sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

07. Cái kết của một câu chuyện cổ - Phần 1

7. Cái kết của một câu chuyện cổ

“Và bình minh choàng tỉnh, những tia nắng lại trở về bên vương quốc. Hoàng tử cùng công chúa nắm tay nhau trong tiếng hò reo vui mừng và chúc tụng của dân chúng. Và họ sống hạnh phúc bên nhau cho tới mãi mãi về sau”.

Người mẹ đóng lại trang sách cuối cùng của cuốn truyện cổ tích. Cô bé con nằm bên cạnh bà có lẽ đã ngủ khì từ lúc nào. Nhìn đôi mi mắt nhắm nghiền một cách yên lành của cô công chúa nhỏ, bà mỉm cười, cúi xuống hôn vào má cô bé một cái thật âu yếm, rồi bước ra khỏi phòng.

Nhưng cô công chúa nhỏ vẫn chưa ngủ. Chờ người mẹ đi khỏi, cô mới từ từ mở mắt. Đôi mắt đen nháy sâu thẳm của cô bé dường như đang nhìn xuyên qua một khoảng không gian vô tận… tới bức tranh vẽ hình một tòa lâu đài cổ được bao bọc bởi khu rừng xanh thẳm treo trên tường…

Từ ngày còn ấu thơ, cô gái bé nhỏ đã nghi ngờ…

Có phải tất cả các câu chuyện công chúa hoàng tử đều có cái kết đẹp như trong cổ tích hay không?

*

Tiếng kêu cứu ấy vang lên nhẹ tới mức dường như gió có thể cuốn đi được, đều đặn vọng vào tâm trí cô bé với một ma lực mãnh liệt và ám ảnh. Cô bé chạy, chạy thật nhanh qua những mê cung của rừng thẳm, qua những cái bẫy vô hình mà bóng tối đã tạo ra, qua những cái vuốt lạnh buốt của không khí, qua cả những nỗi sợ hãi mơ hồ thường trực trong đầu, chỉ để tìm cho ra bí mật của giấc mơ này – một giấc mơ đều đặn không ngừng vang lên những tiếng kêu thảng thốt: “Xin hãy giúp tôi… giúp tôi… giúp tôi…”.

An giật mình tỉnh dậy. Ánh sáng buổi sớm mai dù đã đi xuyên qua một lớp rèm vẫn đủ sức khiến cô thấy chói mắt. Gác tay lên trán, cô quay đầu vào bên trong bức tường. Giấc mơ ấy lại đến, mơ hồ và huyền bí hệt như bao lần khác. Vẫn là khu rừng đó, vẫn là giọng kêu cứu đó, yếu đuối, và có phần bất lực. An đã cố gắng, nhưng lần nào cũng vậy, cô chẳng bao giờ có thể tìm cho ra người con gái ấy trong giấc mơ của mình. Đó là một giấc mơ kì lạ, và An cũng đủ kì lạ để hiểu một giấc mơ lặp đi lặp lại nghĩa là không bình thường như thế nào.

An hướng mắt về phía bức tranh vẽ hình tòa lâu đài cổ. Bức tranh ấy đã tồn tại ở đây từ hồi cô còn bé, bé tới nỗi cô chẳng thể nhớ được gì. Đó cũng là một bức tranh lạ lùng, không phải bởi những gì được vẽ trên đó, mà bởi những ấn tượng mà bức tranh đã tạo ra cho người xem, hay ít nhất là cho An: lạnh, rùng rợn, và khó nắm bắt. Nhưng việc nó hiện hữu trên bức tường đậm chất kì ảo, huyền hoặc này đã trở thành một cái gì đó không thể thay đổi, gần như là bất khả xâm phạm vậy.

An lại đưa mắt sang tờ lịch được treo bên cạnh. Những dấu gạch đỏ chi chít được tô vẽ trên đó nhắc cô bé nhớ hôm nay là một ngày đặc biệt, không chỉ vì đây là ngày cuối cùng của cô ở tuổi mười bốn, mà còn vì một kế hoạch cô đã vạch sẵn dành riêng cho ngày hôm nay.

Chẳng bao giờ phải là dịp đặc biệt thì sân thể thao của trường mới trở nên rực lửa, nhất là khi nó được sử dụng bởi những chàng trai chơi bóng màu cam nổi tiếng nhất trường. Thậm chí một buổi luyện tập bình thường của đội Báo Gấm như hôm nay vẫn đủ độ nóng để kéo cả trăm cô nàng hâm mộ đến hò reo cổ vũ, mang theo những tấm băng-rôn đủ màu sắc và tiếng huyên náo đến khó chịu. Lách qua một rừng các cô nàng đang cuồng nhiệt hò hét như thế và cố tránh không cho những đôi giày cao gót của họ ghì phải chân mình, An tìm đến chiếc ghế khuất nhất trong những chiếc ghế khuất nhất của hàng khán giả và ngồi xuống. Tuy không phải là một fan cuồng nhiệt, nhưng cô bé là fan trung thành nhất mà đội Báo Gấm có thể có được, chỉ có điều, có lẽ họ sẽ chẳng bao giờ nhận ra.

Đúng vậy. Hiểu An là một cô bé kì lạ. Kì lạ tới mức những điều được kể ở trên là không đủ để thể hiện hết cái kì lạ của cô bé. Điều làm An càng trở nên đặc biệt hơn có lẽ là đôi mắt. Bất kì ai tiếp xúc với cô đều phát hiện ra đó là một đôi mắt đóng băng. Nó đẹp, nhưng lạnh lùng và vô hồn quá, tựa như một thế giới bị che phủ bởi một cánh cửa làm bằng băng trong suốt. Nhưng An cũng là một cô bé hết sức bình thường ở tuổi mới lớn. Như bao cô bạn khác, cô hướng sự chú ý của mình về phía Nhật, đội trưởng đội Báo Gấm, một chàng trai gần như hoàn hảo. Tài năng, học giỏi, đẹp trai, thừa kế một khối lượng tài sản kếch xù, được bao quanh bởi một vầng hào quang sáng chói của sự nổi tiếng và những ánh mắt long lanh thán phục của những cô nàng hotgirl xinh đẹp, có lẽ cuộc sống của cậu ấy là quá đủ để có thể chứa thêm sự tồn tại của Hiểu An.

Nhưng An không phải là một đứa con gái tự kỉ, nhỏ bé và cô độc như nhiều người vẫn tưởng. Cô bé tham gia vào mọi cuộc chơi, chỉ là với một tâm thế dè chừng, cẩn thận và luôn giữ một đường lui cho chính mình để không phải nhận bất cứ tổn thương nào. Với tình cảm này, cô bé tự lập ra cho mình một kế hoạch, diễn ra trong một tuần, và kết thúc vào ngày cuối cùng của tuổi mười bốn – tức là ngày hôm nay.

Nhật quyết định dừng buổi tập thật sớm và tặng cho đồng đội một buổi chiều xả hơi ở hội chợ thành phố. Từ chối lời kêu gọi của hội bạn, cậu một mình trở về lớp học, dù rằng hôm nay là Chủ nhật và chỉ có những thằng điên mới muốn dành khoảng thời gian quý báu ấy ở trường. Nếu cậu đoán không nhầm, hôm nay sẽ là ngày cậu nhận được bức tranh cuối cùng để ghép lại một câu chuyện hoàn chỉnh – một câu chuyện không lời được vẽ bằng những bức tranh chì đẹp tới mức khó tin từ một cô bé giấu mặt.

Bức tranh – mảnh ghép cuối cùng được cuộn lại bằng một đoạn ruy băng màu xanh, nằm ngay ngắn bên trong ngăn tủ đựng đồ. Nhẹ nhàng cầm lấy cuộn giấy màu vàng kiểu cổ, cậu khéo léo và cẩn thận hết sức để mở ra sao cho bức tranh không bị nhàu nát. Những nét vẽ đen dần hiện ra trên nền giấy sần sùi, mượt mà và mờ ảo.

Cô gái đang ngủ…

Một thách thức!

Nhật khẽ mỉm cười.

Quả nhiên…

*

Bị cuốn theo dòng người đông đúc ở khu hội chợ, An lạc bước tới một hẻm nhỏ khá khuất. Tồi tàn, âm u, xám xịt và ít người hẳn so với bên ngoài, cô không thể tin giữa hội chợ cũng có một nơi như thế. Nhưng nó vẫn thuộc hội chợ hẳn hoi, với một túp lều trông huyền bí mở cánh cửa nhỏ xíu ra trông như một rạp xiếc nhỏ vậy. Chìm trong màu nâu tối xấu xí của cái lều bạt là một dòng chữ vàng rất mờ mà nếu không nhìn kĩ thì sẽ chẳng mấy ai nhận ra: “Bói cầu tiên tri”.

Có điều gì đó rất lạ lùng, giống như ma lực, đang cuốn lấy trí tò mò của An. Và thay vì tránh xa nơi đó như hàng ngày vẫn làm, cô bé lại tiến tới và bước vào bên trong. Mùi trà xộc lên, có phần hơi nồng khiến cô phải chun mũi. Bên trong khá tối, chỉ có chút ánh sáng len lỏi qua một lỗ thủng khá to trên nóc lều chiếu xuống một chiếc bàn có bà cụ đang ngồi. Bà ta trông rất già, xấu xí và lập dị, với làn da nhăn nheo có nổi hai cái mụn cóc to bên cánh mũi và dưới cằm, cái miệng móm lại với vài cái răng đen khập khiễng, mái tóc xoăn bù xù bạc phơ bạc phếch thả tự do sau lưng, quần áo vá víu xộc xệch, và toàn thân bà ta thoát ra một thứ mùi hôi khó chịu, gần giống như mùi ẩm mốc vậy. Cô bé hoảng sợ định bước ra, nhưng cửa căn lều đã hạ xuống sau lưng cô.

- Lại gần đây nào cô bé! – Một tiếng nói trầm nhưng nhẹ tênh cất lên, nghe như phát ra từ một nơi âm u huyền bí nào đó.

Sợ hãi, nhưng hít một hơi thật sâu, An cũng lò dò bước tới trước. Ánh sáng chao đảo trên mặt bàn, phản chiếu mơ hồ khuôn mặt khủng khiếp của bà già, khiến cô bé càng chột dạ. Cô nắm chặt tay cố kìm nén một nét run nơi bờ vai.

- Ngồi đi! – Tiếng nói lại cất lên.

An bất ngờ nhận ra chân mình vừa chạm phải một chiếc ghế nhỏ sau lưng mà trước đó chưa hề xuất hiện. Cô muốn quay lưng chạy thật nhanh ra ngoài, hòa vào đám người đang vui vẻ chơi hội ngoài kia, nhưng đôi chân cô dường như đang tê cứng theo ánh nhìn của bà lão bí ẩn, cứ như cô đang bị điều khiển bởi ánh mắt đó vậy. Và như thế, trái với ý nghĩ xuất hiện trong đầu mình, cô từ từ ngồi xuống.

- Cháu đang sợ hãi, cô bé! – Bà ta nói, đôi mắt nhắm nghiền, không hề nhìn vào An, nhưng vẫn cất lên giọng nói đều đều – Nó ẩn sâu trong đôi mắt cháu, nó được che giấu đằng sau một lớp băng, không ai nhìn ra sự tồn tại của nó, nhưng nó vẫn ở đây, luôn luôn ở đây!

- Cháu không hiểu – Cô sững sờ nhìn bà lão.

Bà ta lắc đầu. Đôi bàn tay nhăn nheo đen đúa với những chiếc móng bẩn thỉu sắc nhọn xoa quanh trái cầu thủy tinh đặt trước mắt. Bên trong trái cầu, một làn sương mờ ảo bốc lên, cuộn tròn và lan tỏa. Rồi Hiểu An trông thấy hình ảnh của chính cô đang chạy giữa trái cầu, không màng đến những cái cây gai nhọn đang cào nát da thịt mình, hệt như trong giấc mơ của cô. Nó hút lấy ánh mắt của cô, khiến cô không thể rời mắt.

- Cháu hiểu điều đó, hơn ai hết. Những điều xảy ra trong giấc mơ là có thật. Nó ở bên trong cháu, nó đang cầu xin cháu. Nhưng chỉ có cháu mới có thể có được lời giải cho chính mình mà thôi.

- Cháu sẽ phải làm gì?

- Lắng nghe trái tim mình, giải thoát cho chính mình – Bà lão nói – Hãy đi theo lời kêu cứu, hãy tìm đến thế giới đó. Chỉ khi cháu cứu được cô gái ấy, số mệnh của cháu mới thay đổi.

- Làm thế nào cháu có thể?

- Ánh trăng sẽ dẫn đường cho cháu!

Rồi bà lão đột ngột mở mắt, đôi mắt xám mờ nhìn An với một cái nhìn khó đoán định, đôi bàn tay đưa lên cổ, từ từ hạ xuống một sợi dây có treo một đồng xu cổ kì quái đã xỉn màu và đưa cho cô:

- Cầm lấy, nó sẽ đem lại may mắn cho cháu.

Hiểu An lắc qua lắc lại đồng xu, nó không giống bất cứ đồng xu nào trong lịch sử tiền tệ thế giới mà cô từng được biết. Thực ra, cô cũng không chắc đó là đồng xu hay là đồ vật nào khác: một biểu tượng, với hai mảnh ghép khuyết thiếu hình tam giác ẩn hiện trong vòng tròn nhỏ mà thoạt nhìn liên tưởng tới chiếc đồng hồ cát, đánh lạc hướng mọi sự đoán định. Cho đến khi đôi mắt trở nên nhàm chán với thứ chuyển động qua lại giống như một con lắc, An thiếp đi. Một tiếng trước nửa đêm.

Cô đang đứng giữa một khu rừng. Những tầng cây xanh thẫm được che đậy thêm bởi hàng lớp, hàng lớp dây leo khiến cho bầu trời gần như bị che khuất hoàn toàn. Lại là giấc mơ ấy, lại là nỗi sợ hãi mơ hồ mắc kẹt trong mạng lưới dày đặc những nhành cây âm u lẩn khuất của thăm thẳm rừng xanh. Hình như một đôi đốm sáng xanh vừa di chuyển đâu đó ngay sau lưng, không tiếng động, mang đến cảm giác nguy hiểm rờn rợn. Bám lấy những cành cây chắc chắn và không rậm rạp, An lần mò bước đi. Cô chỉ có thể dùng cảm giác chủ quan nắm bắt những dải sáng rất mờ đôi khi nhuộm trên mặt cỏ. Đất khô vừa phải, cành cây thô nhám với những đường vân uốn lượn thật nhẹ ở những nơi An vịn vào, tất cả đều khiến cô thận trọng ghi nhớ. An không nhớ mình đã đi bao lâu như thế, mọi hình ảnh trôi qua chậm chạp như từng hạt cát rơi xuống bầu dưới chiếc đồng hồ của thời gian, mỗi bước chân là một nỗi sợ hãi vô hình, cho tới khi cô bước ra một vùng khác của khu rừng, thoáng hơn, nhưng có thể thấy dễ dàng những khoảng tối xung quanh nhờ sự tương phản. Thì ra khi ngước mắt nhìn lên, An giật mình nhận ra rằng, trăng đêm đang ở ngay phía trên cô.

An bị hút dần theo ánh trăng, và rồi cô mở mắt. Hình như đã mộng du, cô nhận ra rằng mình đang đứng trước bức tranh vẽ hình tòa lâu đài cổ. Ánh sáng rọi vào từ cửa sổ, vì thế mà cô thấy bức tranh sáng lên, hay vì chính trăng bên trong bức tranh mới là thứ phát sáng? An không chắc, nhưng dường như trước mắt cô, bức tranh đang lớn dần lên. Ở cái khoảnh khắc tiếng chuông đồng hồ mười hai giờ bên kia tường vang lên và An mơ hồ nhận ra rằng mình vừa bước vào tuổi mười lăm, cô bị trôi tuột vào thế giới đang phình ra trước mắt.

*

Isa đặt thùng nước xuống sàn và thở hổn hển, nước sánh ra một ít nhưng hai tay con bé đã mỏi tới mức nó chẳng thiết với lấy cái giẻ mà lau, rồi khi con bé nhớ ra những chiếc bánh mì đang nướng trên bếp lò, một vài chiếc đã bị cháy xém.

“Bốp” – mụ chủ táng cho Isa một cái bạt tai:

- Mày là đồ ăn hại, không bao giờ làm được việc gì ra hồn! Đi ra ngoài phơi quần áo mau!

Isa ôm mặt chạy. Nó không khóc, nhưng căm giận mụ chủ. Nó mới chỉ đang ở tuổi ăn tuổi chơi, cái tuổi mười một đẹp đẽ nhất đời đáng ra phải đem đến cho nó những buổi sáng la cà đuổi bướm hái hoa và buổi chiều tập tành đua đòi tham gia tiệc trà theo kiểu con nít, chứ không phải những trận đòn dữ dằn mà mụ chủ vẫn thường làm khi nó không hoàn thành một việc nào đó. “Mình sẽ rời khỏi đây khi mình mười lăm tuổi!” – Isa nghiến răng. Đây là xứ sở cổ tích, nhưng nó không chắc mình có phải cô bé Lọ Lem hay không, và nó sợ bản thân chẳng đủ kiên nhẫn để chờ tới lúc hoàng tử có thể tới cứu mình như trong cuốn truyện cổ tích mà ngày rất bé nó được nghe. “Phải! Mình sẽ rời khỏi đây khi mình đủ sức!”

Isa là đứa bé như vậy, mộng mơ nhưng mạnh mẽ, cái mạnh mẽ rất con nít. Chính vì mộng mơ nên nó thường dành hàng đống thời gian của mình ra để tưởng tượng: tưởng tượng mình là nàng tiên mùa xuân xinh đẹp bay lượn trên bầu trời và rắc những hạt giống hoa; tưởng tượng mình là nàng công chúa bị giam cầm trong một tòa tháp cổ chờ một ngày hoàng tử tới cứu; hay tưởng tượng mình xuất thân từ một gia đình quyền quý đài các nhưng không may bị lưu vong, và một ngày kia người cha quý tộc kia sẽ đến tìm nó, trừng trị mụ chủ một cách thích đáng vì đã đối xử tệ bạc với nó và đưa nó trở về lâu đài trước sự ngỡ ngàng của những người dân sống xung quanh. Vì hay mơ mộng, Isa đôi lúc đãng trí, cái đãng trí tai hại dẫn đến việc nó chẳng làm gì ra hồn và luôn bị mụ chủ xử phạt thậm tệ, nhưng mặt khác, chính nhờ những ước mơ cổ tích đó mà nó có đủ lạc quan sống qua những ngày tháng khắc nghiệt này, giống như có một ngọn hải đăng nhỏ le lói dẫn đường cho con thuyền lưu lạc trong đêm khuya mờ tối.

Thật ra, một trong những tưởng tượng trong đầu Isa phần nào đó là có thật, nó không sai khi tin tưởng ở xuất thân khá giả của mình. Một ngày mùa xuân xa xôi nào đó mà nó không còn nhớ nổi nữa, mẹ từng nói ông ngoại nó làm trong cung điện của đức vua. Isa không rõ đó là vị vua nào, vì ngôi làng nó đang sinh sống là một ngôi làng tự do tự trị, nhưng nó vẫn luôn chờ đợi một ngày ông ngoại trở về và biến nó trở thành công chúa của riêng ông. Kể cả khi cha mẹ đều đã ra đi về cõi vĩnh hằng, và đứa trẻ mồ côi bị mua bởi một mụ chủ nhà trọ độc ác, ngay cả những lúc đau đớn vì phải chịu đựng những lời chửi mắng và trận đòn roi của mụ chủ, Isa vẫn không quên câu chuyện cổ tích dành riêng cho mình với một niềm tin trẻ thơ không bao giờ thay đổi.

Đó là một buổi sáng đẹp của mùa xuân. Những vệt nắng tinh khôi trải dài trên triền cỏ, hoa Iry trắng muốt chúm chím nở bên dưới chân cối xay gió của ngôi làng. Bươm bướm trắng dật dìu bay qua làn tóc Isa khiến con bé ngẫu hứng hát lên một khúc ca nho nhỏ. Quần áo nó mới giặt thơm thoang thoảng hương hoa xuân được phơi trải dài trên chiếc dây thép kéo căng vắt qua một phần năm cánh đồng. Con đường đất đỏ dẫn đến ngôi làng uốn cong từ triền núi, chạy quanh co qua những hàng cây bạch dương và mở rộng dần khi gần đến khu nhà trọ. Chính ở khoảnh khắc đó, khi con bươm bướm nhỏ rời bờ vai của Isa để bay xung quanh một người lạ nào đó đang tiến đến gần, là lần đầu tiên Isa gặp chị ấy.

Chị là một người thoảng nhìn qua đã biết kì lạ: không váy, tóc buộc cao như kiểu chiến binh nhưng thứ trang phục chị mặc nói lên rằng chị không thuộc thế giới này. Trông chị ấy đơn độc, có điều ánh mắt không hề biểu hiện sự sợ hãi, chỉ là cảm giác hơi lạnh mà thôi. Chị cất tiếng hỏi Isa:

- Này em bé, em có thể cho chị biết đây là nơi nào được không?

Giọng chị cũng lạ, nghe nhẹ như gió, nhưng lại ngọt ngào như mật. Isa lên tiếng đáp:

- Đây là làng Rose – Rồi không giấu nổi tò mò, nó hỏi thêm:

- Chị là ai, từ đâu đến đây?

- Chính chị cũng đang muốn tìm hiểu chuyện đó đây! – Chị mỉm cười – Này cô bé, ở thế giới này có điều gì kì lạ không?

- Em không chắc, tất cả em chỉ được nghe kể, nhưng có lẽ là nhiều.

Bờ trán chị nhăn lại suy nghĩ vài giây, rồi chị nói:

- Có lẽ chị phải tìm chỗ ăn và chỗ trọ rồi!

Hai ngày trước khi mới đến thế giới này, An biết rằng không phải ngẫu nhiên khi ánh trăng đưa cô đến đúng ngôi làng Rose. Nếu nơi đây vẫn yên bình, nguyên nhân cô bị hút vào đây có lẽ không tồn tại, nếu cô đã ở đây, chắc chắn thế giới này phải có điều gì đó kì lạ mà chính những con người sống trong đó cũng không thể giải quyết được. Có lẽ vì vậy mà An nghe được lời kêu cứu của cô gái trong tranh, hoặc trong giấc mơ của chính mình.

Có tiếng gõ cửa bên ngoài, vài giây sau đã thấy mấy bím tóc của Isa lấp ló đằng sau cánh cửa:

- Chị, em có thông tin rồi đây. Em vào được chứ? – Và không đợi An ra hiệu, con bé đã chạy thẳng vào phòng rồi nhảy lên chiếc ghế ưa thích của nó ở gần lò sưởi.

An lắc đầu mỉm cười nhìn Isa. Cô bé giống như một con mèo nhỏ, bên trong tồn tại những mâu thuẫn rất đáng yêu, đôi lúc e dè giữ phép tắc, nhưng một giây sau đã có thể tự mình phá bay phép tắc đó bằng một sự nhiệt tình rất ngây thơ của trẻ con. Isa chính là người đầu tiên An gặp, người giới thiệu cho cô khu nhà trọ này, người cô luôn bảo vệ trong hai ngày gần đây trước những trận đòn roi của mụ chủ và là người thu thập cho cô những bí mật hay ho trong ngôi làng, như chuyện anh chàng Mũ Đỏ nghèo rớt sống cách đây một dặm bỗng vài tháng trước trở nên giàu có nhờ nhặt được chiếc rìu vàng khi đi đốn củi, hoặc Pan, anh bạn trẻ con thi thoảng vẫn bay đến đây trong đêm để cho kẹo mấy đứa trẻ. Tất cả đều rất thú vị, nhưng An biết đó không phải là câu chuyện mình cần, cô hi vọng lần này sẽ khác.

- Người ta đồn rằng khu rừng Trăng Bạc bên kia quả đồi chôn giấu bên trong một bí mật! – Isa cất giọng thì thào kể, cố tình cho thêm chút phần kịch tính – Khi em tìm đến ông lão Buc già nhất làng sống ở ngôi nhà Đen phía cuối đường, ông có nói gì đó về một lâu đài bị lãng quên được canh giữ bởi một con rồng. Đó chỉ là một câu chuyện kể vui trong làng, thực chất chưa từng ai biết được bên trong khu rừng có gì, vì trước giờ… - Isa nhấn mạnh – Không ai có thể vào được khu rừng đó cả!

- Không một ai?

- Không một ai! – Isa lặp lại, vẻ bí hiểm – Giống như một bức tường thành vĩ đại, những bụi cây gai độc mọc ở bìa rừng đan vào nhau tạo thành tấm lá chắn dày dạn nhất ngăn cản bất cứ bước chân nào có ý định bước qua.

- Nếu đã không có ai vào được khu rừng, tại sao người ta lại biết bên trong đó có một lâu đài? – An ngờ vực hỏi.

- Em chỉ có thể suy đoán thôi – Isa nhún vai nói – Bất cứ câu chuyện hoang đường nào cũng đều có một lịch sử. Vả lại, đây là sứ xở nhiệm màu, chị hoàn toàn có thể tự chọn cho mình lòng tin tưởng, không phải sao?

An bật cười, nhưng Isa nói đúng. Hơn nữa An cũng đã phần nào đó tự khẳng định rằng đây chính là câu chuyện nó cần tìm, lâu đài và khu rừng đâu thể chỉ là trùng hợp?

An kéo cao mũ trùm đầu. Mặc dù chiếc vòng tay vàng tinh xảo cô để lại khu nhà trọ đủ sức chuộc lại cuộc đời cô bé Isa, An vẫn không chắc điều đó có thể giúp cô bé hoàn toàn tránh khỏi nanh vuốt của mụ chủ. Nhưng cô không còn cách nào khác, cô còn cả cuộc phiêu lưu dài phía trước.

Khu rừng Trăng Bạc hiện lên mờ ảo trước mắt An khi cô đã thấm mệt. “Nó chỉ xuất hiện khi người ta đã quá mệt” – An nghĩ, bởi khi đó, chẳng ai còn muốn gắng gượng bước tiếp vào khu rừng nữa. Bóng tối từ sâu thẳm bên trong cuốn cô vào ảo ảnh rợn người, nhưng An buộc phải tiếp tục. Bìa rừng, cây gai chen vào nhau chằng chịt.

Và chúng có độc.

Nghĩ đi, An. Con quái vật nào cũng phải có điểm mù, tường thành vững chãi đến đâu cũng có chỗ sơ hở, áo giáp không che được toàn thân, khu rừng này, chắc chắn, gót chân Asin của nó chỉ trốn ở đâu đó mà thôi. An đi dọc theo bìa rừng, quan sát. Trong bóng tối, mọi thứ đều biến thành mơ hồ, mọi mơ hồ đều khiến người ta sợ hãi, mọi nỗi sợ hãi đều níu người ta chùn bước.

Nhưng không phải An.

Cô không chắc đã đi bao lâu như thế, có thể đã nhiều tiếng trôi qua, bóng tối vẫn trôi nổi nơi bìa rừng kì bí. Khi An chợt nhận ra một bí mật của khu rừng, bước chân cô dừng lại ở một nơi vừa quen vừa lạ.

Khu rừng này không bao giờ có bình minh.

Cũng giống như bức tranh treo trên tường phòng đã bao lâu nay cô quan sát, luôn là bóng đêm bí ẩn. Nơi cô đang đứng, chính góc nhìn này, lên cao một chút…

Đó là nơi bức tranh được vẽ.

Những cây gai độc đột nhiên rẽ làm hai bên, một khoảng rất nhỏ đủ để lách qua. Ý nghĩ là chìa khóa, và bức tranh là gợi ý. Không phải ngẫu nhiên khi nó nằm trong phòng cô từ khi cô còn bé. Đây là sứ mệnh sinh ra đã có? An không chắc, tất cả những gì cô biết ở hiện tại chỉ là, cô đang thận trọng bước chân vào bên trong.

Có mùi gì đó kì lạ trong không khí, cô biết như vậy. Không phải mùi khó chịu, nhưng nó làm An thấy hơi váng đầu. Khi hàng rào cây gai trở lại như cũ, ngăn cản bước chân quay trở lại, bóng tối trở về với khu rừng. An hít một hơi thật sâu, đưa tay quờ quạng, bám tạm vào một thân cây và dò chân thật kĩ. Chính lúc này cô nhận ra một cảm giác quen thuộc nhưng mơ hồ đang quay trở lại. Đây là sự trải nghiệm.

Giấc mơ! Nó gắn với hiện thực. Giống như An chỉ đang hiện hữu ở cái nơi mà cô vẫn đến trong mơ hàng đêm. Những cành cây này, cô cảm giác được nó, chính là nó. Đất khô và mịn, những cành cây thô nhám với đường vân mềm mại, tất cả đã được cơ thể cô vô thức ghi lại. Con đường này không phải mới lần đầu cô đi. Nỗi sợ hãi không biến mất hẳn nhưng đã giảm dần. An thận trọng tiến sâu hơn vào khu rừng bằng cảm nhận và trí nhớ của bản thân. Cô không có đường lui.

Nếu An mất một thời gian dài để đi dò xung quanh bìa rừng, cô cũng phải mất bằng ấy thời gian để có thể đi qua được quãng rừng tối đen này. Đầu An vẫn đau kể từ khi ngửi thấy mùi lạ, chân cô mỏi nhừ, túi thức ăn nhỏ mang theo đã vơi đi một ít. Quả thật, khu rừng này không có bình minh, khi An bước ra một vùng rừng khác, ánh sáng bỗng tràn tới, nhưng chỉ là ánh sáng của trăng.

Trăng vẫn mang một hình dạng như thế, bao nhiêu năm rồi, không bao giờ khuyết, không bao giờ bị mây che mờ, và chỉ chiếu sáng cho những vùng rừng nhất định. An ngước mắt nhìn, tự hỏi nếu cô nhìn chằm chằm vào nó, liệu cô có bị hút lại và trở về thế giới của cô giống như trong giấc mơ hay không. Nhưng cô chỉ thấy đầu nặng dần, trăng cứ như đang lớn dần trước mặt, mắt cô nhòa đi, mờ ảo.

Và thế giới bỗng nhiên đóng sầm trước mắt An.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx