sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Chương 32

AYIGNON 5:00 CHIỀU

MALONE DỪNG CHIẾC PEUGEOT LẠI. ROYCE CLARIDON ĐÃ đứng đợi sẵn ở cạnh đường, phía Nam trại tâm thần, đúng chỗ ông đã nói. Bộ râu rậm của ông đã được cạo, bộ quần áo rách nát cùng cái áo jacket cũng không còn. Mặt được cạo sạch sẽ, móng tay cắt ngắn, và Claridon mặc một cái quần jeans, một cái áo phông có cổ. Mái tóc dài của ông chải mượt và buộc lại thành búi phía sau, và trong bước chân của ông có đầy sự cả quyết.

“Cạo râu xong thấy thoải mái quá”, ông nói khi trèo lên ghế sau. “Vì vờ vịt mình là một Hiệp sĩ Đền thờ, tôi phải làm sao cho trông thật giống họ. Các bạn cũng biết là họ không bao giờ tắm. Luật lệ cấm điều đó. Cũng không được trần truồng trước mặt nhau, đủ thứ linh tinh khác nữa. Chắc là mùi người họ phải kinh khủng lắm”.

Malone tăng tốc xe và chạy vào lối xa lộ. Những đám mây bão đang che kín bầu trời. Có vẻ như là thời tiết từ Rennes-le-Château cuối cùng đã di chuyển về phía Đông. Từ xa, những tia chớp đã lóe lên, tiếp theo là những tiếng sấm rền. Chưa mưa, nhưng sẽ sớm thôi. Anh liếc nhìn Stephanie và bà hiểu rằng cần phải hỏi han người đàn ông ngồi ở ghế sau.

Bà quay đầu lại. “Thưa ông Claridon...”

“Gọi tôi là Royce đi, thưa bà.”.

“Được. Royce, ông có thể nói cho chúng tôi thêm về những gì Lars từng nghĩ không? Việc đó hết sức quan trọng”.

“Bà không biết à?”

“Trong những năm trước khi ông ấy mất, Lars và tôi không gần gũi nhau lắm. Ông ấy không mấy tin tưởng tôi. Nhưng mới đây tôi đã đọc sách của ông ấy và quyển nhật ký.”.

“Cho phép tôi được hỏi rằng tại sao bà lại ở đây? Ông ấy mất đã lâu rồi mà”.

“Thì cứ cho là tôi nghĩ Lars muốn công việc của ông ấy được hoàn thành”.

“Về điều đó thì bà đúng, thưa bà. Chồng bà là một học giả cừ khôi. Các giả thuyết của ông ấy đều rất vững chắc và tôi tin rằng ông ấy sẽ thành công. Nếu còn sống”.

“Nói cho tôi về các giả thuyết đó đi”.

“Ông ấy đã theo sát những bước đi của Saunière. Tay linh mục đó thông minh lắm. Một mặt, ông ta không muốn ai biết được những gì ông ta biết. Mặt khác, ông ta lại để lại nhiều dấu vết”. Claridon lắc đầu. “Người ta cho rằng ông ta đã nói lại cho người tình của mình mọi chuyện, nhưng bà ấy đã chết mà không chịu mở miệng nói gì. Trước khi chết, Lars nghĩ rằng cuối cùng ông ấy cũng tiến lên được một chút. Bà có biết toàn bộ câu chuyện không, thưa bà? Sự thật thực sự ấy?”

“Tôi sợ rằng hiểu biết của tôi về những gì Lars viết trong sách của ông ấy quá hạn chế. Nhưng có những dẫn chiếu thú vị trong quyển nhật ký chưa bao giờ được in ra”.

“Tôi có thể xem những trang đó không?”

Bà giở quyển nhật ký ra đến đoạn đó, rồi đưa cho Claridon. Malone liếc nhìn qua gương chiếu hậu cảnh người đàn ông đọc với vẻ quan tâm cao độ.

“Thật là tuyệt vời”, Claridon nói.

“Ông có thể giải thích cho chúng tôi không?”, Stephanie hỏi. "Tất nhiên thưa bà. Như tôi đã nói hồi chiều đấy, tất cả những câu chuyện mà Noel Corbu cùng những người khác thêu dệt về Saunière đều rất kỳ bí và gây kích thích. Nhưng với tôi, và với Lars, sự thật còn hơn thế rất nhiều”.

Saunière quan sát ban thờ mới của nhà thờ, thích thú với những sửa chữa. Cái đống kỳ quái bằng đá đã biến mất, đống gạch đá cũ nằm trong sân, những cột chống kiểu Visigoth được sử dụng vào những việc khác. Ban thờ mới đẹp một cách giản dị. Ba tháng trước, hồi tháng Sáu, ông đã tổ chức một buổi lễ đầu tiên đầy trang trọng. Nhiều người trong làng đã đến tham gia đám rước bức tượng Đức Mẹ Đồng Trinh được tổ chức trọng thể qua khắp Rennes, kết thúc ở nhà thờ nơi nó được đặt lên trên một trong những cây cột ở rải rác trong sân nhà thờ. Để ghi nhớ sự kiện đó, ông đã khắc PEN-ITENCE, PENITENCE lên mặt cột để nhắc nhở các giáo dân về sự nhẫn nhục, và MISSION 1801 để ghi nhớ năm hoàn thành công trình của họ.

Mái nhà thờ cuối cùng đã được gắn xi, những bức tường bên ngoài được chống cột. Bục giảng cũ đã được bỏ đi, một bục mới đang được làm. Nền nhà bằng gạch kẻ ô vuông sắp được lát, và cả những hàng ghế mới nữa. Nhưng trước hết, cần phải gia cố phần móng đã. Nước rỉ xuống từ mái nhà đã ăn mòn nhiều tảng đá lát bên dưới. Đã tu sửa được nhiều, nhưng còn cần làm thêm nữa.

Bên ngoài là một buổi sáng tháng Chín ẩm ướt, đầy gió, nên ông cần có sự giúp đỡ của khoảng nửa chục người dân thành phố. Công việc của họ là chuyển đi những phiến đá hỏng, thay thế những phiến mới, trong khi chờ đợi những người thợ chuyên nghiệp sẽ đến trong hai tuần tới. Hiện giờ người ta đang làm việc ở ba địa điểm khác nhau trong gian chính. Đích thân Saunière đang chỉnh trang một phiến đá cũ trước ban thờ thường xuyên bị lung lay.

Ông vẫn hết sức rối trí với cái lọ thủy tinh tìm thấy trước đó không lâu. Khi bỏ xi gắn và rút tờ giấy cuộn ra, ông không tìm được ú, một thông điệp, mà là mười ba dòng chữ và biểu tượng. Khi cho tu viện trưởng Gélis, một linh mục ở làng gần đó xem, ông được biết rằng đó là một mật mã, và ở đâu đó giữa đống chơ vẻ ngoài vô nghĩa đó ổn giấu một thông điệp. Tất cả những gì cần phải có là một chìa khóa toán học để giải mã nó, nhưng sau nhiều tháng có công, ông vẫn chưa tiến thêm được bước nào. Ông muốn biết hai điều: ý nghĩa của nó và tại sao nó lại được giấu kín đến vậy. Rõ ràng là thông điệp hết sức quan trọng. Nhưng cần phải biết kiên nhẫn. Đó là điều đêm nào ông cũng tự nhủ với mình sau khi thất bại trong việc tìm ra câu trả lời, và, nếu không thể làm được gì khác, thì ít nhất là ông cũng đã kiên nhẫn.

Ông nâng một cái búa cán ngắn lên và quyết định tìm hiểu xem có thể đập vỡ được sàn nhà đá dày này hay không. Những mẩu đá càng nhỏ thì càng dễ phá hơn. Ông quỳ gối xuống và đập ba nhát vào một đầu của phiến đá dài một yard. Ngay lập tức, những vết rạn xuất hiện, cần phải đập thêm nhiều phát nữa mới khiến nó vỡ hẳn.

Ông đặt cái búa xuống bên cạnh và dùng một thanh sắt để gạt những mẩu vỡ ra. Rồi ông luồn thanh sắt xuống phía dưới phiến đá và bẩy nó lên. Sau đó, ông lấy chân gạt nó sang bên cạnh.

Rồi ông nhìn thấy cái gì đó.

Ông đặt thanh sắt xuống và đưa cây đèn lại gần hơn để nhìn vào phía dưới sàn nhà. Ông thò tay xuống nhẹ nhàng gạt đống đổ nát ra và nhìn thấy một cái bản lề. Ông cúi người xuống thấp hơn và gạt thêm bụi cùng đống đổ nát ra, phía dưới lộ ra nhiều sắt bị ăn mòn hơn, đầu ngón tay ông chạm vào những gỉ sắt.

Hình dáng đã rõ ràng hơn.

Một cái cửa.

Dẫn xuống phía dưới.

Nhưng đi đâu?

Ông nhìn quanh. Những người khác vẫn chăm chú làm việc, vừa làm vừa nói chuyện với nhau. Ông đặt cái đèn xuống và bình tĩnh đây lại những mảnh gạch vụn xuống dưới cái hố.

“Ông linh mục giỏi giang đó không muốn ai biết được điều mà ông ta đã khám phá”, Claridon nói. “Đầu tiên là cái lọ thủy tinh, giờ là cánh cửa. Cái nhà thờ đó quả thật là đầy những điều tuyệt diệu”.

“Một cánh cửa dẫn đi đâu?”, Stephanie muốn biết.

“Đây là một phần rất hấp dẫn. Lars chưa bao giờ nói cho tôi điều gì cả. Nhưng sau khi đọc quyển nhật ký của ông ấy, giờ đây tôi đã hiểu được rồi”.

Saunière gạt hòn đá cuối cùng trước cánh cửa sát dưới sàn nhà. Cửa nhà thờ đều đã đóng, mặt trời đã xuống nhiều giờ trước. Cả ngày ông đã nghĩ về cái có thể nằm bên dưới sàn, nhưng ông không nói gì cho bất kỳ ai trong số các công nhân, chỉ cảm ơn họ đã đến làm việc và nói rằng mình cần nghỉ ngơi vài ngày, cho nên họ không cần đến cho đến tuần sau. Thậm chí ông cũng không nói gì với người tình yêu quý của mình, sau bữa tối chỉ nói là muốn đi xem xét nhà thờ trước khi ngủ. Giờ đây mưa đã bắt đầu rơi xuống mái.

Trong ánh sáng tỏa ra từ cái đèn đầu, ông thấy cánh cửa sắt chỉ dài hơn một yard và rộng nửa yard. Nó nằm ngang song song với sàn nhà, không có khóa. Thật may mắn vì cái khung của nó được làm bằng đá, nhưng ông lo lắng về mấy cái bản lề, chính vì vậy mà ông đã mang theo một bình dầu. Không phải là thứ chất bôi trơn tốt nhất, nhưng đó là tất cả những gì ông có thể tìm được vào lúc này.

Ông tra đầu vào bản lề và hy vọng mọi việc sẽ dễ đàng. Rồi ông thò một thanh sắt vào khe cửa và ấn mạnh tay xuống.

Cánh cửa không nhúc nhích.

Ông ấn mạnh hơn.

Các bản lề bắt đầu quay.

Ông lắc thanh sắt cho đống gỉ rơi xuống, rồi tra thêm đầu. Sau nhiều lần cố gắng, các bản lề kêu lên rền rĩ và cánh cửa mở ra dựng đứng lên, chỉ thẳng lên trần nhà.

Ông chiếu đèn vào khoảng trống vừa mở ra.

Những bậc cầu thang hẹp dẫn xuống phía dưới khoảng năm yard, xuống một cái sàn cứng bằng đá.

Một đợt phấn khích chạy qua người ông. Ông từng nghe nhiều câu chuyện của các linh mục khác về những gì họ tìm thấy. Phần lớn trong số chúng bắt nguồn từ thời Cách mạng khi giới giáo sĩ cất giấu đồ thánh, vật thờ cúng, và những thứ trang trí của mình khỏi những tên kẻ cướp thuộc phái cộng hòa. Nhiều nhà thờ xứ Languedoc từng là nạn nhân của việc đó. Nhưng nhà thờ ở Rennes- le-Château thì ở vào tình trạng đổ nát lâu rồi; không có gì để cướp bóc cả.

Có lẽ tất cả họ đều đã nhầm.

Ông lấy chân dò thử bậc cầu thang thứ nhất và hiểu ra rằng chúng nối thẳng với móng nhà thờ bằng đá. Tay cầm đèn, ông bước xuống, nhìn chằm chằm về phía trước, vào một khoảng không gian hình vuông, cũng được tạc vào đá. Một mái vòm chia căn phòng thành hai phần. Rồi ông nhìn thấy những bộ xương. Những bức tường xung quanh được trổ vào thành những cái hốc, mỗi cái có một bộ xương, đi cùng với những quần áo, giày, gươm, và vải liệm.

Ông chĩa ánh sáng lại gần một nhóm mộ và nhận ra mỗi cái trong số đó đều có khắc tên. Tất cả đều mang họ d'Hautpoul. Ngày tháng được ghi từ thế kỷ mười sáu đến thế kỷ mười tám. Ông đếm. Tổng cộng có hai mươi ba cái mộ. Ông biết họ là ai. Các lãnh chúa của Rennes.

Phía bên kia cái vòm giữa phòng, một cái rương nằm bên cạnh một cái hũ sắt khiến ông chú ý.

Ông bước lại gần, tay vẫn cầm đèn, và giật mình khi nhìn thấy có ánh phản chiếu lóe lên. Trước tiên ông nghĩ mắt mình có vấn đề, nhưng ông nhanh chóng hiểu ra những gì mình đang nhìn thấy là thật.

Ông cúi người xuống.

Cái hũ sắt đựng đầy tiền. Ông lấy một đồng ra và nhận ra chúng là những đồng tiền vàng của Pháp, nhiều đồng có khắc năm: 1768. Ông biết rất ít về giá trị của chúng nhưng hiểu ngay rằng chúng rất có giá. Khó nói được là có tất cả bao nhiếu tiền, nhưng khi ông thử nhấc cái hũ lên thì không thể xê xích được cái hũ dù chỉ là một mi li mét

Ông quay sang cái rương và thấy rằng nó không khóa. Ông đẩy cái nắp ra và thấy rằng bên trong đầy ắp ở một bên những quyển sổ bọc da và bên kia là một cái gì đó bọc vải dầu. Cẩn thận, ông lấy ngón tay dò xét và hiểu ra rằng cái nằm ở trong có số lượng rất nhiều, nhỏ, và cứng. Ông đặt cái đèn xuống và bóc cái gói ra.

Lại có một tia sáng lóe lên.

Kim cương.

Ông đặt cái gói xuống, thật ngạt thở. Nằm trong cái rương đó là cả một kho đồ châu báu.

Không nghi ngờ gì nữa, những tên kẻ cướp phái cộng hòa mấy trăm năm trước đã hoàn toàn sai lầm khi không cướp phá nhà thờ Rennes-le-Château. Hoặc là người, hay những người đã giấu những thứ này ở đây đã tìm ra một phương cách hết sức khôn ngoan.

“Khu hầm mộ có tồn tại”, Claridon nói. “Trong quyển nhật ký mà bà có ở đây, tôi vừa đọc thấy rằng Lars đã tìm thấy trong cuốn sổ ghi chép của giáo khu giữa những năm 1694 và 1726 có nói về khu hầm mộ, nhưng trong đó không thấy nói gì đến lối vào. Saunière có viết vào nhật ký riêng của mình rằng ông ta đã tìm thấy một ngôi mộ. Rồi ông ta viết thêm. Năm 1891 vô cùng quan trọng đối với cái mà người ta vẫn nói đến. Lars vẫn luôn nghĩ rằng câu đó rất quan trọng”.

Malone cho xe đỗ lại bên lề đường và quay lại nhìn Claridon. “Như vậy số vàng và châu báu đó chính là nguồn tiền của Saunière. Ông ấy đã dùng chúng để chi cho việc tu sửa nhà thờ.”.

Claridon cười. “Lúc đầu thôi. Nhưng, thưa ông, câu chuyện vẫn chưa kết thúc đâu”.

Saunière đứng dậy.

Ông chưa bao giờ nhìn thấy chừng đó vật báu ở một nơi đến thế. Ông tìm ra một kho báu lớn đến nhường nào. Nhưng ông cần phải làm mọi cách để không bị lộ chuyện. Để được như vậy, ông cần có thời gian. Và không ai được phép phát hiện khu hầm mộ.

Ông cúi người xuống, kéo cái đèn lại, và quyết định bắt đầu làm việc ngay đêm nay. Ông có thể chuyển vàng và số đồ châu báu đi, giấu tất cả ở nhà mình. Cách thức chuyển chúng sang tiền hiện hành có thể được quyết định sau này. Ông quay về phía cầu thang, vừa đi vừa nhìn ra xung quanh.

Một trong các ngôi mộ làm ông chú ý.

Ông tiến lại gần và thấy rằng nằm ở trong đó là một người phụ nữ. Bộ quần áo mặc khi khâm liệm nằm phẳng lì, chỉ còn lại xương và một cái sọ. Ông đưa cái đèn lại gần hơn và đọc dòng chữ phía dưới:

MARIE CHAUTPOUL DE BLANCHEFORT

Ông đã quá quen thuộc với nữ bá tước. Bà là người cuối cùng của dòng họ d'Hautpoul. Khi bà mất vào năm 1781, quyền kiểm soát cả ngôi làng và các vùng đất xung quanh không còn thuộc về gia đình bà nữa. Cách mạng, xảy ra chỉ mười hai năm sau đó, chấm dứt hoàn toàn sở hữu đất đai của giới quý tộc.

Nhưng có một vấn đề.

Ông nhanh chóng trở lên mặt đất. Ngoài đó, ông khóa các cánh cửa của nhà thờ lại và, lao qua màn mưa nặng hạt, ông chạy đến nghĩa trang của giáo khu, chạy qua các ngôi mộ, nơi tất cả như thể đang chìm nghỉm trong một bóng tối sống động.

Ông dừng lại ở một ngôi mộ và cúi người xuống.

Chiếu đèn xuống, ông đọc dòng chữ khắc ở trên.

“Marie d'Hautpoul de Blanchefort cũng được chôn cả ở bên ngoài nữa”, Claridon nói.

“Hai ngôi mộ cho một người đàn bà?”, Stephanie hỏi.

“Có vẻ là như vậy. Nhưng cái xác thì nằm ở trong hầm mộ.”.

Malone còn nhớ điều Stephanie đã nói vào ngày hôm trước về Saunière và người tình của bà, những người đã phá các ngôi mộ trong nghĩa trang của nhà thờ, rồi xóa đi dòng chữ khắc trên mộ của nữ bá tước. “Như vậy là Saunière đã đào ngôi mộ ở nghĩa trang”.

“Lars tin là như vậy”.

“Và bên trong trống không?”

“Cả cái đó chúng ta cũng không biết, nhưng Lars cảm thấy rằng đúng là như vậy. Và có vẻ như là lịch sử ủng hộ ông ấy. Một người phụ nữ ở đẳng cấp của nữ bá tước sẽ không bao giờ bị chôn xuống. Chắc hẳn là bà ấy được quàn trong một hầm mộ, nơi quả thật hài cốt của bà ấy được tìm thấy. Ngôi mộ bên ngoài là một điều gì đó khác hẳn”.

“Tấm bia là một thông điệp”, Stephanie nói. “Chúng ta biết điều đó. Chính vì vậy quyển sách của Eugène Stoblein mới có tầm quan trọng lớn đến thế”.

“Nhưng trừ khi bà biết câu chuyện về hầm mộ, nếu không ngôi mộ kia hoàn toàn không đáng quan tâm. Chỉ là một chỗ tưởng niệm khác, cũng giống như tất cả những người khác. Tu viện trưởng Bigou rất khôn ngoan. Ông ta đã giấu thông điệp của mình ở một nơi không có gì”.

“Và Saunière đã tìm ra?”, Malone hỏi.

“Lars tin là như vậy”.

Malone tiếp tục cho xe chạy. Họ đi tiếp trên xa lộ, rồi rẽ về phía Tây và đi qua con sông Rhône đang chảy cuồn cuộn. Tiếp tục đi về phía những bức tường thành của Ayignon, cung điện của giáo hoàng đã nằm ở phía trên. Malone rời khỏi đại lộ lớn để vào khu phố cổ, đi qua quảng ưường, nơi tổ chức hội chợ sách mà họ đã đến thăm lúc trước. Anh đi về phía cung điện và đỗ xe lại ở cùng bãi đỗ xe dưới tầng hầm lần trước.

“Tôi có một câu hỏi rất ngu ngốc”, Malone nói. “Tại sao không có ai đào xuống phía dưới nhà thờ ở Rennes, hoặc sử dụng radar mặt đất để kiểm tra hầm mộ?”

“Chính quyền địa phương sẽ không cho phép điều đó. Cứ thử nghĩ mà xem, thưa ông. Nếu dưới đó không có gì hết, thì cái huyền thoại kia sẽ ra sao? Rennes sống nhờ vào huyền thoại về Saunière. Toàn bộ xứ Languedoc cũng được hưởng lợi. Điều cuối cùng mà người ta muốn là một bằng chứng nào đó. Cho đến giờ họ đã hưởng rất nhiều lợi lộc từ cái huyền thoại đó”.

Malone thò tay xuống dưới ghế rút ra khẩu súng lục mà anh lấy được từ tay kẻ theo đuôi mình đêm hôm trước. Anh kiểm tra đạn. Còn lại ba viên.

“Có cần thiết không?”, Claridon hỏi.

‘‘Có nó tôi cảm thấy khá hơn một chút”. Anh mở cửa và bước ra ngoài, khẩu súng giấu dưới áo jacket.

“Tại sao chúng ta lại phải vào cung điện giáo hoàng?”, Stephanie hỏi.

“Thông tin được để ở trong đó”.

“Ông có định giải thích không?”

Claridon mở cửa. “Vào đi, rồi tôi sẽ chỉ cho”


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx