sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Hồi ký Lý Quang Diệu - Chương 26 phần 2

Selkirk đã nhận xét sai lầm về hiệu quả những lời phát biểu của Tunku. Chúng ảnh hưởng lớn đến những nhà lãnh đạo Barisan, những người này hiểu rằng Tunku có ý nói thực lòng và bây giờ đã tham gia vào cuộc tranh chấp rồi. Ông ta đã vẽ nên một bức tranh ảm đạm về Singapore nếu không có Malaysia. Lim Chin Siong đã thấy khá đủ lo lắng để viết cho Tunku một bức thư hứa hẹn sẽ ủng hộ sự hợp nhất và Malaysia. Bức thư này được kín đáo trao tay tại Dinh Liên bang ở Singapore nhưng Tunku tiết lộ chuyện này cho một trong những thư ký của ông biết và tờ Straits Times chạy cái tít: “Thư mật, đến từ Lim”. Bị các phóng viên ép, Lim Chin Siong đành xác nhận rằng ông ta đã viết nó và nói rằng ông rất biết ơn Tunku đã trả lời thư ông rất lịch sự. Được hỏi thư trả lời nói về vấn đề gì, ông ta từ chối trả lời.

Bị khiêu khích bởi những phỏng đoán tối tăm của Chin Chye – đây có phải là một vụ bán đứng không? – ngày 11/7, tiến sĩ Lee Siew Choh cuối cùng đưa ra bức thư và thư trả lời của Tunku. Lim Chin Siong viết ông nghĩ phần lớn những cảm nghĩ không vui của Tunku về Singaore xuất phát từ sự thiếu cơ hội cho những cuộc thảo luận tự do và thẳng thắn về “những thái độ rõ ràng là khác nhau” giữa họ, mà những cuộc thảo luận này lại có thể đóng góp rất lớn vào sự hiểu biết và sự thống nhất quốc gia. Tunku, trong thư trả lời, hoan nghênh việc Lim bảo đảm rằng ông ta sẽ hoàn toàn ủng hộ Tunku trong khát vọng thống nhất quốc gia. Ông phải rời Singapore ngày hôm sau, nhưng sẽ rất vui nếu được gặp lại Lim vào một ngày nào đó trong tương lai và sẽ cho Lim biết khi có thể thu xếp cuộc gặp này. Nhưng Tunku, biết rằng “những thái độ rõ ràng là khác nhau” đó là không thể hòa hợp được, nên đã không đưa ra ngày hẹn gặp nào.

Lim Chin Siong đã phạm một sai lầm nghiêm trọng. Đầu tiên, viết thư mà không công bố đối với cộng đồng người Hoa là một sự yếu đuối, một sự thú nhận rằng ông ta đang ở thế yếu và muốn dàn hòa với Tunku. Bức thư này là một sự nhượng bộ, mà không nhận lại được cái gì cả. Nó ngầm thừa nhận rằng Tunku, từ bây giờ trở đi, là người có triển vọng nắm quyền kiểm soát nhất, chứ không phải Lim Chin Siong và những người cộng sản, và tôi biết người Hoa sẽ cân nhắc việc này khi quyết định sự lựa chọn của mình trong tương lai. Điều duy nhất mà Barisan có thể làm trong lúc này là cố giữ cho các cán bộ bận rộn để duy trì tinh thần và tránh để họ nghĩ đến tình trạng tuyệt vọng của mình. Theo đó, Tiến sĩ Lee công bố rằng trong ngày chủ nhật sắp tới, và 6 ngày chủ nhật tiếp theo đó, 1.500 cán bộ sẽ lên đường thực hiện một cuộc vận động đến từng nhà để chống lại chủ trương hợp nhất của chính phủ.

Một tuần sau cuộc viếng thăm của Tunku, Tan Siew Sin thăm Singapore để khai trương một phân bộ của MCA mà ông ta vừa nhận chức chủ tịch. Ông ta tuyên bố thậm chí còn cứng rắn hơn cả Tunku. Singapore đã trở thành đứa con có vấn đề của Malaysia, ông nói. Nhưng nếu không hợp nhất, có thể sẽ không nhất thiết phải đóng cửa đường đê bởi vì nền kinh tế của Singapore đã quá yếu đuối. Chỉ cần một lệnh ngắn gọn và đơn giản về tăng thuế quan đánh vào cao su xuất khẩu cũng đủ biến thị trường cao su lớn nhất thế giới này thành một khu ổ chuột miền nhiệt đới. Một hòn đảo nhỏ hơn vùng đồi của Malaysia, cao nguyên Cameron, không thể đứng một mình. Ông ta thêm rằng chính quyền Malaysia không phải hoàn toàn do người Malay chi phối, và thật không đúng khi cho rằng người Hoa không được đối xử công bình. Ông ta không phải là thành viên của một chính phủ mà ông cảm thấy là thù nghịch với quyền lợi hợp pháp của người Malaysia gốc Hoa.

Đe dọa để áp đặt Singapore qua những biện pháp kinh tế làm cho người Hoa không ưa thích ông ta. Một vài ngày sau, Barisan phản công bằng cách cảnh cáo ông ta rằng sự lệ thuộc lẫn nhau giữa Malaysia và Singapore là một thực tế, bất kỳ cố gắng nào của nước này nhằm áp đặt sự trừng phạt kinh tế chống nước kia cũng sẽ là tự sát. Đồng thời Lim Chin Siong thách đố Tunku, mặc dầu gián tiếp. Bởi vì người Anh không thể cai trị theo kiểu thuộc địa cũ được nữa, ông ta nói, nên họ quyết định thành lập Liên bang Malaysia nhằm sử dụng các lực lượng cánh hữu ở địa phương để bảo vệ quyền lợi của mình trong khu vực này.

Tunku đáp trả bằng cách lặp lại lời cảnh cáo rằng đường đê sẽ bị đóng cửa vào cuối năm nếu Singapore phản đối việc hợp nhất và nhấn mạnh rằng điều đó là ông ta nói thực. “Nếu cộng sản nghĩ rằng họ có thể dễ dàng lừa bịp được người Malay,” ông nói, “thì họ đã sai lầm một cách đáng buồn”. Một tuần sau, Barisan trả đũa lại rằng những đe dọa như thế chỉ làm gia tăng sự chống đối của quần chúng đối với các nhà chính trị liên bang mà thái độ của họ “hết sức phi lý, bất công và phi dân chủ”. Nó cũng nói rằng Liên bang ve vãn nhân dân các lãnh thổ Borneo bằng những nhượng bộ, nhưng đối với Singapore chỉ toàn là đe dọa, cưỡng bách và hăm he.

Cũng có thể là như thế thật, nhưng những đe dọa đã làm cho nhân dân ý thức rằng hậu quả của cuộc đương đầu với Tunku có thể sẽ rất nguy hại. Dù tổn thương đến mức nào đi nữa, Malaysia sẽ vượt qua dễ dàng hơn Singapore. Giới kinh doanh người Anh hoảng sợ và để nhấn mạnh đến tính bất ổn của tình thế, vị chủ tịch hồi hưu của Phòng Thương mại Singapore nhắc đến “sự bột phát các cuộc bãi công, lãn công, ngồi lì… có nghĩa là bất ổn trong ngành công nghiệp” và đưa tới nguy cơ lớn là nguồn vốn mới sẽ không chảy vào hòn đảo này nữa, trong khi giá cả tăng vọt sẽ hạn chế thương mại và tạo ra những khó khăn về tài chính.

Tâm trạng lo sợ chung do tất cả những chuyện này khơi lên đã đi ngược lại ý muốn của Barisan. Trong khi ấy chúng tôi đã vượt được một rào cản khác. Sau các cuộc trao đổi hằn học và một cuộc thảo luận kéo dài 5 tiếng đồng hồ đến quá nửa đêm và tiếp tục sang ngày hôm sau, Hạ viện đã thông qua một kiến nghị tu chính hoan nghênh việc giới thiệu Dự luật về Trưng cầu dân ý quốc gia Singapore với tỷ lệ 26/16.

Vì cần thay đổi sau hoạt động sôi nổi này, tôi quyết định đã đến lúc phải nối lại các cuộc tiếp xúc với các nhà lãnh đạo Anh, và gặp gỡ một số nhà lãnh đạo Á Phi trên chuyến đi này. Vào tháng 4/1962, tôi bay sang London, ghé qua Rangoon, New Delhi, Cairo và Belgrade.

Thủ tướng Pandit Nehru của Ấn Độ hoàn toàn ủng hộ đề nghị của tôi muốn hợp nhất Singapore với Malaysia để thành lập Malaysia. Báo chí ủng hộ. Dưới tiêu đề: “Thủ tướng ủng hộ một liên bang Malaysia”, tờ The Time of India, lúc đó là tờ nhật báo có uy tín của Ấn Độ viết rằng Malaysia đã dành được sự tán đồng trong chính giới. Hiển nhiên là Ấn Độ coi đây là một phát triển lành mạnh bởi vì nó giúp ngăn chặn ảnh hưởng của Trung Quốc ở Đông Nam Á. Tại cuộc họp báo, tôi có thể nói với giới báo chí rằng Thủ tướng của họ không quan tâm về tuyên bố của ban thư ký Ủy ban Đoàn kết Á Phi rằng Malaysia là một tên thực dân kiểu mới.

Trạm dừng kế tiếp của tôi là Cairo, nơi ban thư ký của Ủy ban Đoàn kết Á Phi phát ra tuyên bố chỉ trích Malaysia. Nếu tôi tranh thủ được Tổng thống Nasser, đó sẽ là một thắng lợi lớn. Tôi đến vào buổi sáng, được phó Tổng thống ra đón và đưa về một trong những lâu đài nhỏ của cựu quốc vương Farouk bấy giờ được dùng làm nhà khách. Tối đó, tôi được Nasser tiếp trong căn nhà khiêm tốn của ông. Đó là một cuộc gặp gỡ tốt đẹp. Khi tôi đến, ông đã đứng ở cửa trước với các nhà nhiếp ảnh đang ở trong vị trí của mình. Tôi cảm thấy ông đã làm điều đó hàng trăm lần để trông ăn ảnh hơn trên tivi và báo chí. Ông ta lúc nào cũng nồng nhiệt tiếp đón và rất thân thiện. Vị tổng lãnh sự của ông tại Singapore là người ủng hộ tôi và liên bang Malaysia nhiệt thành. Ông ta biết chúng tôi không muốn Singapore trở thành một Israel ở Đông Nam Á và ông đã báo cáo tình hình này với Bộ trưởng Ngoại giao của mình.

Nasser nghe tôi nói cả tiếng đồng hồ về những mối nguy hiểm khi Singapore đứng một mình và trở thành một thực thể kỳ cục ở Đông Nam Á, một thực thể người Hoa ở giữa một quần đảo Malay có khoảng một trăm triệu dân. Tôi không muốn điều này. Câu trả lời là đưa Singapore kết hợp trở lại với bán đảo Malaysia vốn là một đơn vị đã do người Anh cai trị chung trong hơn một trăm năm trước khi chúng bị tách ra. Ông ta hiểu rõ việc lập Liên bang Malaysia không phải là một âm mưu thực dân mới và bảo đảm với tôi rằng ông ta sẽ ủng hộ điều đó và tôi có thể nói điều đó cho mọi người biết. Trong suốt 5 ngày viếng thăm, người Ai Cập tiếp đãi tôi như thượng khách. Tôi được mời viếng thăm Ai Cập lần nữa và có thể ghé thăm ông ta bất cứ lúc nào với tư cách cá nhân, Nasser nói. Tôi đã kết được một bạn mới. Tôi thích người đàn ông này, thích phong cách giản dị và sự khao khát mãnh liệt của ông muốn làm thay đổi một nước Ai cập suy tàn và mục nát dưới triều Farouk.

Nasser ra một tuyên bố chung với tôi, một việc phá lệ vì Singapore không phải là một quốc gia độc lập. Thông cáo chung nói rằng ông ủng hộ việc thành lập Malaysia và “sự thống nhất của tất cả các dân tộc có cùng nền tảng xã hội và chính trị… tìm cách chấm dứt sự thống trị của chủ nghĩa thực dân”. Đối với Singapore, được Nasser và Nehru, hai nhà lãnh đạo tiên phong của châu Phi và châu Á, hiểu và ủng hộ là một thắng lợi chính trị.

Vào ngày lễ Lao động, tôi bay đến Belgrade. Tito tiếp tôi trọng thể. Khác với Nasser, ông ở trong một dinh thự sang trọng với các cổng sắt được điều khiển bằng điện lặng lẽ mở ra khi chúng tôi tới. Một vị Bộ trưởng, ông Slavko Komar, đưa tôi tới gặp ông. Tito mặc một bộ thường phục, không phải là một trong những bộ đồng phục oai vệ nhất của ông ta. Khi các nhiếp ảnh gia chụp hình, ông ta trông cứng ngắc và nghiêm trang – không cười, không nồng nhiệt, hoàn toàn trái ngược với Nasser. Tôi đối mặt với vấn đề: người Indonesia đã đầu độc đầu óc ông.[28]Nhưng ông lắng nghe. Tôi thư thả giải thích lập trường của mình, nói rằng tôi là một người có tinh thần dân tộc, không phải là một tên bù nhìn của chủ nghĩa thực dân. Tôi không đồng ý với những người cộng sản Singapore, họ đi theo đường lối của Trung Quốc: họ không thể thành công ở Singapore và Malaysia bởi vì nhãn cộng sản của họ không bắt nguồn từ bản địa, chủ nghĩa Mao không thể thành công ở châu Á. Cử chỉ của ông cho tôi cảm nghĩ rằng tôi đã chuyển biến được ông. Tôi nhắc lại một bài báo phê bình Malaysia trong tờ báo đảng, tờ Komunist. Tito nói nó không đại diện cho chính quyền Nam Tư. Tôi lại giành được điểm.

[28] Có thể là do ảnh hưởng của Phong trào không liên kết (Non-Aligned Movement – NAM), được sáng lập vào năm 1961 bởi Tổng thống Nam Tư Josip Broz Tito, Tổng thống Indonesia Sukarno, Tổng thống Ai Cập Gamal Abdel Nasser, Tổng thống Ghana Kwame Nkrumah và Thủ tướng Ấn Độ Jawaharlal Nehru; trong đó Sukarno và Tito đóng một vai trò tích cực và nổi trội.

Khi tôi đi đến phi trường và sắp sửa gặp giới báo chí ở đó, tôi hỏi Slavko Komar là liệu tôi có thể lặp lại những điều Tito nói với tôi không. Ông nói Tổng thống là một người giữ lời, khi ông ta nói như thế là như thế. Vì thế tôi trích dẫn tuyên bố của Tito và quay sang hỏi vị Bộ trưởng điều đó có đúng không, ông ta gật đầu và nói: “Đúng”. Sau khi tôi rời Nam Tư, hãng Reuters tường thuật tuyên bố của người phát ngôn Vụ đối ngoại rằng: "Bài báo này phản ánh quan điểm cá nhân của tác giả. Thủ tướng Lee trong suốt thời gian lưu lại Belgrade đã thông báo với chủ tịch và các nhà lãnh đạo Nam Tư về mong muốn thành lập liên bang Malaysia. Vấn đề này được phía Nam Tư thông hiểu”. Thêm một thắng lợi chính trị.

Đối với Choo, chuyến đi London lần này là lần đầu tiên bà trở lại từ khi ra đi vào tháng 8/1950. Thành phố trông thịnh vượng và dân London ăn mặc rất chải chuốt. Họ đang trải qua thập niên 60 thịnh đạt. Mặc dầu tôi đã tới đây 3 lần trong khoảng thời gian 1956–1958, tôi vẫn bị ấn tượng khi thấy có quá nhiều tiệm ăn và xe hơi. Macmillan đã thắng trong cuộc bầu cử 1959 với điệp khúc: “Bạn không bao giờ có được điều tốt đẹp đến thế,” và báo chí đặt biệt danh cho ông là “siêu Mac”. Đó là tháng 5, thời tiết rất đẹp, và chúng tôi thật hạnh phúc khi thấy thủ đô Anh phát đạt. Một vài chiếc xe Humber Pullman khổng lồ đang đậu ở Grosvenor House nơi chúng tôi lưu trú, sẵn sàng đưa chúng tôi đi bất cứ nơi nào chúng tôi muốn. Nhưng tôi có một lịch trình dày đặc – thảo luận với các Bộ trưởng, gặp gỡ những người ủng hộ thuộc đảng Lao động trong nghị viện, và các cuộc phỏng vấn không chính thức với báo chí Anh.

Reginald Maudling, vị tân Bộ trưởng Thuộc địa, một người to lớn, vạm vỡ, đeo kiếng, rất cởi mở và dễ làm quen, ông ta và vợ tiếp chúng tôi thân mật trước các cuộc thảo luận chính thức để cho chúng tôi có cảm giác thoải mái. Ông cũng tụ tập được vài Bộ trưởng dùng cơm trưa với tôi, và đối với vợ tôi, bà Maudling cũng tổ chức một cuộc chiêu đãi dành cho quý bà ở khách sạn Hyde Park.

Một vấn đề lớn vốn là vấn đề cũ – liệu có nên gạt bỏ những người cộng sản trước hay sau sự hợp nhất không. Tunku đã lặp lại đòi hỏi của ông rằng Hội đồng an ninh nội chính phải ra tay đối phó trước. Ông cũng nói rõ rằng ông không muốn thực hiện các cuộc đàn áp vào lúc Malaysia khai sinh. Đó không phải là một khởi đầu thuận lợi.

Tôi chuẩn bị xem xét việc hành động trước khi thực hiện hợp nhất – với hai điều kiện quan trọng. Tôi nói với Maudling chiến dịch này có thể bắt đầu trong khi Anh vẫn còn giữ trách nhiệm về an ninh, vẫn là chủ tịch Hội đồng an ninh nội chính. Tôi nhấn mạnh rằng cộng sản vẫn cứ giữ lập trường như thế lúc tiến hành cuộc trưng cầu dân ý về vấn đề hợp nhất. Quan điểm trước công chúng của tôi là tôi sẽ xem việc ấy như một điều rất đáng tiếc nhưng trên quan điểm cá nhân với sự hiểu biết về cộng sản, tôi cho rằng đó là điều rất cần thiết. Kế đó tôi nhấn mạnh rằng những người cộng sản vẫn phải được tự do hoạt động khi cuộc trưng cầu dân ý về việc lập Liên bang Malaysia được tiến hành. Tôi tin rằng họ sẽ kêu gọi một cuộc tẩy chay nhưng sẽ không được quần chúng ủng hộ, và chính điều này sẽ làm mất uy tín của họ. Sẽ là một sai lầm chết người nếu bắt giữ họ trước cuộc trưng cầu dân ý; chính điều đó sẽ hủy diệt hoàn toàn giá trị của cuộc trưng cầu dân ý và tôi dễ dàng bị kết tội là đã bắt giữ họ để giành chiến thắng và giao Singapore cho Tunku. Sẽ có bạo động phản đối và rối loạn xã hội.

Một ủy ban đặc biệt dưới quyền lãnh đạo của ngài Cobbold lúc ấy đang viếng thăm Bắc Borneo để xác định quan điểm của vùng này về vấn đề hợp nhất. Tôi nhấn mạnh rằng dù cho báo cáo của Cobbold có bất kỳ khuyến cáo gì về vấn đề quyền công dân của người Borneo đi nữa, thì Singapore cũng phải được hưởng những điều kiện thuận lợi không kém các vùng lãnh thổ đó. Từ “cư dân Malaysia” có lẽ sẽ được chấp nhận nếu nó được áp dụng chung cho các công dân của hai lãnh thổ này, nhưng Tunku đã tuyên bố rằng công dân Borneo sẽ trở thành công dân Malaysia mặc dầu công dân Singapore thì không được như thế.

Khi Maudling hỏi về các khó khăn của tôi với Tunku, tôi nói: “Tunku nghĩ tôi thông minh nhưng sai lầm còn ông ta không thông minh nhưng đúng. Tôi thắng trong cuộc tranh luận ấy nhưng ông ta cảm thấy kết luận của tôi là sai mặc dầu ông ta không biết tại sao”. Nếu Maudling thuyết phục được Tunku rằng thật là điên rồ khi tin rằng mọi người Hoa đều có thể ủng hộ cộng sản, thì ông ta sẽ đạt được hiệu quả hơn tôi. Niềm tin đơn giản của Tunku là “chính trị dành cho người Malay và kinh doanh dành cho người Hoa”. Điều đó có lẽ đúng với thời của cha Tunku, nhưng không hiện thực vào năm 1962. Đối với các khác biệt về quyền công dân, tôi cũng đã gặp Cobbold vào buổi sáng hôm đó và bỏ ra gần cả tiếng đồng hồ để thảo luận các đề nghị của ông về vấn đề Borneo. Tôi nói với Maudling rằng tôi cảm thấy vui hơn khi biết rằng ông ta biết những điều đó ảnh hưởng đến Singapore như thế nào và những điều đó làm gia tăng khó khăn của tôi ra sao.

Cuộc viếng thăm của tôi không phải hoàn toàn là công việc. Chúng tôi lái xe đến Cambridge dùng trà với Billy Thatcher ở University Arms Hotel. Thatcher rất vui với những điều tôi đã làm được kể từ khi tôi rời Cambridge vào năm 1949 và hỏi thăm con cái của chúng tôi – Chúng tôi đã viết thư cho ông nói rằng Loong rất là thông minh, ông biếu tôi cuốn Alice in Wonderlandcủa Lewis Caroll để tặng cho Loong và nói: “Nó phải đến sớm nếu tôi còn ở được chỗ này để gặp nó". Thatcher không có vẻ yếu lắm nhưng tôi rất vui vì đã có thể thăm được ông. Một năm sau ông ta mất. Cả hai chúng tôi đều rất buồn.

Ngày cuối tuần ở Cambridge là một dịp may với nguyên một chương trình chính thức bao gồm chương trình phát thanh của đài BBC về Singapore trên chuyên mục Viễn Đông của họ. Tôi mô tả các nhà lãnh đạo của các quốc gia không liên kết – Ấn Độ, Ai Cập, Nam Tư – đã công khai ủng hộ việc thành lập Malaysia như thế nào. Đó không phải là loại tin phấn khởi cho những người ủng hộ cộng sản.

Các bài tường thuật trên báo chí, đài phát thanh về các cuộc gặp gỡ của tôi với Nehru, Nasser và Tito, và bài phát thanh của tôi trên đài BBC ắt hẳn là có tác dụng tốt bởi vì Barisan tấn công tôi dữ dội. Để giải thích tại sao những nhà lãnh đạo Á Phi ấy không nghĩ Malaysia là một âm mưu của chủ nghĩa thực dân, họ khẳng định rằng tôi đã lấy cảm tình và ủng hộ của họ bằng cách tạo ra một ấn tượng giả. Họ chỉ trích rằng Nehru, Tito và Ne Win (khác với Nasser) không đời nào đưa ra một thông cáo chung nào với một vị thủ tướng thiếu uy tín. Nhưng họ không thể bác bỏ rằng những nhân vật đó đã ủng hộ Malaysia.

Trong khi ấy, tờ báo thân cộng của Indonesia, tờ Bintang Timur, tường thuật rằng Lim Chin Siong nói ông ta ủng hộ việc hợp nhất với Indonesia hơn là với Malaysia. Điều này là ngu xuẩn, và Lim vội bác bỏ việc mình đã tuyên bố như trên, nhưng nó đã gây tổn hại cho ông – cộng sản đang mất đi ưu thế trong cuộc chiến chống lại việc hợp nhất và lời bác bỏ của ông không thuyết phục nổi ai.

Tôi trở về Singapore và cảm thấy dễ chịu hơn sau 5 tuần rời xa những tranh luận hàng ngày và áp lực của các cuộc đình công. Tinh thần của tôi đã phục hồi đủ để trở lại với những cuộc đấu tranh bất tận với cộng sản, bút chiến với họ trên báo chí và cố gắng kiềm chế khi đối mặt với những khiêu khích do những cuộc đình công, lãn công trong khi kinh doanh trì trệ, công ăn việc làm mất đi và thất nghiệp gia tăng.

Mọi thứ đã không diễn ra quá tệ. Vào tháng 5, khoảng 3.000 học sinh tụ họp ở trường trung học Chung Cheng để kỷ niệm các cuộc xung đột với cảnh sát năm 1954. Họ hát, lên án chính phủ vì đã thành lập một ủy ban điều tra cuộc tẩy chay thi cử và kêu gọi bãi khóa một ngày ở tất cả các trường trung học người Hoa vào ngày 21/5, ngày ủy ban bắt đầu làm việc. Nhưng vào đúng ngày đó, 19 trong số 25 trường học buổi sáng có 100 % học sinh đi học. Một trăm học sinh được chọn để dán các áp phích phản đối lên tường, cột điện và biển báo giao thông vào lúc 5 giờ sáng, lúc trời hãy còn tối. Họ không lo bị chú ý và chụp hình.

Mặc dầu Barisan đến từng nhà để vận động vào những ngày chủ nhật, về căn bản chúng tôi vẫn ở thế thắng.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx