng tới phía bên kia bờ Đại Tây Dương và những cuộc điện thoại, nhưng sẽ không bao giờ có những niềm vui bình dị của cuộc sống thường nhật.

“Con làm tốt lắm,” mẹ nói. “Mẹ rất mừng vì có các con ở lễ cưới, Phoebe ạ, con và Paul. Điều đó có ý nghĩa với mẹ lắm. Mẹ không thể tả hết được.”

“Cháu thích đám cưới,” Phoebe nói, đoạn với tay lấy một đĩa bánh.

Nụ cười của mẹ thoáng buồn. Paul nhìn Phoebe, tự hỏi làm sao cô hiểu được chuyện gì đang xảy ra. Dường như cô chẳng lo lắng mấy về mọi việc, đúng hơn là cô chấp nhận thế giới như một nơi kỳ thú và lạ thường, nơi tất cả mọi chuyện đều có thể xảy ra. Nơi mà một ngày nào đó, một bà mẹ và một người anh trai bạn chưa bao giờ biết tới sẽ xuất hiện trên ngưỡng cửa và mời bạn tham dự lễ cưới.

“Mẹ rất mừng vì con sẽ sang Pháp thăm chúng ta, Phoebe ạ,” mẹ nói tiếp. “Chú Frederic và mẹ, chúng ta đều rất vui.”

Phoebe ngước nhìn lên, lại tỏ vẻ không thoải mái.

“Do bọn ốc sên đấy ạ,” Paul phân bua. “Em nó không thích ốc sên đâu.”

Mẹ cười. “Đừng lo con. Mẹ cũng không thích.”

“Với cả cháu sẽ về nhà,” Phoebe đế thêm.

“Phải rồi,” mẹ dịu dàng đáp. “Ừ. Chúng ta đã thống nhất thế mà.”

Paul nhìn, cảm thấy bất lực trước nỗi đau án ngữ trong cậu như một tảng đá. Trong ánh sáng chói mắt cậu thấy sốc vì tuổi tác của mẹ, da bà trông mỏng hơn, mái tóc vàng óng đã dần nhường chỗ cho những món tóc bạc. Sốc vì cả vẻ đẹp của bà. Bà vừa có vẻ đáng yêu lại vừa mong manh, và cậu tự hỏi, như đã tự hỏi mình bao lần trong suốt những tuần qua, rằng làm sao bố cậu có thể lừa dối bà, lừa dối tất cả bọn họ.

“Làm sao?” cậu hỏi khẽ. “Làm sao bố có thể không nói cho chúng ta biết?”

Bà quay sang phía cậu, mặt nghiêm trang. “Mẹ không biết. Mẹ cũng sẽ không bao giờ hiểu được. Nhưng thử nghĩ xem cuộc đời của bố con đã ra sao, Paul. Mang theo cái bí mật này bên mình trong bao nhiêu năm trời.”

Cậu nhìn sang bên kia bàn. Phoebe đứng bên một cây dương tán lá đang ngả màu dần, cầm nĩa cạo lớp kem tươi phủ trên mặt bánh.

“Cuộc đời của chúng ta có thể đã khác đi nhiều.”

“Phải. Đúng vậy.Nhưng nó đã không khác, Paul ạ. Nó đã diễn ra như thế.”

“Mẹ đang bao biện cho ông ấy,” cậu chậm chạp nói.

“Không. Mẹ đang tha thứ cho bố. Dù sao, mẹ cũng đang cố gắng. Việc đó khác chứ.”

“Ông ấy không xứng đáng được tha thứ,” Paul nói, vẫn sững sờ trước sự cay đắng của bản thân.

“Có lẽ không,” mẹ cậu nói. “Nhưng con, mẹ và Phoebe, chúng ta có thể lựa chọn. Hoặc cứ đau đớn và giận dữ mãi, hoặc cố gắng sông tiếp. Đó là việc khó khăn nhất đối với mẹ, phải quên đi cơn giận dữ chính đáng ấy. Mẹ vẫn đang cố gắng. Nhưng đó là điều mẹ muốn làm.”

Cậu ngẫm nghĩ một lúc. “Con vừa được mời đến làm việc ở Pittsburgh,” cậu nói.

“Thật à?” Đôi mắt mẹ cậu chăm chú, trông xanh thẳm làm sao dưới ánh sáng này. “Con có nhận lời không?”

