sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Con Gái Người Giữ Ký Ức - Chương 21-22

Chương 21Tháng Mười Một Năm 1988

TÊN CẬU TA LÀ ROBERT VÀ CẬU RẤT ĐẸP TRAI VỚI MÓN TÓC SẪM lòa xòa trên trán. Cậu vòng đi vòng lại trên lối đi giữa hai dãy ghế xe bus, tự giới thiệu bản thân với mọi người và bình luận về lịch trình, tài xế, thời tiết. Cậu đi đến cuối hàng, quay lại, rồi tua nguyên xi cả bài. “Được ở đây tôi thấy rất vui,” câu tuyên bố, tiện thể bắt tay Caroline trên lối đi. Bà mỉm cười, nhẫn nại; cái siết tay của cậu vừa mạnh vừa tự tin. Những người khác không buồn nhìn cậu. Họ còn đang chúi mũi vào sách báo, hay quang cảnh đang lướt qua ngoài cửa sổ. Dẫu vậy Robert vẫn tiếp tục, không nản chí, như thể những người ngồi trên chiếc xe buýt này cũng chẳng đáng để tâm đến, và chẳng mong gì họ sẽ đáp lại lời cậu nói hơn những cái cây, hòn đá, hay đám mây. Ẩn dưới sự kiên trì ấy, Caroline thầm nghĩ khi nhìn cậu từ hàng ghế cuối cùng, cố gắng kiềm chế hết sức để không can thiệp vào, là khao khát thầm kín muốn tìm được một người có thể thực sự nhìn thấy mình.

Người đó, hóa ra, là Phoebe, người dường như rạng rỡ hơn, ngập tràn trong ánh sáng tâm hồn, khi Robert ở gần cô, cô nhìn cậu vòng đi vòng lại giữa hai hàng ghế như thể đó là một tạo vật mới mẻ diệu kỳ, có lẽ là một con công, xinh đẹp, phô trương và kiêu hãnh. Khi cuối cùng cậu cũng chịu ngồi xuống cạnh cô, mồm vẫn nói không ngừng, Phoebe chỉ mỉm cười với cậu. Đó là một nụ cười rạng rỡ; cô không kìm giữ chút cảm xúc nào. Không kiềm chế, không đề phòng, không chờ đợi xem liệu cậu có chung cảm xúc yêu thương mãnh liệt như cô không. Caroline nhắm mắt lại trước hành động bộc lộ cảm xúc lộ liễu của cô con gái – ngây thơ thái quá, nguy hiểm quá! Nhưng khi bà mở mắt ra Robert đang mỉm cười lại, vui sướng vì Phoebe, và cũng sửng sốt nữa, như thể vừa có một cái cây hét lớn tên cậu vậy.

Ừ, phải. Caroline thầm nghĩ, sao lại không nhỉ? Những tình yêu kiểu đó chẳng phải quá hiếm hoi trên đời hay sao? Bà liếc nhìn Al, ngồi ngay cạnh bà, đang gật gù, mái tóc bạc hất lên khi xe buýt đi vào chỗ xóc, góc cua. Mãi nửa đêm qua ông mới về rồi ngày mai lại đi, dồn sức làm thêm để có tiền lợp lại mái nhà và thay ống máng. Những tháng vừa rồi, đa số những ngày họ được ở bên nhau đều bị công việc choán hết. Đôi khi ký‎ ức về ngày đầu mới cưới – môi ông ép lên môi bà, tay ông đặt lên eo bà – vụt qua đầu Caroline, cảm giác tiếc nhớ vừa ngọt ngào vừa cay đắng. Từ khi nào họ đã trở nên bận bịu và âu sầu vì lo toan như thế, cả hai người bọn họ? Bao nhiêu ngày đã trôi qua thế nào, ngày nọ nối ngày kia, để đẩy họ tới cảnh này?

Xe buýt tăng tốc đi qua khe núi, leo lên con dốc đến đồi Squirrel. Đèn pha đã được bật lên giữa chập tối mùa đông. Phoebe và Robert ngồi lặng lẽ, mặt hướng ra lối đi giữa hai hàng ghế, mặc quần áo dùng cho điệu nhảy thường niên của Hội Bệnh nhân Down. Đôi giày của Robert được đánh xi bóng lộn; cậu diện bộ vest bảnh nhất của mình. Bên dưới áo măng tô mùa đông, Phoebe mặc một chiếc váy in hoa đỏ trắng, cây thánh giá nhỏ xinh màu trắng đeo từ lễ Kiên tín nằm trên sợi dây mảnh đeo quanh cổ cô. Mái tóc cô đã đen hơn và mỏng đi, được cắt ngắn kiểu đầu nấm, điểm xuyết bằng mấy chiếc kẹp đỏ. Cô hơi xanh xao, tay và mặt lấm tấm tàn nhang. Cô nhìn đăm đăm ra ngoài cửa sổ, mặt thoáng cười, mải mê suy nghĩ. Robert thì nhìn những tấm biển treo trên đầu Caroline, quảng cáo phòng mạch và phòng khám nha khoa, bản đồ tuyến đường. Đó là một anh chàng tốt bụng, bất kỳ lúc nào cũng sẵn sàng để vui thích trước mọi thứ, mặc dù cứ khi nói xong là cậu chàng quên sạch ngay và mỗi lần gặp nhau cậu lại phải hỏi xin số điện thoại nhà bà.

Thế nhưng, cậu lại luôn nhớ ra Phoebe. Cậu luôn nhớ tình yêu.

“Ta sắp đến nơi rồi,” Phoebe nói, quàng tay Robert khi xe đi gần đến đỉnh đồi. Trung tâm điều dưỡng chỉ còn cách đó nửa tòa nhà, ánh sáng từ đó tràn ra dìu dịu trên lớp cỏ nâu, trải lên những mảng tuyết. “Em đếm được bảy bến đỗ rồi.”

“Al,” Caroline gọi, lắc lắc vai ông. “Al, anh ơi, đến bến của mình rồi này.”

Họ xuống xe buýt hòa mình vào cái lạnh ẩm ướt của buổi tối tháng Mười một, từng đôi sánh bước trong ánh sáng lờ mờ. Caroline khoác tay Al.

“Anh mệt rồi,” bà nói, cố tìm cách phá vỡ sự im lặng đang từng ngày trở thành thói quen giữa hai người. “Mấy tuần vừa rồi anh làm việc vất vả quá đấy mà.”

“Anh không sao,” ông đáp.

“Ước gì anh không phải đi nhiều thế.” Vừa nói dứt lời bà thấy hối hận ngay lập tức. Cuộc tranh luận giờ đã quá cũ, một nút thắt hờ trong cuộc hôn nhân của họ, và ngay trong chính tai mình bà vẫn nghe giọng mình chao chát, the thé, như thể muốn khơi mào cho một cuộc cãi vã vậy.

Tuyết vỡ vụn dưới gót giày của họ. Al thở dài nặng nhọc, hơi thở của ông biến thành một đám mây mờ mờ trong gió rét.

“Em à. Anh đang cố hết sức mình, Caroline ạ. Bây giờ đang lúc kiếm tiền dễ mà anh lại có kinh nghiệm. Anh sắp sáu mươi tuổi đến nơi rồi. Anh phải tranh thủ tận dụng được sức mình tới chừng nào hay chừng đó chứ.”

Caroline gật đầu. Cánh tay ông bên dưới bàn tay bà thật rắn rỏi và chắc chắn. Bà mừng vì ông đã ở đây, nhưng quá mệt mỏi trước cái nhịp điệu kỳ dị của cuộc sống khiến ông mỗi bận lại phải rong ruổi nhiều ngày trời. Điều bà muốn, hơn tất cả, là được cùng ăn với ông mỗi sáng và mỗi tối; được thức dậy thấy ông nằm bên cạnh bà, chứ không phải đang ở một phòng khách sạn nào đó cách đấy cả trăm dặm đường.

“Chỉ vì em nhớ anh quá đấy thôi,” Caroline nói nhẹ nhàng. “Ý em là thế mà. Em nói thật đấy.” Phoebe và Robert đã đi trước họ, tay trong tay. Caroline nhìn con gái, tay xỏ găng tối màu, chiếc khăn Robert đưa cho quàng quấy quá quanh cổ. Phoebe muốn lấy Robert, muốn chung sống với cậu; gần đây đó là chủ đề trong tất cả những cuộc nói chuyện của Phoebe. Linda, giám đốc viện điều dưỡng, đã cảnh báo trước, Phoebe đang yêu. Bây giờ cô bé đã hai mươi tư tuổi rồi, dậy thì hơi muộn, và cô bé bắt đầu khám phá ra bản năng sinh dục của chính mình. Chúng ta cần phải bàn thêm về vấn đề này, Caroline ạ. Nhưng Caroline, không sẵn sàng để thừa nhận bất cứ sự thay đổi nào, đã gạt chuyện đó sang một bên.

Phoebe bước đi, đầu vừa hơi cúi xuống, chăm chú lắng nghe, thỉnh thoảng tiếng cười của cô bất thần vỡ ra, dội lại qua bóng đêm nhập nhoạng. Caroline hít thở làn hơi lạnh giá, thấy lòng tràn ngập niềm vui trước hạnh phúc của con gái, đột nhiên bà cùng lúc nhớ đến sảnh chờ ở phòng khám với những cây dương xỉ rũ rượi và cánh cửa kẽo kẹt, Norah Henry đứng bên quầy, kéo găng tay ra để khoe cô lễ tân chiếc nhẫn cưới, cũng cười y như vậy.

Đã lâu lắm rồi, xa rồi. Caroline đã gần như gạt bỏ hết những ngày ấy ra khỏi tâm trí mình. Cho đến tuần vừa rồi, khi Al vẫn chưa về, có một lá thư được gửi đến từ một văn phòng luật trên phố. Caroline, trong lúc bối rối, đã bóc thư đọc ngay trên hiên nhà, dưới khí trời tháng Mười một lạnh buốt.

Xin hãy liên hệ với văn phòng này để nhận một tài khoản tên bà.

Bà lập tức gọi đến và đứng ở cửa sổ, ngắm dòng xe cộ đi lại, trong khi vị luật sư báo cho bà hay: David Henry đã qua đời. Thật ra, ông đã mất được ba tháng. Họ liên hệ với bà để báo cho bà về tài khoản mang tên bà mà ông đã để lại. Caroline ấn chặt điện thoại vào tai, có gì đó xuyên thẳng vào tận tâm can bà khi nghe cái tin ấy, bà nhìn mãi những chiếc lá lẻ loi còn sót lại trên cây tiêu huyền rung rinh trong ánh sáng buổi sớm mai giá lạnh. Vị luật sư, ở cách đó nhiều dặm đường, vẫn đang nói. Đó là một tài khoản thụ hưởng. David đã lập tài khoản đứng tên cả hai người, do vậy tài khoản này không nằm trong diện thừa kế hay di chúc. Họ không nói trong tài khoản có bao nhiêu, không thể nói qua điện thoại được. Caroline sẽ phải đến tận văn phòng.

Gác máy xong bà trở ra hiên nhà, và ngồi trên xích đu một lúc lâu, cố gắng ghi nhận cái tin ấy. Bà thấy sốc vì David đã nhớ đến bà theo cách này. Điều làm bà sốc hơn nữa chính là việc David đã chết. Bà đã tưởng tượng ra những gì? Rằng bằng cách nào đó bà và David sẽ ở bên nhau mãi mãi, họ sống cuộc đời biệt lập nhưng vẫn luôn gắn bó với nhau bởi cái giây phút trong văn phòng khi ông đứng dậy và đặt Phoebe vào tay bà ư? Rằng bằng cách nào đó, một ngày nào đó, bất cứ khi nào thích hợp, bà sẽ tìm đến ông và cho ông gặp con gái mình ư? Xe cộ nối đuôi nhau lao xuống đồi thành một dòng chảy đều đặn. Bà không biết phải làm gì, cuối cùng bà chỉ quay vào nhà và chuẩn bị mọi việc, bỏ bức thư vào ngăn kéo trên cùng với mớ dây chun và kẹp giấy, chờ Al về giúp bà nhìn nhận lại sự việc. Bà vẫn chưa đả động gì đến chuyện đó – ông đã quá mệt mỏi – nhưng cái tin ấy, chưa được nói ra, vẫn treo lơ lửng giữa hai người, cùng với mối lo lắng của Linda về Phoebe.

Ánh sáng từ trung tâm tràn xuống vỉa hè, xuống những búi cỏ nâu. Họ đẩy cánh cửa kính hai lớp bước vào sảnh. Một sàn nhảy được dựng ở cuối sảnh và đèn màu đã được bật lên, rải những vệt sáng rực rỡ lên trần nhà, lên tường và những khuôn mặt rạng rỡ. Tiếng nhạc vang rộn khắp nơi, nhưng không ai ra nhảy. Phoebe và Robert đứng ngoài rìa đám đông, ngắm nhìn dải sáng di động trên sàn nhà trống trơn.

Al treo áo khoác lên và rồi, trước sự bất ngờ của Caroline, ông cầm tay bà. “Em còn nhớ cái ngày ở trong vườn, cái ngày chúng ta quyết định chui đầu vào rọ không? Ta hãy cho họ thấy thế nào là Rock and Roll nhé, ý em sao?”

Caroline thấy chực trào nước mắt, bà nghĩ đến những chiếc là xoay tít như đồng xu ngày xa xưa ấy, ánh sáng rực rỡ của mặt trời và tiếng ong vo ve xa xa. Họ đã nhảy trên bãi cỏ, rồi sau đó vài giờ, bà đã cầm tay Al khi ở trong bệnh viện, và nói, Vâng em sẽ cưới anh, vâng.

Al vòng tay qua eo bà và họ bước vào sàn. Caroline đã quên mất – cũng đã lâu rồi – thân hình hai người chuyển động cùng nhau nhẹ nhàng và uyển chuyển như thế nào, cảm giác nhảy đến với bà tự nhiên ra sao. Bà tựa đầu lên vai ông, hít hà mùi thơm cay nồng của nước cạo râu, mùi hương sạch sẽ của dầu máy còn lẩn quất trên người ông. Bàn tay Al ép mạnh lên lưng bà, má ông kề sát má bà. Họ xoay vòng, và dần dần những người khác cũng kéo nhau vào sàn nhảy, mỉm cười về phía họ. Caroline biết hầu hết tất cả mọi người có mặt trong căn phòng, nhân viên của trung tâm, các ông bố bà mẹ trong Hội Bệnh nhân Down, những người đến từ trung tâm bên cạnh. Phoebe đã có tên trong danh sách chờ nhận phòng ở đây, nơi cô có thể sống với vài người lớn khác, cùng với một người giám hộ chung. Đó là một giải pháp lý tưởng xét về nhiều mặt – Phoebe sẽ tự do, độc lập hơn, ít nhất đây là một phần câu trả lời cho tương lai cô bé – nhưng sự thật là Caroline không thể tưởng tượng nổi cảnh Phoebe sống xa bà. Danh sách chờ cư trú dường như rất dài khi họ mới đăng ký, nhưng chỉ trong năm vừa rồi tên Phoebe đã được kéo lên đều đều. Rồi chẳng mấy nữa Caroline sẽ phải quyết định thôi. Bà liếc nhìn Phoebe, đang nở một nụ cười hạnh phúc, mái tóc mỏng dính túm gọn phía sau bằng những chiếc kẹp đỏ rực; cô ngượng nghịu bước ra sàn nhảy cùng Robert.

Bà nhảy với Al thêm ba bản nữa, mắt nhắm nghiền, để mặc mình trôi đi, cuốn theo từng bước nhảy của ông. Ông nhảy rất giỏi, uyển chuyển và dứt khoát, tiếng nhạc dường như xuyên thấu tâm can bà. Giọng nói của Phoebe cũng có tác dụng tương tự đối với bà, giọng hát trong trẻo của cô vang khắp các phòng, khiến Caroline lúc đó dù đang làm gì cũng phải dừng lại và đứng yên lặng, từng câu từng chữ tràn qua bà như ánh sáng. Tuyệt quá, Al thì thầm, rồi kéo bà lại gần hơn, áp má ông lên má bà. Khi nhạc chuyển sang một điệu rock sôi động, ông vẫn vòng tay quanh người bà và họ rời sàn nhảy.

Caroline, vẫn hơi choáng váng, theo thói quen nhìn khắp căn phòng để tìm Phoebe, và thoáng lo âu khi không thấy cô đâu.

“Tôi bảo cô bé xuống nhà lấy thêm rượu pha rồi,” Linda nói vọng lại từ phía sau bàn. Bà ra dấu chỉ về phía mấy món ăn nhẹ trên bàn giờ chỉ còn lại lèo tèo. “Chị tin nổi không, Caroline? Chúng ta còn hết cả bánh quy nữa rồi.”

“Để tôi đi lấy thêm,” Caroline đề nghị, vui mừng vì tìm được lý do để đi tìm Phoebe.

“Con bé không sao đâu,” Al nói, đoạn cầm tay bà và chỉ sang chiếc ghế bên cạnh ông.

“Em chỉ xem thế nào thôi,” Caroline đáp. “Em sẽ quay lại ngay.”

Bà đi xuyên qua những hành lang vắng tanh, sáng rực và tĩnh lặng, những động chạm của Al vẫn còn vương vấn trên da thịt bà. Bà đi xuống cầu thang vào bếp, một tay đẩy cánh cửa xoay bằng kim loại còn tay kia lần tìm công tắc đèn. Ánh sáng huỳnh quang lóe lên ghi lại một khung cảnh như trong tấm ảnh chụp: Phoebe, mặc chiếc váy hoa, lưng tựa lên quầy bếp. Robert đứng sát bên, một tay ôm quanh người Phoebe, một tay ve vuốt chân cô. Trong khoảnh khắc trước khi hai người quay lại, Caroline nhìn thấy cậu ta chuẩn bị hôn cô, Phoebe cũng muốn được hôn và đã sẵn sàng đáp lại: cậu Robert này, tình yêu đích thực đầu tiên của cô. Đôi mắt cô nhắm nghiền, khuôn mặt tràn ngập hạnh phúc.

“Phoebe”, Caroline quát, giọng đanh thép. “Phoebe, Robert, thế là quá đủ rồi.”

Đôi trẻ buông nhau ra, giật mình nhưng không tỏ chút gì là ân hận.

“Có sao đâu cô,” Robert nói. “Phoebe là bạn gái của cháu mà.”

“Bọn con sẽ làm đám cưới,” Phoebe đế thêm.

Caroline run lên, cố gắng giữ bình tĩnh. Dù sao Phoebe cũng đã là một người phụ nữ trưởng thành. “Robert,” bà nói, “cô cần phải nói chuyện với Phoebe một lát. Một mình, cháu làm ơn.”

Robert ngập ngừng, rồi bước qua mặt Caroline, vẻ xởi lởi nhiệt tình ngày thường đã tan biến. “Có gì xấu đâu ạ,” cậu nói, dừng chân ở ngưỡng cửa. “Cháu và Phoebe. Bọn cháu yêu nhau mà.”

“Cô biết,” Caroline đáp, khi cánh cửa đóng lại sau lưng cậu.

Phoebe đứng dưới ánh sáng chói mắt, xoắn chiếc vòng cổ. “Mẹ có thể hôn người mẹ yêu mà, mẹ. Mẹ chẳng hôn bố Al đấy thôi.”

Caroline gật đầu, nhớ cảm giác bàn tay Al đặt lên eo bà. “Đúng là thế. Nhưng con yêu, những gì con vừa làm hình như còn hơn cả hôn nữa.”

“Mẹ! Phoebe cáu kỉnh. “Robert và con sẽ làm đám cưới mà.”

Caroline đốp lại ngay không nghĩ ngợi gì. “Con yêu, con không thể làm đám cưới được.”

Phoebe ngước mắt lên, khuôn mặt lộ vẻ ngang ngạnh mà Caroline hiểu quá rõ. Ánh đèn huỳnh quang chiếu qua chiếc chao in bóng lên má cô.

“Sao không ạ?”

“Con yêu, hôn nhân…” Caroline ngưng lời, bà nghĩ đến Al, đến vẻ mệt mỏi của ông dạo gần đây, khoảng cách ông tạo ra giữa hai người bọn họ mỗi lần ông đi xa. “Phức tạp lắm, con ạ. Con vẫn có thể yêu Robert mà không làm đám cưới cũng được mà.”

“Không. Con và Robert, bọn con sẽ làm đám cưới.”

Caroline thở dài. “Thôi được rồi. Cứ cho là các con cưới nhau đi. Rồi các con định ở đâu?”

“Bọn con sẽ mua một căn nhà.” Phoebe nói, vẻ mặt cô giờ chuyển sang sôi nổi, hào hứng. “Bọn con sẽ sống ở đó mẹ ạ. Bọn con sẽ có em bé nữa.”

“Em bé là một khối lượng công việc khổng lồ con ạ.” Caroline nói. “Mẹ không hiểu liệu con và Robert có biết chăm em bé mệt thế nào không? Lại tốn kém nữa chứ. Con định trả tiền nhà bằng cách nào? Rồi tiền thức ăn nữa?”

“Robert có công việc. Con cũng thế. Bọn con sẽ có hàng đống tiền.”

“Nhưng con sẽ không thể làm việc được khi phải trông em bé.”

Phoebe ngẫm nghĩ, rồi cau mày, và trái tim Caroline se lại. Những ước mơ giản dị và chính đáng làm sao, vậy mà cũng không thể trở thành hiện thực, vậy thì còn gì là công bằng nữa đây?

“Con yêu Robert,” Phoebe vẫn khăng khăng. “Robert cũng yêu con. Thêm nữa, Avery đã có em bé rồi.”

“Ôi, con yêu,” Caroline nói. Bà nhớ đến lúc Avery Swan đẩy chiếc xe nôi trên vỉa hè, dừng lại để Phoebe có thể cúi xuống và vuốt nhẹ lên má đứa bé mới ra đời. “Ôi, con của mẹ.” Bà bước qua khoảng trống giữa hai mẹ con và đặt tay lên vai Phoebe. “Con có nhớ lúc con và Avery cứu Mưa không? Và cả nhà đều yêu Mưa nhưng nó quá phiền toái. Con phải đổ hộp cát và chải lông cho nó, con phải dọn dẹp lúc nó phá phách rồi dắt nó đi ra đi vào, rồi lúc nó không về nhà con đã lo lắng biết bao. Có một đứa bé còn vất vả hơn thế nhiều, Phoebe ạ. Có một đứa bé cũng giống như con nuôi hai mươi con Mưa trong nhà ấy.”

Khuôn mặt Phoebe xị xuống, nước mắt chảy dài trên má cô.

“Thật không công bằng,”cô lẩm bẩm.

“Đúng là không công bằng,” Caroline đồng tình

“Này, Phoebe, con giúp mẹ được không?” cuối cùng bà hỏi. “Cô Linda cần thêm cả bánh quy nữa.”

Phoebe gật đầu, chùi nước mắt. Hai mẹ con lại đi lên cầu thang, qua hành lang, tay bê mấy cái hộp và chai lọ, không nói năng gì.

Tối hôm đó, Caroline kể lại cho Al những gì đã xảy ra. Ông ngồi bên bà trên ghế xa lông, hai tay khoanh lại, ngủ gà gật. Cổ ông vẫn mịn màng, hơi đỏ tấy lên vì vừa cạo râu, những vòng tròn thâm khiến mắt ông tối lại. Sáng mai ông sẽ dậy khi trời mới mờ sáng và lái xe đi.

“Con bé rất muốn có cuộc sống riêng, Al ạ. Lẽ ra điều đó rất đơn giản.”

“Ừm,” ông đáp, bừng tỉnh. “Ờ, có khi đơn giản thật chớ. Những người khác cũng sống trong trung tâm và họ có vẻ vẫn ổn đấy chứ. Vợ chồng mình thì lại ở ngay đây.”

Caroline lắc đầu. “Em không thể tưởng tượng được con bé ra ngoài xã hội. Và chắc chắn nó không thể kết hôn được, Al ạ. Nếu nó có bầu thì sao? Em chưa sẵn sàng để nuôi một đứa bé khác, mà đó là chuyện sẽ xảy ra.”

“Anh cũng chẳng muốn phải nuôi một đứa bé khác,” Al nói.

“Có lẽ ta nên ngăn con bé không cho nó gặp Robert một thời gian.”

Al quay sang nhìn bà, sửng sốt. “Em nghĩ thế là tốt à?”

“Em không biết.” Caroline thở dài. “Em không biết nữa”

“Em nghe này,” Al nói dịu dàng. “Ngay từ những phút đầu anh gặp em, Caroline, em đã không ngừng đòi hỏi mọi người không được đóng một cánh cửa nào với Phoebe. Đừng đánh giá thấp con bé – Anh nghe em nói câu đấy bao nhiêu lần rồi? Vậy tại sao em không để con bé dọn ra ngoài? Sao không để nó thử xem? Có thể nó sẽ thích chỗ ở mới. Còn em sẽ thích cảm giác tự do.”

Bà nhìn chằm chằm vào thanh nẹp tường, thầm nghĩ nó cần được sơn lại, trong khi đó một sự thật khó chấp nhận vẫn vật lộn để được phô bày.

“Em không thể tưởng tượng cuộc sống của mình sẽ ra sao nếu không có nó, “Caroline nói khẽ.

“Không ai bắt em phải làm thế. Nhưng con bé lớn rồi. Caroline ạ. Đấy mới là vấn đề. Tại sao em phải vất vả cả đời mình, nếu không phải là cho Phoebe một cuộc sống độc lập?”

“Em nghĩ anh sẽ thích được tự do,” Caroline nói. “Anh muốn được rảnh rang. Để đi khắp nơi.”

“Em thì không à?”

“Tất nhiên là em muốn,” bà hét lên, sững sờ vì phản ứng mãnh liệt của mình. “Nhưng Al à, ngay cả nếu Phoebe dọn đi, nó cũng chẳng bao giờ hoàn toàn độc lập cả. Và em sợ rằng anh sẽ không vui vì điều đó. Em sợ rằng anh sẽ rời bỏ mẹ con em. Anh ơi, suốt mấy năm qua anh càng ngày càng xa cách hơn.”

Al không nói một lúc lâu. “Sao em lại kích động quá thế?” cuối cùng ông cũng lên tiếng. “Anh đã làm gì khiến em nghĩ rằng anh sẽ bỏ đi?”

“Em không kích động,” bà vội vã nói, vì bà nghe thấy trong giọng nói của ông rằng bà đã khiến ông tổn thương. “Al, anh ngồi chờ em một lát.” Bà đi ngang qua căn phòng và lấy bức thư trong ngăn kéo ra. “Đây là lý do khiến em buồn bực. Em chẳng biết phải làm sao cả.”

Ông cầm lấy lá thư và nghiền ngẫm rất lâu, rồi lật lại như thể bí ẩn của nó có thể được giải đáp bằng điều gì đó viết ở mặt sau tờ giấy vậy, rồi đọc lại lần nữa.

“Tài khoản này có bao nhiêu tiền?” ông hỏi, đầu ngẩng lên.

Bà lắc đầu. “Em vẫn chưa biết. Em phải đến tận nơi mới biết.”

Al gật đầu, rồi đọc lại lá thư. “Kỳ lạ thật, anh ta lại làm thế này à: một tài khoản bí mật.”

“Em biết. có lẽ anh ấy sợ rằng em sẽ nói cho Norah biết. Có lẽ anh ấy muốn đảm bảo vợ mình có thời gian để làm quen với cái chết của chồng. Đấy là tất cả những gì em có thể tưởng tượng ra.” Bà nghĩ đến Norah, vẫn sống cuộc đời bình thường mà không hề nghi ngờ rằng con gái mình vẫn còn sống. Còn Paul – thằng bé giờ sao rồi? Khó mà tưởng tượng nổi bây giờ nó đã trở thành một người như thế nào, đứa trẻ sơ sinh tóc sẫm mà bà mới chỉ nhìn thấy có một lần ấy.

“Anh nghĩ chúng ta nên làm gì bây giờ?” bà hỏi.

“Ừ, thì xem tình hình cụ thể ra sao trước đã. Chúng ta sẽ cùng đi gặp anh bạn luật sư kia khi nào anh về. Anh có thể chỉ đi một hay hai ngày gì đó. Sau đó thì anh cũng không rõ lắm, Caroline ạ. Anh nghĩ là ta cứ cân nhắc đã. Chúng ta chưa cần phải làm gì ngay đâu.”

“Thế cũng được,” bà đáp, cảm giác bàng hoàng đeo bám bà trong suốt tuần vừa rồi đã tan biến hết. Al khiến cho mọi chuyện trở nên thật đơn giản. “Em rất mừng vì đã có anh ở đây,” bà nói.

“Anh nói thật đấy, Caroline.” Ông nắm lấy bàn tay bà. “Anh sẽ không đi đâu cả. Trừ Toledo, sáu giờ sáng mai. Nên có lẽ anh sẽ lên gác đánh một giấc đây.”

Rồi ông đặt một nụ hôn trọn vẹn lên môi Caroline, và siết chặt bà. Caroline áp má lên má ông, hít hà mùi hương và hơi ấm của ông, nghĩ đến cái ngày bà gặp ông trên bãi đỗ xe ở ngoại ô Louisville, cái ngày đã quyết định cuộc đời bà.

Al đứng dậy, vẫn nắm tay bà. “Em lên cùng không?” ông mời.

Bà gật đầu và đứng dậy, tay bà trong tay ông.

* * *

Buổi sáng bà dậy thật sớm và chuẩn bị bữa sáng, trang trí đĩa thức ăn bằng trứng, thịt muối, và những dải nâu sậm của cành mùi tây.

“Thơm quá,” Al nói khi vừa bước vào, ông hôn lên má bà và vứt tờ báo lên bàn, cùng với thư từ của ngày hôm qua. Những lá thư mát lạnh, hơi ẩm ẩm trong tay bà. Có hai tờ hóa đơn, cộng với một tấm bưu ảnh rực rỡ chụp biển Aegean đằng sau có vài dòng Doro viết.

Caroline lướt ngón tay trên tấm ảnh và đọc dòng nhắn ngắn ngủi. “Trace bị trật mắt cá ở Paris.”

“Tệ quá.” Al mở tờ báo ra và lắc đầu trước tin tức về cuộc bầu cử.

“Này, Caroline,” sau một lúc ông đặt tờ báo xuống và nói. “Tối qua anh đã nghĩ rồi. Sao em không đi cùng anh nhỉ? Linda sẽ trông nom Phoebe ngày cuối tuần, anh cá đấy. Chúng ta có thể cùng đi xa, anh và em. Em sẽ có cơ hội kiểm chứng xem Phoebe sẽ làm gì khi chỉ còn lại một mình. Ý em thế nào?”

“Ngay bây giờ á? Ý anh là ta cứ thế mà đi thôi à?”

“Ừ. Phải tranh thủ chứ. Sao lại không nhỉ?”

“Ô,” bà nói, vừa bối rối, vừa thích thú, mặc dù bà không khoái những tiếng đồng hồ đằng đẵng rong ruổi trên đường. “Em không biết nữa. Tuần này còn nhiều việc phải làm lắm. Có lẽ để lần sau đi,” bà vội đế thêm, không muốn làm ông cụt hứng.

“Lần này chúng ta có thể tranh thủ đi thăm thú vài nơi,” ông dỗ dành. “Như thế em sẽ thấy thích hơn.”

“Ý đấy rất hay,” bà nói, ngạc nhiên thấy nó thực sự rất thú vị.

Ông mỉm cười, thất vọng, rồi nghiêng người hôn bà, môi ông lướt nhanh và mát lạnh trên môi bà.

Sau khi Al lái xe đi, Caroline treo tấm bưu ảnh của Doro lên tủ lạnh. Đang là tháng Mười một lạnh lẽo, thời tiết ẩm ướt xám xịt và chớm có tuyết rơi, bà thích nhìn mặt biển lôi cuốn rực rỡ với dải cát ấm áp. Suốt cả tuần đó, trong lúc giúp đỡ bệnh nhân, làm bữa tối hay gập quần áo mới giặt, Caroline đều nghĩ đến lời mời của Al. Bà nghĩ đến nụ hôn nồng nàn bà đã phá ngang giữa Robert và con gái bà, về ngôi nhà Phoebe muốn dọn đến sống. Al nói đúng. Rồi sẽ đến một ngày cả hai người bọn họ không còn ở đây nữa, và Phoebe có quyền sống cuộc sống của riêng mình.

Tuy nhiên cuộc đời vẫn tàn nhẫn như nó thường thế. Thứ Ba, khi họ đang ngồi trong phòng ăn cùng xơi thịt, khoai tây nghiền cùng đậu xanh, Phoebe thọc tay vào túi và rút ra một cái ru bíc nhỏ bằng nhựa, loại có số in trên các hình vuông xoay được. Cách chơi trò này là xếp các số vào đúng thứ tự, và cô vừa ăn vừa xoay xoay cái ru bíc.

“Đẹp quá, ” Caroline lơ đễnh nói, uống một ngụm sữa. “Con lấy thứ đó ở đâu thế, con yêu?”

“Của Mike đấy.”

“Cậu ấy làm việc với con à?” Caroline hỏi. “Cậu ấy mới vào à?”

“Không ạ,” Phoebe đáp. “Con gặp anh ấy trên xe bus.”

“Trên xe bus?”

“Vâng. Hôm qua ạ. Anh ấy dễ thương lắm.”

“Mẹ hiểu rồi.” Caroline cảm giác như thời gian trôi chậm lại, các giác quan của bà căng ra đầy cảnh giác. Bà phải cố ép mình nói thật bình thản, tự nhiên. “Mike cho con cái ru bíc à?”

“Vâng. Anh ấy tốt lắm. Anh ấy có cả một con chim mới nuôi nữa. Anh ấy muốn cho con xem.”

“Thế à?” Caroline nói, một làn gió lạnh xuyên qua người bà. “Phoebe, con yêu, con thậm chí không được nghĩ đến chuyện đi với người lạ. Mẹ con mình đã nói rồi mà.”

“Con biết. Con bảo anh ấy rồi,” Phoebe nói. Cô đẩy cái ru bíc sang một bên rồi rưới thêm nước xốt cà chua lên miếng thịt. “Anh ấy bảo, ‘Về nhà anh chơi đi, Phoebe.’ Và con trả lời là. ‘Được, nhưng em phải xin phép mẹ trước đã.’”

“Đúng là ý hay,” Caroline lựa lời.

“Thế con đi được không ạ? Mai con đến nhà Mike chơi được không?”

“Mike sống ở đâu?”

Phoebe nhún vai. “Con không biết. Con gặp anh ấy trên xe buýt thôi.”

“Ngày nào cũng gặp?”

“Vâng. Con đi được không mẹ? Con muốn nhìn thấy con chim anh ấy nuôi.”

“Ừm, mẹ đi cùng được không?” Caroline thận trọng hỏi. “Mai hai mẹ con mình cùng đi xe buýt được không? Như thế mẹ cũng được gặp Mike, rồi mẹ sẽ đi cùng con đi xem con chim nhé. Thế có được không?”

“Được ạ,” Phoebe đáp, vui sướng, và uống hết sạch cốc sữa.

Trong hai ngày tiếp đó, Caroline đi xe buýt cùng Phoebe đến chỗ làm và từ chỗ làm về nhà nhưng Mike không hề xuất hiện.

“Con yêu, mẹ e là cậu ấy đã nói dối con,” bà bảo Phoebe khi hai mẹ con đang rửa bát vào tối thứ Năm. Phoebe mặc áo len vàng, bàn tay cô chi chít hàng tá vết giấy cứa tay khi làm việc. Caroline nhìn cô nhặt từng chiếc đĩa lên và lau khô cẩn thận, mừng vì Phoebe vẫn an toàn, nhưng cũng lo sợ một ngày nào đó sẽ không còn như thế nữa. Người lạ mặt kia, kẻ tên Mike là ai, và liệu hắn sẽ làm gì với Phoebe nếu con bé đi cùng hắn? Caroline đã điền vào tờ trình báo cảnh sát, nhưng bà cũng không dám hy vọng họ sẽ tìm thấy hắn. Thực ra chưa có chuyện gì xảy ra cả, và Phoebe cũng chẳng thể mô tả đặc điểm của hắn, chỉ nói được hắn ta đeo một chiếc nhẫn vàng và đi giày thể thao màu xanh.

“Mike tốt lắm,” Phoebe vẫn khăng khăng. “Anh ấy không nói dối đâu.”

“Con yêu không phải ai cũng tốt bụng hay mong muốn dành cho con những gì tốt đẹp nhất. Hắn không quay lại xe buýt như đã hứa. Hắn ta đang cố chơi khăm con đấy, Phoebe ạ. Con phải thật cẩn thận vào.”

“Lúc nào mẹ cũng nói thế,” Phoebe đốp lại, vứt chiếc khăn lau đĩa lên quầy bếp. “Mẹ cũng nói nhu thế về Robert.”

“Nhưng việc đó khác. Robert không muốn làm hại con.”

“Con yêu Robert.”

“Mẹ biết.” Caroline nhắm mắt lại và hít vào một hơi dài. “Nghe này, Phoebe, mẹ yêu con. Mẹ không muốn con bị tổn thương. Đôi khi thế giới rất nguy hiểm. Mẹ nghĩ người đàn ông đó nguy hiểm.”

“Nhưng con có đi với anh ta đâu,” Phoebe đáp, cô đã nhận thấy sự cứng rắn và nỗi sợ hãi trong giọng nói của Caroline. Cô xếp chiếc đĩa cuối cùng lên quầy bếp, đột nhiên gần như bật khóc. “Con không đi mà.”

“Con thông minh lắm,” Caroline nói. “Con đã làm đúng. Không bao giờ được đi với ai nhé.”

“Trừ phi họ biết từ đó.”

“Đúng rồi. Và từ đó là một bí mật, con không được nói cho ai biết.”

“Tinh hỏa!” Phoebe thì thầm rất to, mặt hớn hở. “Bí mật nhé.”

“Ừ.” Caroline thở phào. “Bí mật.”

* * *

Buổi sáng thứ Sáu, Caroline lái xe đưa Phoebe đi làm. Tối hôm đó, bà ngồi trong xe, chờ đợi, ngắm nhìn Phoebe qua cửa kính khi cô đi đi lại lại phía sau quầy, đóng tài liệu hay cười đùa với Max, người làm cùng cô, một cô gái trẻ, tóc buộc đuôi ngựa, người đi ăn trưa cùng Phoebe thứ Sáu hàng tuần và không ngần ngại nhận luôn việc của Phoebe nếu cô làm sai yêu cầu. Phoebe đã làm ở đây được ba năm. Cô yêu công việc của mình và cũng làm rất tốt. Caroline, ngắm con gái đi lại phía sau tấm kính, nghĩ đến những giờ cắt đặt mọi việc dài dằng dặc, rồi những bài diễn thuyết, những cuộc đấu tranh và thủ tục giấy tờ để có được giây phút hôm nay cho Phoebe. Tuy vậy vẫn còn nhiều điều phải làm. Sự việc xảy ra trên xe buýt chỉ là một mối lo. Phoebe không kiếm đủ tiền để trang trải cuộc sống, và đơn giản là cô không thể sống một mình dù chỉ một buổi cuối tuần. Nếu có đám cháy hay mất điện, cô sẽ hoảng sợ và không biết phải làm thế nào.

Và rồi đã có Robert. Trên đường về nhà, Phoebe huyên thuyên về công việc, về Max, và về Robert, Robert, Robert. Mai cậu ta sẽ đến chơi để cùng làm bánh với Phoebe. Caroline lắng nghe, mừng vì đã sắp đến thứ Bảy và Al sẽ về nhà. Một điểm tốt nữa về người lạ mặt trên xe bus: anh ta đã cho bà một cái cớ để đưa Phoebe đi về, do đó giới hạn thời gian cô gặp gỡ Robert.

Khi họ bước vào cửa, chuông điện thoại đang reo inh ỏi. Caroline thở dài. Đó có thể là một nhân viên bán hàng, hoặc một người hàng xóm đang quyên tiền cho quỹ hỗ trợ bệnh nhân tim, hoặc gọi nhầm số. Mưa kêu meo meo chào mừng rồi luồn lách quanh chân bà. “Đi đi,” bà nói, và nhấc điện thoại lên.

Đó là cảnh sát, nhân viên cảnh sát ở đầu dây bên kia hắng giọng, xin gặp bà. Caroline ngạc nhiên, rồi cảm thấy hài lòng. Có lẽ cuối cùng họ đã tìm ra người đàn ông trên xe bus.

“Vâng,” bà nói, mắt nhìn Phoebe bế Mưa lên và ôm chặt nó. “Tôi là Caroline Simpson đây.”

Ông ta lại hắng giọng và bắt đầu nói.

Sau đó, Caroline chỉ còn nhớ khoảnh khắc ấy rất dài, thời gian trải ra mênh mông cho đến khi tràn ngập căn phòng và ấn bà ngồi phịch xuống ghế, mặc dù cái tin cũng chỉ đơn giản và không mất nhiều thời gian để thông báo. Chiếc xe tải của Al đã trật bánh khi đi đến một khúc cua, lao qua dải phân cách và rơi xuống một sườn đồi thấp. Ông đang nằm trong bệnh viện với một cái chân gãy, chính là trung tâm điều trị chấn thương nơi tại đó cách đây nhiều năm, Caroline đã nhận lời kết hôn với ông.

Phoebe đang ngâm nga với Mưa, nhưng dường như cô cũng linh cảm được có điều gì không lành và nhìn lên thắc mắc ngay khi Caroline vừa gác máy. Caroline giải thích chuyện gì đã xảy ra trong khi lái xe. Trên dải hành lang lát gạch ở bệnh viện, bà thấy mình lặn ngụp trong những ký ức xa xưa: môi Phoebe sưng vù lên, hơi thở khò khè, Al đã can thiệp kịp thời khi bà quá điên tiết với người y tá. Giờ Phoebe đã là một phụ nữ trưởng thành, đi bên cạnh bà trong bộ vest công sở; còn bà và Al đã kết hôn được mười tám năm.

Mười tám năm.

Ông đã tỉnh, mái tóc sẫm điểm bạc của ông nổi bật trên nền gối trắng tinh. Ông cố gắng ngồi dậy khi họ bước vào nhưng lại nhăn nhó vì đau và phải từ từ nằm xuống trở lại.

“Ôi Al.” Bà bước qua căn phòng và nắm lấy tay ông.

“Anh không sao đâu,” ông nói, nhắm mắt lại một lúc và hít thật sâu. Bà cảm thấy trong lòng bàng hoàng, vì bà chưa từng thấy Al như thế, quá chấn động đến mức người ông hơi run lên, một bên cơ hàm giật giật lên tận gần tai.

“Này, anh lại bắt đầu dọa em đấy à,” bà nói, cố giữ giọng nhẹ nhàng.

Ông bèn mở mắt ra, và trong khoảnh khắc họ nhìn thẳng vào nhau, tất cả mọi thứ giữa họ đều biến mất. Ông giơ tay ra và dịu dàng chạm bàn tay to bè lên má bà. Bà áp chặt tay lên tay ông, cảm thấy nước dâng đầy lên mắt mình.

“Chuyện gì đã xảy ra vậy?” bà thì thầm.

Ông thở dài, “Anh cũng không biết nữa. Chiều hôm đấy nắng lắm. Trời sáng, trong. Anh đang lái xe, hát theo đài. Rồi nghĩ là nếu có em bên cạnh thì tuyệt, như chúng ta từng nói ấy. Điều tiếp theo anh biết, là chiếc xe bay qua dải phân cách. Sau đó anh chẳng nhớ gì nữa. Cho đến tận khi tỉnh lại trong này. Anh đã phá nát chiếc xe rồi. Cảnh sát nói nếu lăn thêm độ chục thước nữa khỏi đường cái, thì giờ anh đã ra người thiên cổ rồi.”

Caroline ngả người xuống và vòng tay ôm ông, ngửi mùi hương quen thuộc của ông. Tim ông đập đều đều trong lồng ngực. Chỉ vừa mấy ngày trước, họ còn dìu nhau trên sàn nhảy, còn lo lắng về mái nhà, về mấy cái máng xối. Bà luồn tay vào tóc ông, đã mọc dài quá gáy.

“Ôi, Al.”

“Anh biết,” ông nói. “Anh biết mà, Caroline.”

Đứng bên cạnh họ, mắt mỏ to, Phoebe bắt đầu khóc, cố nén tiếng thút thít bằng cách giữ chặt tay trên miệng. Caroline ngồi thẳng dậy và vòng tay quanh người cô bé. Bà vuốt tóc Phoebe, cảm thấy hơi ấm mạnh mẽ tỏa ra từ người cô.

“Phoebe,” Al nói. “Trông con kìa, chắc mới đi làm về phải không. Hôm nay con có vui không, con yêu? Bố chưa đến Cleveland, nên bố không mua được thứ bánh cuộn con vẫn thích, bố xin lỗi nhé. Để lần sau được không?”

Phoebe gật đầu, đưa tay chùi má. “Xe của bố đâu rồi?” cô hỏi, làm Caroline chợt nhớ những lúc Al lái xe đưa cả hai mẹ con đi lòng vòng, Phoebe ngồi ngất ngưởng trong buồng lái và dứ dứ nắm đấm khi họ vượt qua những chiếc xe tải khác khiến mấy ông tài xế nhấn còi inh ỏi.

“Con yêu, xe hỏng mất rồi,” Al đáp. “Bố rất tiếc, nhưng xe hỏng nặng lắm.”

Al nằm viện hai ngày, rồi sau đó về nhà. Thời gian của Caroline trôi đi trong ấn tượng nhạt nhòa với việc đưa Phoebe đi làm rồi tự đến chỗ làm, chăm sóc cho Al, nấu nướng, cố gắng cắt giảm việc giặt là. Mỗi tối bà ném mình xuống giường trong tình trạng kiệt quệ, rồi sáng lại trở dậy, bắt đầu lại nguyên xi ngần ấy việc. Phiền một nỗi, Al lại là một bệnh nhân rất tệ, cáu bẳn vì bị nằm chết gí một chỗ, dễ nổi nóng và hay đòi hỏi. Ông khiến bà nhớ lại những kỷ niệm chẳng lấy gì làm vui vẻ về những ngày chăm sóc Leo trong chính căn nhà này, như thể thời gian không trôi theo đường thẳng mà thực chất xoay theo vòng tròn.

Một tuần trôi qua. Đến thứ Bảy, Caroline, hoàn toàn kiệt sức, nhồi một đống quần áo vào máy giặt rồi vào bếp kiếm thứ gì đó để nấu bữa tối. Bà lôi trong tủ lạnh ra nửa cân cà rốt để làm salad và lục lọi tủ đá, hy vọng tìm được nguồn cảm hứng nào đấy. Chẳng có gì. Chà, có lẽ Al sẽ không thích đâu, nhưng bà cứ gọi pizza vậy. Lúc đó đã năm giờ, và trong mấy phút nữa bà sẽ phải đi đón Phoebe ở chỗ làm. Bà ngừng tay nạo vỏ, nhìn xuyên qua hình ảnh phản chiếu mờ nhạt của mình trên cửa sổ ra tới tấm biển hiệu Foodland lấp loáng màu đỏ phía sau những cành cây trơ trụi, chợt nghĩ đến David Henry. Bà cũng nghĩ đến cả Norah, được khách thể hóa trong mỗi tấm ảnh của ông, da thịt bà ta uốn lượn như những triền đồi và làn tóc tràn ngập khung hình trong thứ ánh sáng kỳ dị. Bức thư của ông luật sư vẫn còn để nguyên trong ngăn kéo bàn. Bà đã giữ lời hẹn gặp mặt trước khi xảy ra tai nạn của Al, bà đã ghé qua văn phòng ốp gỗ sồi sang trọng và tìm hiểu chi tiết về tài sản David Henry để lại. Cuộc trò chuyện cứ luẩn quẩn trong đầu bà suốt cả tuần, mặc dù bà chẳng còn thì giờ để nghĩ đến nó hay nói lại với Al.

Có tiếng xôn xao bên ngoài. Caroline quay lại, giật mình. Qua ô kính cửa hậu bà thoáng thấy Phoebe ở bên ngoài, trên hiên nhà. Cô đã tự về nhà, bằng cách nào đó; cô không mặc áo khoác. Caroline bỏ bàn nạo xuống và đi ra cửa, lau tay vào tạp dề. Ở đó bà nhìn thấy những gì đã bị che khuất khi đứng nhìn từ bên trong: Robert, đứng bên Phoebe, một tay khoác lên vai cô.

“Các con làm gì ngoài này thế hả?” bà nói bằng giọng sắc lạnh, bước ra ngoài.

“Hôm nay con nghỉ,” Phoebe nói.

“Thật không? Thế còn công việc của con thì sao?”

“Max ở đấy mà. Con sẽ làm thay cô ấy vào thứ Hai.”

Caroline chậm rãi gật đầu. “Nhưng làm sao con về nhà được? Me đang chuẩn bị đến đón con đây.”

“Bọn cháu đi xe buýt ạ,” Robert đáp.

“À, ừ nhỉ.” Caroline cười, nhưng khi bà nói, giọng bà đanh lại vì lo lắng. “Phải. Tất nhiên rồi. Các con đi xe bus. Ôi, Phoebe, mẹ đã bảo con không được làm thế rồi cơ mà. Như thế không an toàn chút nào cả.”

“Con và Robert vẫn an toàn mà,” Phoebe đáp, môi dưới của cô hơi chìa ra, giống như khi cô giận dữ. “Con và Robert sẽ làm đám cưới.”

“Ôi, trời ơi,” Caroline nói, bà đã tiến sát đến giới hạn lòng kiên nhẫn của mình. “Làm sao con làm đám cưới được? Con còn chẳng biết những điều sơ đẳng nhất về đám cưới, cả hai đứa các con.”

“Bọn cháu biết chứ,” Robert nói. “Bọn cháu biết về đám cưới đấy.”

Caroline thở dài. “Cháu nghe này, Robert, cháu phải về nhà ngay đi,” bà nói. “Cháu đi xe buýt đến đây được thì cũng đi xe buýt về nhà được. Cô không có thời gian lái xe đưa cháu đi đâu đâu. Thế là quá đủ rồi. Cháu phải về nhà ngay đi.”

Điều khiến bà bất ngờ là Robert chỉ mỉm cười. Cậu nhìn Phoebe, rồi bước vào khoảng tối nơi hiên sau và chui qua gầm xích đu. Cậu quay lại với một bó hồng trắng đỏ, bó hoa dường như tỏa sáng dìu dịu trong ánh chiều mờ tối. Cậu đưa hoa cho Caroline, những cánh hoa mềm mại cọ lên da bà.

“Robert?” bà nói, tỏ vẻ ngạc nhiên, một mùi thơm thoang thoảng lan tỏa trong bầu không khí lạnh giá. “Cái gì đây?”

“Cháu mua ở cửa hàng tạp hóa đấy ạ,” cậu đáp. “Đang giảm giá ạ.”

Caroline lắc đầu. “Cô chẳng hiểu gì cả.”

“Hôm nay là thứ Bảy,” Phoebe nhắc bà.

Thứ Bảy - ngày Al về nhà sau chuyến đi dài, luôn luôn mang về một món quà cho Phoebe và một bó hoa cho vợ. Caroline tưởng tượng ra cảnh hai đứa, Robert và Phoebe, bắt xe buýt đến tiệm tạp hóa nơi Robert làm việc giữ kho, xem xét giá bán hoa, nhẩm đếm chính xác số tiền lẻ. Có một phần trong bà vẫn muốn hét lên, vẫn muốn quẳng Robert lên xe buýt ra khỏi cuộc sống của họ, một phần muốn nói, Như thế là quá đủ với tôi rồi, tôi không quan tâm.

Trong nhà, chiếc chuông nhỏ bà để cho Al dùng reo inh ỏi, Caroline thở dài và lùi lại một bước, ra hiệu về phía căn bếp, ánh đèn và hơi ấm.

“Thôi được rồi,” bà nói, “Vào nhà đi, cả hai đứa. Vào đi không thì chết cóng bây giờ.”

Bà hối hả chạy lên cầu thang, cố gắng tĩnh trí lại. Liệu một phụ nữ phải làm bao nhiêu việc đây? “Anh phải kiên nhẫn chứ,” bà kêu ầm lên, rồi bước vào phòng họ, nơi Al đang ngồi với cái chân gác lên ghế dài, một cuốn sách để trong lòng. “Kiên nhẫn[16]. Thế anh nghĩ từ đấy có nguồn gốc từ đâu ra hả, Al? Em biết là rất khó chịu, nhưng cần có thời gian thì vết thương mới lành được chứ, trời ơi là trời.”

“Chính em là người muốn anh ở nhà nhiều hơn còn gì,” Al vặn lại. “Phải cẩn thận với điều ước của mình chứ.”

Caroline lắc đầu và ngồi phịch xuống mép giường, “Em có ước thế này đâu.”

Ông nhìn ra cửa sổ vài giây, “Em nói phải,” cuối cùng ông nói, “Cho anh xin lỗi.”

“Anh có sao không?” bà hỏi. “Vết thương thế nào rồi?”

“Cũng không tệ lắm.”

Bên ngoài cửa kính, gió khẽ rung những chiếc lá tiêu huyền còn sót lại, nổi bật trên nền trời tím ngắt. Những túi đựng chồi tulip vứt dưới gốc cây, chờ ngày gieo xuống đất. Tháng trước bà và Phoebe đã gieo mấy mầm cúc, loại cúc đại đóa nở rực rỡ màu cam, trắng kem và tím thẫm. Bà đã ngồi tựa lên gót chân ngắm nghía hoa, vừa phủi đất bẩn bám trên tay, vừa nhớ lại hồi cùng làm vườn như thế với mẹ mình, khi ấy họ gắn bó với nhau qua công việc chứ không phải bằng lời. Hai mẹ con cũng hiếm khi nói chuyện với nhau về những vấn đề riêng tư. Nhưng giờ đây, có quá nhiều thứ mà Caroline ước sao mình đã nói.

“Anh sẽ không làm nghề này nữa,” ông buột mồm nói ra mà không nhìn bà. “Ý anh là việc lái xe tải ấy.”

“Thế cũng được,” bà đáp, cố gắng mường tượng xem quyết định này sẽ có ý nghĩa thế nào đối với cuộc sống của họ. Bà thấy mừng - trong thâm tâm bà vẫn thấy se lòng khi nghĩ đến lúc ông lại phải đi xa - nhưng đột nhiên bà lại cảm thấy có đôi chút e sợ. Chưa có lần nào họ ở bên nhau quá một tuần kể từ ngày cưới.

“Anh sẽ quấy quả em suốt cả ngày đấy,” Al nói như đọc được suy nghĩ của bà.

“Thật à?” Bà nhìn ông chăm chú, ngắm vẻ xanh xao, đôi mắt nghiêm nghị của ông. “Anh tính nghỉ làm hẳn thật à? ”

Ông lắc đầu, vẫn chăm chăm nhìn bàn tay mình. “Anh còn quá trẻ để làm thế. Anh đang nghĩ có khi anh có thể làm một công việc khác. Chuyển vào làm văn phòng chẳng hạn; anh thông thạo cả hệ thống rồi mà. Hoặc lái xe buýt. Anh không biết nữa - thật sự là như vậy. Nhưng anh không thể rong ruổi trên đường thêm nữa.”

Caroline gật đầu. Bà đã lái xe ra hiện trường vụ tai nạn, đã nhìn thấy dải phân cách bị xé toạc, hố đất nham nhở nơi chiếc xe tải rơi xuống.

“Anh luôn có linh cảm,” Al nói, liếc nhìn tay mình. Ông để mặc râu ria mọc tự do, giờ đã lởm chởm đầy khắp mặt. “Sự việc kiểu này chắc chắn sẽ xảy ra, không sớm thì muộn. Và đến giờ nó đã trở thành sự thật.”

“Em không biết chuyện đó đâu đấy,” Caroline nói. “Anh không bao giờ nói cho em biết là anh sợ cả.”

“Không phải sợ,” Al đáp. “Anh chỉ linh cảm thế thôi. Khác chứ.”

“Thế cả thôi. Anh chẳng bao giờ nói gì cả.”

Ông nhún vai. “Thì cũng chả thay đổi được gì. Đó chỉ là linh cảm thôi mà, Caroline.”

Bà gật đầu. Chỉ trượt thêm vài thước nữa là Al có thể đã chết, cảnh sát đã nói điều đó hơn một lần. Cả tuần qua bà cố gắng không tưởng tượng ra những gì đã không xảy ra. Nhưng sự thật là, bà đã có thể trở thành góa phụ, sống nốt phần đời còn lại trong cô đơn.

“Có lẽ anh nên nghỉ hưu thật,” bà chậm rãi nói. “Em đã đi gặp ông luật sư rồi, Al ạ. Em đã hẹn nên phải giữ lời. David Henry để lại cho Phoebe nhiều tiền lắm.”

“Dào ôi, đấy có phải tiền của anh đâu,” Al nói. “Kể cả chỗ đó có đáng một triệu đô, thì cũng chả phải của anh.”

Bà chợt nhớ phản ứng của Al khi Doro giao cho họ căn nhà này: cũng chính sự ngần ngại không muốn nhận bất cứ thứ gì không phải do chính tay ông làm ra.

“Đúng vậy,” bà nói. “Số tiền này là dành cho Phoebe. Nhưng anh và em, chúng ta đã nuôi nấng con bé. Nếu nó được đảm bảo về mặt tài chính, chúng ta cũng đỡ phải lo lắng hơn. Chúng ta sẽ có thêm tự do. Al à, vợ chồng mình đã làm việc rất vất vả. Có lẽ cũng đã đến lúc chúng ta nghỉ ngơi rồi.”

“Ý em là sao?” Ông hỏi. “Em muốn Phoebe chuyển đi à?”

“Không. Em hoàn toàn không muốn. Nhưng Phoebe muốn. Con bé và Robert đang ở dưới nhà đấy.” Caroline khẽ mỉm cười, nhớ đến bó hồng bà để trên quầy bếp ngay cạnh đống cà rốt đang nạo dở. “Hai đứa nó đến tiệm tạp hóa với nhau. Bằng xe bus. Bọn nó mua hoa cho em vì hôm nay là thứ Bảy. Thành ra, em chẳng biết nữa, Al ạ. Em là ai mà nói trước được chứ. Có thể ở bên nhau chúng sẽ ổn thôi, chẳng nhiều thì ít.”

Ông gật đầu, ngẫm nghĩ và bà sững sờ khi thấy ông mệt mỏi đến thế, thấy cuộc sống của họ thật quá mong manh, xét cho cùng. Bao nhiêu năm qua bà đã cố gắng tưởng tượng ra mọi tình huống có thể xảy ra, để giữ mọi người trong vòng an toàn, và giờ thì Al ở đây, già thêm, chân thì gẫy - một kết cục chưa bao giờ vụt qua tâm trí bà.

“Mai em sẽ làm món thịt quay nhé,” bà nói, nhắc đến món ăn ưa thích của ông. “Giờ ăn pizza được không?”

“Ăn pizza cũng được,” Al đáp. “Nhưng nhớ gọi ở cửa hàng trên Braddock ấy nhé.”

Bà đặt tay lên vai ông rồi đi xuống cầu thang gọi điện. Đến chiếu nghỉ bà dừng lại, lắng nghe tiếng Robert và Phoebe trong bếp, giọng nói nho nhỏ của hai cô cậu thỉnh thoảng được điểm thêm những tràng cười giòn giã. Thế giới là một nơi rộng lớn, khó lường và đôi khi thật đáng sợ. Nhưng ngay giây phút này đây con gái bà đang ở trong bếp, cười với bạn trai nó, còn chồng bà thì ngủ gà gật với một cuốn sách trên lòng, và bà không phải nấu bữa tối. Bà hít một hơi dài. Không khí phảng phất mùi thơm của hoa hồng - một mùi hương sạch sẽ, tươi mát như tuyết.

-------------

[16] Nguyên văn “patient”- kiên nhẫn, cũng có nghĩa là bệnh nhân

Chương 22Mồng Một Tháng Bảy Năm 1989

PHÒNG STUDIO TRÊN GA RA, VỚI CĂN BUỒNG TỐI ẨN BÊN TRONG, đã không mở ra kể từ ngày David dọn đi bảy năm về trước, nhưng giờ ngôi nhà sắp được rao bán, vì vậy Norah không còn lựa chọn nào khác ngoài việc đối mặt với nó. Những tác phẩm của David lại đang được ưa chuộng, có thể đáng giá cả một gia tài; ngày mai nhân viên phụ trách phòng tranh sẽ qua xem bộ sưu tập. Từ sáng sớm Norah đã ngồi trên sàn nhà phủ sơn, dùng dao X-Acto rạch các hộp, lấy ra những cặp tài liệu đầy ắp ảnh, phim âm bản cùng các tờ ghi chú, cố gắng hết sức để thật vô tư, dứt khoát, trong quá trình chọn lựa. Sẽ không mất nhiều thời gian; David đã sắp xếp rất cẩn thận, và mọi thứ đều được dán nhãn ngay ngắn. Một ngày, bà nghĩ, không hơn.

Bà đã không tin tưởng lắm những ký ức, sức hút tẻ nhạt của quá khứ. Trời đã quá trưa, không khí nóng bức, mà bà mới chỉ soạn xong một thùng. Chiếc quạt quay vù vù trên cửa sổ, mồ hôi rịn ra khắp da bà; những tấm ảnh bóng loáng chết cứng giữa những ngón tay. Chúng vừa có vẻ rất gần lại vừa khó tin, những năm tháng tuổi trẻ của bà. Kia là chính bà với chiếc khăn sống động buộc trên mái tóc chải chuốt, bên cạnh bà, Bree đeo đôi hoa tai dài quét vai, mặc chiếc váy may bằng vải chắp mềm mại. Còn đây là một bức ảnh hiếm hoi chụp David, trông thật nghiêm trang, mái tóc húi cua, Paul mới chỉ là đứa bé ẵm ngửa nằm trong tay ông. Ký ức ùa về, tràn ngập căn phòng, khiến Norah ngồi chết sững một chỗ: mùi hoa tử đinh hương, khí ozone và làn da trẻ con của Paul, những động chạm của David, cách ông hắng giọng; ánh nắng của một buổi ban trưa đã mất in những hình thù kỳ dị lên sàn nhà ốp gỗ. Những điều ấy có nghĩa gì đây, Norah tự hỏi, khi họ đã sống những giây phút ấy theo một cách đặc biệt? Có ý nghĩa gì đây khi những tấm ảnh hoàn toàn không phản ánh người phụ nữ mà bà nhớ đã từng là mình? Khi nhìn kỹ hơn bà có thể thấy vẻ xa xăm và khát khao trong ánh mắt của mình, ánh nhìn của bà dường như luôn vượt ra ngoài tấm ảnh. Nhưng người khác sẽ không nhận ra, Paul cũng không; nếu chỉ xem những tấm ảnh này, sẽ không ai ngờ đến những bí ẩn phức tạp trong trái tim bà.

Một con ong vo ve bay sát trần nhà. Mỗi năm chúng lại quay về xây tổ ở đâu đó dưới mái hắt. Bây giờ Paul đã lớn, Norah cũng đã thôi không còn lo lắng về ong nữa. Bà đứng dậy vươn vai rồi lấy một lon Coca trong chiếc tủ lạnh trước đây David dùng để bảo quản hóa chất và những gói mỏng đựng phim. Bà uống Coca, mắt nhìn đăm đăm ra ngoài cửa sổ chỗ những cây diên vĩ và kim ngân dại mọc đầy sân sau. Norah đã luôn tính làm gì ngoài đó, ngoài việc treo máng cho chim ăn trên cành cây kim ngân, nhưng trong ngần ấy năm trời bà chưa kịp làm gì, và giờ thì cũng chẳng bao giờ làm được gì nữa. Hai tháng nữa bà sẽ kết hôn với Frederic và rời khỏi nơi này mãi mãi.

Ông đã được chuyển công tác sang Pháp. Đã hai lần việc thuyên chuyển bất thành, và họ đã có lúc bàn với nhau sẽ cùng về chung sống ở Lexington, bán cả hai ngôi nhà đi và bắt đầu lại: ở một nơi mới, nơi chưa có ai trong số hai người từng sống. Cuộc nói chuyện khá nhàm chán, uể oải, thường đến giữa những bữa tối hoặc khi họ nằm bên nhau trong bóng tối lờ mờ, ly rượu đặt trên bàn bên cạnh, mặt trăng như chiếc đĩa nhợt nhạt treo ngoài cửa số phía trên những rặng cây. Lexington, Pháp, Đài Loan - đối với Norah chẳng có gì quan trọng, bà cảm thấy mình đã khám phá ra một đất nước mới cùng Frederic. Đôi khi, giữa đêm khuya, bà nhắm mắt lại và nằm thao thức, lắng nghe tiếng ông thở đều đều, cảm giác vô cùng hài lòng. Bà đau lòng nhận ra rằng bà và David đã rời xa tình yêu đến thế nào. Lỗi của ông, hẳn rồi, nhưng cũng là lỗi ở bà. Bà đã thu mình lại, quá kín đáo và chặt khít, bà đã quá sợ hãi trước mọi thứ kể từ sau cái chết của Phoebe. Nhưng những năm tháng ấy giờ đã qua; đã trôi xa, chẳng để lại gì ngoài ký ức.

Vì vậy Pháp cũng tốt. Khi biết tin chỗ làm mới chỉ ngay ở ngoại ô Paris, bà đã rất vui. Họ đã thuê trước một căn nhà gỗ nhỏ bên bờ sông ở Chateauneuf. Giờ Frederic đang ở đó, xây một căn nhà kính để trồng phong lan. Ngay cả lúc này trong trí tưởng tượng của Norah cũng tràn ngập khung cảnh ấy: những viên gạch đỏ tươi nhẵn nhụi trên hiên nhà, làn gió nhẹ ngoài sông thổi vào vờn trên tán cây bạch đàn ngay sát cửa, ánh nắng chảy trên vai, trên cánh tay Frederic, khi ông ốp những ô kính. Bà có thể đi bộ đến ga tàu điện và lên Paris chỉ sau hai tiếng, hoặc đi vào làng mua pho mát tươi cùng bánh mì, những chai rượu đen sánh, những chiếc túi vải khoác trên vai nặng dần sau mỗi điểm dừng. Bà có thể vừa chiên hành, vừa dừng lại ngắm dòng sông lững lờ trôi phía xa xa ngoài bờ rào. Tối tối bà ngồi trên hiên nhà, những đóa bạch cúc xòe nở tỏa mùi hương ngai ngái còn bà cùng Frederic ngồi uống rượu và tán ngẫu. Thật giản dị, thật vậy. Và hạnh phúc. Norah liếc nhìn những hộp ảnh, bà muốn cầm lấy tay người phụ nữ trẻ trong đó và lắc nhẹ người cô. Cố gắng lên, bà muốn nói với cô. Đừng nản chí. Cuối cùng rồi cuộc đời cô cũng sẽ tốt thôi mà.

Bà uống cạn lon Coca rồi quay lại với công việc, bỏ qua hộp ảnh đã khiến bà sa đà và mở hộp khác ra. Bên trong hộp này đầy rẫy những cặp tài liệu được sắp xếp rõ ràng theo năm. Chiếc cặp đầu tiên giữ những tấm hình chụp đám trẻ sơ sinh không rõ tên, đang ngủ trong nôi, ngồi trên bãi cỏ hay trên hiên nhà, hay đang nằm trong vòng tay êm ấm của mẹ chúng. Tất cả các bức ảnh đều được in khổ 8x10, đen trắng lóa mắt, ngay cả Norah cũng nhận ra đây là những thể nghiệm ban đầu của David về ánh sáng. Các nhà thẩm định sẽ rất hài lòng. Một số tấm ảnh đen đến nỗi gần như không thể nhìn thấy được, còn một số khác được rửa gần như trắng xóa. Có lẽ David đang thử phổ màu của máy ảnh, ông giữ nguyên một chủ thể và thay đổi trọng tâm, khẩu độ, ánh sáng.

Chiếc cặp thứ hai cũng tương tự như thế, rồi đến cặp thứ ba và thứ tư. Những tấm ảnh chụp các cô bé, không còn là trẻ sơ sinh nữa mà giờ đã là hai, ba và bốn tuổi. Những cô bé bận váy Phục sinh ở nhà thờ, những cô bé chạy trong công viên, những cô bé ăn kem hay túm tụm ngoài cổng trường giờ tan học. Những cô bé nhảy múa, tung bóng, cười, khóc. Norah cau mày, lật nhanh những bức ảnh. Bà nhận ra không chỉ có một đứa trẻ duy nhất. Ảnh được sắp xếp cẩn thận theo độ tuổi. Khi bà giở đến trang cuối cùng, bà nhìn thấy không phải là những cô bé nữa mà là những người phụ nữ trẻ, đi lại, mua sắm, nói chuyện ngẫu với nhau. Tấm hình cuối cùng chụp một phụ nữ trẻ trong thư viện, cằm cô tì lên tay khi cô mơ màng nhìn ra ngoài cửa sổ, có vẻ gì xa xăm, gần giống như Norah, trong đôi mắt cô.

Norah buông rơi cặp tài liệu vào lòng, những tấm ảnh văng ra tung tóe. Cái gì đây? Tất cả những cô bé ấy, những người phụ nữ trẻ ấy: có thể là một kiểu ám ảnh tình dục, tuy vậy bằng trực giác của mình Norah biết rằng không phải như vậy. Điểm chung giữa tất cả những tấm ảnh không phải sự ám muội mà là nét hồn nhiên. Đám trẻ chơi đùa trên sân công viên phía bên kia đường, gió thổi tóc và quần áo chúng bay phấp phới. Ngay cả những cô gái lớn hơn, những phụ nữ trưởng thành, cũng có tố chất ấy; họ nhìn thế giới bằng cái nhìn lơ đễnh, đôi mắt tròn to, không hiểu sao, có cả nét dò hỏi. Cảm giác mất mát vương vấn trong cách sử dụng ánh sáng và bóng tối; đó là những tấm ảnh tràn đầy khao khát. Niềm mong mỏi, phải, không phải dục tính.

Bà đưa mắt nhìn nắp chiếc hộp để xem nhãn, trên đó chỉ ghi ngắn gọn là Tổng quan.

Vội vã, mặc kệ đống bừa bộn mình vừa tạo ra, Norah lướt qua tất cả những chiếc hộp còn lại, lôi hết hộp này đến hộp khác. Ở giữa phòng bà tìm thấy một chiếc hộp nữa với chữ TỔNG QUAN đen đậm. Bà mở hộp và lôi những chiếc cặp ra.

Lần này không phải là những cô gái, không phải là những người xa lạ, mà là Paul. Từng cặp tài liệu ảnh nối tiếp nhau chụp Paul ở mọi lứa tuổi, những biến đổi và sự trưởng thành, cơn giận dữ đột ngột của nó. Vẻ chăm chú và năng khiếu âm nhạc đáng ngạc nhiên của nó, những ngón tay nó lướt trên cây đàn ghi ta.

Trong một lúc lâu Norah ngồi đờ đẫn, bối rối, cảm giác như sắp ngộ ra một điều gì đó. Rồi đột nhiên điều đó đến với bà, không thể thay đổi, khiến lòng bà bỏng cháy: suốt bao nhiêu năm qua sống trong im lặng, những lúc không thể nói đến đứa con gái đã mất của họ, David đã ghi lại sự vắng mặt của cô bé, Paul, và cả ngàn bé gái khác, tất cả đều lớn dần lên.

Paul, chứ không phải Phoebe.

Norah đã có thể khóc. Đột nhiên bà khao khát được nói chuyện với David. Ngần ấy năm qua, ông cũng nhớ con. Tất cả những bức ảnh ấy, tất cả sự im lặng ấy, nỗi cồn cào bí mật ấy. Bà lướt qua những bức ảnh một lần nữa, nhìn ngắm Paul khi còn là một cậu bé con: đang đón trái bóng chày, chơi đàn piano, làm mặt ngố dưới tán cây ở sân sau. Tất cả những ký ức ông đã gom góp, những khoảnh khắc Norah chưa bao giờ thấy. Bà ngắm đi ngắm lại, cố gắng đặt mình vào thế giới mà David đã trải nghiệm, đặt mình vào cách nhìn của ông.

Hai tiếng trôi qua. Bà biết mình đang đói, nhưng không thể vực mình rời đi hay thậm chí là đứng lên khỏi nơi bà đang ngồi trên sàn nhà. Rất nhiều bức ảnh, những bức ảnh chụp Paul, những cô bé và những người phụ nữ vô danh, phản ánh từng độ tuổi của cậu. Lúc nào cũng vậy, trong suốt bao năm qua, bà luôn cảm thấy sự hiện diện của con gái mình, một bóng đen, đứng ở bên ngoài mỗi bức ảnh được chụp. Phoebe, chết từ khi mới ra đời, như còn nấn ná ở đâu đó ngoài tầm nhìn, như thể cô bé vừa xuất hiện trước đó chốc lát rồi rời khỏi căn phòng, như thể mùi hương của cô bé, làn gió thoảng sau bước chân qua, vẫn còn lẩn quất đâu đây trong không gian cô vừa rời khỏi. Norah đã giữ cảm giác ấy cho riêng mình, sợ rằng bất kỳ ai nghe những gì bà nói sẽ nghĩ bà quá đa cảm, thậm chí là điên rồ. Giờ đây bà sững sờ, và thấy nước dâng đầy lên mắt, khi nhận ra David cũng cảm nhận sự vắng mặt của con gái họ sâu sắc đến thế nào. Ông đã tìm kiếm cô bé ở khắp nơi, dường như ông đã đi tìm trong từng cô bé, từng người phụ nữ trẻ, và chưa bao giờ tìm thấy.

Cuối cùng, xuyên qua những vòng tròn câm lặng đang tỏa rộng nơi bà ngồi, tiếng sỏi nghiến lạo xạo vẳng lại: một chiếc xe đang đi vào. Có ai đó mới đến. Từ xa bà nghe thấy tiếng sập cửa, tiếng bước chân, rồi chuông cửa reo inh ỏi khắp nhà. Bà lắc đầu và nuốt nước bọt, nhưng không đứng dậy. Dù là ai thì người đó cũng sẽ bỏ đi và quay lại sau, hoặc không. Bà gạt nước mắt; ai muốn gặp bà đều có thể chờ được. Nhưng không. Nhân viên định giá đồ đạc đã hứa qua chiều nay. Norah đành áp chặt tay lên má và đi vào nhà qua cửa hậu, bà dừng lại một chút để vã nước lên mặt và chải sơ tóc. “Tôi ra đây.” bà gọi với qua tiếng nước chảy khi tiếng chuông vang lên lần nữa. Bà đi qua các phòng, tất cả đồ đạc đều được kê ra giữa và phủ kín vải nhựa: ngày mai thợ sơn sẽ đến. Bà nhẩm tính số ngày còn lại, tự hỏi không hiểu mình có thể làm xong mọi việc được không. Nhớ đến, trong khoảnh khắc, những tối ở Chateauneuf, nơi dường như chắc chắn cuộc đời bà sẽ luôn êm đềm, phẳng lặng như một bông hoa xòe nở trong không gian.

Bà mở cửa, tay vẫn còn vẩy vẩy cho khô.

Người phụ nữ đứng trên hiên nhà trông quen quen. Bà ta ăn vận khá giản dị, mặc chiếc quần xanh thẫm sạch sẽ. Bà ta mặc áo len cotton ngắn tay màu trắng, mái tóc dày ngả bạc được cắt rất ngắn. Ngay ở cái nhìn đầu tiên, bà ta đã tạo ấn tượng là người ngăn nắp, được việc, kiểu người sẽ không chấp nhận bất cứ điều gì tầm phào, kiểu người chịu trách nhiệm với tất cả và sẽ hoàn thành mọi công việc. Tuy vậy, bà ta không nói gì. Bà ta dường như giật mình khi nhìn thấy Norah, nhìn bà thật chăm chú đến độ Norah khoanh hai tay lại vẻ đề phòng, đột nhiên nhớ ra chiếc quần soóc mình đang mặc bám đầy bụi bẩn, còn áo thun thì ướt đẫm mồ hôi. Bà liếc qua đường, rồi nhìn lại người đàn bà đứng trên hiên nhà mình. Bà gặp ánh mắt chăm chú của người đàn bà ấy và nhìn sâu vào đôi mắt mở to của bà ta, xanh biếc, rồi bà nhận ra.

Hơi thở của bà đứt quãng. “Caroline? Caroline Gill phải không?”

Người đàn bà gật đầu, đôi mắt xanh cụp xuống trong chốc lát tựa như có điều gì đó vừa được dàn xếp ổn thỏa giữa hai người. Nhưng Norah không biết đó là gì. Sự hiện diện của người đàn bà đến từ dĩ vãng xa xăm đã khuấy động những cảm xúc trong sâu thẳm trái tim bà, đưa bà trở lại cái đêm như một giấc mơ khi bà và David đi xe tới phòng khám trên con phố câm lặng phủ đầy tuyết, Caroline Gill đã điều chỉnh bình khí gây tê và nắm tay bà trong suốt những cơn co thắt, miệng luôn nói: Nhìn tôi này, nhìn tôi đi, chị Henry, tôi ở ngay bên cạnh chị đây và chị đang làm tốt lắm. Đôi mắt xanh ấy, cái siết tay chắc chắn của bà ta, xâu chặt vào tấm ký ức khoảnh khắc ấy, cũng rõ ràng như những ký ức của bà về cách lái xe máy móc của David hay tiếng khóc trong trẻo đầu tiên của Paul.

“Chị làm gì ở đây vậy?” Norah hỏi. “David đã mất một năm trước rồi.”

“Tôi biết,” Caroline nói, gật đầu. “Tôi biết, tôi rất tiếc. Chị nghe này, chị Norah… à chị Henry, tôi có chuyện này cần nói với chị, cũng hơi khó nói. Không hiểu chị có thể dành cho tôi vài phút được không. Khi nào tiện ấy. Tôi có thể quay lại sau nếu bây giờ chưa thích hợp.”

Giọng của bà ta vừa cấp bách và kiên quyết, trái với ý định của mình, Norah đã lùi lại và nhường lối cho Caroline bước vào sảnh đợi. Những chiếc hộp, được đóng gọn ghẽ và dán kín băng dính, chất đống ngay sát chân tường. “Chị thứ lỗi cho, nhà bừa bộn quá,” bà nói. Bà ra hiệu về phía phòng khách, tất cả đồ đạc đã bị gom lại một đống chính giữa phòng. “Ngày mai tôi sẽ gọi thợ sơn đến để bỏ thầu. Và cả nhân viên định giá đồ đạc nữa. Tôi sắp đi bước nữa,” bà đế thêm. “Tôi sẽ chuyển đi nơi khác.”

“Tôi mừng là đã kịp gặp chị,” Caroline nói. “Tôi mừng vì đã không chờ đợi.”

Kịp gặp tôi để làm gì? Norah tự hỏi, nhưng do thói quen bà vẫn mời Caroline vào bếp, nơi duy nhất họ còn có thể ngồi thoải mái. Khi họ đi qua phòng khách, không nói lời nào, Norah chợt nhớ sự biến mất đột ngột của Caroline, vụ tai tiếng ấy. Bà liếc trộm lại phía sau hai lần, không tài nào rũ bỏ nổi những cảm xúc kỳ dị mà sự hiện diện của Caroline đã khuấy động lên trong bà. Cặp kính mát gài trên sợi dây đeo quanh cổ Caroline. Những đặc điểm của bà ta đã mạnh mẽ thêm qua năm tháng, mũi và cằm sắc nét hơn. Bà ta sẽ rất cương quyết, Norah khẳng định, trong những tình huống kinh doanh. Không phải loại người có thể xem nhẹ được. Tuy vậy, Norah nhận ra rằng, cảm giác không thoải mái của mình có nguyên do khác. Caroline biết bà ta với tư cách là một người khác - một phụ nữ trẻ trung và thiếu tự tin, bị gắn cứng vào cái cuộc sống và quá khứ mà bà cũng không lấy làm hãnh diện lắm mỗi khi nhớ lại.

Caroline ngồi xuống một chỗ bên bàn ăn sáng trong khi Norah lấy hai cốc nước đá đầy. Lời nhắn cuối cùng của David – Anh đã sửa bồn rửa trong phòng tắm rồi. Chúc mừng sinh nhật. - được gắn lên tấm bảng ngay sau vai Caroline. Norah nôn nóng nghĩ đến những tấm ảnh còn đang nằm đợi trong ga ra, đến tất cả những việc bà cần làm không thể chờ đợi thêm nữa.

“Nhà chị có cả chim sơn ca kia à,” Caroline ngắm nghía, rồi gật đầu ra hiệu phía khu vườn hoang tàn, xơ xác.

“Vâng. Phải mất hàng năm trời tôi mời dụ được bọn chúng đến đây đấy. Mong rằng những người sắp dọn tới đây sẽ cho chúng ăn.”

“Cảm giác chuyển đi nơi khác chắc lạ lắm.”

“Đến lúc rồi,” Norah nói, lấy ra hai miếng lót cốc và đặt mấy chiếc cốc lên bàn. Bà ngồi xuống. “Nhưng chị không đến để nói về chuyện đấy phải không.”

“Không.”

Caroline nhấp một ngụm nước, rồi áp hai tay lên mặt bàn như thể, Norah linh cảm, để giữ vững chúng. Nhưng khi nói dường như bà ta rất bình tĩnh, kiên quyết.

“Norah… tôi gọi chị là Norah được không? Tôi vẫn luôn nghĩ đến chị như thế, trong suốt những năm qua.”

Norah gật đầu, vẫn còn bối rối, cơn bồn chồn dâng lên. Lần cuối Caroline Gill vụt qua trí nhớ của bà là khi nào nhỉ? Hẳn cách đây lâu lắm rồi, và chưa bao giờ tách rời khỏi ký ức về đêm Paul ra đời.

“Norah,” Caroline nói, như đọc được suy nghĩ của bà, “chị còn nhớ những gì về cái đêm con trai chị ra đời?”

“Chị hỏi để làm gì?” giọng Norah vẫn vững vàng, nhưng bà đã hơi ngả về phía sau, để né tránh ánh nhìn chăm chú trong mắt Caroline, né tránh dòng chảy cuộn xoáy ẩn bên trong, và né tránh nỗi sợ hãi của chính mình về điều sắp xảy ra. “Sao chị lại đến đây, và sao chị lại hỏi tôi như thế?”

Caroline Gill không đáp ngay. Tiếng hót du dương của lũ chim sơn ca vụt qua căn phòng như những đốm sáng.

“Nghe này, tôi xin lỗi,” Caroline nói. “Tôi không biết phải nói như thế nào. Tôi nghĩ cũng chẳng có cách nào dễ nói cả, nên thôi tôi cứ nói thẳng ra vậy. Chị Norah, tối hôm đó khi hai đứa con sinh đôi của chị ra đời, Phoebe và Paul, có một vấn đề.”

“Phải,” Norah trả lời lạnh lùng, bà nghĩ đến cảm giác trống trải trong trái tim mình sau ca sinh nở, niềm hạnh phúc lẫn cảm giác trống trải xoắn bện vào nhau, và con đường khó khăn dài dặc bà đã đi để đến được với giây phút thanh thản yên bình này. “Con gái tôi đã chết,” bà nói. "Đó là vấn đề.”

“Phoebe đã không chết,” Caroline nói giọng đều đều, mắt nhìn thẳng vào bà, và trong khoảnh khắc Norah cảm thấy mình đông cứng hệt như bà đã từng thấy cách đây bao nhiêu năm, bị hút chặt vào cái nhìn đăm đăm ấy trong khi cả thế giới xoay tròn quanh bà. “Phoebe sinh ra với hội chứng Down. David cho rằng chứng bệnh này sẽ tiến triển không tốt. Anh ấy nhờ tôi đưa cô bé đến một nơi ở Louisville, nơi những trẻ em như thế thường bị gửi đến. Làm như vậy không có gì là bất bình thường cả, trong hoàn cảnh năm 1964. Đa số các bác sĩ khác cũng sẽ khuyên làm thế. Nhưng tôi không thể bỏ mặc con bé ở đấy được. Tôi đưa cháu đi và chuyển đến sống ở Pittsburgh. Tôi đã nuôi dưỡng cháu trong suốt những năm qua. Chị Norah,” bà nói thêm thật nhẹ nhàng, “Phoebe vẫn còn sống. Cô bé rất khỏe mạnh.”

Norah ngồi thật im. Những con chim trong vườn đang hót ríu rít gọi nhau. Không hiểu sao, bà bỗng nhớ đến lúc bị ngã xuống một tấm lưới không có biển báo khi ở Tây Ban Nha. Bà đang đi dạo trên con phố ngập nắng, không vướng bận chút âu lo. Rồi phịch, bà đã ngập trong một cái rãnh đến tận hông, mắt cá bị vỡ còn bắp chân thì đầy những vết rách dài chảy máu. Tôi ổn, tôi ổn mà, bà luôn miệng nói với những người giúp kéo bà lên, những người đưa bà đến bác sĩ. Mặt vẫn tươi tỉnh, như không để ý, dù máu vẫn nhỏ giọt từ vết thương: Tôi ổn. Chỉ sau đó, khi còn lại một mình và an toàn trong phòng riêng, khi nhắm mắt và nhớ lại khoảnh khắc đột ngột, cảm giác hoàn toàn mất kiểm soát ấy, bà mới khóc. Bây giờ bà cũng có cảm giác y như vậy. Người run lẩy bẩy, bà cố bám lấy mép bàn.

“Sao cơ?” bà nói. “Chị nói sao cơ?”

Caroline nói lại: Phoebe, thực ra không chết mà bị đưa đi. Trong suốt những năm qua, Phoebe đã lớn lên ở một thành phố khác. An toàn, Caroline không ngừng nhắc đi nhắc lại. An toàn, được chăm sóc chu đáo, được yêu thương. Phoebe, con gái bà, em song sinh của Paul. Sinh ra với hội chứng Down, bị đưa đến nơi khác.

David đã đem cho con bé.

“Chị bị điên rồi,” Norah nói, mặc dù ngay cả lúc bà nói ra, quá nhiều những mảnh ghép lỗ chỗ trong cuộc đời bà bắt đầu khớp vào đúng vị trí của nó, để bà hiểu rằng những gì Caroline nói là sự thật.

Caroline thò tay vào ví và đặt hai tấm ảnh polaroid lên mặt bàn gỗ thích bóng loáng. Norah không thể cầm lên nổi, bà đang run lẩy bẩy, nhưng bà cúi lại gần để nhìn: một cô bé trong chiếc váy trắng, mũm mĩm, với nụ cười toả sáng cả gương mặt, đôi mắt hình quả hạnh nhắm tít lại vui sướng. Rồi một tấm ảnh khác, cũng là cô bé này nhưng chụp sau mấy năm, đang sắp sửa ném một quả bóng rổ, ảnh chụp đúng vào khoảnh khắc trước khi cô bé nhảy lên. Trông cô bé hơi giống Paul trong tấm ảnh này, hơi giống Norah trong tấm kia, nhưng chủ yếu cô bé vẫn là chính mình: Phoebe. Không phải bất cứ tấm ảnh nào được sắp xếp cẩn thận trong tài liệu ảnh của David mà đơn giản là chính cô bé. Vẫn còn sống, và đang ở đâu đó trên đời này.

“Nhưng tại sao?” Nỗi đau đớn hiển hiện trong từng lời bà nói ra. “Tại sao anh ấy lại làm thế? Tại sao chị lại làm thế?”

Caroline lắc đầu rồi lại nhìn ra ngoài vườn.

“Trong bao năm qua tôi luôn tin tưởng vào sự trong sáng của bản thân,” bà nói. “Tôi tin rằng tôi đã làm đúng. Cái nhà cứu tế ấy là một nơi khủng khiếp. David chưa bao giờ thấy nó; anh ấy không biết chỗ đấy tệ thế nào. Vì thế tôi đưa Phoebe đi và nuôi nấng nó, tôi đã đấu tranh rất, rất nhiều để cho con bé được học hành và tiếp cận các dịch vụ chăm sóc y tế. Để đảm bảo nó có một cuộc sống tốt. Cũng dễ nhìn nhận bản thân tôi như một người hùng. Nhưng tôi nghĩ mình luôn hiểu rằng, từ tận đáy lòng, những động cơ của tôi không hoàn toàn trong sáng. Tôi muốn một đứa con nhưng lại không có. Tôi cũng từng yêu David, hoặc nghĩ là mình đã yêu. Chỉ từ xa thôi, ý tôi là vậy,” bà vội đế thêm. “Tất cả chỉ trong ý nghĩ của tôi thôi. David thậm chí còn chẳng bao giờ để ý đến tôi. Nhưng khi nhìn thấy thông báo lễ tang, tôi biết tôi phải giữ nó. Rằng đằng nào tôi cũng phải ra đi, và tôi không thể bỏ mặc con bé được.”

Norah, rối bời trong cảm giác hoảng loạn, nhớ lại những ngày nhạt nhoà tràn đầy nỗi đau và niềm hạnh phúc. Paul nằm trong vòng tay bà còn Bree đưa bà chiếc điện thoại, nói, Chị phải kết thúc chuyện này đi. Bà lên kế hoạch cho cả buổi lễ tưởng niệm mà không nói gì với David, mỗi sự sắp xếp giúp bà trở lại với cuộc sống, và khi David về đến nhà tối hôm đó, bà đã đấu tranh chống lại sự phản đối của ông.

Không hiểu ông đã cảm thấy thế nào, về cái đêm hôm ấy, về buổi lễ ấy?

Và dẫu vậy ông vẫn để mặc cho mọi chuyện xảy ra.

“Nhưng tại sao anh ấy không nói cho tôi biết,” bà hỏi, giọng nhỏ như một lời thì thầm. “Trong ngần ấy năm trời mà anh ấy chưa bao giờ nói gì với tôi cả.”

Caroline lắc đầu. “Tôi không thể nói hộ David được,” bà nói. “Anh ấy luôn là một bí ẩn đối với tôi. Tôi biết anh ấy yêu chị, và tôi tin dù việc làm này có vẻ đáng ghê tởm, nhưng những ý định ban đầu của anh ấy là tốt. Anh ấy đã có lúc kể cho tôi nghe về em gái anh ấy. Cô ấy bị dị tật tim và chết rất trẻ, và mẹ anh ấy không bao giờ vượt qua được nỗi đau. Dù có đáng hay không, tôi nghĩ anh ấy chỉ đang cố gắng bảo vệ chị thôi.”

“Nó là con tôi,” Norah nói, từng câu từng chữ như rứt ra từ sâu thẳm trong người bà, từ một vết thương đã chôn chặt từ lâu. “Nó sinh ra từ máu thịt của tôi. Bảo vệ tôi ư? Bằng cách nói với tôi là nó đã chết ư?”

Caroline không trả lời, và họ ngồi một lúc lâu, im lặng bao trùm lên họ. Norah nghĩ đến David trong tất cả những bức ảnh kia, và trong tất cả những giây phút họ đã sống cùng nhau, luôn phải mang giấu bí mật đó bên mình. Bà đã không biết, bà đã không đoán ra. Nhưng bây giờ bà đã được biết, nó đem lại một cảm giác thật khủng khiếp.

Cuối cùng Caroline mở ví lấy ra một mẩu giấy trong đó ghi địa chỉ và số điện thoại của bà ta. “Đây là nơi chúng tôi sống,” bà nói. “Chồng tôi, Al, tôi và Phoebe. Đây là nơi Phoebe đã lớn lên. Con bé đã có một cuộc sống hạnh phúc, chị Norah ạ. Tôi biết cho chị hay chừng ấy không đáng kể gì, nhưng đó là sự thật. Nó là một cô gái trẻ đáng yêu. Tháng sau, nó sẽ chuyển đến ở một khu nhà tập thể. Đó là nguyện vọng của nó. Nó có một công việc rất tốt ở trong một cửa hàng photocopy. Nó thích ở đó, và mọi người cũng yêu quý nó lắm.”

“Cửa hàng photocopy?”

“Phải. Con bé làm tốt lắm, chị Norah ạ.”

“Nó có biết không?” Norah hỏi. “Nó có biết về tôi không? Về Paul nữa?”

Caroline liếc xuống mặt bàn, ngón tay mân mê rìa tấm ảnh. “Không. Tôi không muốn nói cho nó biết đến khi nào nói chuyện được với chị. Tôi không biết chị muốn làm gì, liệu chị có muốn gặp nó không. Tôi hy vọng là có. Nhưng dĩ nhiên tôi cũng sẽ không trách cứ gì nếu chị không muốn. Đã ngần ấy năm rồi… ôi, tôi rất tiếc. Nhưng nếu chị muốn đến thăm, chúng tôi ở đó. Cứ gọi điện cho chúng tôi. Tuần sau hay năm sau cũng được.”

“Tôi không biết nữa,” Norah chậm chạp đáp. “Có lẽ tôi đang sốc quá.”

“Dĩ nhiên rồi.” Caroline đứng dậy.

“Tôi giữ mấy tấm ảnh được không?” Norah hỏi.

“Chúng là của chị. Chúng vẫn luôn là của chị mà.”

Trên hiên nhà, Caroline dừng lại và nhìn bà chăm chú.

“Anh ấy yêu chị nhiều lắm,” bà ta nói. “David lúc nào cũng yêu chị, Norah ạ.”

Norah gật đầu, nhớ lại mình cũng đã nói y như vậy với Paul khi ở Paris. Bà đứng trên hiên nhà nhìn theo Caroline đi ra xe, tự hỏi không hiểu cuộc sống mà Caroline đang lái xe quay về ra sao, liệu nó còn ẩn chứa những phức tạp và bí ẩn gì.

Norah đứng trên hiên nhà một lúc lâu. Phoebe vẫn còn sống, trên đời này. Cái tin ấy giống như là một cái hố rộng ngoác, sâu đến vô tận xói vào tim bà. Được yêu thương, Caroline đã nói thế. Được chăm sóc chu đáo. Nhưng không phải bởi Norah, người đã phải cố gắng biết bao để quên cô bé. Những giấc mơ bà đã có, tất cả cuộc tìm kiếm giữa những lưỡi cỏ đóng băng giòn sắc, lại quay về, vò xé bà.

Bà quay vào trong nhà, khóc nức nở, đi qua đống đồ đạc phủ vải. Nhân viên định giá sắp đến. Paul cũng sẽ đến, hôm nay hoặc ngày mai; nó đã hứa gọi trước nhưng đôi khi vẫn đến đột ngột. Bà tráng rửa mấy cốc nước và lau khô, rồi đứng trong gian bếp tĩnh lặng, nghĩ đến David, đến những đêm suốt bao năm qua khi David vùng dậy trong bóng tối và chạy đến bệnh viện chữa chạy cho ai đó bị thương. Một người tốt, David. Ông điều hành một phòng khám, ông chăm sóc cho những người cần giúp đỡ.

Và ông đã đem cho đứa con gái của họ rồi bảo bà rằng nó đã chết.

Norah đấm mạnh lên quầy bếp, khiến những chiếc cốc nảy lên. Bà pha cho mình một cốc rượu gin và tonic rồi đi lang thang trên gác. Bà nằm xuống, lại nhỏm dậy gọi cho Frederic, và dập máy khi có tiếng trả lời tự động. Sau một lúc bà quay lại studio của David. Mọi thứ vẫn nguyên như cũ, bầu không khí thật ấm áp, tĩnh lặng, những tấm ảnh và hộp nằm rải rác khắp sàn nhà, vẫn y như lúc bà rời khỏi đó. Ít nhất là năm mươi ngàn đô, nhân viên phòng tranh đã ước lượng. Sẽ còn đáng giá nhiều tiền hơn nữa nếu có thêm ghi chú viết tay của David về quá trình thực hiện.

Mọi thứ vẫn còn nguyên như cũ, nhưng đã không còn như xưa nữa.

Norah bê chiếc hộp đầu tiên và kéo lê qua căn phòng. Bà gắng hết sức nâng hộp lên mặt quầy, rồi giữ nó thăng bằng trên bậu cửa sổ nhìn xuống sân sau. Bà dừng lại lấy hơi rồi kéo màn cửa lên và đẩy mạnh chiếc hộp ra ngoài, bằng cả hai tay, nghe tiếng dội xuống nền đất bên dưới với một tiếng thụp hả hê. Bà quay lại xử lý chiếc hộp tiếp theo, rồi đến chiếc hộp tiếp theo nữa. Bà đã làm đúng như những gì mình mong muốn trước đó: dứt khoát, thô bạo - phải, tàn nhẫn. Chỉ trong chưa đầy một giờ, cả studio đã trống trơn. Bà quay vào trong nhà, đi qua những chiếc hộp rách nằm ngổn ngang trên lối vào nhà, những tấm ảnh rơi ra tung toé, vương vãi khắp bãi cỏ trong ánh nắng buổi chiều muộn.

Vào nhà, bà đi tắm, đứng trước vòi nước chảy cho đến khi người lạnh toát. Bà mặc một chiếc váy rộng, pha thêm cốc rượu rồi ngồi xuống sofa. Bắp tay bà nhức nhối vì bê hộp nặng. Bà pha thêm một cốc rượu nữa rồi trở lại. Khi trời sụp tối, nhiều giờ trôi qua, bà vẫn ngồi đó. Chuông điện thoại reo vang, và bà nghe thấy giọng của chính mình, qua máy ghi âm, rồi đến giọng Frederic, gọi từ Pháp về. Giọng ông thật mượt và êm, như mặt biển xa xăm. Bà khao khát được đến đó, được đến nơi mà cuộc đời bà trở nên có ý nghĩa, nhưng bà không nhấc máy lên, cũng không gọi lại cho ông. Tiếng tàu hoả văng vẳng phía xa. Bà kéo chiếc khăn phủ giường lên và ngập chìm trong bóng đêm u tối.

Bà nằm lơ mơ, lúc say lúc tỉnh, nhưng không ngủ. Thỉnh thoảng bà dậy để pha thêm một cốc rượu nữa, đi lang thang qua những căn phòng trống vắng, tràn ngập bóng trăng, đổ đầy thêm cốc rượu của mình từng chút một. Không cần biết đó là tonic hay chanh hay đá. Có lúc bà mơ thấy Phoebe đang ở trong phòng, hiện ra từ một bức tường nơi cô đã giấu mình suốt bao năm qua, Norah đi hết ngày này đến ngày khác mà không thấy nhìn thấy cô bé. Sau đó bà bừng tỉnh, khóc nức nở. Bà đổ hết phần còn lại của chai rượu gin xuống bồn rửa và uống một cốc nước.

Cuối cùng bà cũng ngủ thiếp đi khi bình minh lên. Buổi trưa, khi bà tỉnh dậy, cánh cửa trước đang mở rộng còn ở sân sau ảnh tung toé khắp nơi: mắc vào bụi cây đỗ quyên, phất phơ dưới nền đất, hoặc mắc trên chiếc xích đu gỉ sét cũ kỹ của Paul. Thấp thoáng đôi tay, ánh mắt, làn da mô phỏng hình dáng bờ biển, làn tóc thoảng qua, tế bào máu vương vãi như những giọt dầu trên mặt nước. Những khoảnh khắc cuộc đời họ đã sống như cách David quan sát, cách David đã cố gắng định hình chúng. Phim âm bản, phim celluloid đen sẫm, nằm vất vưởng trên cỏ. Norah hình dung ra giọng nói hoảng hốt và giận dữ của các nhân viên quản lý phòng tranh, của bạn bè, của con trai bà, và thậm chí là của cả một phần trong bà, nghe thấy chúng sôi lên, Nhưng bà đang huỷ hoại lịch sử đấy!

Không, bà đáp, tôi đang đòi nợ nó đấy chứ.

Bà uống thêm hai cốc nước cùng vài viên aspirin, rồi bắt đầu kéo lê mấy chiếc hộp ra góc xa trên bãi cỏ um tùm. Một hộp, chiếc hộp đựng đầy những tấm ảnh chụp Paul trong suốt quãng đời cậu, bà đẩy lại vào ga ra để lưu giữ. Trời nóng ran và đầu bà nhức buốt; những đốm đom đóm quay cuồng trong mắt bà khi bà đột ngột đứng dậy. Bà nhớ lại ngày xa xưa hôm nào trên bãi biển, mặt nước lấp lánh, những đốm sáng chói mắt và Howard bước vào tầm nhìn của bà.

Có rất nhiều đá chất đống phía sau ga ra. Bà lôi ra, từng cục một, và xếp thành một vòng tròn lớn. Bà vứt chiếc hộp đầu tiên, những tấm ảnh đen trắng bóng bẩy ánh lên dưới ánh lên dưới nắng, khuôn mặt quen thuộc của những người phụ nữ trẻ nhìn bà đăm đăm từ dưới mặt cỏ. Ngồi xổm dưới cái nắng trưa gay gắt, bà giữ chiếc bật lửa sát mép một tấm ảnh 8x10. Khi lưỡi lửa bắt đầu liếm và bùng lên, bà thả tấm ảnh đang chảy bùng lên vào đống ảnh thấp tè ở giữa vòng tròn đá. Ban đầu lửa dường như không bén. Nhưng chẳng mấy chốc hơi nóng cuồn cuộn bốc lên, kéo theo một cột khói.

Norah vào nhà rót thêm một cốc nước nữa. Bà ngồi trên bậc thềm sau nhà nhấp từng ngụm nước, ngắm nhìn ngọn lửa. Một sắc lệnh mới ban hành của thành phố cấm mọi hình thức đốt lửa, và bà lo hàng xóm có thể sẽ gọi cho cảnh sát. Nhưng xung quanh vẫn im ắng, ngay cả ngọn lửa cũng câm lặng, bốc cao thêm giữa bầu không khí oi nồng, toả ra một làn khói mỏng xanh xanh như màu sương. Tàn giấy đen kịt bay bay khắp sân sau, phất phơ theo từng đợt khí nóng mờ ảo, như những cánh bướm. Khi ngọn lửa trong vòng đá bùng lên và bắt đầu gầm gào, Norah vứt thêm ảnh vào. Bà đốt ánh sáng, bà đốt bóng tối, bà đốt tất cả những ký ức của David, những thứ đã được chớp lại và lưu giữ thật cẩn thận. Đồ khốn, bà lầm rầm, nhìn những tấm ảnh bốc cháy ngùn ngụt trước khi đen thẫm dần, cuộn lại và biến mất.

Ánh sáng về với ánh sáng, bà thầm nghĩ, lùi lại tránh hơi nóng, tiếng gầm rú, những đốm tàn tro mịn như bột cuồn cuộn trong không khí.

Tro tàn về với tro tàn.

Cát bụi, cuối cùng, lại về với cát bụi.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx