Đột nhiên, một người binh lính chỉ vào bên trái lớn tiếng kêu: “Tướng quân, ngài mau nhìn nơi đó!”
Vương Tư Vũ theo phương hướng ngón tay hắn nhìn lại thì lập tức thất kinh, chỉ thấy từ sau lưng một quả núi lớn đột nhiên trào ra đông đảo kỵ binh Đại Thực. Đại kỳ tung bay, đúng là cờ mặt trăng màu đen.
Bọn họ đuổi bắt săn mồi, đến cuối cùng chính mình lại thành mồi săn của đối phương.
Trong lúc cánh quân Vương Tư Vũ tại phía nam Mộ Sĩ Tháp Cách Sơn đã gặp phải quân Đại Thực săn ngược lại thì đồng thời ở Sơ Lặc, một vạn quân Đường cũng phát động cuộc tiến công thành Sơ Lặc có tính dò xét.
Người Đại Thực tuy rằng về cung tên, thang cùng với trang bị áo giáp thì rõ ràng kém hơn so với quân Đường. Nhưng máy phóng đá của bọn họ thì lại hết sức khỏe, không thua gì quân Đường. Lần này đông chinh, người Đại Thực cũng tháo tung hơn hai trăm máy phóng đá rồi đem theo tới Sơ Lặc. Mục đích chủ yếu của nó là dùng để công thành, nhưng hiện tại lại trở thành công cụ chủ lực để phòng thủ thành Sơ Lặc.
Bên ngoài thành Sơ Lặc cao lớn chắc chắn, những tảng đá lớn bay giữa bầu trời dày đặc như mưa đá. Xen vào đó là trận mưa lao đủ loại được người Đại Thực ném xuống. Ngoài cửa đông, mấy ngàn quân Đường đi theo hơn mười giá thang như nước thủy triều dâng lên. Rất nhanh, thang liên tiếp bị máy phóng đá khủng khiếp của quân địch phá hủy, tử thương mấy trăm người. Quân Đường lại như nước thuỷ triều rút xuống.
Không lâu, quân Đường lại một lần nữa tổ chức trận thế mới, cũng thúc đẩy hai mươi mấy giá phóng đá thật lớn lọc cọc tiến lên rồi bắn đáp trả cùng quân Đại Thực. Nhưng điều khiến quân Đại Thực mừng rỡ như điên chính là, đá của quân Đường mặc dù hình dáng thật lớn, nhưng tầm bắn cũng không xa. Đại bộ phận những tảng đá căn bản là không đến được thành trì. Cho dù có một số nhỏ hòn đá đập lên tường thành thì cũng không làm nên chuyện gì. Thành Sơ Lặc chắc chắn trầm tĩnh, mặt tường bóng loáng, bất kể đá tảng hay cây gỗ đều không thể công kích được nó. Trừ phi động đất làm cho tường thành sụp xuống hay nứt ra.
Quân Đường một lần lại một lần tổ chức tiến công, rồi lại một lần một lần quay về vô ích.
Dần dần, quân Đại Thực thấy quân Đường tấn công thành thiếu phương pháp, bọn họ cũng không còn kinh hoàng lúng túng phóng loạn thương như lúc bắt đầu. Bọn họ còn nhiều lúc đứng nhìn quân Đường cười ha ha, giống như là đang nhìn một màn diễn trò thú vị.
“Vô dụng.” Rất nhiều binh lính Đại Thực đều khum tay quanh miệng hô to “ Chạy trở về quê quán các ngươi đi! Tuyết lớn đã tới, chúc các ngươi chết rét tại quân doanh.”
Trên một gò đất nhỏ phía sau quân Đường, Trương Hoán mặt không chút thay đổi nhìn quân địch kiêu ngạo. Trên mặt của hắn lộ ra một nụ cười tàn khốc, thấp giọng nói lẩm bẩm: “Hô đi! Qua vài ngày nữa chính là lúc các ngươi khóc lóc.”
Ánh mắt lạnh lùng của Vương Tư Vũ nhìn chăm chú vào đạo quân Đại Thực giữa đường xông ra này. Nó cũng có gần hai vạn người, mỗi người cưỡi tuấn mã A Bá ( Arab)cao lớn, tay cầm đoản mâu cùng tấm chắn, phía sau lưng đeo hơn mười cây lao. Đây là Bản Tông quân tinh nhuệ của người Đại Thực. Một đạo Tát San kỵ binh Ba Tư đã giao chiến cùng quân Đường, một đạo khác chính là Đại Mã Sĩ Cách ( Đa mát) kỵ binh từng quét sạch Ai Cập. Bọn họ bày trận chỉnh tề, khí thế uy nghiêm.
Đứng trước hàng quân Đại Thực là một vị Đại tướng cao lớn như hùng sư đang gắt gao như chim săn mồi nhìn chằm chằm quân Đường. Trên mặt của hắn lộ vẻ đắc ý sau khi con mồi sa lưới, hắn đúng là chủ tướng Mặc Á Lợi của quân Đại Thực.
Để đảo ngược tình thế trước cánh quân Đường này, hắn không tiếc sức lập quân lệnh trạng trước mặt A Cổ Cái để cho mượn kỵ binh Đại Mã Sĩ Cách tinh nhuệ nhất. Hiện tại, hắn đã thành công lùa được hai vạn quân Đường đi săn vào trong lưới mà hắn giăng trước. Tiếp theo là lúc thu lưới.
Đồng thới với việc Mặc Á Lợi xuất hiện, chủ tướng Xá Nhĩ của viện quân Đại Thực cũng chỉ huy quân quay trở về. Bọn họ một phải một trái kẹp quân Đường ở chính giữa. “ Sát!” Mặc Á Lợi rống to một tiếng, hai vạn Bản Tông quân Đại Thực trào dâng sát khí ngập trời nhằm hướng quân Đường lao tới.
Nhưng mà Xá Nhĩ lại không có động tĩnh, mặc dù hai vạn kỵ binh Chiêu Vũ do hắn chỉ huy kém xa Bản Tông quân Đại Thực. Nhưng địa vị bản thân hắn so với Mặc Á Lợi thì cao hơn rất nhiều. Hơn nữa năm đó khi ở Ba Cách Đạt ( Bát đa) thì hai người cùng làm thị vệ ở cung đình bởi vì phe phái khác nhau mà còn có mối hận cũ. Hiện tại, hắn không muốn trở thành kẻ phụ thuộc vào Mặc Á Lợi. Hắn sẵn sàng làm một con kền kền ăn thịt thối chờ đợi thu thập tàn quân của quân Đường.
Đương đầu thế trận đánh tới phô thiên cái địa của kỵ binh Đại Thực, Vương Tư Vũ đột nhiên cười. Hắn cũng không bị quân Đại Thực hù dọa làm sợ, ngược lại, trong dòng máu hắn lại bốc cháy lên một loại hưng phấn khó tả. Hai vạn kỵ binh của mình cũng là đạo quân kỵ binh tinh nhuệ nhất quân Tây Lương, làm sao phải sợ bọn họ.
Càng làm cho hắn cảm thấy hưng phấn chính là hôm nay không có đô đốc đứng bên cạnh đốc chiến cho nên hắn có thể tự phát huy chiến thuật của mình vô cùng nhuần nhuyễn quyết sống mái cùng quân Đại Thực. Hơn nữa, hắn cũng nhìn ra hai đạo quân Đại Thực phối hợp rõ ràng không ăn khớp, giữa bọn họ tựa hồ tồn tại mâu thuẫn nào đó. Có lẽ đây là cơ hội tốt để hắn có thể lợi dụng một lần.
“Lập cung trận Bố Ưng Thức!”
Hắn trầm giọng ra lệnh một tiếng, trận doanh quân Đường lập tức xảy ra biến hóa. Sáu ngàn quân Đường xếp thành hai phương trận trước sau, hình thành đầu chim ưng cùng bụng ưng. Còn bốn ngàn quân Đường tản ra hai bên hình thành cánh ưng.
Hai vạn quân Đường trong nháy mắt liền hóa thành hai con hùng ưng đứng cách xa nhau ước năm trăm bộ độc lập với nhau, nhưng lại vẫn có thể tiếp ứng nhau. Hai hùng ưng phân bố trên chiến tuyến dài tới ba dặm.
Quân Đại Thực cùng quân Đường cách xa nhau không quá vài dặm. Dựa vào sức bật của chiến mã A Bá, kỵ binh Đại Thực chỉ một thoáng liền xông tới chỉ cách quân Đường hơn ba trăm bộ, vó ngựa làm hất tung bụi vàng cuồn cuộn cơ hồ muốn trùm kín mặt đất. Bọn họ không để cho quân Đường có cơ hội dàn hàng lập trận.
“Bắn!” Vương Tư Vũ ngắn ngủi truyền mệnh lệnh.
Hàng vạn mũi tên quân Đường nhất tề phát ra, mũi nỏ mạnh mẻ xé gió bắn về phía kỵ binh quân địch dày đặc như bão tố. Những hàng kỵ binh Đại Thực phi ở phía trước nhất đua nhau ngã ngựa, chiến mã hí vang, tiếng kêu thảm thiết vang trời. Trong nháy mắt liền có gần ngàn người bị bắn ngã.
Vòng quay trận thế bắn tên của quân Đường đã phát động. Phảng phất như hai bánh xe thật lớn đang hăng hái quay cuồng trên cánh đồng bát ngát, đầu chim ưng cùng bụng ưng không ngừng đổi chỗ. Lên dây nỏ, lắp mũi tên, nhắm bắn, gạt lẫy phóng ra, quay đầu lui về phía sau... được thực hành liền mạch lưu loát tựa như nước chảy mây trôi không có chút xíu trở ngại. Còn hộ vệ ở hai cánh chĩa ngang giáo dài cũng tùy thời lui về phía sau, lúc lên lúc xuống giống hệt đôi cánh hùng ưng đang vẫy vẫy.
Mũi nỏ chính xác, tầm bắn lại xa đúng là một loại vũ khí sắc bén nhất để đối phó với kỵ binh, cũng là kỹ thuật vũ khí mà quân Đường am hiểu nhất. Kỵ nỏ của quân Tây Lương so với loại nỏ cứng truyền thống hơi không giống nhau. Nỏ cứng truyền thống thì khi lên dây phải dùng chân đạp tay kéo nên hết sức vất vả. Mà kỵ nỏ quân Tây Lương thì hai bên mút nỏ lắp đặt hai thanh đồng để lợi dụng đòn bẩy tăng lực, nó làm việc lên dây dễ dàng hơn, có điểm tương tự với dụng cụ mở chai rượu của đời sau.
Nhưng nhược điểm của cũng rõ ràng, thao tác nó phức tạp, căng dây chậm. Thường thường không đợi bắn ra mũi tên thứ hai thì kỵ binh quân địch đã kịp vọt tới trước mắt. Bởi vậy thế trận lợi dụng việc thay nhau bắn tên có thể giải quyết hoàn mỹ vấn đề này. Nó làm cho mũi tên trước sau bắn ra như mưa rào, không để cho quân địch có thời gian mà thở. Nhưng điều này đối với kỵ binh cũng có yêu cầu cực cao, không chỉ phải có kỹ thuật lên dây thuần thục, hơn nữa bắt buộc có kỹ thuật điều khiển ngựa cao siêu, mà càng phải có kỷ luật cùng sự phối hợp nghiêm khắc mới có thể đảm bảo cùng lúc nhanh chóng lui về phía sau, đợi cho đội khác bắn xong rồi lại có thể luân lưu bắn.
Trận mưa tên của quân Đường tạo thành cho quân Đại Thực tổn thất nặng nề. Cơn kình tiễn dày đặc như bão tố khiến cho tấm chắn của bọn họ không có được tác dụng phòng hộ lớn, nhất là chiến mã trúng mũi tên rất nhiều. Mặc dù bọn chúng nhanh nhẹn dị thường, nhưng mưa tên quân Đường thật sự quá dày đặc làm cho bọn chúng không thể tránh nổi. Từng loạt chiến mã hí thảm rồi ngã xuống làm kỵ binh trên lưng ngựa bị hất xuống mặt đất lập tức liền bị loạn mã phía sau chà đạp mà chết. Thậm chí khi cách quân Đường không đầy trăm bộ thì mũi nỏ mạnh mẻ còn bắn thủng tấm chắn.
Khi những hàng đầu của người Đại Thực rốt cục tiếp cận quân Đường thì trận lao lập tức phóng tới phô thiên cái địa ( nghiêng trời lệch đất) làm vài hàng quân Đường phía trước bị trúng lao ngã xuống đất, Vương Tư Vũ lập tức hạ lệnh “ Hai cánh hộ vệ, nỏ trận lui về phía sau.”
Hai cánh kỵ binh lập tức bắt đầu khép lại, ngăn cản kỵ binh Đại Thực thọc sâu vào, đồng thời yểm hộ quân cỡi ngựa bắn cung lui về phía sau để lại một lần nữa kéo dãn cự ly. Một khi cự ly cách ra thì hai cánh lập tức phân tán về hai bên để lộ ra quân tiên phong của người Đại Thực. Trận mưa nỏ của quân Đường lại bắt đầu một vòng bắn mới.
@by txiuqw4