“Con nghĩ là có,” cậu nói, nhận ra mình vừa quyết định. “Đó là một công việc tốt.”

“Con không thể sửa được,” bà khẽ nói. “Con không thể sửa lại quá khứ được, Paul à.”

“Con biết.” Cậu biết. Lần đầu tiên đến Pittsburgh, cậu tin chắc rằng việc có giúp đỡ hay không là do mình tự quyết. Cậu đã lo lắng về trách nhiệm cậu sẽ phải gánh vác, cuộc đời cậu sẽ thay đổi ra sao với gánh nặng là một cô em gái thiểu năng, và cậu đã bị bất ngờ - thực ra là sửng sốt – vì thấy chính cô em gái đó nóikhông, em thích cuộc sống của em bây giờ, không, cảm ơn anh.

“Cuộc đời của con là cuộc đời của con,” bà nói tiếp, giọng vội vã hơn. “Con không phải chịu trách nhiệm về những gì đã xảy ra. Phoebe vẫn ổn, về mặt tài chính.”

Paul gật đầu. “Con biết. Không phải là con cảm thấy phải có trách nhiệm với em đâu. Thực sự là không. Chỉ là… con nghĩ mình muốn hiểu em hơn. Hàng ngày. Ý con là, đấy là em gái con. Đó là một công việc tốt, và con cũng thực sự cần thay đổi nữa. Pittsburgh là một thành phố đẹp. Thế nên, con nghĩ là – sao lại không nhỉ?”

“Ôi, Paul.” Mẹ cậu thở dài, luồn tay qua mớ tóc ngắn của bà. “Công việc đấy có tốt thật không con?”

“Có. Tốt mẹ ạ.”

Bà gật đầu. “Thế thì được,” bà chậm rãi thừa nhận, “hai anh em con lại ở cùng một nơi. Nhưng con phải nghĩ đến toàn cục nữa. Con vẫn còn rất trẻ, và mới chỉ bắt đầu tìm ra con đường cho mình thôi. Con phải chắc làm thế là tốt cho con.”

Trước khi cậu kịp trả lời, Frederic đã xuất hiện, gõ gõ lên chiếc đồng hồ đeo tay, nói rằng họ phải đi sớm để kịp chuyến bay. Sau khi trao đổi vài câu, Frederic đi lấy xe còn mẹ cậu quay lại với Paul, đặt tay lên cánh tay con trai, và hôn lên má cậu.

“Có lẽ mẹ với chú sắp phải đi đây. Con sẽ đưa Phoebe về nhà hả?”

“Vâng. Caroline và Al nói con có thể ở lại nhà họ.”

Bà gật đầu. “Cảm ơn con,” bà dịu dàng nói, “vì đã ở đây. Chắc đối với con chẳng dễ dàng gì, vì tất cả. Nhưng điều đó có ý nghĩa với mẹ nhiều lắm.”

“Con thích chú Frederic,” cậu nói. “Con chúc mẹ và chú hạnh phúc.”

Bà mỉm cười và vuốt tay cậu. “Mẹ tự hào về con lắm, Paul ạ. Con có biết mẹ tự hào về con thế nào không? Con biết mẹ yêu con nhiều lắm không?” Bà quay lại nhìn sang phía bên kia bàn nơi Phoebe ngồi; cô bé đã kẹp bó thủy tiên dưới cánh tay, gió khẽ lay động lớp váy rực rỡ của cô. “Mẹ tự hào về cả hai con.”

“Chú Frederic đang vẫy kìa,” Paul nói, cậu nói thật nhanh để giấu nỗi xúc động. “Con nghĩ đã đến lúc rồi. Chắc chú ấy sẵn sàng rồi đấy. Mẹ cứ đi và sống hạnh phúc, mẹ nhé.”

Bà nhìn cậu chăm chú thật lâu một lần nữa, mắt bà đẫm nước, rồi hôn lên má cậu.

Frederic đi qua bãi cỏ và bắt tay Paul. Paul nhìn mẹ ôm chặt lấy em gái cậu và đưa Phoebe bó hoa của bà; cậu nhìn Phoebe ngập ngừng ôm lại bà. Mẹ và chú Frederic ngồi vào trong xe, mỉm cười vẫy tay chào giữa một cơn mưa hoa giấy khác. Chiếc xe biến mất sau khúc cua, và Paul len lỏi quay lại bàn, dừng lại chào hỏi hết vị khách này đến người khách khác, mắt vẫn nhìn Phoebe. Khi lại gần hơn, cậu nghe thấy cô đang hớn hở nói với một người khách khác về Robert và đám cưới của chính cô. Tiếng cô to, giọng hơi dấp dính khó nghe, vẻ hào hứng không chút giấu giếm. Cậu nhìn thấy phản ứng của vị khách – một nụ cười gượng gạo, không rõ ràng, kiên nhẫn – và cau mày. Vì Phoebe chỉ muốn nói. Vì chính cậu cũng đã phản ứng với cách nói chuyện này đúng kiểu ấy, chỉ cách đây có vài tuần.

“Sao rồi, Phoebe,” cậu nói, đoạn bước tới ngắt lời cô. “Em muốn đi chưa?”

“Vâng,” cô nói, và đặt đĩa xuống.

Họ lái xe qua vùng nông thôn trù phú. Đó là một ngày ấm áp. Paul tắt điều hòa nhiệt độ và hạ cửa kính xe xuống, nhớ lại những lúc mẹ đã lái xe như điên xuyên qua chính khung cảnh này để thoát khỏi nỗi cô đơn và đau đớn của bà, gió phần phật thổi tung tóc bà. Có lẽ cậu đã đi hàng ngàn dặm cùng mẹ, ngược xuôi khắp bang, lưng dựa vào ghế, cố gắng đoán xem họ đang ở đâu bằng cách nhìn những tán lá, đường dây điện thoại, bầu trời lướt qua trước mắt. Cậu còn nhớ mình đã nhìn thấy một con tàu hơi nước lừ đừ trôi trên dòng Mississippi ngầu bùn, những chiếc chân vịt sáng màu loang loáng ánh sáng và nước. Cậu đã không bao giờ hiểu được nỗi buồn của bà, mặc dù sau đó cậu đã mang nó theo bên mình, tới bất cứ nơi đâu.

Giờ đây nó đã xa rồi, nỗi buồn ấy: cuộc sống ấy cũng đã kết thúc, đã lùi xa.

Cậu lái xe rất nhanh, hơi thở mùa thu ngập tràn khắp nơi. Những cây sơn thù du đã đổi màu lá, từng đám mây đỏ rực rỡ nổi bật trên nền đồi. Phấn hoa khiến mắt Paul ngứa ngáy và hắt xì mấy lần liền, nhưng cậu vẫn để cửa kính mở. Mẹ cậu có lẽ sẽ bật điều hòa nhiệt độ lên, cả chiếc xe lạnh toát như trong hộp bảo quản của người trồng hoa. Bố cậu sẽ mở túi tìm thuốc chống dị ứng. Phoebe, ngồi ngay ở ghế bên cạnh cậu, làn da thật trắng, gần như trong suốt, lấy một chiếc khăn giấy Kleenex trong gói nhỏ từ chiếc túi nhựa đen của mình và đưa cho cậu. Những đường tĩnh mạch, xanh nhạt, nhìn rõ ngay dưới làn da cô. Cậu có thể nhìn thấy mạch cô đập trên cổ, từ từ, đều đặn.

Em gái của cậu. Em gái song sinh của cậu. Sẽ ra sao nếu cô không sinh ra với bệnh Down? Hoặc sẽ ra sao nếu cô đã sinh ra như thế, đơn giản là chính cô, và bố cậu đã không ngước mắt lên nhìn Caroline Gill, tuyết rơi ngoài trời và đồng nghiệp của ông thì kẹt dưới một cái mương? Cậu mường tượng cảnh bố mẹ, trẻ trung và hạnh phúc, đặt cả hai anh em cậu vào xe, lái chậm rãi xuyên qua những con phố sũng nước ở Lexington trong ngày tuyết tan tháng Ba sau khi hai đứa trẻ chào đời. Căn phòng đồ chơi ngập nắng sát vách với phòng cậu có thể đã thuộc về Phoebe. Cô bé đã có thể đuổi cậu chạy xuống cầu thang, chạy qua bếp và ra khu vườn hoang, khuôn mặt cô luôn sát bên cậu, tiếng cười của cậu là âm vang tiếng cười của cô. Rồi cậu sẽ trở thành người như thế nào nhỉ?

Nhưng mẹ nói đúng; cậu không bao giờ biết chuyện gì có lẽ đã xảy ra. Tất cả những gì cậu có là thực tế. Bố đã phải đỡ đẻ cho chính hai đứa con sinh đôi của mình giữa cơn bão bất ngờ, thực hiện những thao tác nằm lòng, chú tâm vào mạch đập và nhịp tim của người phụ nữ nằm trên bàn sinh, làn da căng cứng, cái đầu nhô ra. Hơi thở, màu da, những ngón tay và ngón chân. Một bé trai. Nhìn bề ngoài trông thằng bé thật hoàn hảo, một tiếng hát khẽ cất lên, sâu thẳm trong suy nghĩ của bố. Một giây sau đó, đến đứa trẻ thứ hai. Và kể từ đó tiếng hát trong tim bố câm lặng mãi mãi.

Họ đã về đến rất gần thành phố. Paul chờ xe cộ đi vãn, rồi đánh xe sang nghĩa trang Lexington, đi qua cổng xây bằng đá. Cậu đỗ xe dưới bóng một cây đu đã sống qua hàng trăm năm hạn hán và dịch bệnh, rồi ra khỏi xe. Cậu đi vòng sang cửa xe phía Phoebe ngồi và mở cửa, giơ tay ra. Cô nhìn tay cậu, ngỡ ngàng, rồi ngước nhìn cậu. Sau đó cô tự ra khỏi chỗ ngồi, tay vẫn cầm bó thủy tiên, cuống hoa giờ đã gãy và mềm nhũn ra. Họ đi theo con đường mòn một lúc, qua những tượng đài và cái ao với bầy vịt, cho đến khi cậu dẫn cô qua bãi cỏ tới một tấm bia đánh dấu mộ của bố họ.

Phoebe lướt ngón tay trên dòng tên họ và ngày tháng khắc trên tấm đá granite đen sẫm. Cậu lại tự hỏi không biết cô đang nghĩ gì. Al Simpson là người đàn ông cô gọi là bố. Ông chơi xếp hình với cô mỗi tối, và mang về cho cô những album cô thích sau mỗi chuyến đi; ông từng cõng cô trên vai để cô có thể với tới những chiếc lá tiêu huyền. Nó có thể chẳng có ý nghĩa gì với cô cả, phiến đá granite này, cái tên này.

David Henry McCallister. Phoebe chậm rãi đọc to từng chữ. Chúng choán đầy miệng cô và rơi xuống nặng trịch trong không gian.

“Bố của chúng ta,” cậu nói.

“Lạy Cha chúng con ở trên trời,” cô nói, “chúng con nguyện danh Cha cả sáng[18].”

“Không,” cậu nói, ngạc nhiên. “Bố của chúng ta. Bố của anh. Bố của em”

“Bố của chúng ta,” cô lặp lại, và cậu cảm thấy giận điên người, vì những từ cô nói thật dễ dãi, máy móc, chẳng có ý nghĩa gì đối với cuộc sống của cô cả.

“Anh đang buồn,” sau đó cô nhìn cậu. “Nếu bố em mà mất, em cũng buồn lắm.”

Paul giật mình. Phải, đúng vậy – cậu đang buồn. Nỗi oán giận của cậu đã tiêu tan, và đột nhiên cậu có thể nhìn bố theo một cách khác. Ngay chính sự hiện diện của cậu chắc chắn cũng đã nhắc nhở bố trong từng cái nhìn, từng hơi thở, về sự lựa chọn mà ông đã đưa ra và không thể thay đổi được. Những tấm ảnh polaroid chụp hình Phoebe mà Caroline đã gửi đến suốt bao năm qua được tìm thấy tít sâu trong ngăn kéo buồng tối sau khi các nhân viên quản lý phòng tranh đã đi hết, một tấm ảnh chụp cả nhà ông bà nội nữa, tấm ảnh mà Paul vẫn còn giữ, hình cả gia đình bố đứng trên hiên ngôi nhà đã mất. Và hàng ngàn tấm ảnh khác, cái nọ nối tiếp cái kia, bố đã xếp lên từng lớp từng lớp hình ảnh, cố gắng xóa nhòa cái khoảnh khắc ông không bao giờ thay đổi được, thế nhưng, quá khứ vẫn trỗi dậy, dai dẳng như những ký ức, mãnh liệt như những giấc mơ.

