sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Hồi Thứ Hai Mươi Mốt

Ơn chú Lía như mưa rào nắng hạn

Chu Muội Nương đơn kiếm loạn Truông Mây

*

Đại hạn phùng cam vũ

Tha hương ngộ cố tri

Động phòng hoa chúc dạ

Kim bảng quải danh thì.

Dịch:

Hạn lớn gặp trời mưa

Xa xứ gặp người đồng hương

Đêm động phòng hoa chúc

Bảng vàng có đề tên thi đậu.

Đó là bốn điều thống khoái mà dân gian thường nói tới trong cuộc sống hàng ngày sau những giờ làm lụng vất vả để vơi bớt nỗi cơ cực. Đối với đám dân nghèo lúc này, mà hầu như đại đa số dân bây giờ đang nghèo, còn không nghèo thì cũng gặp cảnh khó khăn, điều vui thú mà họ nói tới là chuyện hành hiệp trượng nghĩa của chú Lía. Những người đứng tuổi khi nói chuyện về chàng Lía, họ không nỡ gọi là thằng Lía vì lúc này Lía chỉ mới ngoài hai mươi tuổi nên họ gọi yêu là chú Lía. Chú Lía cướp của bọn cường hào, ác bá để phân phát lại cho họ nên họ thương, họ ca tụng người anh hùng và cũng là ân nhân của họ không hết lời. Trong thời buổi nhiễu nhương, kỷ cương tan nát, quan lại bóc lột, ức hiếp, sưu cao thuế nặng, hạn hán mất mùa... đủ mọi thứ khổ chụp xuống đầu đám dân đen, hoàn cảnh như thế mà lại xuất hiện một người hiệp sĩ cứu khốn phò nguy như chú Lía thì quả đúng là đại hạn gặp mưa rào.

Năm Đinh Sửu 1757, cửa Tư Dung, một cửa khẩu quan trọng bậc nhất của kinh đô Phú Xuân, sau một cơn động đất dữ dội đã bị khép nhỏ lại và lấp cạn. Có nơi núi sập lở, chuột đồng xuất hiện hàng hà sa số ở nhiều địa phương, chúng phá nát mùa màng cùng hoa màu, sau đó gây bệnh dịch tràn lan. Một thầy sãi bị quan quân chúa Nguyễn, hay nói đúng hơn là quan quân của quan ngoại tả Trương Phúc Loan bắt đem chém đầu chỉ vì đã khẳng định rằng: “Những hiện tượng núi sập, cửa Tư Dung bị lấp, chuột đồng xuất hiện... chỉ là những cảnh báo cho nhiều điều sắp tới xảy ra còn tệ hại hơn nhiều như: lửa cháy khắp nước, loạn lạc, dân chết vì dịch lệ, nạn đao binh...”. Lại có một ông đạo sĩ 80 tuổi khác từ một vùng núi phía Nam khẳng định: “Chỉ có đến tám đời Chúa thôi, không hơn, cho đến khi núi biến thành đồng, cửa biển bị lấp, người quanh ta chết tiệt để cho lớp người mới đến thay thế và vương quốc sẽ chuyền tay người khác...”.

Những hiện tượng xấu của thiên nhiên xảy ra, những lời khẳng định của một số người có thế lực tinh thần như các thầy sãi, ông đạo đã một lần nữa làm cho dân chúng hoang mang, nhắc nhớ lời sấm truyền lúc trước: “Chỉ đến tám đời Chúa thôi sẽ trở về Trung Đô” và họ tin rằng lời sấm đó sẽ linh nghiệm. Nhân tâm xao động, triều chính rối ren, nạn mua quan bán tước diễn ra thường nhật trong hệ thống cai trị. Đứng đầu là Trương Phúc Loan, hắn đã đưa một lớp người tham lam, ngu ngốc, bất tài lên cầm quyền. Chúng bỏ tiền ra mua chức tước rồi tìm cách vơ vét của công hoặc bóp họng dân đen mà lấy lại, để gỡ cả vốn lẫn lời. Dân chúng cơ cực kêu trời không thấu, từ đó mất lòng tin vào phủ Chúa, dẫn đến cảnh đất nước loạn ly, giặc cướp nổi lên như rạ. Chỉ trong phủ Quy Nhơn đã có ba bọn cướp lớn: Ngưu Ma Vương và Tập Đình, Lý Tài ở ngoài biển; Bá Bích thành ở Tây Sơn với hai tên đầu đảng Cha Pon, Cha Sót người Chiêm và Truông Mây ở Phù Ly của cha Hồ, chú Nhẫn; chưa kể những tên cướp cạn ban ngày thì hằng hà sa số. Trong tình hình điên đảo như vậy, chú Lía xuất hiện như một hiệp sĩ cứu khốn phò nguy, thật đúng là điều thống khoái chẳng khác nào kim bảng đề danh.

Nhắc lại chuyện Lía theo cụ Bạch học võ trên núi Trưng Sơn, thấm thoắt mà đã bảy năm trôi qua. Bảy năm dùi mài tu luyện bằng tất cả lòng ham học và căn cốt trời ban, Lía đã thụ đắc được hết sở học bình sinh của cụ Bạch. Dường như quá mãn nguyện vì đã tìm được một truyền nhân xuất sắc cho môn võ gia truyền của mình nên khi Lía thành tài cũng là lúc cụ Bạch lìa trần. Lía thương tiếc vô cùng, lập mộ cho thầy ngay trước gian nhà trúc. Sau đó chàng lần xuống chân núi bốc mộ của mẹ, mang hài cốt lên chôn phía sau nhà cạnh dòng suối. Chàng ở lại chăm sóc hai ngôi mộ ba tháng mới bái tạ xuống núi.

Người mà chàng tìm đến đầu tiên là Bưu, thằng bạn thân nhất ngày xưa. Bảy năm không gặp, nay Lía đã trở thành chàng thanh niên cường tráng với hai đuôi tóc tết xoắn dài quá mông khiến Bưu không thể nào nhận ra, đứng trố mắt nhìn trân. Lía thấy Bưu không nhận ra mình thì cười ha hả nói:

- Không nhận ra tao hả? Lía đây. Phú Lạc vương mà ngày xưa bọn bay hay gọi đây.

Bưu sững người một lúc nữa rồi nhảy cẫng lên mừng rỡ:

- Lía! Trời ơi, đúng là mày rồi! Mày còn sống hả? Gặp lại mày tao mừng quá. Lâu nay mày đi đâu sao không tìm tao?

Bưu ôm chầm lấy bạn, nỗi vui mừng không sao kể xiết. Lía nói:

- Thong thả tao kể mày nghe. Mẹ mày khỏe không? Bọn thằng Sứt, thằng Nhạc bây giờ thế nào?

Bưu buồn rầu đáp:

- Mẹ tao bệnh, thằng Nhạc và ông thầy thuốc nam giúp cho bao nhiêu thuốc cũng không khỏi, đã mất hồi năm ngoái rồi. Thằng Sứt cưới con Lé lúc trước ở đợ cho nhà ông Hương chỉ, vợ chồng nó cất một căn nhà nhỏ trong vườn nhà cũ của thằng Nhạc, vừa ở vừa coi chừng nhà cho thằng Nhạc. Sau khi mày bỏ trốn, ông Phúc bị chúng bắt bỏ tù, phải lo lót tiền mới được thả ra. Thằng Nhạc phải bỏ học ở Bằng Châu về phụ cha buôn bán vì sau lần bị bắt, ông Phúc suy nhược dần. Ổng dời nhà xuống Kiên Mỹ, vài năm sau cũng mất, thằng Nhạc phải thay cha đảm đương mọi việc.

Lía nghe chuyện thở dài:

- Chia buồn với mày về bác gái nhé. Lỗi cũng ở tao một phần. Ông Phúc sống rất có tình có nghĩa, người tốt như vậy sao lại chết sớm thế? Mày thấy ông trời có bất công không?

Bưu gật đầu:

- Ừ, như cha con thằng Đằng đó, nịnh hót cấp trên nên giờ cha nó đã làm xã trưởng xã mình, còn thằng Đằng thì thay cha làm đốc trưng trông coi việc thu lúa cho huyện. Hống hách hết chỗ nói luôn. Thằng Nhạc bị nhà lão soi mói làm khó đủ điều. Mà mấy người gian ác như vậy thì cứ sống nhăn ra để hà hiếp bọn cu đen như mình mới ghét chứ.

- Mình ghé thăm vợ chồng thằng Sứt đi. Tụi nó làm ăn được không?

- Được. Nó được thằng Nhạc giao cho một mẫu ruộng để làm, thu hoạch được bao nhiêu thì hưởng, rồi coi ngó giúp bốn mẫu ruộng còn lại cho thằng Nhạc. Tao cũng được thằng Nhạc giao cho năm sào, phụ với thằng Sứt canh tác phần còn lại đó cho nó.

- Vậy là hai đứa bay yên chí rồi. Thằng Nhạc thật tốt. Nó buôn bán khá không?

- Rất khá. Nó đang bỏ tiền mua rẫy trên Tây Sơn thượng rồi thuê người lên đó canh tác. Nhiều việc quá nên nó bận như con ong thợ đi tìm mật vậy.

- Mày ví von hay quá há. Đi thăm thằng Sứt một chút rồi xuống thăm thằng Nhạc. Tao phải cảm ơn gia đình nó một tiếng.

- Thằng Sứt giờ chắc đang ở dưới Trường Trầu phụ việc cho thằng Nhạc. Mày không nên xuống đó. Lệnh truy nã mày vẫn còn dán ở khắp nơi, ở Trường Trầu có lính canh, mày xuống mà bị chúng phát hiện được thì mệt lắm. Để tao chạy xuống gọi tụi nó lên. Đêm nay, mình uống một trận thật đã để mừng ngày mày trở về nghen. Tao đi rồi mày ở yên đây đừng đi đâu nghen, cái đám nhà thằng Đằng mà thấy mày là nó hô hoán lên liền đó.

Lía thở dài:

- Ừ. Cũng được. Xứ sở này, xã hội này không thừa nhận tao, thôi đành vậy. Mà tao cũng cóc cần. Có khi tao phải đập nát nó ra để xây dựng lại cái khác cũng không chừng.

- Mày đi đâu? Mày tính làm gì?

Hai mắt Lía long lanh sáng. Bưu đọc được sự căm tức trong ánh mắt đó. Lía nói:

- Tao cũng chưa biết. Xuống đồng bằng thì bọn cầm quyền đuổi bắt, cuộc đời tao giờ chỉ còn núi rừng là nơi có thể dung thân mà thôi.

Bưu nhìn bạn ái ngại:

- Làm gì thì làm, đừng làm ăn cướp nghen Lía. Như bọn cướp người Chiêm ở thành Bá Bích bên kia sông, chúng ăn cướp, hãm hiếp đàn bà thật chẳng thua gì cầm thú.

Lía nghe nói giật mình:

- Thật vậy à? Chúng hoạt động bao lâu rồi?

- Chừng năm sáu năm nay. Đám quan quân chết nhát của huyện Tuy Viễn chỉ giỏi bắt nạt dân lành, còn bọn cướp hung ác kia thì cứ mỗi lần kéo quân đi lại kéo quân về, chẳng làm nên tích sự gì cả. Bọn cướp vẫn hoành hành tác quái, chẳng kiêng nể gì ai.

- Chúng đông lắm à?

- Nghe thiên hạ đồn bọn chúng khá đông. Địa bàn hoạt động của chúng rộng lắm, cả miệt tả ngạn sông Côn xuống khỏi An Thái, lên cả Tây Sơn thượng.

Lía mỉm cười:

- Vậy là tao có việc làm rồi.

Bưu ngạc nhiên hỏi:

- Mày định làm gì?

- Đập cho bể đầu bọn cướp khốn kiếp đó chứ làm gì nữa.

Bưu trợn mắt:

- Mày nói giỡn chơi hả Lía? Cả đám quan binh kéo tới kéo lui mãi còn chưa dẹp được chúng, một mình mày thì làm được gì?

- Bọn quan binh vừa chết nhát vừa bất tài nên thế. Đánh rắn chỉ cần đánh dập đầu là xong. Mày coi tao nhé. Tao mà không dẹp được bọn cướp đó thì sao có thể xứng với cái danh Phú Lạc vương mà tụi bay tặng lúc xưa.

- Ngày xưa bọn tao gọi đùa vậy thôi. Mày đừng làm liều, nguy hiểm lắm đó.

- Đằng nào tao cũng không có lối đi. Làm một việc gì đó có nghĩa lý giúp bà con rồi ra sao thì ra. Nhưng mày cứ an tâm đi. Ê, mà sao thằng Sứt có vợ còn mày thì chưa? Thằng Nhạc nữa, nó có vợ chưa?

- Thằng Sứt tính nó an phận nên cưới con Lé. Thằng Nhạc thì cưới con gái của ông Trần Kim Báu, cháu nội của võ sư Trần Kim Hùng ở Trường Định. Còn tao, không biết tao học cái thói trèo cao từ lúc nào mà bỗng mê say con gái nhà ông hương chỉ. Mê để mà mê thôi chớ làm sao tao với tới. Đến khi nàng lấy chồng, ôm mối tương tư, từ trên cao té xuống mới biết mình dại. Đau nhưng mà thú. Hề hề...

Lía cũng bật lên cười ha hả:

- Hay lắm! Không ngờ mày vậy mà hay. Dám yêu rồi dám khổ vì yêu. Ha ha... Tao chịu mày đó.

Bưu xấu hổ:

- Hay cái con khỉ gió! Bây giờ ở giá nằm không đây, mày không thấy sao?

- Nằm không thì nằm chớ đã chết ai. Đêm đêm uống rượu nhớ nàng. Chà, tao mà là thi sĩ tao sẽ làm tặng cho mày một bài thơ.

Bưu ngạc nhiên nhìn bạn:

- Lâu nay mày học ở đâu ra mà ăn nói chữ nghĩa hay thế?

- Chứ mày học ở đâu ra cái tính mơ mộng trèo cao thế?

Hai thằng nhìn nhau cười xòa. Lía nhớ lời thầy dặn nên không nói tới việc mình theo thầy học võ, học chữ bảy năm nay. Cụ Bạch không muốn ai biết đến việc ông đã từng sống và chết ở Trưng Sơn này.

Trời sắp sập tối, Bưu chạy xuống Trường Trầu kêu Sứt và Nguyễn Nhạc lên nhà. Sứt nghe Lía còn sống trở về nó mừng còn hơn cha chết sống lại. Nó vội vã thu xếp mọi việc rồi hối Bưu và Nhạc đi gấp. Nguyễn Nhạc cũng mong gặp lại Lía lắm nên ba chàng trai bèn mang rượu và thức ăn theo. Sứt gặp lại Lía, ôm vồ lấy khóc rưng rức. Lía cảm động trước mối chân tình của thằng bạn cùng khốn thời nhỏ dại, mắt chàng cũng rươm rướm. Sứt hỏi dồn liên tục một hơi:

- Lâu nay mày đi đâu? Làm gì? Chắc là cực khổ lắm phải không? Bây giờ mày tính sao?

Lía cười:

- Mày để tao chào ông thầy Nguyễn Nhạc của tao đã chứ. Hỏi nhiều như vậy tao trả lời sao kịp?

Sứt quẹt nước mắt cười:

- Xin lỗi mày. Gặp lại được mày tao mừng quá nên quên hết mọi chuyện.

Nguyễn Nhạc cười nói:

- Thằng Sứt nó giành hết, làm tao đứng thừa thãi nãy giờ.

Nói rồi Nhạc cũng ôm chầm lấy Lía. Lía đẩy Nguyễn Nhạc xích ra, ngắm một lúc rồi cười ha hả:

- Ông thầy võ tí hon của tao giờ đã trở thành chàng thanh niên hiên ngang, bảnh trai rồi đây. Chà, nhanh thật! Nghe Bưu nói ông thầy giờ làm ăn khá giả lắm phải không? Chừng nào làm cha?

- Tao đã làm cha rồi, sơ sơ mới có hai nỡm thôi, hì hì... Mày làm ơn bỏ cái tiếng thầy giùm tao được không? Coi như tụi mình lúc còn ở truồng tắm sông đi. Mày tao cho nó sướng cái miệng.

Bưu đang bày thức ăn ra chiếc chiếu trải ngoài sân cũng lên tiếng chen vào:

- Đúng vậy! Dù cho tới già, mấy đứa mình cũng nên giữ cái tiếng mày tao cho nó thân thiết. Làm mẹ gì mà phải khách sáo. Phú Lạc vương, Tây Sơn vương gì gì đó chỉ là tiếng gọi đùa lúc bọn mình còn nhỏ. Nhưng mà sau này dù hai đứa bay có làm vương làm tướng thiệt đi nữa tao cũng chỉ muốn gọi mày tao thôi. Ê, tao nói vậy đúng không Nhạc?

Nguyễn Nhạc cười:

- Đúng, đúng! Giá mà thằng Lía nó làm vương, mình tới gọi nó bằng thằng chắc bọn hầu cận của nó giận lắm. Ê, mà thôi đừng mơ nữa. Xong chưa Bưu, mình uống rượu mừng thằng Lía trở về. Tao muốn nghe nó kể lại khoảng thời gian bảy năm qua quá rồi.

Bốn người bạn ngồi trên chiếu giữa sân dưới ánh trăng sáng tỏ chốn đồng quê. Nhạc rót rượu ra mấy cái bát đất bảo:

- Uống cạn bát này mừng ngày đoàn tụ.

Bốn người cạn bát, Sứt nhắc:

- Kể đi Lía! Bao nhiêu năm nay mày làm gì, ở đâu?

Lía rót rượu ra rồi nâng bát lên mời ba thằng bạn, uống một hơi cạn sạch mới đáp:

- Lúc tao trốn vào rừng sâu, lang thang trong đó một thời gian may sao gặp được một ông lão nhận làm học trò dạy võ nghệ từ đó đến nay.

Lía vỗ vào tấm áo da cọp đen nói tiếp:

- Cũng nhờ tao liều mạng giết chết con cọp đen này cứu ông lão nên mới có được cái duyên thầy trò. Sự đời may rủi, rủi may vô chừng quá phải không?

Nhạc nói:

- Đúng vậy, trong họa gặp phúc. Vậy là giờ đây với thiên khiếu bẩm sinh của mày, chắc mày đã thụ đắc được một bản lãnh kinh người rồi phải không? Cái ước mơ đánh khắp thiên hạ vô địch thủ của mày chắc là thành rồi đó.

- Võ học mênh mông, làm sao dám nói đánh khắp thiên hạ vô địch thủ? Tao chỉ cần đủ sức để đánh đổ cường quyền, trừng trị bọn tham quan, ác bá giúp đỡ dân nghèo là tao mãn nguyện rồi.

Nhạc vỗ tay khen:

- Hay lắm! Có tài mà không cậy, đó mới thật là người tài. Tao uống với mày câu nói này một bát đầy.

Nói rồi rót hai bát rượu đầy. Bưu la lên:

- Ê, đâu có được uống riêng vậy. Tao cũng uống với nó về câu nói đó nữa.

Sứt cũng không chịu thua:

- Tao nữa chớ! Tao cũng thấy thằng Lía nói câu đó thật là chí lý.

Lía cười khà khà:

- Vậy thì cả bốn thằng hám rượu cùng uống cả đi, khỏi tranh giành.

Bốn người cùng cười lớn rồi uống sạch bát. Lía hỏi:

- Mày thì sao Nhạc? Trước hết cho tao kính hương hồn bác trai về sự giúp đỡ mẹ tao lúc lâm chung. Mày đảm đương công việc thay bác chắc bận bịu lắm hả? Bác gái và hai chú nhóc Lữ, Huệ cùng cô Hoa em của mày ra sao rồi?

Nhạc xua tay:

- Mày đừng để tâm đến chuyện ơn nghĩa. Lối xóm mọi người đều giúp một tay mà. Mẹ tao còn khá, hai thằng nhóc em nay đã chín, mười tuổi rồi. Tao gởi chúng xuống nhà bác Nhưng bắt đầu học võ dưới Bằng Châu. Thằng Lữ hiền bao nhiêu thì thằng Huệ phá bấy nhiêu. Mà đặc biệt nó lại có khiếu học võ giống mày lắm. Bây giờ nhà tao phải gọi nó là thằng Bình. Con Hoa đã lấy chồng, có hai đứa con rồi. Nó lấy thằng Sáu Bá em của Năm Ngạn bạn tao.

- Mừng cho gia đình mày. Một thân võ nghệ mà không có chữ nghĩa, đầu óc như tao thì cũng chẳng nên cơm cháo gì. Mày ráng cho thằng Huệ học chữ nghĩa nữa thì võ nghệ mới thực sự diệu dụng. Mà sao phải đổi tên Huệ của nó vậy?

- Chị dâu nó tên Huệ thì nó phải đổi tên chớ.

Sứt nói:

- Mày còn có trái tim nữa Lía. Trái tim mới là quan trọng. Tao thấy nhiều người chữ nghĩa nhiều nhưng ác còn hơn quỉ sứ.

Lía cười đùa:

- Tao không có trái tim thì làm sao thương mày được?

Rồi hỏi Nhạc:

- Tình hình lúc này ra sao Nhạc? Mày buôn bán đi lại nhiều nơi chắc nắm rõ được nhiều việc phải không?

Nhạc chán nản đáp:

- Tồi tệ. Tồi tệ chưa từng thấy. Tệ từ trên cao tệ xuống. Bây giờ cái nạn mua quan bán tước nó phổ biến như là đi chợ vậy, khỏi cần học hành thi cử làm gì cho mệt. Có tiền hả? Được, bán cho mày cái chức. Tiền nhiều, chức lớn, tiền ít, chức nhỏ. Thế thần càng lớn, địa vị càng cao. Có tiền hả? Khỏi đi lính, để mấy đứa nghèo nó đi, già yếu bệnh tật gì cũng mặc kệ. Mà bỏ tiền ra mua quan, mua chức thì khi làm quan mày phải tìm cách thu hồi lại chứ, đúng không? Thế là cả một hệ thống từ trên phủ Chúa, đứng đầu là quan ngoại tả, xuống cho tới xã trưởng, như lão đốc trưng cha thằng Đằng đó, đều thối nát cả. Hai cha con nhà nó có chữ nghĩa gì đâu, vậy mà bây giờ thằng Đằng thì thay cha coi lo thuế má trên huyện, lão đốc thì về làm xã trưởng, hét ra lửa ở vùng này. Dốt đặc, bất tài! Bọn quan lại bây giờ chỉ biết ăn của đút lót và bóp họng dân đen thôi. Nói tới chuyện làm lợi cho dân cho nước hả, tao đố mày kiếm ra được một thằng! Có tiền tội nhẹ, không có tiền mọt gông. Thử bây giờ mày mà có một đống vàng trải từ xã lên phủ coi, tụi nó chẳng những tha tội, đốt bỏ liền cái hồ sơ giết quan giết lính gì đó của mày mà còn vái lạy mày nữa kìa.

- Rồi dân làm sao sống, những người buôn bán như mày làm sao tránh khỏi tụi nó mè nheo?

Nhạc uống một bát rượu rồi cười khẩy:

- Thì chịu khó lo lót thôi. Thằng nhỏ tới thì lo ít, ông lớn xuống thì lo nhiều. Im mẹ cái mõm tụi nó hết liền. Còn dân đen hả? Nếu mày nhìn thấy chồng sổ nợ thuế của bà con mình ở đây mày té xỉu liền. Đồng tiền bây giờ mất giá lắm, bà con mình làm lúa, mùa trúng có dư chút đỉnh đem bán được mấy trăm quan tiền kẽm vác muốn còng cả lưng nhưng về mua không được thứ gì cho đáng giá cả. Chưa kể mấy năm mất mùa thua trắng thì ôm cái bụng đói mà la trời không thấu. Có dịp mày xuống vùng chợ An Thái hay ghé phủ lỵ Quy Nhơn mà coi, ăn mày bây giờ nhan nhản, đa số họ từ Đàng Ngoài chạy vào. Đàng Trong mình cũng bắt đầu sản xuất ăn mày rồi đó. Cả ăn cướp nữa chứ.

Lía thở dài, ánh mắt long lên tia uất hận:

- Rốt cuộc đám dân đen bọn mình là khổ nhất.

Bưu bỗng chen vào:

- Cục cứt lăn từ trên cao xuống, đó là qui luật tự nhiên mà.

Lía hỏi:

- Tại sao tự dưng đang yên ổn lại trở nên loạn xà ngầu vậy?

Nhạc ngước mặt nhìn lên vầng trăng, giọng nhỏ lại chỉ đủ bốn người nghe:

- Trăng khuyết rồi lại tròn, tròn rồi lại khuyết. Làm như vầng trăng của phủ Chúa đã bước sang ngày hăm mốt, hăm hai nên bắt đầu khuyết đi. Mà nguyên nhân chính chỉ tại ở một người: quan ngoại tả Trương Phúc Loan! Dân gian gọi lão là Trương Tần Cối. Dối chúa, tham lam, lũng đoạn, phe cánh, quyền hành... không thiếu một tật xấu nào. Một người mà có thể làm khổ hàng vạn người, hắn ta quả đáng để mình nể sợ.

- Đã vậy sao không cắt cổ hắn đi, như thế thì có phải cả nước được yên không?

Sứt giật mình nói nhỏ:

- Mày đừng nói những lời đó. Người khác mà nghe được thì mày sẽ bị chém đầu ngay tức khắc đó.

Lía cười:

- Tao không nói thì cũng đã bị tụi nó tuyên chém rồi, còn sợ cái gì nữa.

Nhạc nói:

- Thời buổi này không phải là một người làm một người chịu đâu. Liên lụy cả đám đó. Ý của mày cũng hay, nhưng hơi muộn rồi. Võ vương bây giờ chẳng khác nào Lý Cao Tông thời suy tàn của nhà Lý vào những năm đầu thế kỷ mười ba. Lòng dân giờ đã quá xao động, hoang mang rồi. Thiên tai, núi sập, cửa biển lấp, dịch bệnh, mất mùa, những lời sấm xấu... đủ thứ điềm báo không may xuất hiện trong mấy năm qua khiến dân chúng vô cùng lo sợ, lòng tin vào phủ Chúa đã thật sự lung lay. Trong khi đó Võ vương chỉ biết suốt ngày đắm chìm trong trụy lạc cùng bà quý phi Ngọc Cầu nơi cung Trường Lạc, không quan tâm gì tới chính sự, dân tình. Chỉ e...

Lía tiếp lời:

- Mày sợ sẽ có chiến tranh, đổi đời hả?

- Mày cũng nhạy bén với vấn đề này đó chứ. Mày thấy sao?

- Tao như thằng khờ mới xuống núi, đã nhìn thấy gì đâu mà thấy sao. Mày có mộng làm Tây Sơn vương mà, mày thấy sao?

Nhạc cúi xuống rót rượu, tránh tia nhìn của Lía, đáp:

- Tao suốt ngày buôn bán lo cho mẹ và hai đứa em tới đầu tắt mặt tối, nghe vậy, thấy vậy nhưng chỉ để mà vậy thôi chứ làm con mẹ gì được, nghĩ chi cho mệt.

Bưu chợt hỏi:

- Mày thuê cả đống người lên Tây Sơn thượng khai rừng mở rẫy trên đó làm gì mà nhiều vậy? Không phải để làm Tây Sơn vương à?

Nhạc nghe Bưu hỏi giật mình gạt ngang:

- Mày nói bậy là cả nhà tao chết chém hết đó thằng quỉ sứ. Quyền cao như quan Hình bộ Tôn Thất Dục, lại là vai hoàng thúc nữa mà còn bị vu oan suýt bỏ mạng trong tù đó mày không thấy sao. Thời buổi này bọn nó chụp cái mũ phản loạn vào là nhà cửa sạch trơn, suốt đời lao lý. Bọn bay phải hết sức cẩn thận mới được. Nhà thằng Đằng mà nghe mày nói câu đó chắc bọn nó cúng cái đầu heo lớn.

Bưu nghe Nhạc nói sự tình nghiêm trọng như vậy thì vội xin lỗi:

- Xin lỗi, tao chỉ hỏi chơi vậy thôi. Tao không nói bậy với ai đâu.

Nhạc cười, sự căng thẳng trên khuôn mặt cũng giãn bớt ra:

- Đó là vùng nương rẫy tình thương. Tao thấy bà con nhiều người đói rách quá không biết làm gì nên mua rẻ lại đất của người Bana để cho họ có việc làm, kiếm miếng ăn.

Lía thấy Nhạc không muốn nói nhiều về việc này nên hỏi:

- Nghe nói bọn cướp ở Bá Bích thành lộng hành tác yêu dữ lắm hả Nhạc?

Nhạc đáp:

- Đúng vậy. Hai anh em tên đầu đảng Ma Pon và Ma Saot mà bọn lâu la gọi là Cha Pon và Cha Sót thuộc nhóm người Côn Man bị bọn Cao Miên đuổi giết vào năm Ất Hợi 1755 ở biên giới Việt – Miên. Thay vì theo quân Chúa Nguyễn xuống định cư ở vùng Cửu Long Giang thì chúng lại dẫn vài tên bộ hạ chạy ra vùng này làm ăn cướp. Miệt tả ngạn sông Côn bị chúng cướp bóc liên tục, còn hãm hiếp đàn bà, phụ nữ nữa, thật chẳng còn coi vương pháp ra gì!

- Chúng giỏi võ lắm à?

- Tên Ma Pon đó võ công rất cao, lối đánh cũng rất kỳ lạ, dường như là võ thuật của bọn Xiêm La.

Lía ngồi im không nói gì. Đêm đó, bốn người bạn uống rượu đến gần sáng mới bịn rịn chia tay. Lía không muốn các bạn mình lo lắng nên khi từ biệt đã nói dối rằng sẽ về thăm lại quê cha.

***

Thành Bá Bích là ngôi thành nhỏ của người Chiêm Thành thuở xưa, nay đã đổ nát hoang tàn. Thành nằm trong vùng núi hiểm trở bên bờ hạ lưu sông Đá Hàng, còn gọi là sông Kút, gần suối Hầm Hô. Lía từ biệt bạn, một mình mang theo thanh Đoạn Hồn đao của thầy truyền lại tìm đến sào huyệt bọn cướp. Ba tên lâu la canh giữ bên ngoài thấy có người lạ mặt tiến vào thành liền chặn đường lớn tiếng hỏi:

- Ê tên kia, không biết đây là nơi cấm địa hay sao mà xông vào vậy? Muốn toi mạng hả con?

Lía khoanh tay trước ngực hỏi:

- Bọn bay mua vùng đất này rồi à?

Tên lâu la thấy tướng mạo uy dũng của Lía, lại ăn nói kiểu nhát gừng như chẳng coi chúng vào đâu nên cũng hơi chột dạ. Nhưng vì nghĩ đây là sào huyệt của mình nên nói cứng:

- Không cần mua! Bọn tao cứ khoanh vùng lại thành cấm địa, kẻ nào xấu số tiến vào là toi mạng, mày biết chưa?

Lía mỉm cười:

- Vậy để tao cứ tiến vào thử xem có toi mạng hay không nhé?

Nói rồi hai tay vẫn khoanh trước ngực, chàng ung dung tiến thẳng vào. Ba tên cướp thấy vậy liền rút đao ra thủ thế. Một tên la lớn:

- Ngươi muốn chết thật à?

Lía chẳng thèm để ý mà cứ thản nhiên bước tới. Ba tên cướp liền bao vây chàng lại rồi đồng loạt vung đao tấn công. Lía hất đầu một cái, hai đuôi tóc của chàng tung bay tạo thành một vòng tròn quất thật mạnh vào tay ba tên cướp, ba thanh đao trên tay chúng vụt văng ra xa. Chàng tiếp tục bước vào bên trong, bỏ mặc ba tên cướp đứng chết trân vì kinh ngạc và sợ hãi. Phải mất một lúc thì một tên trong bọn mới định thần lại được, vội chạy lại gõ vào cái phèng la báo động.

Nghe tiếng phèng la báo động inh ỏi, mười mấy tên cướp từ bên trong xách vũ khí chạy ra, xếp thành một hàng trước kẻ lạ mặt đang khoanh tay đứng hiên ngang. Ba tên gác cổng vội chạy đến nói với tên đứng giữa:

- Cha Sót, tên này ở đâu xông vào, bọn em chặn lại nhưng bị hắn đánh có một chiêu đã bay mất vũ khí. Cha Sót trị hắn đi.

Ma Saot trợn mắt chửi:

- Ăn hại! Ba đứa mà không chặn nổi một thằng khùng này à? Cút ra!

Rồi hắn hất hàm hỏi:

- Ngươi là ai? Ở đâu dám tới đây sinh sự với bọn tao? Kể ra gan mày cũng lớn lắm đó chứ.

Lía đáp:

- Tao từ trên trời xuống. Không phải đến đây để sinh sự mà là để đập bể mấy cái đầu thú vật của bọn bay. Mày là Ma Saot phải không? Kêu thằng Ma Pon ra đây luôn cho tao.

Ma Saot nghe tên lạ mặt ăn nói hống hách thì giận đỏ mặt tía tai. Hắn hét lớn:

- Thằng điên này chắc chán sống rồi. Năm Sức, mày vặn họng nó lại để cho nó hết nói bậy.

Năm Sức nghe Ma Saot ra lệnh liền bước tới. Hắn cao lớn dềnh dàng, bắp thịt trên hai cánh tay trần nổi lên cuồn cuộn, trông rất lực lưỡng. Năm Sức không nói tiếng nào, hắn gồng hai tay xông vào chụp ngay cổ của Lía. Lía quơ nhẹ một tay, dùng nhu thuật vuốt vào tay hắn rồi đẩy qua. Thân hình to lớn như trâu của Năm Sức bị kéo ngang, đâm đầu mất đà lao tới trước mấy chục bước mà không sao dừng lại được. Chẳng những Năm Sức mà cả bọn cướp đứng đó trông thấy đều hết sức ngạc nhiên. Xưa nay Năm Sức nổi tiếng mạnh hơn cọp, vậy mà chỉ một cái đẩy tay nhẹ của tên lạ mặt thôi là hắn đã cắm đầu dúi về trước không cưỡng lại được. Việc xảy ra cứ y như tên lạ mặt này vốn là người trời như hắn đã tự xưng vậy.

Năm Sức giận lắm, hắn quay người lại gầm lên một tiếng rồi phóng người nhắm thẳng vào Lía, hai bàn tay hộ pháp của hắn mở ra sẵn sàng bóp nát cổ địch thủ. Nhưng hắn vừa đến gần thì Lía đã lắc đầu một cái, hai đuôi tóc của chàng bay ra quấn vào hai tay Năm Sức. Sau chàng xoay người hất mạnh, cả thân hình đồ sộ của hắn bắn vào vách thành đánh sầm một cái, vách tường đổ xuống ào ào. Năm Sức nằm yên một đống cạnh đống gạch đất.

Bây giờ, sự kinh ngạc ban đầu đã trở thành sự kinh hoàng trên nét mặt của cả bọn cướp. Ma Saot rút thanh đao ra cầm trên tay, bọn lâu la thấy vậy cũng rút hết vũ khí ra lăm lăm bao vây Lía. Chàng nhìn Ma Saot gằn giọng:

- Tao đã nói kêu thằng Ma Pon ra đây, tao chấp luôn hai anh em mày. Nếu trong vòng mười chiêu mà tao không hạ được hai anh em mày thì tao xá ba xá rồi bỏ đi ngay. Kêu nó ra đi! Tao không muốn giết bọn lâu la tôm tép này.

Ma Saot chưa kịp trả lời thì từ bên trong cửa thành có tiếng cười thật lớn vang ra:

- Ha ha... Khẩu khí này chỉ có người trên trời xuống mới nói ra được. Ta nghe đã tai lắm. Ha ha...

Tiếng cười chưa dứt thì một người đàn ông ngoài ba mươi tuổi, nước da ngăm đen, khuôn mặt đỏ tía với hàm râu quai nón rậm đã xuất hiện. Thân hình hắn to lớn, hùng dũng, bước đi vững vàng. Lía liếc nhìn hắn, chàng nghĩ thầm: “Tên này chắc khỏe lắm đây, trông tướng của hắn cũng đáng mặt anh hào lắm.”

Ma Pon bước ra sân, bọn cướp liền dạt ra hai bên nhường lối rồi đồng thanh cúi đầu hô lớn:

- Chào Cha Pon!

Ma Pon không để ý đến bọn thuộc hạ, hắn nhìn Lía hỏi:

- Ngươi từ trên trời xuống nộp mạng à?

Lía gật đầu đáp:

- Từ trời xuống để đập bể đầu bọn thú vật cướp của giết người lũ bay chứ không phải để nạp mạng.

Ma Pon ngửa mặt cười cuồng dại:

- Nói hay lắm! Đơn đao vào vùng cấm địa của bọn ta, còn dám buông lời xấc láo như vậy thì thật đáng khen! Đáng khen!

- Khỏi khen! Hai anh em ngươi cùng vào một lúc hay đợi ta giết từng thằng?

Ma Pon giờ đã nổi giận thật sự, hắn lớn tiếng:

- Một mình ta cũng đủ bẻ cổ tên xấc láo ngươi rồi!

Lía tự nãy giờ đã nảy sinh ra một chủ ý mới nên chàng quyết định làm cho bọn cướp này phải tâm phục khẩu phục. Chàng nói:

- Một mình ngươi thì trong vòng năm chiêu nếu ta không hạ được thì ta xin xá ba xá, kêu ba tiếng Cha Pon rồi ra đi không bao giờ bén mảng trở lại đây nữa.

Ma Pon nghe địch thủ nói chắc như vậy, lại thấy tướng mạo của Lía như thiên thần trong lòng cũng hơi hoảng nhưng hắn không tin trên đời lại có người có thể hạ mình trong vòng năm chiêu nên cười hề hề nói:

- Ta thích tính cách của ngươi lắm. Nếu ngươi thua thì cứ ở lại đây làm đàn em của ta cũng được.

- Được! Quân tử nhất ngôn! Ngươi muốn đấu quyền cước hay vũ khí?

Ma Pon tự tin vào đường quyền tuyệt diệu của cung đình Xiêm La nên đáp:

- Quyền cước!

- Tốt! Mời!

Ma Pon cởi phăng áo, quăng cho bọn thủ hạ. Trên bộ ngực trần của hắn có nhiều hình xăm chằng chịt. Hắn bước tới đứng đối diện với Lía, hai tay chắp lại để trên trán như vái Phật, đó là kiểu chào nhau trước khi giao đấu của người Xiêm La. Lía cũng ôm quyền chào đáp lễ. Ma Pon bỗng hạ người thấp xuống hét lớn:

- Ta ra tay đây!

Hắn lướt nhanh người tới, bàn tay trái biến thành cương đao xỉa nhanh vào mặt còn cùi chỏ tay phải thì đánh thốc từ dưới lên cằm của địch thủ. Lối đánh nhập nội, ra đòn ngắn của hắn thật thần tốc và hiểm hóc. Lía bước chéo chân qua bên trái để cho cùi chỏ của Ma Pon lướt sát mặt mình. Chàng định dùng tay trái vỗ vào đầu Ma Pon nhưng hắn đã chuyển nhanh tay phải, giật ngang cùi chỏ vào ngực Lía, đầu gối chân phải xốc lên thúc vào hạ bộ của chàng. Cú đánh thật gọn gàng, nhanh chóng và kín đáo, Lía giật mình bước thoái lui thoát khỏi mấy đòn đó, miệng la lớn:

- Quyền hay!

Ma Pon xuất chiêu lợi thế đời nào bỏ lỡ tiên cơ, hắn lao nhanh vào người Lía. Từ trên cao hắn đánh mạnh đòn tay trái vào đầu địch thủ, còn tay phải đánh móc từ dưới sườn thốc lên, đồng thời là cú đá tạt ngang hông của chân phải. Đòn của hắn tung ra liên hoàn không ngừng. Vì là đòn ngắn nên lối đánh này vừa công lại vừa thủ rất ít sơ hở. Lía thấy kiểu đánh mới lạ, khác hẳn võ học Đại Việt thì lấy làm thích thú lắm. Chàng chuyển bộ thoát ra khỏi vùng kiềm tỏa của quyền cước địch thủ, miệng lên tiếng khen:

- Quyền cước hay, còn hai chiêu nữa.

Ma Pon thấy địch thủ ung dung né tránh những đòn độc của mình, trong lòng vừa sợ vừa giận. Hắn hét lớn một tiếng, tung người lên cao, chân trái đá vào cằm còn gót chân phải thì lại đá giật xuống vai Lía. Cú đá song phi hai chiều này vừa hiểm hóc vừa lạ lùng. Lía đảo bộ thật nhanh tràn qua bên trái, hai tay dùng nhu quyền của Bạch gia xô nhẹ vào hai chân của Ma Pon, tay phải đập mạnh vào mặt hắn một chưởng. Ma Pon co hai tay lên đỡ nhưng tay trái của Lía đã từ dưới vỗ lên lưng hắn đúng ngay huyệt tâm du. Ma Pon hự một tiếng, rơi người xuống đất như một cái bị thịt, muốn nín thở vì tim bị chấn động mạnh. Ma Pon biết địch thủ đã nương tay, nếu không với sức mạnh của Lía, chỉ cần vỗ mạnh hơn chút nữa tim của hắn đã vỡ rồi. Hắn nằm dưới đất nhìn Lía bằng ánh mắt biết ơn.

Ma Saot đứng ngoài thấy anh mình bị đánh hạ nhanh như vậy liền múa đao xông vào tấn công. Hắn chém một lúc ba bốn đao liên tiếp, thế đao thật hiểm và thần tốc buộc Lía phải tung người lên cao thoát ra. Ma Saot lướt tới ra chiêu công tiếp, đường đao xé gió nghe vù vù. Lía tung người ra sau né tránh, miệng la lớn:

- Dừng tay!

Ma Saot nghe tiếng hét như sấm thì giật mình dừng tay. Lía nhìn hắn hỏi:

- Ngươi là tên chuyên bắt đàn bà phụ nữ về hãm hiếp phải không?

Ma Saot hung tính trong người đã nổi lên, hắn đáp:

- Đúng. Rồi đã sao?

Lía gằn giọng:

- Rồi ta sẽ giết ngươi chớ sao?

Ma Saot nghe giọng nói lạnh băng đầy sát khí của Lía mà rợn tóc gáy. Hắn hét lớn:

- Tất cả cùng xông lên giết tên xấc láo này cho ta!

Đám lâu la nghe lệnh liền vung đao kiếm bao vây Lía. Chàng nói lớn:

- Bọn thủ hạ các người khôn hồn bỏ vũ khí xuống thì ta sẽ tha cho. Tên nào hung hăng, mất mạng đừng có trách ta.

Tiếng nói như sấm rền khiến bọn lâu la ù cả tai, chúng sợ quá lui lại hai ba bước liền. Ma Saot nạt lớn:

- Sợ gì nó? Tất cả xông lên!

Đám lâu la nhìn khí thế của Lía, tất cả đều cầm vũ khí thủ thế nhưng không tên nào dám xông lên cả. Ma Saot biết nếu mình không tiến lên trước thì đám thủ hạ sẽ chẳng tên nào dám. Hắn liền múa đao tấn công Lía. Lía biết tên này là hung thủ chính của những vụ hãm hiếp phụ nữ nên quyết ý giết hắn để trừ hại cho dân. Chờ thanh đao của Ma Saot chém tới, chàng liền chuyển bộ thật nhanh để đường đao lướt qua người. Sau đó chàng hét lớn một tiếng, dùng Bạch gia cương quyền tung một cú đấm thôi sơn vào ngực hắn. Cú đánh nhanh như chớp giật, Ma Saot lãnh trọn cú đấm, cả người hắn như diều đứt dây, bay đập vào vách tường thành rơi xuống đánh bịch rồi nằm im. Lục phủ ngũ tạng bể nát, hắn chết ngay tại chỗ.

Lía đảo mắt nhìn đám lâu la hỏi:

- Các ngươi còn chưa chịu bỏ vũ khí xuống à?

Đám lâu la run rẩy thả vội vũ khí xuống đất, mặt cắt không còn chút máu, mắt lấm lét nhìn Lía như nhìn vị hung thần. Ma Pon giờ đã ngồi dậy được, hắn cố hét lớn:

- Ngươi đã giết em ta, hãy giết luôn ta đi!

- Ta muốn giết ngươi thì ngươi đã chết từ lúc nãy rồi. Tên Ma Saot cướp bóc chưa đủ còn giở trò đồi bại hãm hiếp phụ nữ nên ta mới giết đi để trừ hại cho đời. Ta vốn không muốn giết người, ngươi hãy dẫn bọn đàn em trở về Côn Man kiếm việc lương thiện để sinh sống. Cái nghề ăn cướp như các ngươi trước sau gì cũng sẽ chết thảm như tên Ma Saot kia mà thôi.

Nói rồi, Lía quay sang bọn lâu la ra lệnh:

- Các ngươi ai là người Côn Man thì mau đem hắn đi đi.

Năm tên trong bọn liền bước ra dìu Ma Pon đứng lên. Hắn trúng một chưởng của Lía, bao nhiêu công lực đã bị tiêu tán hết, giờ hắn chẳng khác gì một người bình thường. Hắn trừng mắt nhìn Lía:

- Ngươi không giết ta, có ngày ta sẽ tìm đến trả thù cho em ta, ngươi đừng hối hận.

- Khí phách lắm. Nhưng ta khuyên ngươi nên trở về làm ăn lương thiện may ra sẽ được sống lâu hơn.

Xong, Lía quay sang mấy tên còn lại hỏi:

- Trại có ngựa không?

Một tên khoảng ngoài ba mươi tuổi, có lẽ là đàn anh trong nhóm đáp:

- Dạ có!

- Vào mang ra cho bọn chúng sáu con ngựa. Kho có tiền không? Cho chúng một số tiền lộ phí để chúng lên đường.

Tên nọ liền dẫn theo vài tên khác đi lấy ngựa. Hắn y lời Lía, lục trong kho mang tiền ra cho bọn Ma Pon. Sáu tên Côn Man mang theo xác Ma Saot lặng lẽ leo lên ngựa băng rừng đi về hướng nam. Lía hỏi tên cướp lúc nãy:

- Anh tên gì?

Tên nọ đáp:

- Dạ, Lưu Đằng!

- Bọn Côn Man đi rồi, còn lại ai là người đầu đàn?

Lưu Đằng đáp:

- Dạ tôi. Lúc trước tôi là thủ lĩnh ở đây, sau bọn Côn Man ra chiếm cứ thành này, tôi đánh không lại Ma Pon nên đành phải tôn hắn làm thủ lĩnh.

- Bọn anh có tất cả bao nhiêu người?

- Dạ, hai mươi.

- Tất cả giải tán, ai về quê nấy tìm việc gì đó sống đời lương thiện. Từ nay không nên làm nghề ăn cướp, giết người nữa.

Lưu Đằng nói:

- Tôi vì giết một tên quan chó nên lãnh án tử hình. Vì vậy mới trốn lên núi làm nghề ăn cướp, nay bỏ núi xuống đồng bằng là tự đưa cổ mình cho bọn lính chém. Thôi thì chi bằng hiệp sĩ giết tôi ở đây cho tiện, khỏi bị chúng hành hạ.

Lía nghe hoàn cảnh của Lưu Đằng cũng giống mình nên hỏi tiếp:

- Nhà anh ở đâu? Tại sao lại giết tên quan chó đó?

- Tôi ở thôn Phú Thành, sát chân núi Mò O về phía bắc. Tên xã trưởng xã quê tôi có một thằng con làm cai đội ở huyện. Một hôm hắn về nhà thấy con gái một người hàng xóm của tôi xinh đẹp, hắn nhất định đòi cưới. Nhưng cô gái đã đính hôn với một thanh niên trong làng nên không chịu. Tên cai đội liền tìm cớ bắt nhốt chàng thanh niên đó rồi ép cô gái làm vợ. Tôi vì sự bất bình nên lên tiếng can thiệp, không ngờ tên cai đội cho lính đánh tôi. Tôi điên tiết đã đánh bọn lính một trận, chưa hả giận tôi còn nện tên cai đội mấy đấm, ai dè hắn là đồ công tử bột, chịu không nổi vài đấm nên đã chết tại chỗ. Tôi sợ quá bỏ nhà chạy lên rừng Vĩnh Thạnh trốn, sau đó tụ tập mấy anh em cùng cảnh ngộ đi làm ăn cướp. Nay đã mười mấy năm rồi.

Lía cười ha hả nói:

- Đánh hay lắm! Phải đánh bọn quan liêu hống hách ỷ thế hiếp người ấy một trận như vậy mới đáng mặt làm trai. Còn các anh em khác thì sao?

Lưu Đằng bèn chỉ từng người, nói sơ hoàn cảnh của họ. Tựu chung tất cả đều đang phải trốn tránh tù tội nên mới trở thành ăn cướp. Lía nghe xong bèn nói:

- Không giấu gì anh em, bảy năm trước tôi cũng đã đấm chết một tên đội trưởng bức hiếp người và cũng mang án tử hình, giờ vẫn còn đang bị truy nã.

Lưu Đằng nói:

- Đã vậy thì anh ở lại đây với chúng tôi. Tài nghệ như anh chúng tôi xin tôn lên làm đầu lĩnh. Chúng ta sống ngoài vòng cương tỏa, Bá Bích thành này hiểm trở, bọn quan lính chẳng làm gì được chúng ta đâu.

Lía cười:

- Ta đến đây là để giải tán đám cướp thành Bá Bích này giúp dân chúng, giờ ở lại làm ăn cướp thì còn ra thể thống gì nữa?

- Thế bây giờ đầu lĩnh định đi đâu, làm gì? Những kẻ mang trọng tội như chúng ta đâu còn đất dung thân nữa. Trở về đồng bằng để nộp mạng cho bọn quan lính tham tàn đó thì tôi thà tự sát còn sướng thân hơn.

Cả bọn cùng lên tiếng:

- Lưu đại ca nói đúng! Chúng tôi thà chết chứ nhất định không để bọn quan lính bắt!

Lía nghe Lưu Đằng nói thì giật mình, nghĩ lại hoàn cảnh của mình và những tên cướp ở đây sao mà giống hệt nhau. Đúng là cả bọn không còn đất dung thân thật. Trời đất mênh mông nhưng những con người này vì lòng nhiệt thành bênh vực cho kẻ khó mà bị loại ra khỏi xã hội. Chàng thở dài ngẫm nghĩ hồi lâu rồi nói:

- Thôi thế này vậy, chúng ta đều xuất thân từ giai cấp nghèo khó phải không?

Cả bọn đồng thanh đáp:

- Đúng vậy!

- Bản thân chúng ta và những người nghèo khó như chúng ta đều bị bọn quan lính, cường hào ác bá ức hiếp mới ra nông nỗi này phải không?

- Đúng vậy!

- Chúng ta vì cùng đường mới trở thành ăn cướp, vậy sao không đi ăn cướp của bọn nhà giàu, quan lính mà chia cho những người nghèo khó như chúng ta?

Lưu Đằng vỗ tay nói:

- Ý kiến hay lắm! Chúng ta sẽ đi cướp của nhà giàu chia cho nhà nghèo. Chúng ta phải giúp đỡ cho những người cùng khổ. Hay lắm!

Một tên hưởng ứng theo:

- Đúng vậy! Chúng ta tôn vị hiệp sĩ này lên làm thủ lĩnh, từ nay chúng ta làm ăn cướp nhưng là ăn cướp hiệp nghĩa.

Một tên khác lên tiếng, hỏi vặn vẹo tên vừa nói:

- Ăn cướp là ăn cướp, mày nói ăn cướp hiệp nghĩa là sao?

Tên nọ vênh mặt lên giải thích:

- Mày đúng là đồ văn dốt võ nát. Ăn cướp hiệp nghĩa là những người ăn cướp chuyên làm chuyện nghĩa hiệp đó.

Cả bọn cười ồ lên. Tên bị chê bĩu môi:

- Tưởng mày giải thích nghĩa lý thế nào, ai dè mày cũng dốt đặc cán mai như tao. Ăn cướp hiệp nghĩa là ăn cướp nghĩa hiệp. Nói chuyện trớt quớt mà cũng bày đặt lên mặt chê người khác.

Lía cười nhìn mọi người nói:

- Tốt! Anh em đồng lòng như vậy thì hay quá. Tôi tên Lía, năm nay mới hai mươi hai tuổi thôi, không thể làm thủ lĩnh được. Hãy để nhiệm vụ ấy lại cho anh Lưu Đằng.

Lưu Đằng vội chắp tay xá:

- Không được, ngàn lần không được! Xưa nay làm ăn cướp thì ai tài nghệ giỏi hơn làm thủ lĩnh. Tôi bất tài vô dụng không dám nhận. Xin Lía đại ca nhận nhiệm vụ này cho.

Cả bọn đồng thanh nói:

- Xin Lía đại ca nhận chức thủ lĩnh, đừng từ chối nữa!

Năm Sức đã tỉnh lại nãy giờ, hắn cất giọng ồ ề lên tiếng:

- Đúng vậy! Đại ca Lía phải làm thủ lĩnh mới được. Ai khác làm Năm Sức này cũng sẽ không phục đâu.

Hắn bị Lía đánh có hai cú mà đã tâm phục khẩu phục rồi. Lía biết không thể từ chối nên chắp tay nói:

- Đã vậy tôi không khách sáo nữa. Nhưng tôi có một vài điều kiện, anh em nhất định phải tuân thủ, nếu ai trái lời sẽ bị trừng trị thích đáng.

Lưu Đằng nói:

- Xin thủ lĩnh cứ ban lệnh!.

Lía nói:

- Thứ nhất, không được tự ý cướp bóc bừa bãi. Mục tiêu của chúng ta là đám cường hào, ác bá và quan lính. Cướp được bao nhiêu, chỉ giữ một phần cho chúng ta làm lương thực để sống, còn lại phát hết cho người nghèo và ăn mày. Thứ hai, tuyệt đối không được hãm hiếp phụ nữ. Tội này nặng nhất, ai vi phạm sẽ bị xử tử tại chỗ, bất kể là ai. Thứ ba, không được giết người bừa bãi, trừ trường hợp bất khả kháng. Tôi sẽ chỉ cho mọi người một bài côn, chúng ta hành sự không mang theo đao kiếm, chỉ sử dụng côn để tránh gây tử vong đáng tiếc. Thứ tư, chúng ta là những người cùng khốn, phải biết thương yêu đùm bọc những người cùng khốn. Anh em trong trại phải thương yêu nhau, không được sinh thù oán. Ai có điều kiện hoàn lương thì sẽ được hoan nghênh. Chúng ta sẽ giúp đỡ cho người ấy trở về nhưng nếu phản bạn sẽ bị tử hình.

Nói đến đây, Lía đưa ánh mắt như điện nhìn quanh:

- Nếu ai vi phạm bốn điều cơ bản này sẽ bị xử phạt nghiêm minh. Anh em đồng ý không?

Cả bọn cùng đưa tay lên ngực hô lớn:

- Dạ, đồng ý, thưa thủ lĩnh!

Lưu Đằng quay sang nói với tên đứng sát mình:

- Ngươi ra tàu ngựa dẫn con ngựa trắng vào đây. Chúng ta dùng con thần mã này làm quà ra mắt cho thủ lĩnh.

Tên nọ dạ một tiếng rồi chạy đi ra phía sau thành. Lát sau, hắn dẫn đến một con ngựa trắng cao to, trước trán có một chòm lông đỏ như hột châu đính vào đó. Lưu Đằng nói:

- Tặng thủ lĩnh đại ca con ngựa này. Nó là con thiên lý mã sức đi ngàn dặm.

Lía chắp tay nói:

- Cảm ơn anh Lưu và các bạn. Tôi sẽ tặng các bạn một bài côn để đáp tạ.

Chàng bước lại quan sát con ngựa. Con ngựa trông thấy Lía thì ngửi ngửi vài cái rồi không ngừng ve vẩy cái đuôi trắng mượt. Lía thấy con ngựa này quen lắm liền hỏi Lưu Đằng:

- Anh bắt con ngựa này ở đâu vậy? Quả là con ngựa tốt.

Lưu Đằng đáp:

- Hơn mười năm trước, lúc mới chạy trốn vào rừng, tôi gặp hai mẹ con nhà kia cưỡi con ngựa này. Tôi thấy nó tốt quá, nghĩ là có thể dùng nó để đào tẩu khi cần kíp nên đã cướp đi, còn lấy bớt một ít vàng bạc của họ nữa. Chuyện này đã làm tôi áy náy cho tới tận giờ. Tội nghiệp người đàn bà, hình như bà ta đang bệnh, còn thằng nhỏ thì mới chừng mười tuổi.

Lía bỗng bật cười ha hả:

- Thì ra là anh! Thảo nào tôi thấy quen quen. Anh có biết thằng nhỏ đó là ai không?

Lưu Đằng nghe hỏi thì ngờ ngợ, hắn nhìn kỹ Lía một hồi rồi đỏ mặt hỏi:

- Có phải là thủ lĩnh không?

- Trái đất quả thật tròn quá. Là ta đó. Lần đó mẹ con ta bị ăn cướp mà trong lòng vẫn thán phục ngươi. Ăn cướp mà còn có lương tâm để lại cho một số vàng. Ha ha...

Lưu Đằng thất kinh cúi đầu nói:

- Thuộc hạ có lỗi lớn. Xin thủ lĩnh trách phạt.

- Sao lại phạt? Ta còn phải khen ngươi là người tốt mới đúng chứ. Anh em thấy đó, chúng ta vì cùng đường mới làm ăn cướp, nhưng đừng để mất hết lương tâm. Anh em lấy chuyện của Lưu Đằng làm gương.

Lưu Đằng cảm động nói:

- Cảm ơn sự độ lượng của thủ lĩnh. Bọn chúng tôi xin ghi nhớ lời dặn này.

Lía quay sang vuốt ve con ngựa. Chàng bỗng nhớ mẹ mình ngày xưa rất yêu quí con ngựa này. Hai mắt chàng chợt đỏ hoe. Lưu Đằng đề nghị:

- Hôm nay chúng ta có thủ lĩnh mới, anh em mau tổ chức một buổi tiệc ra mắt thủ lĩnh và chúc mừng Bá Bích thành có người chủ mới xứng đáng cai trị.

Cả bọn nhao nhao tán đồng rồi chia nhau mỗi người một việc chuẩn bị cho bữa tiệc. Hôm đó, cả bọn ăn uống no say, lòng ai cũng đầy sảng khoái vì họ đã có một thủ lĩnh tài nghệ siêu quần.

Hôm sau Lưu Đằng dẫn Lía đi khắp nơi quan sát địa thế vùng Bá Bích. Lía bắt đầu dạy cho đám thuộc hạ bài côn mà chàng đã chế biến từ Bạch gia đao pháp. Có lần, cụ Bạch nhìn chàng biểu diễn bài côn đã không tiếc lời khen ngợi, cho rằng chàng là một nhân tài hiếm thấy trong nền võ học Đại Việt.

Từ đó, suốt một vùng tả ngạn sông Côn từ Tây Sơn thượng xuống tận bến My Lăng, nhóm cướp Bá Bích thành đã ghé thăm nhà của tất cả bọn cường hào, ác bá, tham quan, bắt chúng nộp của cải, lương thực để phân phát cho những nhà nghèo và số ăn mày ngày một đông kéo về phủ Quy Nhơn. Nhiều nhà giàu có mướn võ sư về canh giữ nhưng với đường côn vô địch của Lía và bọn thủ hạ, chưa có trận nào mà nhóm cướp Bá Bích thành thất bại cả.

Một hôm vừa xong vụ mùa, kho thóc huyện Tuy Viễn đang chứa rất nhiều lúa gạo. Lía bí mật thông báo cho bọn ăn mày tập trung bên bờ sông Côn, sau đó nửa đêm chàng cùng đám thủ hạ bất ngờ tấn công kho thóc, mang đi một lượng rất lớn lúa gạo ra phát hết. Đám ăn mày mừng đến rơi nước mắt. Bọn cướp đi rồi, bà con ôm bao gạo trong tay quì xuống khóc và vái tạ cảm ơn.

Trận đánh cướp kho thóc đó đã làm chấn động đến bọn quan binh phủ Quy Nhơn. Ngay cả tiếng tăm của bọn cướp thành Bá Bích với thủ lĩnh chú Lía cũng bay xa khắp Đàng Trong. Nơi nơi, câu chuyện đầu môi của mọi người thường là những trận đánh cướp ngoạn mục và công cuộc cứu giúp người nghèo của bọn chú Lía. Tên đốc trưng Đằng lo việc kho lúa bị một vố nặng suýt ở tù. Hắn vốn ghét Nguyễn Nhạc từ lâu, muốn hại Nhạc cho bỏ tức nên bèn kiếm chuyện đổ cho Nguyễn Nhạc có quen biết với tên đầu sỏ Lía. Chuyện nước lã khuấy nên hồ như vậy mà cũng khiến cho Nguyễn Nhạc phải một phen điêu đứng, lo lót chạy chọt mới yên. Nhạc căm tên đốc trưng Đằng này từ nhỏ nhưng biết thế của mình nên cắn răn chịu đựng. Bọn quân lính phủ và huyện mấy lần kéo tới vùng Bá Bích muốn thanh trừng bọn cướp nhưng vì địa thế nơi đó hiểm trở, vả lại bọn binh sĩ phần đông là con nhà nghèo bị bắt sung quân, chúng rất ái mộ việc làm của bọn cướp nên lần nào kéo quân đi cũng tay trắng trở về.

***

Ở Bá Bích được một thời gian, một hôm Lía nói với Lưu Đằng:

- Ta có chút việc riêng gia đình nên phải trở về Phù Ly một chuyến, ngươi ở lại đây thay ta lo mọi việc. Nhất thiết đừng để bọn em út làm điều sai quấy.

Lưu Đằng hỏi:

- Thủ lĩnh có cần đến bọn tôi giúp sức không?

- Không cần. Ta đi một thời gian ngắn rồi sẽ trở về. Các ngươi an tâm.

Hôm sau, Lía một đao một ngựa rời Bá Bích thành qua Côn giang trở lại hòn Sưng thăm mộ mẹ và sư phụ rồi từ đó vòng theo hòn Sõng ở phía bắc, vượt đèo Bồ Bồ ra Vĩnh Thạnh để xuống Phù Ly. Nhớ lại lời chỉ dẫn của mẹ năm xưa, chàng phóng ngựa theo núi Bích Khê trở về trang trại. Dọc đường, những tờ cáo thị có vẽ hình treo giải thưởng năm trăm lạng vàng cho bất kỳ ai bắt được chàng được dán khắp nơi. Không muốn sinh sự rắc rối, chàng vội giấu hai đuôi tóc vào trong áo, dùng chiếc khăn choàng qua cổ, tìm một chiếc nón rộng vành che phần trên khuôn mặt để giấu hành tung của mình.

Dù tất cả chỉ còn lại những hình ảnh lờ mờ trong ký ức nhưng lúc về gần đến trang trại cũ, lòng chàng vẫn không xiết bồi hồi, rộn rã. Hơn mười lăm năm, ngôi mộ tập thể của gia đình chàng tuy cỏ dại phủ um tùm chung quanh nhưng mộ chí vẫn còn nguyên vẹn. Tấm bia đá lớn với những dòng chữ “Võ gia trang tập thể chi mộ”, bên dưới khắc sâu dòng “Đoàn Phong và bằng hữu kính lập” vẫn còn sạch sẽ như có người thường xuyên chăm sóc. Lía rất lấy làm lạ, một tia hi vọng chợt lóe lên trong đầu, chàng nghĩ có lẽ một trong những người sư huynh của mình năm xưa hãy còn sống sót, hoặc giả sư tổ đã trở về.

Chàng gục đầu phủ phục trước mộ, để mặc hai hàng nước mắt tuôn rơi cho vơi bớt niềm đau thương và uất hận tắt nghẹn trong lòng. Chừng đã nguôi ngoai, chàng lạy bốn lạy cho cha và tám lạy cho những sư huynh rồi phóng ngựa lên núi tìm ngôi am cũ của sư tổ với hi vọng gặp được người. Nhưng tất cả đã trở nên hoang tàn, cũ kỹ, không còn lại chút gì. Vậy là tia hi vọng coi như đã tắt. Đêm đó, chàng ngủ lại trước mộ, sáng hôm sau vượt đèo Lại Khánh ra Phú Xuân tìm chú Đoàn Phong.

Khi qua đò Lại Dương chàng nghe nhiều khách đi đò bàn tán về chuyện bọn cướp ở Truông Mây của hai tên cha Hồ, chú Nhẫn nào đó. Chúng đang hoành hành cướp bóc rất dữ dội ở huyện Bồng Sơn, quan quân không thể nào đánh dẹp được vì địa thế Truông Mây hiểm trở vô cùng. Họ than trời vì chuyện quan quân hách dịch, bóc lột, nay lại thêm bọn cướp quấy phá, thật không biết khổ cực đến cơ man nào mà nói. Lía nghe chuyện nghĩ thầm: “Tìm được chú Phong hỏi cho ra tên hung thủ rồi ta sẽ trở lại dẹp bọn Truông Mây này để giúp người dân ở đây. Thời buổi gì mà ăn cướp nổi lên khắp nơi vậy không biết!”

Rời Bồng Sơn, qua đèo Thạch Tân xuống địa phận Quảng Ngãi thì những tờ cáo thị truy nã chàng không còn thấy nữa. Suốt con đường thiên lý, đâu đâu cũng thấy ăn mày lang thang, cảnh thôn làng xơ xác và những lời kêu than không ngớt của bà con dân nghèo, lòng Lía dâng lên một niềm thương cảm không sao diễn tả được. Thế nhưng khi vào đến kinh đô Phú Xuân thì mọi thứ đổi khác hoàn toàn. Trước mắt Lía là cảnh tượng nguy nga, tráng lệ của cung đình phủ Chúa, đường sá dọc ngang dập dìu xe ngựa. Cảnh tượng trái ngược đó tạo cho chàng một cảm giác tức giận đến nghẹn họng. Chàng thầm chửi cái triều đình thối nát của Chúa Nguyễn, nguyền rủa bọn quyền cao chức trọng, ăn trên ngồi trốc, dẫm đạp lên sự đau khổ của đồng bào trăm họ làm vui. Nhớ lại lời Nguyễn Nhạc, chàng nghĩ cái thời nhiễu nhương của Lý Cao Tông chắc cũng chỉ đến thế này là cùng. Đã vậy thì sự sụp đổ của nhà Nguyễn nay mai cũng xảy ra y như lời sấm đã báo mà thôi.

Lía lần dò hỏi thăm và tìm được đến tư dinh của cựu quan Hình bộ Tôn Thất Dục, không may ông ta đi vắng, chỉ còn người lão bộc Ân Phúc. Phúc cho biết Dục công vừa cùng cô cháu gái đi ngao du sơn thủy rồi, không biết bao giờ mới về. Chàng hỏi thăm về Đoàn Phong mới hay Đoàn Phong đã bặt vô âm tín từ ngày Dục công bị bắt giam. Chàng thất vọng vô cùng, đành cảm ơn Ân Phúc rồi phóng ngựa ngược đèo Hải Vân, xuống cửa Đại Chiêm để tìm cai đội Long. Chàng đến doanh trại thủy quân hỏi thăm, người lính gác cho hay cai đội Long đã bị cách chức, ông buồn bực nên đem gia đình vào Nam sinh sống. Lại một lần nữa thất bại, chàng chán nản quay về Bồng Sơn, dự định tìm đến sào huyệt của bọn cướp Truông Mây đánh dẹp rồi trở ra lại Phú Xuân tìm Tôn Thất Dục lần nữa.

Chàng xuống đò Lại Dương lúc trời đã sập tối. Bến chỉ còn một con đò nhỏ và khách qua đò cũng chỉ có mình chàng và con Bạch mã. Chàng lân la hỏi chuyện ông lái đò:

- Bác làm nghề này bao lâu rồi, thưa bác?

Ông lái đò tuổi ngoài bốn mươi, đáp:

- Chúng tôi làm nghề này cha truyền con nối. Tôi qua lại với con đò này đã hơn ba mươi năm rồi.

- Cũng lâu đó nhỉ? Nghe nói dạo này ở Truông Mây có bọn cướp đang hoành hành tác quái dữ lắm phải không bác?

- Đúng vậy. Bọn cha Hồ, chú Nhẫn tụ tập ở đó đã hơn năm nay, chúng đổ xuống vùng này cướp phá luôn. Quan binh ở Lại Khánh đánh dẹp không được nên đành bó tay để chúng làm càn. Mà có chết là chết bọn dân đen, người buôn bán chứ bọn quan lính có thiệt hại gì đâu mà chúng lo? Thời này cứ no cơm ấm cật là bọn quan lính vui rồi, mấy ai biết lo cho dân đen chúng tôi?

- Lý do gì mà không dẹp được chúng vậy bác?

- Một là bọn quan lính chết nhát, hai là Truông Mây um tùm gai góc, bọn cướp chạy trốn không biết đâu mà lùng.

- Ra là thế! Đường đến Truông Mây lối nào dễ đi nhất, bác có biết không?

Ông lái đò nghe hỏi vội nhìn Lía với ánh mắt đầy kinh ngạc:

- Hiệp sĩ định đến đó làm gì? Đừng nói với tôi là tới phá sào huyệt bọn cướp nghen? Nguy hiểm lắm! Hai tên cha Hồ, chú Nhẫn cùng bọn đàn em đứa nào võ nghệ cũng cao cường, một mình hiệp sĩ không làm gì được đâu. Chưa kể nơi đó nguy hiểm trùng trùng, rừng mây chằng chịt. Không nên mạo hiểm, tôi khuyên tráng sĩ thật lòng đó.

- Ồ không, bác an tâm. Cháu chỉ hỏi cho biết vậy mà. Bác có biết lối nào đến đó dễ nhất không?

- Nếu có đò qua sông thì dễ lắm. Hiệp sĩ chỉ cần đi dọc theo bờ trái Lại Dương Giang lên phía tây chừng ba bốn dặm, qua khỏi ngã ba sông theo nhánh Kim Sơn bên trái, đi lên tí nữa, nhìn sang sông thấy rừng mây bạt ngàn là Truông Mây đó. Nhưng nghe nói vùng này bọn cướp đặt trạm gác nhiều lắm. Động tí là chúng phát hiện ngay, do đó quan binh vừa đến nơi là chúng biết liền.

- Còn đi bằng ngựa?

- Đi bằng ngựa thì phải vòng theo con lộ gần ngã ba sông, đến một ngã ba rồi rẽ trái sẽ đến hồ Thạch Khê. Hiệp sĩ cứ đi thẳng vòng qua núi Lỗ Đố, rẽ phải qua thượng nguồn nhánh Kim Sơn, ở đấy sông cạn lắm có thể đi ngựa được, là có thể vào Truông Mây.

- Bác thật là tài, địa hình ở đây bác nắm rõ như trong lòng bàn tay. Thật cảm ơn bác.

- Có gì đâu, lúc nhỏ tôi đã từng lăn lộn ở vùng Kim Sơn để tìm vàng nên mới biết đó thôi.

- Nghe bác nhắc đến vàng ở Kim Sơn, cháu chợt nhớ thiên hạ từng kể rằng mười mấy năm về trước có một vụ huyết án kinh thiên xảy ra ở núi Bích Khê, cả một trang trại ngựa bị giết sạch, lúc đó bác có nghe nói đến không?

Ông lái đò nhìn chàng như để dò xét rồi đáp:

- Nghe chứ, lúc ấy ai mà không biết chuyện đó. Nhưng không phải chỉ riêng ở Bích Khê thôi đâu, ngoài Mộ Hoa bên cạnh Liên Trì, cả một nhà Trần gia cũng bị thảm sát cùng trong một đêm mưa gió với trại ngựa Bích Khê mới là kinh thiên chứ. Hai nơi tổng cộng gần bốn mươi nhân mạng đó.

Lía nghe nói ngạc nhiên hỏi:

- Cả hai nhà cùng bị giết trong một đêm à? Rồi chính quyền có điều tra ra ai là hung phạm không bác? Mà vì sao chúng giết cả hai nhà đó?

Ông lái đò vừa bơi nhẹ tay chèo vừa đáp:

- Có! Phải mất hai năm Hình bộ và một nhóm hiệp sĩ mới tìm ra là bọn giặc người Hoa ở Cù lao Phố làm. Chúng giết Trần gia ở Liên Trì để mưu đoạt cây bảo đao Ô Long, còn Võ gia ở Bích Khê nghe đâu chúng cũng có liên quan ít nhiều. Nhưng cái chính là vì Võ Trụ thời đó làm tổng quản mỏ vàng Kim Sơn quá thanh liêm nên có người ganh ghét, bày mưu cấu kết với bọn Tàu giết ông ta đi để dễ bề tham ô.

Lía nghe nhắc đến cái chết cha mình thì máu nóng sôi lên nhưng chàng cố dằn xuống hỏi tiếp:

- Rốt cuộc bọn hung thủ đó có bị bắt không bác?

Ông lái đò đáp giọng có vẻ hả hê lắm:

- Bị chứ! Tên đầu sỏ Lý Văn Quang và gần năm trăm tên tặc đảng khác nổi loạn định chiếm Cù lao Phố nhưng đã bị sáu chàng hiệp sĩ và quan binh Trấn Biên tiêu diệt sạch. Tên đầu sỏ cùng sáu mươi tên đàn em bị bắt đem về nhốt ở nhà lao Quảng Nam này nè. Nhưng nghe đâu mấy năm trước phủ Chúa đã trao trả bọn chúng về cho Thanh triều xử tội rồi. Thế mới tức chứ.

- Sáu chàng hiệp sĩ đó là những ai vậy?

Ông lái đò trầm ngâm như cố moi lại trong ký ức mình tên tuổi của những chàng hiệp sĩ đó. Một lúc sau ông đáp:

- Lớn tuổi rồi, mau quên thật. Hồi đó chuyện này tôi kể cho khách qua đò nghe như cơm bữa vậy mà bây giờ lại quên mất. Để coi, họ là hai người tả hữu hộ vệ của Hình bộ, một là Đoàn Phong còn người kia là Ngô Mãnh. Còn có cái người được mệnh danh Thần Thâu, ông ta chuyên ăn trộm của nhà giàu phát cho nhà nghèo, cũng như việc mà bọn chú Lía ở Bá Bích thành bây giờ đang làm vậy đó. Nghe đâu lúc trước ông ta có một trại nuôi trẻ mồ côi ở cửa Hàn, sau đó đã dời vào Cù lao Phố. Lâu rồi không còn nghe tiếng ông ta nữa. Còn ba người nữa là nhóm cái gì... ừm, nhóm Phong Điền Tam Hữu, đúng rồi. Trong ba người này có một người mưu trí vô cùng nên có biệt hiệu là Trại Ức Trai, giống ông quân sư Ức Trai Nguyễn Trãi đã giúp Lê Thái Tổ mình tiêu diệt bọn chó nhà Minh đó.

Lía nghe đến đây mừng thầm trong bụng. Vậy là chàng đã biết thêm tên tuổi những người bạn của cha mình, công việc dò hỏi tung tích hung thủ sẽ dễ dàng hơn. Chàng hỏi tiếp:

- Mỏ vàng Kim Sơn còn hoạt động không bác? Bây giờ ai là tổng quản ở đó?

- Dẹp rồi. Cả mười năm nay họ đào sạch, vét sạch cả rồi. Nghe nói vàng nhiều lắm nhưng vào quốc khố thì ít mà vào (ông nhỏ giọng lại) túi quan ngoại tả và bọn tay chân thì nhiều. Ấy vậy chúng nó mới tìm cách giết ông Võ Trụ liêm khiết kia đó chứ. Thật tội nghệp hết sức! Thời buổi này là thời buổi của ma vương và những tên trộm đạo. Chúng ăn cắp, ăn cướp giữa ban ngày, một cách công khai trước mặt phủ Chúa. Bọn Truông Mây ở đây đã ra gì so với đám phụ mẫu chi dân kia!

Lía hỏi nhanh:

- Như vậy hung thủ giết nhà họ Võ là quan ngoại tả à?

Giữa dòng sông vắng tanh mà ông lái đò vẫn cố hạ thấp giọng thật nhỏ như sợ bị người khác nghe thấy:

- Người ta nghi như vậy nhưng không ai dám nói. Vả lại có đúng đi nữa thì ông ta chỉ sai bọn tay chân làm mà thôi. Ổng ngồi tuốt trên cao, đời nào tự mình nhúng tay vào?

Ông nói xong liền đưa tay bụm miệng mình lại như hối hận vì đã vô ý thổ lộ việc phạm tội tày đình này. Lía gật gù:

- Ra là thế! Vậy những chàng hiệp sĩ có tìm ra đám tay chân đó của quan ngoại tả không bác?

- Tôi không biết, nhưng nghe đồn là những kẻ tham gia vào hai vụ án ấy đã bị sáu vị hiệp sĩ đó giết chết hết rồi. Thế mới gọi là ông trời có mắt chứ. Nói nhỏ hiệp sĩ nghe, đừng kể lại là tôi nói nhé. Cái lão Trần Đại Chí ở Hoàng Kim Môn gần thành Lại Khánh đó, nghe nói hắn là tay chân của quan ngoại tả trong vụ này, về sau hắn bị cai đội Long ở cửa Đại Chiêm chặn thuyền giết chết bỏ thây ngoài biển. Thật đúng là lưới trời lồng lộng tuy thưa mà khó lọt. Thôi, tới bờ rồi, trời cũng đã tối, hiệp sĩ định đi đâu? Chúc hiệp sĩ thượng lộ bình an.

- Chắc là phải ngủ lại ở Lại Khánh một đêm, mai mới đi. Cảm ơn bác đã kể chuyện cho nghe. Mai mốt chúng ta gặp lại.

Chàng từ giã ông lái đò rồi lên ngựa phóng đến thủ phủ Lại Khánh. Chàng vào tửu điếm Qua Đèo bên quan lộ, hỏi thuê một căn phòng sau đó gọi thức ăn và rượu, lên lầu chọn chiếc bàn trong góc vắng vừa ngồi uống rượu vừa ngẫm lại lời kể của ông lái đò. Nếu đúng như vậy thì kẻ thù giết hai nhà họ Trần và họ Võ đã bị giết sạch. Chàng thấy trong lòng nhẹ nhàng khoan khoái vô cùng, bao nhiêu uất hận bấy lâu, nay đã được giải tỏa. Chợt chàng nhìn xuống bên dưới thấy có một thiếu nữ cưỡi một con ngựa sắc lông đỏ đang dừng trước cửa quán. Con ngựa to lớn chẳng kém gì con bạch mã của chàng. Một lúc sau đã thấy cô gái đó bước lên lầu. Cô vận y phục toàn một màu đỏ thẫm, nét mặt kiều diễm, trên lưng giắt một thanh kiếm có cán rất đẹp. Cô gái gọi thức ăn rồi ngồi im lặng thưởng thức. Thực khách trong quán thưa thớt, chỉ có vài ba bàn nhưng ai nấy cũng đều đổ dồn ánh mắt về phía cô gái. Lía vốn không ưa nhìn phụ nữ, dù là phụ nữ đẹp như cô gái áo đỏ này. Chàng đưa mắt nhìn bâng quơ ra cửa sổ, uống rượu và tiếp tục dòng suy tư của mình.

Chợt lúc ấy có năm người thanh niên bước lên lầu. Cả năm tên mặt mày đều vô cùng dữ tợn, miệng bô bô nói chuyện rất to. Tên đi đầu liếc nhìn thấy cô gái áo đỏ đang ngồi một mình liền kéo đồng bọn đến chiếc bàn gần đó. Một tên lớn tiếng gọi:

- Mang rượu uống đi chủ quán ơi! Ba lít rượu Bàu Đá, năm cân thịt bò xào hành. Nhanh lên, đói rồi đó!

Một tên khác nói:

- Bân đại ca, nghe nói gần đây ở Phù Ly có một nữ quái áo đỏ võ nghệ rất cao cường, thường hành hiệp cứu người, danh tiếng hiệp nữ Chu Muội Nương nổi như sóng dậy biển Đông. Đại ca nhìn xem cô gái này có phải là nữ quái đó không?

Hắn dùng từ “nữ quái” có ý châm chọc và nói đủ lớn để cho cô gái áo đỏ ngồi cạnh bàn nghe được. Cô gái vẫn điềm nhiên ăn uống. Tên được gọi là Bân đại ca nói:

- Mày cũng cứ giữ cái tật thấy phụ nữ là tươm tướp. Nếu người ta quả đúng thật là vị nữ hiệp kia thì ăn nói kiểu mày sẽ lãnh đủ đó.

Tên nọ cười hề hề:

- Người ta nói tánh nào tật đó mà. Để em sang hỏi thử nhé?

Rồi hắn đứng lên bước sang bàn cô gái áo đỏ. Hắn đứng nghiêm trang trước mặt cô gái, chắp tay cúi đầu hỏi, điệu bộ trông thì trang trọng nhưng lại rất hoạt kê:

- Kẻ hèn này xin phép được hỏi thăm, cô nương xinh đẹp đây quí danh là chi? Cô nương đây có phải là vị nữ quái gần đây nổi danh khắp phủ Quy Nhơn Chu Muội Nương không? Cô nương đây có thể cất giọng oanh vàng nói cho kẻ hèn này biết được chăng?

Cô gái vẫn im lặng. Bốn tên ngồi ở bàn nghe hắn hỏi, lại nhìn điệu bộ cung kính của hắn thì không nín được cười. Cả bọn ngặt nghẽo cười ồ lên, một tên nói:

- Hai Lém, văn chương ăn nói của mày hay đến nỗi tao nghe mà phát ói thì làm sao người đẹp trả lời cho mày được? Coi chừng nàng ói vào mặt mày bây giờ đó. Tìm câu khác hay hơn hỏi lại đi.

Hai Lém vẫn giữ thái độ nghiêm trang nói:

- Cô nương đây có thấy không, văn chương bóng bẩy đâu phải bọn ngu ngốc như thằng Năm Dồ kia có thể thưởng thức được. Nhưng kẻ hèn này tin chắc người thông minh, xinh đẹp như cô nương đây thế nào cũng nhận ra cái hay của nó. Xin cô nương trả lời đi, hay là đợi kẻ hèn này quì xuống năn nỉ?

Cô gái áo đỏ chẳng màng quan tâm, vẫn cúi đầu ăn. Năm Dồ nói:

- Phải đó, phải đó! Gặp người đẹp thì phải quì xuống năn nỉ mới đúng phép lịch sự. Mau quì xuống đi Hai Lém.

Nãy giờ Lía ngồi im trong góc quan sát, chàng thầm phục sự kiên nhẫn của cô gái nọ. Trong khi đó Hai Lém lại nói:

- Nếu cô nương đây không trả lời thì kẻ hèn này đành phải quì xuống lạy để năn nỉ cho đúng phép lịch sự vậy.

Nói xong hắn liền quì xuống nhưng hai bàn tay lại chụp vào chân cô gái. Cô gái áo đỏ dường như biết trước, với phản ứng rất lẹ, chân trái cô đá thẳng vào mặt Hai Lém. Hắn liền xòe cả hai bàn tay toan chộp chân cô gái. Không ngờ đó chỉ là cú đá dứ, cô rút chân lại thật nhanh. Hai Lém lỡ đòn biết nguy nhưng chưa kịp xoay xở thì chân phải của cô đã tạt ngang một cú thật mạnh vào thái dương trái của hắn đánh bộp một tiếng. Hai Lém trúng cú đá đó ngã nhào qua một bên. Cô gái lại tiếp tục cầm đũa gắp thức ăn đưa lên miệng, mắt không thèm nhìn đến chung quanh lấy một lần.

Tên được gọi Bân đại ca vỗ tay khen:

- Cú đá tuyệt đẹp! Tao đã bảo mà, nếu người ta là nữ hiệp Chu Muội Nương thì mày lãnh đủ. Đúng không Hai Lém? Giờ bỏ tật tươm tướp chưa hả em?

Hai Lém vừa đau vừa quê mặt, lại nghe Bân đại ca hỏi kiểu xách mé đó thì càng xấu hổ hơn. Thẹn quá hóa giận, hắn đứng lên xông tới thẳng tay tát mạnh vào mặt cô gái, miệng nói lớn kiểu côn đồ:

- Con nữ kê này tác quái! Tao sẽ cho mày một bài học!

Với cú tát vũ bão của Hai Lém, cô gái vẫn không coi ra gì. Nàng ung dung đưa hai chiếc đũa đang cầm trong tay chĩa thẳng vào huyệt nội quan trên cổ tay Hai Lém. Hắn giật mình vội hạ tay phải xuống rút nhanh về, còn tay trái toan chộp vào cổ tay địch. Cô gái xoay cổ tay chĩa đầu đũa đâm vào huyệt lao cung giữa lòng bàn tay trái của hắn. Hai Lém nhanh như cắt xoay tay chém vào tay cô gái, còn tay kia thì chộp vào ngực cô ta. Cú đánh hết sức lưu manh, hạ cấp. Cô gái thất kinh vội dùng ngón trỏ bên tay trái điểm thật nhanh vào lòng bàn tay Hai Lém, đồng thời nàng xoay tròn cánh tay kia điểm đầu đũa vào huyệt ngoại quan trên tay hắn. Cô gái xuất thủ vừa nhanh vừa chính xác và miệng hét lớn:

- Súc sinh!

Hai tay của Hai Lém đều bị điểm trúng huyệt nên tê cứng không còn cử động được nữa. Cô gái áo đỏ chưa hết giận vì cú đánh hạ cấp của Hai Lém, nàng vụt đứng lên, hai bàn tay như cương đao chặt thẳng vào hai bên thái dương của hắn, gằn giọng:

- Thứ súc sinh như ngươi không đáng sống trên đời này!

Gương mặt và giọng nói của cô gái lúc nổi giận trông thật uy dũng chẳng khác gì nam nhi. Hai Lém trúng đòn, ngã nhào xuống nằm im bất động. Tên Bân đại ca đứng lên bước tới đỡ Hai Lém dậy, xem xét một hồi xong đặt hắn nằm xuống rồi nhìn cô gái nói:

- Cô nương ra tay quá nặng rồi đấy. Từ nay hắn sống cũng như chết. Hồ Bân này không muốn giao đấu với phụ nữ nhưng thù của Hai Lém chúng tôi phải trả. Cô nương đành khuất tất ngồi lại đây chờ chị của hắn là Thi Chân đến giải quyết vậy.

Nói xong hắn quay lại bảo Năm Dồ:

- Ngươi và Sáu Lũ mang Hai Lém về gấp và gọi tam nương đến đây ngay.

Cô gái áo đỏ lên tiếng hỏi:

- Bọn các ngươi có phải là thủ hạ của Truông Mây không?

Giọng nói của nàng trong như tiếng khánh ngọc, tuy trong lúc tức giận nhưng nghe rất êm tai. Hồ Bân mỉm cười đáp:

- Cô nương tinh mắt đấy.

- Nếu vậy thì các ngươi không cần gọi tam nương gì đó đến đây chi cho mất công. Từ lâu ta đã có ý định dẹp bỏ cái sào huyệt của các ngươi. Sẵn dịp này ngày mai ta sẽ đến Truông Mây, chừng đó tam nương của các ngươi có muốn trả thù rửa hận cho tên khốn kiếp này cũng chưa muộn.

Hồ Bân nghe cô gái nói liền ngửa mặt cười khan. Một lúc sau hắn thôi cười hỏi:

- Khẩu khí lớn thật! Cô nương đây đúng là Chu Muội Nương hiệp nữ nổi danh gần đây phải không?

- Chu Muội Nương chính là ta, còn hai tiếng hiệp nữ là của thiên hạ đa sự ghép vào, ta không dám nhận.

- Thì ra là tiểu thư út của Châu gia trang ở Phù Ly, thảo nào gan của cô chẳng lớn bằng trời. Được, các ngươi cứ kéo hết cả nhà đến Truông Mây, chúng ta cũng muốn thử qua cho biết tài nghệ Châu gia thế nào mà thiên hạ lại coi trọng đến như thế.

- Không cần cả nhà đâu. Một mình ta đến Truông Mây cũng đủ phá nát cái ổ cướp bọn ngươi rồi. Các ngươi cứ mang hắn về đi. Hắn không chết đâu.

Hồ Bân nghe giọng điệu hách dịch, chẳng xem Truông Mây của hắn ra gì thì giận lắm. Hắn nói:

- Được! Nếu mai cô không đến thì cái trại ngựa của Châu gia trang sẽ thành tro bụi đó.

- Ngươi an tâm, một lời nói của ta nặng hơn núi Kim Sơn. Các ngươi cho thuyền chờ ta, giờ Thìn ngày mai ta nhất định sẽ đến.

- Được, cô cứ đến! Ta sẽ đích thân đưa cô sang.

Hắn nói xong khoát tay ra hiệu cho bọn đàn em khiêng Hai Lém xuống lầu, lên ngựa phóng đi. Thấy bọn cướp bỏ đi, số thực khách nãy giờ đang căng thẳng tột độ liền thở phào nhẹ nhõm. Ông chủ quán vội bước đến bàn cô gái nói:

- Thì ra là Chu nữ hiệp. Quán tôi thật hân hạnh đón tiếp nữ hiệp. Nhưng nữ hiệp không thể một mình vào hang cọp như thế được đâu. Nghe nói Truông Mây vừa hiểm trở mà bọn cha Hồ, chú Nhẫn võ nghệ rất cao cường, nhất là tên Hồ Bân lúc nãy. Một mình nữ hiệp làm sao chống lại nổi?

Chu Muội Nương nở nụ cười tươi như đóa sen trên đôi môi đỏ mọng:

- Cảm ơn chủ quán. Tôi tự mình biết lo liệu mà. Đã chuẩn bị phòng cho tôi chưa?

- Dạ rồi ạ, nữ hiệp ăn uống xong có thể về nghỉ ngơi.

Nàng nói lớn đủ để mọi người trên lầu cùng nghe:

- Việc này đã lỡ lộ ra, ông chủ giữ kín giùm tôi nhé. Tôi không muốn đến tai cha tôi, phiền lắm đấy.

Chủ quán vội nói:

- Dạ, nữ hiệp đã dặn thì chúng tôi quyết chẳng hở môi đâu.

Rồi ông quay sang thực khách ôm quyền nói:

- Bà con nhớ giữ lời giùm nhé.

Chu Muội Nương chợt hỏi:

- Tên Bân lúc nãy là người thế nào ở Truông Mây, ông chủ biết không?

- Hắn là cháu ruột của cha Hồ, tên Hồ Bân. Thanh hổ đầu đao của hắn lợi hại bậc nhất Truông Mây. Tật xấu duy nhất của hắn là uống rượu.

- Hắn cũng có khí phách đấy chứ. Tiếc là lại đi làm ăn cướp, hiếp đáp dân lành.

Ông chủ quán nghiêm sắc mặt nói:

- Thời thế nhiễu nhương đã đẩy rất nhiều anh hùng trở thành đạo tặc. Nữ hiệp coi, ăn cướp kiểu chú Lía ở Bá Bích thành thì nhân dân cầu còn hơn nắng hạn mong mưa nữa đó.

Đôi mắt đen láy của Chu Muội Nương bỗng lóe lên tia sáng long lanh như hai viên hắc ngọc, cô nhoẻn miệng cười nói:

- Ông chủ nói đúng. Có rất nhiều kẻ cướp mà lòng dạ nhân từ, cuộc sống có ý nghĩa còn hơn những kẻ tự xưng mình là phụ mẫu chi dân. Chàng Lía là một trong số đó.

Nói xong hai má nàng bỗng ửng hồng, vội vã cảm ơn chủ quán lần nữa rồi đứng lên về phòng. Lía thầm nghĩ: “Cô gái này gan lớn bằng trời, thật là ngựa non háu đá. Cũng vừa may, mai ta giúp cô ta một tay vậy.”

Cô gái đi rồi, thực khách cũng từ từ rời khỏi quán, chỉ còn lại một mình Lía. Chàng hất chiếc nón rộng vành ra sau lưng, gọi chủ quán đến hỏi:

- Cô gái lúc nãy thật là gan lớn bằng trời, chắc gia thế cô ta lớn lắm hả chú?

Chủ quán đáp:

- Hiệp sĩ là người từ phương xa đến phải không? Vâng, đó là nữ hiệp Chu Muội Nương, tiểu thư út của Châu gia trang ở Phù Ly. Chà! Nói đến Châu gia trang, một nhà hiệp nghĩa đó thì dân ở phủ Quy Nhơn này ai mà không biết. Họ là những người trọng nghĩa khinh tài, không có chuyện nhân đức, cứu khốn phò nguy nào mà thiếu bàn tay của họ. Gia đình họ có bốn trai một gái, gọi là tứ long nhất phụng, người nào cũng văn hay chữ tốt, võ nghệ siêu quần, mưu trí hơn người. Nhất là Châu nhị công tử Châu Văn Tiếp, một đao vô địch, thật xứng với danh hiệu Phù Ly đệ nhất cao thủ.

- Ra là thế! Thảo nào cô ta chẳng một mình mà dám đòi vào tận sào huyệt của bọn cướp Truông Mây.

- Mấy năm trước anh em nhà họ đã từng tiêu diệt bọn cướp ở Truông Mây vùng núi Bà, bắt ba tên đầu đảng nộp cho phủ thành. Lần này đến lượt Truông Mây ở Kim Sơn.

- Nhưng cô ta chỉ có một mình, theo chú thì kết quả sẽ thế nào?

Chủ quán gãi đầu tỏ vẻ lo lắng:

- Thật là nguy hiểm. Bọn Truông Mây ở Kim Sơn người đông, địa thế lại hiểm trở, chỉ e nữ hiệp cô thân độc mã sẽ bị nguy.

- Không có cách gì giúp cô ta à? Hay là báo cho Châu gia trang để họ đến giúp?

- Chu nữ hiệp đã dặn lúc nãy rồi, đừng để đến tai cha cô ấy. Chà, chắc là nữ hiệp lén nhà một mình tự ý vào hang cọp đây. Thật là gan dạ hết sức nói!

- Hành vi của bọn Truông Mây thế nào?

Chủ quán nhìn chàng bằng ánh mắt tò mò:

- Không quá hung ác như bọn Ngưu Ma Vương ngoài biển nhưng cướp vẫn là cướp, trừ phi là cướp hiệp nghĩa như chú Lía ở Bá Bích thành. Hiệp sĩ định giúp Chu nữ hiệp à? Phải đó, dù sao hai người cũng còn hơn một. Tôi mà có võ nghệ cao cường thì tôi cũng sẽ đi liền. Cái bọn khốn kiếp ấy, hiệp sĩ thấy đó, lúc nãy mà không có chuyện là quán tôi sẽ mất toi số tiền rượu thịt chúng kêu rồi. Chưa kể hàng năm còn phải nộp tiền cho chúng nữa chứ. Chúng làm như triều đình vậy, ai không nộp phí sẽ bị chúng phá nát hàng quán. Quan lính ở đây cứ trơ mắt ra nhìn, không làm gì được cả. Nhiều lúc tức đến ói máu nhưng đành chịu.

Ông ngừng lại một chút để lấy hơi rồi nói tiếp:

- Này nhé, để tránh bị chúng phát giác, hiệp sĩ cứ theo bờ Lại Dương đi về phía tây một đoạn, rẽ trái và tiếp tục theo con lộ đó tới núi Lỗ Đố, vòng qua núi là có thể băng qua thượng nguồn sông Kim Sơn rồi trở ngược xuống một chút, sào huyệt Truông Mây ở ngay tại đó.

Lía nghe ông chủ quán chỉ đường cũng giống ông lái đò thì biết đó là con đường duy nhất đến Truông Mây. Chàng nói:

- Cảm ơn chú, cháu chỉ hỏi thăm cho biết vậy thôi. Mai cháu phải lên đường sớm rồi.

Chủ quán vò đầu nói:

- Vậy à? Chết thật! Có cách gì khác để giúp cho vị nữ hiệp không nhỉ?

Lía cười thầm, bỗng dưng thấy rất có cảm tình với ông chủ quán tốt bụng. Chàng thanh toán tiền rượu và tiền phòng để sáng có thể đi sớm mà không phiền đến chủ quán, xong về phòng nghỉ ngơi. Cả tháng nay miệt mài trên lưng ngựa nên chàng cũng cảm thấy hơi mệt.

***

Mặt trời vừa lên khỏi đỉnh núi ở đằng đông, chiếu những tia sáng vào những hạt sương trên lá rừng như những viên kim cương lấp lánh. Từ trên đỉnh Kim Sơn nhìn bao quát xuống toàn vùng Truông Mây, Lía không khỏi kinh ngạc. Rừng mây xanh ngát bạt ngàn được che chắn bởi hai nhánh sông An Lão và Kim Sơn như hai hào lũy vững chãi. Bên phải là hòn núi Một, phía sau là rừng núi trập trùng, địa thế này thật là vùng đất tốt để lập căn cứ chống lại quan binh, thảo nào mà bọn Truông Mây vẫn bình chân như vại sau mấy lần tấn công của triều đình. So với thành Bá Bích, nơi đây thuận tiện hơn cho hoạt động của chàng. Chàng thầm nghĩ phải thu phục bọn cha Hồ, chú Nhẫn gì đó để mở rộng hoạt động cứu giúp dân nghèo sau này.

Đã đầu giờ Thìn, chàng cho ngựa thong thả xuống núi, len lỏi theo lối mòn đến gần sào huyệt bọn cướp. Chàng cột ngựa trong một lùm cây rồi phóng người tiếp cận mấy căn nhà lá. Trong khu đất trống khá rộng, chàng thấy rất đông người đang bao vây theo dõi hai người phụ nữ đứng đối diện nhau, một mặc y phục màu đỏ thẫm mà chàng nhận ra là Chu Muội Nương, một vận y phục màu đen, khuôn mặt hung dữ, tuổi ước chừng ngoài ba mươi. Người phụ nữ áo đen nói:

- Ngươi hạ độc thủ khiến em ta liệt cả người, giờ sống không bằng chết. Hôm nay ngươi còn dám dẫn xác đến đây đòi tiêu diệt cả Truông Mây, ta sẽ moi gan ngươi ra xem nó lớn đến cỡ nào mà dám ngông nghênh như vậy.

Chu Muội Nương nói:

- Em ngươi là một tên vô lại, ta không giết chết là đã nhân đức lắm rồi. Ta đã đến đây, ngươi muốn trả thù cho em ngươi thì cứ việc ra tay, đừng nhiều lời. Báo danh đi!

Người áo đen cười khẩy một tiếng nói:

- Ta là Thi Chân, đệ tam nương của Truông Mây này. Giờ ta báo thù cho em ta đây.

Nói xong ả rút song đao ra, hoành bộ thủ thế. Ánh đao sáng lóe dưới ánh mặt trời ban mai, khí thế hung hãn. Chu Muội Nương nhẹ nhàng rút thanh kiếm ra khỏi vỏ, tiếng thép ngân dài chứng tỏ đó là một thanh kiếm quí. Nàng đứng thật ung dung, đốc kiếm cao ngang bụng, mũi kiếm chĩa thẳng vào yết hầu địch thủ. Tư thế tuy trông rất thanh nhã nhưng vô cùng vững vàng, kín đáo.

Bỗng nghe Thi Chân hét lớn một tiếng, chân phải bước tới, song đao đồng thời chém tạt ngang vào bụng đối phương theo thế Phượng Hoàng xuyên vân. Muội Nương thoái bộ thoát khỏi đường đao, mũi kiếm xoay một vòng tròn đâm xéo vào vai trái của địch. Thi Chân tay trái dùng thanh đao gạt mạnh vào lưỡi kiếm, đồng thời chân bước tới trước, xếp đao theo cánh tay phải thốc ngược từ dưới lên. Muội Nương tung người nhảy lùi ra sau, miệng la lớn:

- Hay lắm!

Thi Chân ra chiêu thắng lợi đâu chịu bỏ lỡ cơ hội, ả tiếp tục lướt tới, song đao đâm thẳng vào mặt đối phương. Lối đánh nhanh và nhập nội, lại tấn công liên hoàn với những đường đánh thốc từ dưới lên và chéo ngang hiểm hóc buộc Chu Muội Nương phải tránh né rồi rơi vào thế hạ phong. Chu Muội Nương vì một phút khinh địch đã để lỡ tiên cơ, tay áo trái bị lưỡi đao chém rách một đường dài. Nàng tức giận hét lớn một tiếng, tung người lên cao rồi từ trên không vạch liên tiếp hai đường kiếm chụp xuống đầu Thi Chân. Ả thất kinh vội đưa song đao lên đỡ, nhưng đường kiếm thứ hai quá hiểm ác nên đành phải ngã người lăn ra xa mới thoát được đường kiếm. Sau đó, ả tung nhanh người đứng lên, nét kinh hoàng và giận dữ lộ rõ trên khuôn mặt. Muội Nương chân vừa chạm đất đã lướt ngay tới trước, tay kiếm tung ra một đòn sấm sét, kiếm ảnh bao trùm cả người Thi Chân. Thi Chân như con thú dữ bị thương, hét lớn một tiếng, song đao tấn công vào vùng kiếm ảnh, cách đánh hết sức liều lĩnh, quyết chết cùng đối phương. Muội Nương hét lớn:

- Ngươi muốn chết!

Rồi nàng xoay người né, tay kiếm đồng thời quét ngang một đường tựa như thế Hoành tảo thiên quân của côn pháp. Nàng sử dụng chiêu này rất đúng lúc nên tuy rằng đó là một chiêu thức tầm thường nhưng thật hiểm hóc. Thi Chân tấn công lỡ bộ không sao né tránh được nên đành để mũi kiếm quét ngang hông một đường dài thấu ruột. Ả rên lên “ui cha” rồi tay trái buông đao ôm bụng, máu tuôn xối xả. Muội Nương chống kiếm đứng giữa sân hỏi:

- Còn ai muốn ra chịu chết nữa không?

Chú Nhẫn vội sai bọn thủ hạ băng bó vết thương cho Thi Chân. Hồ Bân chậm rãi bước ra sân, ôm quyền nói:

- Hồ Bân ta chưa bao giờ giao đấu với nữ nhân, nhưng hôm nay đành phá lệ rồi.

Muội Nương nói:

- Kể ra ngươi cũng có chút khí phách nam nhi, tiếc rằng không đem tài trai ra giúp nước lại đi làm đạo tặc tác hại dân lành.

Hồ Bân ngửa mặt lên trời cười ha hả nói:

- Nói hay lắm! Cô nương cho rằng những tên quan lại của triều đình hiện nay, những người mà cô nương nghĩ họ đang giúp nước đó so với bọn ăn cướp như chúng ta, ai là người ăn cướp của dân lành nhiều hơn?

Muội Nương đanh nét mặt lại đáp:

- Tham quan cũng chỉ một thiểu số nào đó thôi, ngươi không thể vì một vài tên tham quan mà vơ đũa cả nắm, qui tội cho triều đình.

- Thời buổi này mười người làm quan đã hết chín kẻ là bọn ô lại. Cô nương mới từ trong cửa phú quí bước ra đời làm sao nhìn thấy hết những điều tác tệ mà bọn tham quan đang hà hiếp bá tánh? Bọn ta trước cũng là lão bá tánh lương thiện nhưng bị chúng áp bức đến cùng đường nên mới làm ăn cướp thôi. Quan lại ăn cướp trắng trợn công khai lại được luật pháp che chở, bọn ta chỉ là những kẻ cùng đường cướp cạn nuôi sống bản thân qua ngày thì bị người đời như cô nương đây chửi bới. Sao mà hẹp hòi nông cạn đến vậy.

Lía nghe Hồ Bân biện luận, trong lòng nảy sinh thiện cảm với hắn và đám cướp Truông Mây này. Chu Muội Nương bĩu môi nói:

- Ngươi đừng dùng miệng lưỡi che lấp hành vi của mình. Ngươi cầm đao múa gươm sao không giỏi chém đầu bọn tham quan ô lại kia đi, lại dùng nó chèn cổ bá tánh để cướp giật?

Hồ Bân nghe câu hỏi sắc bén của cô gái mặt biến sắc, nhưng hắn không ngần ngừ mà trả lời ngay:

- Cô nương bảo ta gặp tham quan thì chém, nếu ta chém chết hết bọn chúng thì còn ai làm việc cho phủ Chúa này?

Muội Nương nghe Hồ Bân trả lời cũng sắc sảo thì đuối lý nên nổi giận. Mặt nàng đỏ hồng lên trông càng đẹp hơn.

- Đừng nhiều lời! Ta đã đến đây là quyết phá cho bằng được sào huyệt ăn cướp này. Hãy dùng lý của kẻ mạnh mà phán xử!

Hồ Bân cười:

- Cô nương đã nói vậy thì tôi cũng phải vâng lời thôi. Đao kiếm vô tình xin đừng trách. Mời!

Châu gia ở Phù Ly nổi danh thiên hạ đã bao đời, Hồ Bân không dám coi thường. Hắn rút thanh hổ đầu đao ra cầm nơi tay ngưng thần thủ thế. Lía nhìn cách cầm đao thủ thế của Hồ Bân thì thầm khen: “Tên này thuộc hàng danh thủ về đao pháp, e rằng vị tiểu cô nương kia sẽ thất bại thôi!” Kiếm tuy là vua trong các loại binh khí nhờ vào sự linh động nhẹ nhàng của nó nhưng vì nhẹ nên người sử dụng kiếm phải có nội lực cao thì mới có thể phát huy hết lợi thế, nhất là khi đối đầu với những vũ khí nặng như đao, côn...

Chu Muội Nương cũng nhận ra Hồ Bân là tay cao thủ về đao nên sau khi ôm quyền chào xong nàng hét lớn một tiếng và xuất liền ba chiêu tấn công cả trên lẫn dưới, cả tả lẫn hữu. Kiếm chiêu của nàng phát ra rất nhanh, kiếm quang đầy trời. Hồ Bân khoa thanh đao thành một vòng tròn dày đặc để đón đỡ ba chiêu kiếm đó. Muội Nương biết rằng không nên để đao của địch thủ đỡ thẳng vào kiếm của mình nên nàng liền di động thân ảnh quanh người địch thủ và đâm luôn mấy chiêu nữa. Mũi kiếm như những con rắn tinh khôn len giữa bóng đao công tới. Hồ Bân giật mình vũ lộng thanh đao nhanh hơn tạo thành bức tường bao bọc quanh người. Hắn lớn tiếng khen:

- Kiếm hay! Nhưng cô nương hãy coi chừng!

Đao kiếm chạm nhau, tiếng thép ngân vang. Chu Muội Nương tay kiếm bị chấn động mạnh nên giật mình, biết rằng hôm nay đã gặp phải tay kình địch. Nàng quyết định giở ngay tuyệt học ra để tốc thắng. Nhưng chỉ trong một giây do dự đó của nàng, Hồ Bân đã đổi thế đánh. Thanh đao trong tay hắn như một ánh chớp tạo thành chiếc mống bạc chụp xuống đầu nàng, khí thế xẻ núi bạt sơn. Chu Muội Nương chân đạp cửu cung thoát khỏi vùng đao ảnh, tay xuất chiêu Cuồng phong lạc diệp như một trận gió lớn thổi ngang, kiếm quang chớp ngời vụt mạnh vào người địch thủ. Trước chiêu kiếm ác liệt đó, Hồ Bân không còn kiêng nể chuyện nam nữ nữa. Hắn hét lớn một tiếng, tràn người sang bên, thanh đao quét thành một đường dài nhắm thẳng vào thanh kiếm của Muội Nương. Thân thủ của hắn tuyệt nhanh, thế đao mạnh như bài sơn đảo hải. Một tiếng keng chát chúa vang lên, thanh kiếm trong tay Chu Muội Nương đã vuột khỏi tay nàng và lao thẳng đến chỗ Lía đang núp. Cả cánh tay của Chu Muội Nương bị chấn động, tê buốt, thân hình nàng loạng choạng dạt ngược về phía sau. Đúng lúc ấy, hai thanh đao trong tay của Thi Chân phóng vút ra, một trước một sau lao thẳng vào lưng nàng. Mọi người tại đấu trường, ngay cả Hồ Bân, nhìn thấy cũng chỉ kịp la hoảng một tiếng. Tất cả đều tin rằng hai thanh đao của Thi Chân sẽ cắm phập vào lưng Muội Nương không thể nào khác hơn được.

Nhưng ngay lập tức, cùng với tiếng la của mọi người là một tiếng hét lớn đến chói tai:

- Coi chừng!

Rồi có tiếng xé gió của thanh kiếm bay đi nhanh hơn tên bắn, lao về hướng hai thanh đao. Choang! Dù khoảng cách khá xa nhưng một thanh đao đã bị thanh kiếm bắn trúng, cả đao và kiếm văng ra xa. Trong khi đó, thanh đao thứ hai của Thi Chân vẫn phóng vút tới. Chu Muội Nương khi nghe tiếng la vội lách thân hình sang bên nhưng đã chậm một chút, thanh đao thứ hai đã cắm phập vào hông nàng. Muội Nương rên lên một tiếng đau đớn, lảo đảo người muốn té. Thi Chân ám toán thành công vừa dợm người muốn xông tới kết liễu kẻ thù. Tức thì, một bóng người từ trong hàng cây cao đã lướt nhanh đến, miệng hét lớn:

- Ngừng tay!

Tiếng hét dội vào màng óc mọi người khiến ai nấy muốn điếc tai. Thi Chân thất kinh dừng lại. Người lạ mặt với chiếc nón rộng vành che khuất phần khuôn mặt dang tay đỡ Chu Muội Nương rồi điểm nhanh một số huyệt đạo trên người nàng, đặt nàng nằm xuống đất rồi rút mạnh thanh đao ra, máu theo đó vọt ra thành vòi. Người đó vội xé bỏ phần áo nơi miệng vết thương, thò tay vào bọc lấy thuốc rịt vào miệng vết thương, xé đôi chiếc khăn trên cổ mình cột chặt chỗ vết thương lại. Từ động tác phóng kiếm đến lúc băng người ra đỡ Muội Nương, người lạ mặt thực hiện rất bình tĩnh, gọn gàng như ở đó không hề có mặt của đám cướp Truông Mây. Người lạ mặt chính là Lía. Chàng đang núp sau hàng cây lớn để quan sát trận đấu thì thanh kiếm của Muội Nương bị hất bay về phía chàng. Tiện tay chàng chụp lấy, khi thấy Thi Chân phóng đao ám toán Muội Nương chàng vội phóng thanh kiếm ra đỡ. Tiếc rằng chàng chỉ cản được một thanh đao. Muội Nương đau đớn muốn ngất đi nhưng vốn là cô gái cương mãnh nên nàng cắn răng chịu đựng. Nàng đưa ánh mắt biết ơn nhìn chàng trai lạ mặt. Cũng may nàng xoay người né tránh nên mũi đao mới không đâm trúng những bộ phận quan trọng trên người. Thi Chân lớn tiếng quát hỏi:

- Ngươi là ai?

Lía đưa tay bế Chu Muội Nương, trừng mắt nhìn ả lạnh lùng:

- Với thủ đoạn đánh lén của ngươi, lẽ ra ta phải dạy cho bài học nhưng vì gấp cứu người nên ta tha cho hôm nay. Các ngươi chờ đó. Ta sẽ trở lại.

Thi Chân chạm vào ánh mắt của chàng tự dưng không lạnh mà run, thoái lui mấy bước. Lía nói xong trở bước thật nhanh về phía rừng rậm. Khí thế và tiếng nói như chuông của chàng khiến cho tất cả mọi người có mặt tại hiện trường đều khiếp hãi trong lòng, không ai dám phản ứng gì cả. Hồ Bân lớn tiếng hỏi:

- Xin ông bạn lưu danh để ngày sau còn gặp lại.

Lía không quay đầu lại, nói lớn:

- Lía!

Cái tên nghe gọn lỏn nhưng đã gây một chấn động rất lớn cho tất cả đám cướp Truông Mây. Cha Hồ, chú Nhẫn và Hồ Bân đều biến sắc kêu lên:

- Lía! Lía ở Bá Bích thành à?

Lía đã khuất dạng sau rừng cây. Mọi người chợt nghe có tiếng ngựa hí vang rồi xa dần. Cha Hồ lo lắng nói:

- Chú Lía đã đến đây thì Truông Mây rắc rối to rồi đó.

Chú Nhẫn thắc mắc:

- Chẳng lẽ với bao nhiêu người đây cùng địa thế hiểm yếu này mà chúng ta lại sợ một mình hắn ư?

Cha Hồ nói:

- Bao nhiêu người đây chẳng khác nào đàn cừu non trước miệng cọp. Ngay khi chưa học võ mà chú Lía đã có thể một mình siết cổ chết con cọp đen to lớn. Mấy tháng trước đây, cả vị tổng binh phủ Quy Nhơn là Phan Ngọc Chánh, nổi danh thiết côn vô địch mà cũng không chịu nổi Lía mười chiêu, phải kéo binh bỏ chạy thì bọn lâu la của chúng ta có làm được gì?

Hồ Bân hỏi:

- Chú định thế nào?

Cha Hồ đáp:

- Cứ đợi xem hắn đến với tư thế gì rồi sẽ định liệu.

- Tư thế gì thì cháu cũng phải đấu với hắn một trận cho biết tài cao thấp. Chỉ mới nghe thiên hạ đồn đoán mà đã sợ hãi bó tay thì còn gì là thân nam tử nữa.

Thi Chân chen vào:

- Hồ Bân nói đúng đó. Chết sống gì cũng phải thử qua mới biết. Hắn cũng chỉ có hai tay thôi mà, đâu phải ba đầu sáu tay gì đâu mà sợ.

Chú Nhẫn nói:

- Được, cứ chờ xem rồi sẽ tính.

Con ngựa phóng nhanh trên đường núi gập ghềnh khiến cho vết thương của Muội Nương bị động mạnh gây nên sự đau nhức thấu xương. Nàng tuy gan lì nhưng cũng không chịu đựng nổi sự đau đớn này nên cất tiếng rên ư ử liên tục. Lía đặt nàng ngồi phía trước để lưng nàng tựa vào người mình, chàng điều khiển cương ngựa bằng tay trái còn tay phải ép chặt vào miệng vết thương ngăn không cho máu chảy ra. Thuốc kim thương của chàng là do sư phụ đặc chế, tuy rất công hiệu nhưng vì ngồi trên lưng ngựa đang phi với tốc độ nhanh nên máu nơi vết thương vẫn không ngừng chảy. Nghe Muội Nương rên rỉ, Lía lo lắng hỏi:

- Cô nương còn chịu nổi không?

Muội Nương cắn răng đáp:

- Nổi. Mau đem tôi về nhà. Cha tôi có thuốc chữa thương rất hay.

- Nhà cô ở đâu?

- Trại ngựa Châu gia trang ở quan lộ gần huyện Phù Ly.

- Từ đây có đường núi nào về đó nhanh không?

- Theo lối này qua đèo Màn Lăng sẽ có đường nhỏ dẫn xuống Phù Ly.

Lía thò tay vào bọc lấy một lọ thuốc, trút ra một viên rồi đưa cho Muội Nương:

- Cô nương uống tạm viên thuốc này đi. Nó sẽ giúp cô giữ được nguyên khí trong người.

Muội Nương cầm viên thuốc bỏ vào miệng nuốt. Lía nói:

- Xin lỗi cô nương nhé.

Xong chàng đặt bàn tay phải của mình vào mệnh môn huyệt của Muội Nương, truyền nội khí sang cho nàng. Muội Nương nói nhỏ:

- Cảm ơn.

- Cô nương hãy dưỡng thần để điều hòa chân khí trong người, không nên nói nữa.

Con Bạch mã vẫn phóng đều bốn vó. Dù nó đang chạy nhanh trên đường núi gập ghềnh nhưng vẫn giữ được cảm giác êm ái cho người đang ngồi trên lưng. Muội Nương buột miệng khen:

- Con ngựa này quả là thần mã.

Lía hỏi:

- Cô thấy trong người thế nào?

- Khá lắm. Thuốc của hiệp sĩ thật công hiệu. Anh là Lía hiệp sĩ ở Bá Bích thành à?

- Vâng. Cô không nên nói nhiều để khỏi tiêu hao thêm khí lực.

Muội Nương nghe chàng xác nhận mình là Lía, người hiệp sĩ mà nàng đã hâm mộ danh tiếng từ lâu thì trong lòng chợt thấy ấm áp kỳ lạ. Tuy vết thương làm cho nàng đau đớn nhưng niềm vui kỳ ngộ này khiến nàng có cảm giác dễ chịu vô cùng. Nàng ngồi trên lưng ngựa, lưng tựa vào lòng chàng trai trong mộng, sự cọ xác tạo cho nàng một cảm giác thật êm đềm. Nàng bỗng đỏ mặt tự thẹn với chính mình. Nàng vội nhắm mắt lại, cuối cùng sự mệt mỏi đã khiến nàng ngủ quên trong lòng của Lía. Mặt trời vừa khuất núi thì cả hai cũng về đến Châu gia trang. Con Bạch mã vừa vào đến cổng đã có tiếng người la lớn:

- Tiểu thư về rồi kìa! Trời ơi tiểu thư bị thương à?

Lía bế ngang lưng Muội Nương, tung người nhảy xuống ngựa. Chàng nói với người đàn ông vừa hô hoán:

- Tiểu thư bị thương nặng lắm, mau vào báo với trang chủ.

Người nọ nghe nói vội quay người chạy nhanh vào trong. Phút chốc đã có nhiều người từ trong gian nhà lớn chạy ra, đi đầu là một người đàn ông tuổi ngoài năm mươi, phong thái vừa thanh cao vừa uy dũng. Cạnh ông ta là một phu nhân với vẻ mặt vô cùng lo lắng theo sau là bốn người thanh niên lớn hơn chàng độ chừng vài ba tuổi. Muội Nương đã tỉnh lại, vừa thấy người nhà đã lên tiếng gọi:

- Cha! Mẹ!

Gọi xong bỗng dưng nước mắt nàng trào ra, vẻ cương liệt như đã biến đâu mất. Người đàn ông chính là Châu Doãn Thành, ông ta chắp tay xá Lía nói:

- Đa tạ hiệp sĩ đã có ơn cứu mạng cho tiện nữ. Văn Tiếp, mau bế em vào nhà! Doãn Chữ coi thương thế nó ra sao. Mời hiệp sĩ vào uống chén trà nghỉ ngơi, con bé ngỗ nghịch này chắc đã làm phiền hiệp sĩ nhiều lắm rồi phải không?

Lía trao Muội Nương cho anh nàng rồi ôm quyền đáp lễ:

- Giữa đường gặp chuyện giúp nhau mà thôi. Châu lão trang chủ không cần bận tâm.

Văn Tiếp vội bế Muội Nương vào bên trong, mọi người đều theo vào. Châu Doãn Thành lại chắp tay nói:

- Hiệp sĩ thi ân bất cầu báo, Châu gia chúng tôi chỉ xin tạc dạ không dám nói lời khách sáo. Mời vào trong để chúng ta đàm đạo.

Lía ôn tồn nói:

- Không dám làm phiền trang chủ. Xin cáo từ, ngày sau có duyên thì gặp lại.

Nói xong, chàng ôm quyền thi lễ rồi quay người nhảy lên ngựa. Châu Doãn Thành biết không thể lưu khách được nên nói:

- Đã vậy xin hiệp sĩ lưu lại tên họ để chúng tôi còn ghi nhớ.

Lía thúc ngựa phóng đi, nói lớn:

- Lía!

Doãn Thành đứng nhìn theo bóng ngựa cùng chàng hiệp sĩ mất hút, miệng không ngớt lẩm bẩm:

- Lía... Là Lía ở Bá Bích thành à? Thật là danh bất hư truyền. Hà hà... Hay lắm, hay lắm!

Không biết ông ta nói chàng Lía hay, hay là sự kỳ ngộ giữa con gái mình với Lía là điều hay. Lúc ấy Châu Văn Tiếp cũng vừa bước ra. Văn Tiếp hỏi:

- Điều gì hay lắm vậy cha? Người hiệp sĩ kia đâu rồi? Anh ta là ai vậy?

Doãn Thành nói:

- Đi rồi. Là Lía ở Bá Bích thành. Muội Nương ra sao rồi?

- Dạ, em không sao, chỉ là vết đâm bên hông, cũng may không trúng vào nội tạng, chỉ bị mất máu nhiều mà thôi. Anh hai đang băng bó và cho uống thuốc.

Doãn Thành vốn thương yêu cô gái út này lắm nên nói:

- Để cha vào thăm nó. Thật là ngỗ nghịch. Là ai đánh nó bị trọng thương đến mức đó vậy?

- Em còn yếu nên chúng con chưa tiện hỏi mà định ra đây để hỏi vị hiệp sĩ kia. Hắn là Lía ở Bá Bích thành à? Thảo nào nhìn hắn thật lẫm liệt.

- Cha cũng chưa kịp hỏi thì cậu ta đã đi rồi. Con người này tuy vô pháp vô thiên nhưng lại là chính nhân hiệp sĩ. Cần đến là đến, nói đi là đi, khí phách thật trượng phu. Tốt lắm! Thôi được, đợi Muội Nương khá lại hỏi nó cũng được.

Ông vội vã vào phòng Muội Nương, Văn Tiếp cũng theo sau. Châu phu nhân đang ngồi bên cạnh nàng. Vừa thấy cha, Muội Nương đã mếu máo:

- Cha tha lỗi cho con.

Doãn Thành vuốt tóc con gái nhỏ nhẹ:

- Mọi việc để nói sau. Con thấy trong người thế nào?

- Con không sao. Lía đại ca đã cho con uống linh đơn, anh hai lại cho uống thêm thuốc. Con thấy khá hơn rồi. Mà anh ấy đâu rồi?

- Đi rồi!

Muội Nương thảng thốt:

- Đi rồi à? Cha không mời người ta ở lại để cảm ơn ư?

- Cha có mời cậu ta ở lại để tạ ơn và hỏi chuyện nhưng cậu ta đã bỏ đi ngay.

Muội Nương chán nản nói:

- Bỏ đi ngay... Con còn chưa nói tiếng cảm ơn nữa đó.

Doãn phu nhân nhìn con gái âu yếm:

- Lo gì, nếu mình không quên ơn thì có thiếu gì cơ hội để báo đáp. Cậu ta thi ân bất cầu báo mới là bậc đại trượng phu chứ.

Doãn Thành mỉm cười:

- Mẹ con nói phải đấy. Nhưng ai đã đánh con bị thương đến mức này?

Muội Nương ngập ngừng một lúc rồi đáp:

- Bọn Truông Mây đánh lén nên con mới ra nông nổi này đó.

Châu Văn Tiếp nghe em gái nói thì cơn giận nổi lên:

- Bọn cướp Truông Mây à? Bọn khốn này con đã định tiêu diệt chúng, chưa kịp ra tay thì chúng lại đánh ngũ muội bị thương. Ngày mai con quyết phá tan sào huyệt Truông Mây để trả mối thù này.

Doãn Thành khoát tay nói:

- Bọn Truông Mây không dễ đối phó như bọn ở núi Bà đâu. Con không nên nóng nảy.

Rồi ông nhìn cô con gái yêu, trách:

- Sao con lại dám một mình vào tận sào huyệt bọn chúng chứ? Thật là không biết trời cao đất dày gì cả! Nếu không có người ra tay cứu thì giờ này sẽ ra sao? Từ nay nhất thiết không được làm càn nữa, biết chưa?

Muội Nương nghe cha mắng thì nước mắt lại ràng rụa. Châu phu nhân vội nói:

- Con nó đang đau, có gì rồi từ từ nói. Mọi người ra ngoài hết đi, để nó nghỉ ngơi đã.

Doãn Thành thấy con gái khóc thì lại mềm lòng. Ông xoa đầu Muội Nương nhỏ nhẹ:

- Con nghỉ ngơi cho chóng khỏe đi.

*****


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx