Nhưng mà Tống Cẩm ký còn có thân phận đặc thù khác. Nó là chi nhánh tại Quảng Lăng do Lũng Hữu Nội Vụ ty thiết lập, nó chủ quản việc thu thập tin tức tại cả khu Hoài Nam, nó có hơn một trăm thành viên.
Người trung niên đi trên đường, chắp tay đằng sau ung dung thong thả đi từ cửa sau vào Tống Cẩm Ký. Trong nhà sau có mười mấy người làm thuê đang bận rộn chỉnh lý hàng hóa. Mọi người thấy hắn tùy tiện xông vào thì lập tức có một người tiến đến mà hỏi “ Nếu khách quan đi mua hàng thì xin mời vào theo cửa trước, ở đây không tiếp người ngoài.”
“Ta không mua hàng cũng không bán hàng, ta tìm chưởng quỹ của các ngươi.” Người trung niên nói với giọng Kinh thành lập tức làm tất cả người làm thuê đều bắt đầu cảnh giác. Lúc này, một người làm thuê khoảng ba mươi tuổi tiến đến gần đưa bọn họ tới một gian phòng khách, thấy xung quanh không có người liền hạ giọng hỏi: “Xin hỏi khách quan họ gì? Tìm chưởng quỹ của chúng ta có chuyện gì?”
Người trung niên chắp tay cười mà không nói, phía sau hắn một người tùy tùng lấy ra một thẻ lệnh bài bằng bạc quơ quơ rồi nói lạnh lùng: “Xin nói cho Hầu chưởng quỹ, Gia chủ của ta là người họ Đỗ.”
Người làm kia thấy người mới đến đưa ra đúng là ngân bài thì trong lòng thất kinh. Phải biết rằng Nội Vụ ty cai quản mấy ngàn người, lệnh bài chia làm bốn loại Kim Ngân Đồng Thiết. Kim bài chỉ có đô đốc cùng Chánh Ty Nội Vụ ty mới có thể giữ, mà ngân bài cũng chỉ có ít ỏi hơn mười người. Còn lại đầu lĩnh các nơi cũng chỉ giữ thẻ đồng, vậy mà người vừa đến lại cầm ngân bài nên không nghi ngờ gì nữa, đây tất nhiên là một quan lớn từ Trường An tới. Thủ lĩnh đám người làm liền đứng nghiêm cung kính lập tức chào theo nghi thức tiêu chuẩn của quân đội mà nói: “Xin Đỗ tiên sinh chờ, tại hạ sẽ đi thông báo cho chưởng quỹ.”
Người làm vội vã đi, còn trung niên kia thì chắp tay đằng sau đánh giá tranh chữ trên tường, khóe miệng trước sau vẫn lộ ra một nụ cười hờ hững. Hắn họ Đỗ, kỳ thật hắn chính là phụ tá tâm phúc Đỗ Mai của Trương Hoán, trước mắt tạm nhận chức Phó Ty Chánh Nội Vụ ty. Lần này hắn phụng mệnh Trương Hoán đến Quảng Lăng thực thi sứ mạng đặc biệt. Trước mắt đại quân Vương Tư Vũ từ đạo Hà Bắc xuôi nam đã đến Bành quận, sáu vạn quân của Lận Cửu Hàn bố trí tại vùng Chiết Đông cũng từ Tuyên Thành bắt đầu nhằm hướng Đương Đồ thẳng tiến, mây đen chiến tranh đang bao phủ trên không trung Hoài Nam.
Chỉ chốc lát, một nam nhân râu dài cao gầy bước nhanh vào. Hắn liếc mắt liền nhận ra Đỗ Mai, lập tức nửa quỳ chào theo nghi thức quân đội rồi nói: “Ty chức Hầu Minh, tham kiến Đỗ Phán Quan!”
Đỗ Mai quay đầu lại kinh ngạc nhìn hắn mà hỏi: “Hầu chưởng quỹ biết ta?”
“Ty chức nguyên là thân vệ của đô đốc, không chỉ một lần đã gặp Đỗ Phán Quan.”
Nghe nói đối phương từng là thân vệ của Trương Hoán thì sắc mặt Đỗ Mai lập tức trở nên ôn hòa hơn. Hắn khoát tay cười nói: “Mời Hầu chưởng quỹ ngồi!”
“Ty chức không dám.” Hắn lập tức sai người đóng kỹ cửa giả, lại tự mình rót cho Đỗ Mai một chén trà. Lúc này mới xuôi tay đứng yên, chuẩn bị sẵn sàng trả lời vấn đề của thượng cấp.
Đỗ Mai nâng chung trà lên uống một hớp trà mát, do dự một lát liền hỏi: “Gần đây quan trường Quảng Lăng có thay đổi gì không?”
“Không có, tất cả như cũ, chỉ có Huyện lệnh huyện Giang Đô ngày hôm kia xin phép quay về Đan Dương để chịu tang phụ thân, hiện tại do Huyện thừa quản lý chính vụ.”
“Hình như Thứ Sử là Triệu Nghiêm phải không?” Đỗ Mai lại hỏi từ tốn.
“Vâng! Triệu thứ sử trong dân chúng có uy vọng rất cao, là một quan tốt, chưa bao giờ nghe nói ông ta có bất cứ việc gì xấu.”
Đỗ Mai gật đầu, nhẹ nhàng đặt bát trà ở trên bàn hỏi tiếp: “Nhiệm vụ mà Lý Ty Chánh giao cho ngươi có tiến triển gì không?”
Hậu Minh lập tức lấy ra một xấp tư liệu thật dầy đặt ở trước mặt Đỗ Mai “ Đây là thuộc hạ dùng thời gian ba tháng thu được tư liệu về thửa ruộng trên ngàn khoảnh ở các nơi như Hoài Nam, Chiết Đông, Chiết Tây. Cùng với tin tức cặn kẽ về mỗi điểm Quan thương lớn. Xin Đỗ Phán Quan xem qua.”
Đỗ Mai tiếp hơi hơi lật qua một lượt rồi lập tức giao cho một người tùy tùng liền bảo: “Dùng tốc độ nhanh nhất đưa đi cho đô đốc, không được làm lỡ!”
“Vâng!” Tùy tùng tiếp nhận tư liệu cất sát vào trong người, hắn thi lễ đang muốn rời đi thì Hầu Minh lại ngăn cản. Hắn vội la lên: “Mấy ngày nay Sở gia kiểm tra người đi đường vãng lai tại các điểm giao nhau, các vị trí quan trọng. Cứ như vậy đi ra ngoài thì quá mức nguy hiểm, không bằng đi theo thuyền hàng của bọn tại hạ để ra ngoài, chiều nay sẽ đi.”
Đỗ Mai suy nghĩ qua rồi nói: “Được rồi! Tin tức này rất quan trọng, không thể sơ ý. Cứ buổi tối hôm nay đi theo thuyền hàng rời khỏi Quảng Lăng.”
Giờ phút này, các quận Quảng Lăng như sắp gặp kẻ địch. Mười vạn đại quân của Sở gia đã bố trí mọi nơi. Phía nam thì có ba vạn thuỷ quân phong tỏa Trường Giang đề phòng quân đội của Lận Cửu Hàn ngược bắc. Mà phương bắc thì bố trí sáu vạn đại quân dọc tuyến Diêm Thành, Hoài Âm đến Lâm Hoài, mặt khác một vạn quân kỳ cựu tinh nhuệ nhất của Sở gia thì đóng ở Quảng Lăng để phòng thủ thành.
Tiết trời mặc dù còn chưa phải rất nóng, nhưng không khí bên trong thành Giang Đô đã khẩn trương hẳn lên. Lúc nào cũng có thể thấy được những đội binh lính tuần tra võ trang hạng nặng đi dọc phố lớn ngõ nhỏ, kiểm tra bất cứ người và xe ngựa nào khả nghi. So sánh với điều đó, hơn trăm tên nha dịch quận Quảng Lăng và huyện Giang Đô huyện liền lộ vẻ ít ỏi hơn nhiều lắm. Bọn họ cũng tụm năm tụm ba xuất hiện ở đầu đường, nhưng sự tồn tại của bọn hắn lại không hề có ý nghĩa. Cả thành Giang Đô đều đã bị quân đội khống chế rồi.
Lúc giữa trưa, Sở Hành Thủy đầu đội Tử Kim khôi, thân mang áo giáp nhỏ có năm trăm quân thị vệ hộ vệ xuất hiện ở trên bến thuyền chính thức lớn nhất Giang Đô. Nơi này cũng là chỗ tập kết hàng cuối cùng của cả Giang Hoài. Những đám kho hàng thật lớn liếc mắt nhìn không thấy giới hạn, rộng chừng ngàn khoảnh. Trong kho hàng chất đầy lương thực, tiền đồng, muối ăn, lụa là, vải súc để chờ thuỷ vận chuyển đi do hai ngàn quân Hoài Nam của Sở gia canh gác. Vốn binh lính trấn thủ kho hàng này cũng không phải quân đội Sở gia, mà là ngàn tên bảo vệ của Diêm Thiết Giám. Sở gia, quan phủ địa phương, Diêm Thiết Giám vẫn luôn là ba thế lực lớn ở Quảng Lăng. Bình thường cũng không can thiệp chuyện của nhau, cứ ai làm việc người ấy. Nhưng hiện tại đã khác, Sở Hành Thủy đã hạ lệnh quân đội phong tỏa đoàn thuyền lớn thuỷ vận bỏ neo trên bờ Trường Giang, đồng thời tiếp quản tất cả kho hàng của Thuỷ Vận ty. Ngoài kho hàng lớn nhất thành Giang Đô này, việc thuỷ vận đã trở thành một nước cờ cuối cùng của Sở gia, là lợi thế để tiến hành đàm phán với triều đình, mà thực sự là với Trương Hoán.
Mấy tháng trước, Sở gia cùng quân Lũng Hữu có lẽ đồng minh thân thiết nhất, cùng nhau áp chế loạn Thôi Khánh Công. Nhưng chỉ qua ngắn ngủn mấy tháng, mâu thuẫn giữa Sở gia và Trương Hoán liền bắt đầu đột nhiên xuất hiện. Sớm nhất là ngay sau khi Thôi Khánh Công diệt vong, lúc Trương Hoán cự tuyệt yêu cầu của Sở Hành Thủy được khuếch trương thế lực đến Hoài Bắc. Hắn hạ lệnh cho quân đội của Lý Song Ngư chiếm cứ cả vùng rộng lớn về phía bắc sông Hoài, đồng thời cũng niêm phong toàn bộ tiền lương của cải cất vào kho Lạc Dương khiến cho Sở gia sau khi nỗ lực tham gia bình định thì lại không được bồi thường chút nào. Vừa ấm ức quay về Hoài Nam, lập tức Sở Hành Thủy lại muốn yêu cầu cánh quân Lận Cửu Hàn rời khỏi Chiết Tây, nhưng cũng thất bại. Đạo quân của Lận Cửu Hàn không những không đi, vẫn còn tiếp nhận địa bàn cùng binh lực của Hàn Nhi, Bố trí quân đội của mình tại vùng rộng lớn phía nam Trường Giang, nhất là một vạn tinh binh đồn trú ở quận Dư Hàng. Điều này tựa như một con dao gắm sắc bén tỳ vào bụng Sở gia, làm cho Sở gia ăn ngủ không yên. Mà ở trong bố trí lại quyền lực triều đình thì truyền đến tin tức, Bùi gia cùng Thôi gia lại được trọng dụng, còn Sở Hành Thủy mới chỉ vẻn vẹn chuyển làm Hộ Bộ Thượng Thư. Trên thực tế Sở gia bọn họ không có lấy chút xíu ích lợi.
Do Trương Hoán dùng các loại thủ đoạn ra sức chèn ép, Sở gia rốt cục xé bỏ thoả thuận đồng minh cùng Trương Hoán, kiên quyết từ chối yêu cầu của Trương Hoán để Sở gia từ bỏ quân đội, cũng không tiếc dùng phương thức võ lực đối kháng để duy trì lợi ích thiết thân của Sở gia.
Sở Hành Thủy chính là người tích cực khởi xướng dùng võ lực để đối kháng vũ lực. Bởi vì ông ta xem ra, những đại thế gia khác vứt bỏ binh lực đều không hề có ý nghĩa. Nội chiến gia tộc đều đã khiến cho vốn liếng cạn kiệt, việc từ bỏ binh lính trên thực tế tuyệt không có tổn thất gì, ngược lại còn được lợi ích lớn hơn nữa.
Mà Sở gia thì khác, Sở gia cho tới bây giờ không hề chịu thương tổn gì tới Nguyên Khí. Nếu như từ bỏ binh lính liền có ý nghĩa tâm huyết trong vài thập niên hoài phí không công, mà Trương Hoán cũng không có cho bọn họ bất cứ bồi thường gì. Điều này khiến cho Sở Hành Thủy làm sao mà cam tâm cho được.
@by txiuqw4