Phoebe, em gái cậu, bí mật đã bị giữ kín trong suốt một phần tư thế kỷ.

Paul đi vài bước quay lại con đường mòn rải sỏi. Cậu dừng lại, tay thọc sâu vào túi, những chiếc lá bị cuốn lên cao trong gió lốc, một mẩu báo rách bay lơ lửng qua những hàng bia mộ trắng. Mây lững lờ trôi trong nắng, in bóng lên mặt đất, ánh mặt trời loang loáng chiếu trên những tấm bia, bãi cỏ và cây cối. Lá reo xào xạc trong gió nhẹ, lớp cỏ cao khẽ sột soạt.

Ban đầu những nốt nhạc còn rất khẽ, gần như là một luồng chảy ẩn dưới làn gió, tinh tế đến mức cậu phải căng hết tai ra để nghe. Cậu quay sang Phoebe, cô bé vẫn đứng bên tấm bia mộ, bàn tay đặt trên rìa đá granite đen sẫm, bắt đầu cất tiếng hát. Đám cỏ mọc trên mộ lay động, những chiếc lá rung rinh. Đó là một bài Thánh ca, nghe quen quen. Lời cô hát không rõ ràng, nhưng giọng cô trong trẻo và ngọt ngào, những người khách khác đến viếng nghĩa trang đang nhìn về phía cô, về phía Phoebe với mái tóc xám và chiếc váy phù dâu, dáng đứng vụng về, những từ ngữ dấp dính, vẻ vô tư, và giọng hát du dương của cô. Paul nốt nước bọt, nhìn chằm chằm xuống đôi giày của mình. Trong suốt phần đời còn lại, cậu nhận ra, mình sẽ bị giằng xé như thế mãi, cậu thấy được sự vụng về của Phoebe, những khó khăn mà cô phải đối mặt chỉ vì là kẻ khác biệt trong thế giới này, nhưng dẫu vậy cô đã vượt qua hết thảy bằng tình yêu ngây thơ và thẳng thắn của mình.

Bằng tình yêu của cô, phải. Và, cậu nhận ra, chìm ngập giữa những nốt nhạc, bằng tình yêu thương mới mẻ và phức tạp kỳ lạ cậu dành cho cô bé.

Giọng cô cao và trong vắt, xuyên qua kẽ lá, qua ánh nắng. Nó vương vãi trên lớp sỏi, trên thảm cỏ. Cậu mường tượng từng nốt nhạc rơi vào không trung như đá ném xuống nước, khiến cái bề mặt vô hình của vạn vật gợn sóng lăn tăn. Những đợt sóng âm thanh, những đợt sóng ánh sáng, bố cậu đã cố gắng giữ chặt mọi thứ, nhưng thế giới chảy trôi và không thể bị kìm nén.

Lá reo xào xạc; ánh nắng chan hòa. Lời bài Thánh ca cũ ùa về trong cậu, và Paul ngân lên giai điệu. Phoebe dường như không để ý. Cô tiếp tục hát, hòa vào giọng hát của cậu như hòa cùng tiếng gió. Lời hát của họ hợp làm một, âm nhạc chảy trong cậu, ngân nga trong từng thớ thịt, và nó cũng vang giữa không gian, giọng của cô chính là thứ giọng song sinh của cậu. Khi bài hát chấm dứt, họ đứng nguyên tại chỗ trong ánh nắng chiều trong trẻo, nhợt nhạt. Gió lướt qua, ép món tóc của Phoebe vào cổ, cuốn những chiếc lá vàng dọc theo chân rào đá mòn vẹt.

Vạn vật chậm lại, cho đến khi tất cả đứng yên trong một khoảnh khắc lơ lửng. Paul đứng thật im, chờ xem điều gì sẽ xảy ra tiếp theo.

Trong vài giây, không có gì cả.

Sau đó Phoebe chậm rãi quay lưng lại, vuốt phẳng chiếc váy nhăn nheo.

Một hành động giản dị, nhưng nó đưa vạn vật trở lại với chuyển động.

Paul để ý thấy móng tay cô ngắn và cụt làm sao, cổ tay trông thật mảnh mai trên nền tấm bia đá granite. Đôi bàn tay của em gái cậu nhỏ nhắn, giống y như tay mẹ họ. Cậu bước qua bãi cỏ và đặt tay lên vai cô, đưa cô về nhà.

---HẾT---


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx