Tôi không sinh ra đời để trở thành một bác sĩ phẫu thuật tại mặt trận, làm việc ngày đêm để cứu sống con người trong rừng nhiệt đới ở Việt Nam. Tôi cho rằng không một ai ở nơi chôn nhau cắt rốn của tôi – vùng Red Oak, tiểu bang Iowa – lại biết đến Việt Nam.
Trong gia đình tôi, chưa từng có ai là bác sĩ. Số phận tôi đã được định đoạt để trở thành vị bác sĩ đầu tiên, luật sư đầu tiên và còn là vị bác sĩ thú y đầu tiên của gia đình. Khi tôi ra đời, ngay giữa thời kỳ Đại khủng hoảng(1), thì Red Oak chỉ là một thị trấn 7.500 dân nằm trên các ngọn đồi bao quanh thung lũng Nishnabotna, trái tim của vùng nông thôn Hoa Kỳ.
Họ của tôi – Hassan – là một họ hiếm hoi ở vùng Trung Tây. Mặc dù mẹ tôi sinh trưởng ở Iowa, là hậu duệ của những người di dân Thụy Điển và Ireland, nhưng cha tôi lại sinh ra không phải trên đất Mỹ mà là ở Bờ Tây (West Bank), nơi mà sau này gọi là Bethlehem thuộc Palestine. Cha tôi là một người Hồi giáo nhập cư chịu thương chịu khó. Khi gặp gỡ bà ngoại tôi - thỉnh thoảng bà vẫn tự lái máy bay từ Red Oak đến Chicago để mua sắm - cha tôi đã có một cửa hiệu bán đồ thời trang cho nữ giới ở Chicago. Một trong những lần đi shopping đó, bà ngoại gặp cha tôi, một doanh nhân thành công, lại đẹp trai. Ngoại tôi không thể hiểu vì sao anh thanh niên bảnh trai, hào phóng này lại không lấy vợ. Cha tôi nói rằng ông muốn lấy một phụ nữ có cuộc sống thanh bạch, không uống rượu và phải tuân thủ giáo lý đạo Hồi. Ông không thể kiếm đâu ra một phụ nữ như thế trên đất Mỹ. Trước đó không lâu, bà ngoại tôi đã đưa con gái mình - tức mẹ tôi, một cô gái tính tình sôi nổi đang ở tuổi cập kê - lên học tại Học viện Mỹ thuật Chicago. Khi cha mẹ tôi gặp nhau, họ như bị “sét” và tổ chức đám cưới sau một thời gian ngắn tìm hiểu, nhanh như một cơn lốc.
Sau đó có nhiều sự cố xảy ra. Mẹ tôi đã không thể hoàn tất việc học. Bà cũng không hoàn toàn từ bỏ rượu chè, và dĩ nhiên là người cha Hồi giáo của tôi không chấp nhận điều đó; nhưng tôi không hiểu điều gì đã thật sự xảy ra giữa hai người. Mẹ tôi đã tự sát khi mới 21 tuổi bằng cách bắn vào đầu mình ngay cạnh quầy tính tiền trong hiệu thời trang của cha tôi. Có lẽ mẹ bị trầm cảm sau khi sinh ra tôi. Mặc dù không còn ký ức gì về điều này, tôi được kể lại rằng mình đã có mặt tại nơi mẹ đã tự sát. Ông ngoại tôi, giải quyết vấn đề theo bản năng, đã mang tôi và chị tôi về quê ngoại ở Red Oak.
Hai chị em tôi hầu như được ông bà ngoại – ông Pete và bà Milly Tuttle - nuôi nấng. Tôi lớn lên ở trang trại rộng gần 100 hec-ta của ông bà. Tôi đã trải qua những ngày thơ ấu làm việc siêng năng nơi miền thôn dã. Giờ đây, mỗi khi hoài niệm về Red Oak, nó thường gợi lên trong tôi một cái gì đó tử tế và rất Mỹ, giống như một bức tranh của Norman Rockwell(1). Thời trung học, tôi thức dậy vào lúc 4 giờ 30 sáng để vắt sữa bò, thu gom trứng gà, cho ngựa và bò ăn rồi bắt đầu những công việc thường nhật khác. Tôi là nhân viên thuộc tổ chức Những Nhà nông Tương lai của Hoa Kỳ (Future Farmers of America – viết tắt là FFA) với ước mơ trở thành chủ một trang trại sản xuất bơ sữa cừ khôi ở Iowa. Là một thanh niên tháo vát và tràn đầy sinh lực, tôi cũng thường có những chuyến đi vào thành phố. Nói tóm lại, tại Red Oak, chúng tôi ăn nhiều, làm nhiều và tôi lớn lên với cảm giác được yêu thương, với nhiều thứ đang trông đợi nơi tôi, một con người làm lụng ra trò trong tuổi thanh xuân của mình.
Người có ảnh hưởng quan trọng nhất đối với tôi chính là ông ngoại Clarence “Pete” Tuttle, người gốc Ireland. Tính cách của tôi được hình thành dưới cái bóng vĩ đại của ông. Là một đảng viên Đảng Dân chủ thời kỳ New Deal(1), một nhà toán học lỗi lạc và là một doanh nhân, ông ngoại tôi là một con sư tử đầy quyền lực và tự tin. Chỉ cần vài tiếng nói bằng một giọng trầm và mạnh là ông có thể làm cho cả căn phòng yên lặng trở lại. Đã có lúc ông muốn trở thành một mục sư, nhưng ông lại quá yêu phụ nữ nên hẳn là ông không thích hợp với công việc đó. Là người có tầm nhìn đi trước thời đại, ông từng có lần được đề nghị ra tranh cử chức thống đốc bang Iowa, nhưng ngoại tôi đã từ chối vì ông từng ở tù vài lần do tội bán rượu lậu trong thời kỳ Prohibition(2). Với tôi, ông ngoại vững chắc như một tượng đài.
Ông ngoại tôi hoạt động tích cực trong thời kỳ sơ khai của ngành hàng không. Ông là một phi công nhào lộn và sở hữu nhiều máy bay biểu diễn - đó cũng chính là tấm bình phong cho hoạt động bán rượu lậu của ông. Trong số những việc làm tích cực, ông đã thành công trong việc vận động hành lang để Quốc hội quyết định lắp đặt đèn trên tất cả các phi trường, tạo điều kiện cho máy bay có thể cất cánh, hạ cánh ban đêm. Nhưng ông đã giã từ nghề nhào lộn máy bay khi viên phi công đồng sự chết thê thảm trong một tai nạn.
Ông bà ngoại tôi xem việc lái máy bay như là một phần trong cuộc sống của họ. Cả ông và bà đều có thể nhảy lên một chiếc máy bay rồi lái đi mua sắm ở Chicago hoặc lên tận New York xem một trận đấu bóng chày.
Ông ngoại tôi rất có tài trong việc phát hiện, nắm bắt và định hướng thị hiếu của thị trường. Ông đã thành lập đài phát thanh KICK ở Red Oak, một trong những đài phát thanh đầu tiên của Hoa Kỳ. Ông phục vụ trong Hội đồng Truyền thông Liên bang chỉ một năm sau khi tôi ra đời, để nhằm quảng bá cho một trận quyền Anh vốn không bao giờ diễn ra. Ông cũng là người xây motel(1) đầu tiên ở Red Oak. Ngoài ra, ông còn sở hữu ba nhà máy sản xuất nước giải khát có ga, nhà máy ấp trứng gà, và nhiều tài sản khác.
Trong Thế chiến thứ II, ông xây dựng 400 căn hộ nhỏ ở Downey, bang California mà ông khôn khéo đặt tên là Tuttleville. Mặc dù ông dạy bảo chị em tôi là phải luôn luôn nói sự thật, nhưng ông lại để tôi khai gian tuổi để có thể ghi danh học cùng lúc với chị. Ông ngoại tôi thường xuyên đi đây đi đó và làm đủ mọi việc, khiến tôi tin chắc rằng chị em tôi rồi cũng sẽ giống như ông. Tôi còn nhớ như in việc ông đã bảo vệ chị em tôi bằng giọng nói quyền lực, tính tình dữ dội vốn có của người gốc Ireland và trái tim rộng mở của ông. Ông thương yêu chúng tôi như thể không ai trên trái đất này có thể yêu thương chúng tôi như thế.
Lớn lên, với làn da màu ô-liu, tóc đen và mắt cũng đen, nhưng tôi được chấp nhận như những cư dân mắt xanh gốc Scandinavia ở Red Oak. Chúng tôi đi lễ ở Congregational Church và theo học trường công lập. Tuy nhiên có một lần, khi tôi lên chín, tôi đã cảm nhận có sự phân biệt khi một số người nhìn màu da sậm và cho rằng tôi là người Do Thái. Sự việc xảy ra khi tôi đi mua một thanh kẹo ở trạm xăng gần nhà. Người bán hàng không chịu bán kẹo cho tôi; hơn thế nữa, anh chàng này còn giật lại thanh kẹo trong tay tôi và tuyên bố cộc lốc: “Ở đây không bán cho người Do Thái!”.
Tôi tiu nghỉu trở về nhà với vẻ mặt ngượng nghịu. Ông ngoại đang đọc báo khi tôi bước vào.
- Người Do Thái là gì hả ngoại? - Tôi hỏi.
- Tại sao cháu lại hỏi thế? - Ông hạ thấp tờ báo xuống, hỏi lại.
Tôi kể đầu đuôi câu chuyện vừa xảy ra. Ông lặng lẽ gấp tờ báo, kéo tôi ra xe và lái thẳng đến trạm xăng. Ông vào nói chuyện với người chủ trạm xăng trong khi tôi chờ ở trong xe.
Tôi không biết những gì diễn ra bên trong trạm xăng, nhưng khi trở ra, ông nói: “Cháu có thể mua kẹo ở đó. Cháu sẽ không bao giờ gặp rắc rối nữa đâu”.
Ba tuần lễ sau, một tấm biển treo lên bên ngoài trạm xăng: Nghỉ bán. Tôi luôn tự hỏi không biết ông ngoại mình đã làm điều gì với họ, nhưng không dám nói ra.
Một mùa hè nọ, chị em tôi đi cắm trại bên hồ Okiboji ở phía Bắc Iowa. Chúng tôi thả bộ dọc theo bờ hồ. Chị tôi lúc đó đã 13 tuổi, cơ thể bắt đầu phát triển, và có thể sẽ đoạt vương miện trong một cuộc thi sắc đẹp vào một ngày nào đó với mái tóc đen hợp cùng làn da màu đồng vàng. Chúng tôi đi giữa một nhóm con trai, bỗng một đứa lên tiếng: “Một con nhóc da đen kìa!”.
Khi những đứa khác nhập cuộc, thêm lời bàn ra tán vào một cách thô tục, tôi mới nhận ra là bọn chúng đang nhắm vào chị tôi. Tôi thấy chị Miriam sợ cóng người. Chị đã rất nhạy cảm với cái họ Hassan của chúng tôi và sau này đã cải họ. Tôi nhận thấy Miriam rất xấu hổ trước những lời thô lỗ của chúng. Tôi hét to một tiếng rồi nhảy bật lên, đứng chắn giữa chị Miriam và bọn chúng. Chắc không thể tránh khỏi một cuộc đánh nhau. Nhưng may mắn thay, có một người lớn tuổi đi qua và ngăn chặn cuộc ẩu đả. Tuy nhiên, tôi đã học được bài học về sự tàn nhẫn và hẹp hòi của tệ nạn phân biệt chủng tộc. Và các bài học đó theo tôi suốt đời.
Ông ngoại Pete Tuttle của tôi cũng ghét sự hẹp hòi. Tôi nhận ra điều đó trong cách sống của ông. Ông thường giúp đỡ những kẻ thua thiệt. Sự hào phóng của ông vẫn được truyền tụng ở Red Oak. Từng trải qua thời kỳ khủng hoảng kinh tế, ông ngoại tôi rất quý tiền bạc, nhưng ông xem trọng con người hơn. Một câu chuyện mà ông kể lại là sau cơn Đại suy thoái, rất nhiều nông dân đã mắc nợ khi mua gà con tại lò ấp trứng của ông. Nhưng sau đó, hầu hết các trại chủ nuôi gà đều bị phá sản và mất khả năng chi trả. Pete Tuttle đã bỏ qua tất cả. Ông chỉ yêu cầu họ trả lại tiền khi họ có thể.
Tôi đã trải qua một cuộc sống lao động chân tay tại trang trại ở Red Oak. Từ lúc còn nhỏ, tôi đã làm những công việc như vắt sữa bò, chăm nom đàn heo, đàn ngựa, bầy gà. Tôi lái máy kéo ra đồng trồng bắp và lúa mạch. Tôi cắt cỏ, cột thành kiện cỏ khô dành cho bò, ngựa. Tôi lái xe tải nhỏ chạy khắp nông trang để trông coi gia súc và vụ mùa. Tóm lại là tôi có thể tự hào rằng mình là con nhà nông tiêu biểu ở Iowa. Tôi đã biết cách quản lý nông trang. Ông ngoại tôi cười vui khi nghe tôi nói rằng sau này, khi lớn lên, tôi muốn trở thành một “quý trang chủ” như ông.
Tuy nhiên, vào năm 14 tuổi, đời tôi rẽ sang một bước ngoặt khác khi tôi bị Jeannie – chú ngựa mà tôi yêu thích nhất – đá vào đầu một cú chí mạng. Tôi bị vỡ xương sọ, chấn thương sọ não và còn nhớ như in cảnh ông ngoại tôi khóc khi trông thấy tôi.
“Cậu bé này sẽ lâm vào tình trạng chậm phát triển trí tuệ, hỏng mắt phải và khứu giác cũng không thể hoạt động”. Đó là lời dự đoán kinh khủng của viên bác sĩ ở bệnh viện về tình trạng của tôi lúc ấy.
Một bác sĩ phẫu thuật thần kinh ở Omaha đã lấy đi một mẩu xương sọ cỡ bằng đồng tiền 50 xu ở phía trên mắt phải. Ông cũng lấy được hết phần máu bầm ở phần trước não bộ của tôi.
Đây là một cuộc phẫu thuật tinh vi vào thời điểm đó, trong điều kiện không được chẩn đoán tốt. Nhưng may mắn thay, tôi đã vượt qua được. Các giáo trình y học cho rằng, một chấn thương não như thế thường dẫn đến hậu quả khiến nạn nhân bị chậm phát triển trí tuệ. Và cho dù có hồi phục thì vẫn để lại một số di chứng như: cáu gắt, tính tình hay thay đổi, tiến trình suy tưởng, tranh luận khó khăn và có thể bị mất trí nhớ lâu dài hay ngắn hạn.
Thế nhưng tôi còn trẻ và có sức khỏe tốt. Tôi ăn khỏe và trải qua thời gian phục hồi chậm nhưng thật diệu kỳ. Sau tai nạn, điểm số của tôi ở lớp rơi từ A và B xuống C và D, lại nhận cả điểm F trong môn đại số. Tôi tư duy một cách khó khăn và biết rằng tiến trình hồi phục não bộ chưa được tốt. Nhưng rồi tôi cũng hồi phục hoàn toàn, một sự hồi phục phi thường, đến độ có một bác sĩ đã nói với tôi rằng, trường hợp của tôi nên được viết bài đăng trên tạp chí y học.
Sau cuộc phẫu thuật, ông bà ngoại rất lo lắng nên đã hạn chế nhiều hoạt động của tôi. Tại trường, tôi là một học sinh có chiều cao 1,7 m và đang lớn nhanh, trổ mã với thể trọng 66 kg. Nếu không có sự cố nói trên, có lẽ tôi sẽ là một vận động viên điền kinh. Nhưng nay thì phải tránh xa các môn thể thao như bóng đá chẳng hạn. Trong suốt thời gian học bậc trung học, dù làm tốt công việc ở trang trại, tôi vẫn không được phép tham gia vào các đội chơi thể thao. Thay vào đó, tôi được sắp xếp để trở thành nhà quản lý các đội thể thao và cổ vũ cho đồng đội.
Và cuối cùng, như đáp lại sự mong đợi, điểm số của tôi đã khá lên. Tôi tốt nghiệp trung học phổ thông ở tuổi 16 rồi cùng chị Miriam theo học Iowa State University ở Ames. Tôi theo chuyên ngành chính là nông nghiệp, đặc biệt chú trọng về quản lý nông trại sản xuất bơ sữa. Thời trung học, tôi đã luôn cố gắng kiếm tiền và để dành được một ít nhờ công việc bán thời gian là vắt sữa bò ở nông trại nhà trường, nhưng đến lúc lên đại học ở tuổi 17 thì khoản tiền tiết kiệm đó đã cạn kiệt. Ở thời điểm ấy, việc vay tiền chính phủ để theo học đại học chẳng dễ dàng tí nào và tôi khá tự hào là mình có thể tìm sự trợ giúp tài chính từ gia đình. Nhưng tôi không muốn nói với ông ngoại là mình đã hết tiền mà to nhỏ với Miriam vì biết chị sẽ cố giúp mình.
Rồi tôi gia nhập lực lượng Thủy quân lục chiến ở tuổi 18 mà không hỏi ý kiến bất cứ ai trong gia đình. Bạn bè tôi ở đại học Iowa đe rằng nếu gia nhập lực lượng này thì tôi sẽ chẳng còn cơ hội trở lại giảng đường. Nhưng tôi đã không tin họ. Tôi rời trường với 22 đô-la trong túi và trở thành một anh lính Thủy quân lục chiến.
Lý do gia nhập Thủy quân lục chiến là vì tôi muốn chứng tỏ rằng mình cũng có thể tự khẳng định bản thân trên thế giới này. Tôi đã nhận ra mình không thích tiêu phí cuộc đời ở nông trang. Thủy quân lục chiến nổi tiếng là binh chủng “oách” nhất của quân đội và tôi muốn bổ khuyết cho những năm tháng mình bị loại ra khỏi “tình đồng đội” trong các đội chơi thể thao ở trường trung học. Tôi cũng biết một số người có tư tưởng kỳ thị với người gốc Ả Rập nên tôi muốn chứng tỏ mình không thua kém bất kỳ ai.
Khi còn là một cậu bé, tôi đã ghi nhớ bài nói chuyện của Tổng thống Franklin Roosevelt lên án Nhật Bản đánh bom Trân Châu Cảng, gọi đó là “một ngày sống trong nỗi ô nhục”. Cũng giống như mọi người Mỹ thời ấy, tôi chứng kiến những nỗ lực anh hùng của quân đội Hoa Kỳ để chiến thắng trong cuộc chiến này. Tôi thường nghe ông bà ngoại nhắc đến một ông chú của tôi là Mortimer M. Marks, một sĩ quan Thủy quân lục chiến mà mọi người tin là đã chết khi có mặt trong sự cố Bataan Death March(1). Một ngày nọ, gia đình nhận được tin ông ấy vẫn còn sống và bị Nhật bắt làm tù binh. Ông đã sống sót sau ba năm trong trại tù của Nhật. Khi trở về Mỹ, ông được xem là người hùng và được vinh thăng Trung tá Thủy quân lục chiến. Trong trường hợp của mình, tôi cũng biết đã có dự luật về quân nhân Mỹ có thể giúp tôi trang trải mọi thứ cho việc hoàn tất đại học sau vài năm phục vụ trong quân ngũ.
Tôi thích Thủy quân lục chiến theo cách mà chỉ có giới trẻ mới hiểu được. Tôi thích tác phong kỷ luật, niềm kiêu hãnh, những tiêu chuẩn cao về thanh danh được rèn luyện khi phục vụ trong quân đội. Tôi có cảm giác và định hình trong đầu là Thủy quân lục chiến đã kéo mình ra khỏi cuộc sống lao động ở nông trang và hướng cho tôi con đường đi đến vinh quang và phụng sự. Là một quân nhân gia nhập Thủy quân lục chiến Mỹ năm 1954, tôi được huấn luyện về tự vệ và đánh quân địch trong suốt 12 tuần lễ cực kỳ gian khổ ở Trung tâm Huấn luyện Thủy quân lục chiến Camp Pendelton, bang California.
Các huấn luyện viên hét thẳng vào mặt, đánh đấm chúng tôi tơi bời dù chỉ với những vi phạm nhỏ nhặt. Tôi cùng những tay lính mới khác phải vượt qua môi trường khắc nghiệt, căng thẳng của Trung tâm Huấn luyện. Chúng tôi phải dậy sớm, làm việc cả ngày rồi ngủ mê mệt như những khúc gỗ. Chúng tôi phải mang vác những khẩu súng máy nặng 55 kg, đeo cấp số đạn vòng quanh bụng rồi leo lên tụt xuống các ngọn đồi quanh Camp Pendelton, lại phải thực tập nạp đạn và bắn 550 viên một phút. Mỗi khi cảm thấy bị hành hạ, bị sỉ nhục quá mức và muốn bỏ cuộc, chúng tôi lại tìm cách tự kiềm chế cảm xúc trong lòng và tiếp tục tiến bước. Việc gia nhập binh chủng Thủy quân lục chiến đã hình thành tính cách của tôi, tập cho tôi tính kỷ luật, sự dũng cảm, gan dạ, bản năng tự bảo toàn tính mạng và tính trung thực.
Sau hai tuần trong Trung tâm Huấn luyện, hôm nọ, một huấn luyện viên đi đến, chỉ thẳng vào ngực tôi khi chúng tôi đang đứng trong hàng quân. Vào thời điểm đó, tôi đã cao 1,83 m và nặng đến 82,5 kg.
- Này! Cậu đã bao giờ đấu quyền Anh chưa? - Huấn luyện viên hỏi.
- Thưa, chưa. - Tôi trả lời.
- Tốt. Bây giờ cậu là tay đấm bốc của trung đội này.
Tôi suy nghĩ rất nhiều về việc này. Tôi có thể hình tốt do từng làm việc nhiều năm ở nông trại. Nhưng đối thủ của tôi trong trận so găng đầu tiên lại là một tay quyền Anh từng đoạt giải “Găng tay Vàng”. Vả lại xét mình từng bị thương nặng ở đầu do bị ngựa đá, tôi vội đi gặp riêng vị huấn luyện viên tại văn phòng của ông.
- Thưa ông, tôi không thể đấu quyền Anh được. - Tôi nói.
- Cái gì? Anh muốn nói gì? Anh không thể đánh bốc hả? Có điên không?
- Thưa ông, tôi từng bị lấy đi một phần vỏ não. Nếu tôi bị đánh trúng ngay đó, tôi có thể bị chết.
- Anh nhát gan hả? Đồ liếm đít! Anh giả nai hả?
- Không, thưa ông.
- Thế anh đã gia nhập vào Thủy quân lục chiến?
- Vâng.
- Anh có man khai để gia nhập Thủy quân lục chiến không?
- Không, thưa ông.
- Họ đã nhận anh vào Thủy quân lục chiến?
- Thưa, vâng.
- Rồi thì anh đã là một quân nhân Thủy quân lục chiến?
- Vâng.
- Cút ra khỏi phòng tôi ngay!
May mắn thay, các tay đấm bốc trong lực lượng Thủy quân lục chiến được mang mũ bảo hộ. May mắn nữa là miếng da của mũ bảo vệ lại ăn khớp với “điểm mềm” vỏ não ngay trên mắt phải của tôi. Mặc dù tập dượt cả tháng trời, tôi vẫn cảm thấy yếu ở hai đầu gối khi bước lên vũ đài vào vòng đấu với tay đấm bốc “Găng tay Vàng”. Tay này cũng chẳng khá hơn tôi. Chúng tôi ghìm nhau, công thủ qua lại khá đẹp mắt và dù không ai được nhận cúp về thể hiện sự dũng cảm trong thi đấu quyền Anh, nhưng tôi được công nhận là người chiến thắng.
Tôi cũng đạt được điểm số cao nhất chưa ai từng đạt trong môn bắn súng lục 45 ly, hạng nhì trong môn đoạn đường chiến binh và giúp cho trung đội của mình đạt danh hiệu trung đội xuất sắc. Bằng nhiều cách, binh chủng Thủy quân lục chiến đã chỉ cho tôi thấy là mình có thể làm được nhiều hơn là mình nghĩ.
Tôi phục vụ trên chiếc USS Toledo, tàu đô đốc của hạm đội 7, lênh đênh trên biển mỗi đợt 4 tháng với bộ phận đổ bộ gồm 45 tay súng Thủy quân lục chiến luôn túc trực, sẵn sàng chiến đấu. Trên biển cả thời chiến, Thủy quân lục chiến là những tay súng có nhiệm vụ trước tiên là bắn hạ các phi cơ tấn công của đối phương. Với nhiệm vụ là đơn vị đổ bộ, các tay súng cũng phải tiếp tục tập dượt hằng ngày, sáu ngày rưỡi một tuần. Đứng gác 4 tiếng đồng hồ – dù cách nhật – thì thật là khổ, đặc biệt nếu như bạn đứng gác từ nửa đêm cho đến 4 giờ sáng sau khi đã làm việc một ngày.
Là quân nhân Thủy quân lục chiến, tôi đã chuẩn bị cho việc đổ bộ lên bãi biển Hàn Quốc khi hữu sự. Tôi cũng đã sẵn sàng hành động khi chiến hạm chúng tôi nhổ neo hướng về Cairo vào năm 1956 trong cuộc khủng hoảng kênh đào Suez. Sau khi tuyên bố quốc hữu hóa, Tổng thống Ai Cập Gamel Abdul Nasser đã cho quân đội chiếm quyền kiểm soát kênh đào từ tay người Anh và Pháp. Có khả năng Mỹ sẽ đưa quân chiếm lại kênh đào. Tuy nhiên, trước khi chiến hạm chúng tôi đến Cairo, Tổng thống Eisenhower đã hủy bỏ lệnh tấn công. Ông quyết định không giúp Anh và Pháp trở lại vai trò của những cường quốc thực dân.
Đối nghịch với ông ngoại mình là một người trung kiên với Đảng Dân chủ, tôi đã ủng hộ Tổng thống Eisenhower. Khi tôi cho ngoại xem chiếc nút có dòng chữ “Tôi thích Eisenhower”, ông đã bảo tôi quẳng nó đi, hoặc là bước ra khỏi nhà ông. Đối với tôi, đây là cơ hội thể hiện tính độc lập của mình. Dù vậy, trên chuyến đi đến Ai Cập, Hạm trưởng chiếc USS Toledo đã chạm trán tôi.
- Hassan! Anh là một Thủy quân lục chiến hay là một người Ả Rập? - Ông hỏi tôi.
- Thưa, trước tiên tôi là một Thủy quân lục chiến, sau đó, là một người Ả Rập. - Tôi trả lời.
- Tốt. Chúng tôi sẽ để ý đến anh. - Ông nói tiếp. - Anh đủ tư cách để trở thành người chỉ huy tiểu đội nên tôi hy vọng, như một Thủy quân lục chiến xuất sắc, hạ sĩ Hassan, anh biết anh sẽ phải làm gì khi chúng ta đặt chân đến Địa Trung Hải.
Tôi xem đây là một cơ hội củng cố sự tự tin của mình, nhưng sau này, tôi tự hỏi tại sao ông ấy không nhắc đến chuyện đó nữa.
Trong một chuyến đi khác, vào thời điểm xảy ra cuộc khủng hoảng ở hai hòn đảo Quemoy và Matsu, chúng tôi đã chuẩn bị chiến đấu, trực chiến 24 giờ một ngày sau khi được ngủ 6 tiếng đồng hồ. Tất cả chúng tôi đều mang theo lựu đạn đầy đủ và trông chờ những chiếc thuyền cỡ bằng các chiếc Volkswagen Beetle cặp vào boong chiến hạm. Dân chúng đang tìm cách chạy thoát khỏi đảo, thoát vòng kiểm soát của chính quyền, và nhiệm vụ của chúng tôi là giúp đưa họ lên tàu chở ra Đài Loan.
Tàu của chúng tôi neo ở Hồng Kông, Trung Quốc, Hàn Quốc và các hải cảng của Nhật như Kobe, Nagoya, Sasebo và Yokusuku. Chúng tôi cũng có cặp bến ở Bataan và Corregidor thuộc Philippines cũng như tổ chức đặt vòng hoa tưởng niệm tại Surabachi trên đảo Iwo Jima. Tôi là một chuyên gia về súng trường, một tay bắn tỉa, nhưng tôi có nhiều việc khác phải làm trên tàu, kể cả việc hành xử như một quân cảnh. Tôi có giấy chứng nhận là một thiện xạ súng liên thanh cỡ nòng 50 ly, và theo đó, tôi hướng dẫn kỹ năng cho Thủy quân lục chiến Hàn Quốc ở Chin Hae. Tôi cũng vinh dự được chào đón các vị hạm trưởng, các đô đốc và làm tài xế phục vụ cho các cấp chỉ huy này trên bến cảng. Thỉnh thoảng, tôi cũng làm tài xế đưa đón con gái của họ. Tôi có nhiều kỷ niệm đáng nhớ với những nhà ái quốc đáng tự hào này.
Về cơ bản, tôi rất tằn tiện và siêng năng. Tôi hớt tóc hay giặt, ủi đồ cho đồng đội chỉ với một hoặc hai đô-la. Trong khi một số chiến hữu của tôi vui chơi trên cảng, chè chén say sưa ở các quán rượu, bù khú bên các cô gái thì thỉnh thoảng tôi lại làm nhiệm vụ canh gác nơi vui chơi của họ để nhận khoản tiền thù lao 20 đô-la một đêm. Tôi cố dành dụm càng nhiều càng tốt khoản tiền lương 75 đô la một tháng của mình. Tôi bắt đầu các buổi lễ cầu nguyện trên tàu, nơi chúng tôi không chỉ nghiên cứu Kinh Thánh, mà cả kinh của Do Thái giáo cũng như tôn giáo của nhiều khu vực khác. Một đêm nọ, sĩ quan chỉ huy tiến hành một cuộc kiểm tra bất thần sau khi cho tắt đèn vào lúc 9 giờ và phát hiện ra rằng tôi đang theo học hàm thụ trường luật. Điểm số trên một trong những bài tiểu luận của tôi gây ấn tượng mạnh và viên sĩ quan đã cho phép tôi được sử dụng phòng khám bệnh phát thuốc trên tàu để nghiên cứu bài vở sau khi đèn tắt ở các phòng khác.
Trước hết, tôi là một Thủy quân lục chiến trung thành. Tôi được đề bạt lên hạ sĩ, rồi trung sĩ. Những năm tháng phục vụ trong lực lượng Thủy quân lục chiến là những ngày đáng tự hào trong đời tôi. Tôi thích phương châm “Semper Fidelis” – luôn luôn trung thành. Ý tưởng về một chiến binh sẵn sàng hy sinh mạng sống để bảo vệ tổ quốc là một khái niệm đầy tự hào và hãnh diện đối với tôi.
Một ngày nọ, Hạm trưởng Thomas cho gọi tôi vào phòng làm việc của ông trên chiến hạm USS Toledo và tiến hành một cuộc thi vấn đáp ngắn trước khi đề bạt tôi mang quân hàm trung sĩ. Hạm trưởng Thomas đưa cho tôi giải quyết một tình huống.
- Hạ sĩ Hassan này, tôi sẽ hỏi anh một vài câu vì tôi dự định gửi anh đi học ở Annapolis. Đây là một cuộc thi vấn đáp. - Ông ấy nói.
Tôi cực kỳ kích động xen lẫn cảm giác tự hào. Có thể đây là niềm vinh dự lớn nhất trong đời binh ngũ của mình.
- Vâng, thưa Hạm trưởng. - Tôi trả lời, dù chưa hình dung được những gì sắp diễn ra.
- Bây giờ, anh đang ở Hàn Quốc và đang giữ ngọn đồi 827. Anh có 14 binh sĩ thuộc quyền và được lệnh cố thủ. Quân giặc muốn chiếm ngọn đồi. Họ đang tấn công lên đồi và sử dụng chiến thuật là lùa trẻ em và phụ nữ đi trước. Anh phải xử lý thế nào?
- Thưa Hạm trưởng, tôi sẽ yêu cầu các tay súng, các tay bắn tỉa của mình nhắm bắn vào các cấp chỉ huy, các sĩ quan, những nhân vật chịu trách nhiệm về cuộc công kích.
- Chúng vẫn tiếp tục tiến lên.
- Thưa Hạm trưởng, tôi sẽ sử dụng đến tổ súng cối. Chúng ta sẽ cho nã đạn cối vào phía sau đám trẻ em, phụ nữ. Cùng lúc đó, tôi cho lệnh thiết lập chiến lũy phòng ngự.
- Hạ sĩ Hassan, chúng vẫn cứ tiến!
- Vâng, thưa Hạm trưởng, nếu chúng tràn qua chiến lũy, tôi sẽ ra lệnh mang súng ba-zô-ka ra và cho ráp lưỡi lê vào súng để cận chiến. Chiến tranh là địa ngục mà.
Tôi đã từng nghe câu nói “Chiến tranh là địa ngục” (War is hell) trong một bộ phim nào đó và câu trả lời của tôi phản ánh đúng tình trạng chiến tranh qua nhãn quan của mình: một trận chiến sống còn, đối đầu trực diện của các tay súng và sử dụng bất cứ phương tiện nào. Và nếu dân chúng bị lùa đi làm lá chắn – như trong tình huống giả định mà Hạm trưởng đưa ra để tôi giải quyết – thì phải tìm cách hạn chế tối đa tổn thất sinh mạng cho họ. Những câu trả lời của tôi phải thuyết phục được Hạm trưởng Thomas và cả viên sĩ quan giám sát tôi, đại úy Thủy quân lục chiến Thompson. Vào cuối chuyến hải trình đó, tôi cực kỳ hãnh diện khi được cử đi học ở Học viện Hải quân Hoa Kỳ ở Annapolis và là người duy nhất được chọn trong số 190.000 Thủy quân lục chiến trên hạm đội 7. Cả hai vị sĩ quan nói trên đều nói với tôi rằng đây là một cơ hội hiếm có trong đời binh ngũ. Tôi cũng cảm thấy như thế.
Tại Hồng Kông, tôi tạm biệt Hạm trưởng Thomas và giới thiệu với ông người yêu của tôi – Monica Thirwell – một cô gái trẻ đẹp mới 17 tuổi. Monica biết 5 thứ tiếng và tôi nghĩ, cô nàng khéo léo, khôn ngoan hơn mình và nếu cưới nhau, chúng tôi chắc sẽ có những đứa con ngộ nghĩnh, dễ thương. Nhưng viên Hạm trưởng vội kéo tôi ra khỏi tầm nghe của Monica và nói ngay là ông muốn tôi đi Annapolis chứ không nên đám cưới đám kiếc gì hết.
- Trung sĩ Hassan này, nếu cậu cưới cô gái trẻ đẹp này, tôi sẽ xé xác cậu ra đấy! - Ông rít lên bên tai tôi.
- Thưa Hạm trưởng, tôi hiểu.
Tôi đã không cưới Monica mà sớm xuất hành đi Annapolis với niềm tự hào xen lẫn cảm giác cô đơn.
Ngay trước khi lên đường đi Annapolis, tôi được tin ông ngoại bị bệnh bạch cầu. Tôi bay về Iowa thăm ngoại và báo cho ông biết tin mình được chọn đi học ở Annapolis để trở thành sĩ quan Thủy quân lục chiến. Trước đây, ngoại đã từng nói là ông nghĩ tôi sẽ là một bác sĩ giỏi, và lần này ngoại nhắc lại điều đó. Tôi biết ông ngoại đang bệnh, đã truyền máu tới 18 lần, nhưng tôi không hiểu được tầm hệ trọng của vấn đề vì chính ngoại đã đích thân lái xe chở tôi ra phi trường.
Trên đường trở lại Hàn Quốc, tôi ngủ quên và lỡ chuyến bay ở căn cứ không quân Travis. Tôi cố chạy theo cho kịp máy bay đang chuyển bánh, nhưng đã bị ngăn lại.
Tôi thở hổn hển la lên:
- Tôi không thể trễ chuyến đi đến chiến hạm được. Đó là một tội danh của tòa án binh.
Nhưng tôi đã trễ chuyến bay.
Sau đó, tôi hay tin chiếc máy bay này bị nạn ở gần đảo Wake, Thái Bình Dương, khiến 69 lính Thủy quân lục chiến và quân nhân khác tử nạn. Xác máy bay không tìm thấy được.
Sau một loạt các sự cố, kể cả một tháng làm việc như một nhân viên đưa thư và lính gác ở Hàn Quốc, cuối cùng tôi cũng được lên tàu đi Annapolis. Ở Annapolis chỉ mới được một tháng, chị Miriam đã gọi điện báo tin là bệnh tình của ông ngoại trở nên trầm trọng. Chị nói ông đang nằm viện, đang chết dần với chứng bệnh có quá nhiều bạch huyết cầu. Mặc dù tôi đã cố đi chuyến bay sớm nhất để trở về Red Oak nhưng không kịp nữa. Ông ngoại đã ra đi - ở tuổi 73. Tôi cảm thấy ân hận vô cùng. Tôi đã không có thời gian để trò chuyện cùng ông, nói cho ông biết là tôi yêu ông biết dường nào. Nhiều năm sau, hằng ngày tôi vẫn nghĩ về ông như thế.
- Ông ngoại con trông chờ con về để giao cho việc quản lý nông trang. - Một người dì nói với tôi, chẳng khác nào đâm một nhát dao vào tim tôi. - Bà ngoại con thì nghĩ rằng con đã giết ông ngoại khi nói với ông là con sẽ không trở về nông trại nữa.
Những lời đó làm tôi thêm hối hận. Tôi ở lại Red Oak một thời gian ngắn để giúp bà ngoại Milly Tuttle bán bớt gia sản. Tôi là người duy nhất trong gia đình biết rõ nguồn gốc và giá trị của từng con vật trong nông trang nên tôi không muốn thấy cảnh bà ngoại bán đổ bán tháo. Tôi giúp bà bán đi bầy gia súc Black Angus và Brown Swiss, những chú cừu Duroc, gà Thổ Nhĩ Kỳ Beltsville, chú ngựa Morgan mà chúng tôi mua của một gánh xiếc rong, những con ngựa cái Des Moines mà tôi và ông ngoại từng chăm sóc để dự thi tại hội chợ tiểu bang Iowa. Lòng tôi tràn ngập nỗi ân hận khi bán đi những con vật này, bởi ông ngoại đã hết lòng dạy dỗ tôi trở thành người quản lý nông trang nhưng tôi đã không theo ý nguyện của ông.
Đến khi trở lại Annapolis thì tôi đã bỏ khá nhiều môn học. Nhà trường báo là tôi phải bắt đầu học lại vào năm sau, vào học kỳ mùa Thu, học kỳ duy nhất dành cho các sinh viên mới nhập trường. Trong khi chờ đợi, tôi vẫn ở lại Annapolis nhưng không ở trong học viện. Tôi nhớ đồng đội của mình trên chiến hạm. Tôi thương nhớ ông ngoại và cảm thấy cuộc đời mình như bế tắc.
Khi còn ở Red Oak, anh Richard Houck, chồng chị Miriam và cũng là một bác sĩ thú y, có gợi ý là tôi nên trở về Red Oak để hoàn tất đại học.
- Em nên trở thành một bác sĩ thú y thì tốt hơn là đi học ở Annapolis. - Anh Richard nói. - Nên nhớ em xuất thân là một cậu bé ở nông trang.
Giờ đây, khi đang nôn nóng với thời gian ở Annapolis thì những gợi ý của anh Richard chợt trở lại trong suy nghĩ của tôi. Tôi chỉ mới 21 tuổi mà đã hơi sốt ruột. Tôi gọi điện ngay cho trường Iowa State University. Và với sự giúp đỡ của anh Richard, trường đã chấp nhận cho tôi theo học, mặc dù các lớp đã khai giảng từ hai tuần trước đó. Cho dù tôi được xuất ngũ, đã vinh dự làm tròn trách nhiệm trong lực lượng Thủy quân lục chiến, nhưng tôi luôn hối tiếc việc từ bỏ Học viện Hải quân Annapolis. Tôi cảm thấy mình đã phụ lòng những người đã tiến cử và tin tưởng vào mình.
Tôi khập khiễng trở về Red Oak trên đôi nạng vì một tai nạn khi lặn dưới hồ bơi. Ngoài món tiền 3.500 đô-la tiết kiệm được và khoản tiền 3.000 đô-la ông ngoại để lại, tôi được nhận thêm 110 đô-la mỗi tháng theo quy định dành cho quân nhân xuất ngũ. Do nhập học trễ, điểm số giữa học kỳ của tôi thật tệ và hầu như tôi thi hỏng tất cả các môn. O’Mara, một giáo sư tóc đỏ do di truyền – người có chỉ số thông minh (IQ) 187, cao nhất trong trường đại học – đã khuyên tôi nên từ bỏ việc học này vì sự cách biệt quá lớn so với các bạn đồng học. Tôi cẩn thận lắng nghe những gì giáo sư nói.
- Allen này, anh đã bị tụt lại quá xa. Dù anh thông minh nhưng tôi không nghĩ là anh có thể san bằng khoảng cách. Trong môn của tôi, điểm số của anh thật là tệ hại.
Tôi đề nghị giáo sư O’Mara cho tôi được hoàn tất học kỳ vì cảm thấy rằng, cho dù có những điểm số “thê thảm” như thế, “những tia sáng đã bắt đầu lóe lên” trong tôi.
- Được rồi. Nhưng anh cần phải có một phương pháp học tập thật tốt mới vượt qua được và trả nợ điểm số với tôi cũng như với các vị giáo sư khác. - Giáo sư O’Mara nói.
Tôi lao vào việc học. Học và học liên miên. Các bạn cùng lớp rủ tôi vào nhóm học tập, chỉ giúp cho tôi cách học và những thiếu sót trong kiến thức của tôi. Nhờ đó, điểm số của tôi được cải thiện đáng kể. Vào cuối học kỳ, tôi đã nhận được điểm B trung bình. Tôi có tên trong danh sách tuyển chọn của trường Thú y trước khi vào lực lượng Thủy quân lục chiến, vì thế giờ đây họ dễ dàng chấp nhận cho tôi theo học.
Học ngành Thú y khá vất vả nhưng tôi có thể vượt qua. Tôi đã từng quản lý nông trang của ông ngoại. Tôi yêu các con vật và biết cách chăm sóc chúng. Nhưng những sinh viên khác thuộc ngành này cũng xuất thân là những cậu bé xuất sắc ở nông trang nên tất cả đều cần phải thật kiên trì, bền bỉ mới mong vượt qua được những thách thức. Chúng tôi được dạy rằng có thể phán đoán một nền văn minh qua phương cách mà xã hội đó cư xử với loài vật. Chúng tôi học thuộc lòng tất cả các loại vi khuẩn cùng bệnh tật có thể truyền từ gia súc qua con người và ngược lại. Chúng tôi học tất cả triệu chứng bệnh trên gia súc và thực hành nhiều, rất nhiều ca phẫu thuật trên các loài động vật lớn, nhỏ. Cùng với những kiến thức khác, sự khéo tay, chuẩn xác trong những ca phẫu thuật này về sau đã giúp tôi chữa trị vết thương cho người dân Việt Nam.
Trong trường Thú y, cùng với những “bàn tay vàng” Jimmy Higa, Richard Okey và các thành viên khác trong đội phẫu thuật, chúng tôi đã tiến hành những thủ thuật tinh tế trên chó và mèo. Chúng tôi khéo léo giải phẫu các bộ phận đường ruột, kéo chúng ra, tách các bộ phận riêng ra rồi cẩn thận đặt chúng trở lại trong khi con vật được gây mê và vẫn còn sống. Những thủ thuật khó khăn và nhạy cảm này đã cho tôi kinh nghiệm vô giá khi tôi đến phục vụ tại Việt Nam. Chúng tôi đã cắt bỏ lá lách, thận, buồng trứng, tử cung, một phần lá gan, một phần tụy tạng và nhiều phần nữa của những con chó trong phòng thí nghiệm.
Có một lần, một sinh viên cố cắt bỏ khối u thòi ra trên mũi của một con vẹt bằng điện và kết quả là con chim bị chết ngay lập tức. Tôi còn nhớ có lần mình đã thức dậy vào sáng sớm trên bàn mổ, kế bên là xác con ngựa mà tôi phải phẫu thuật cho kỳ thi ngày hôm ấy. Tôi còn nhớ là các giáo sư đã bảo đảm rằng sau khi ra trường, chúng tôi sẽ nắm vững chuyên môn hơn bất kỳ bác sĩ thú y nào trong nước. Ngoài ra, chúng tôi cũng được rèn luyện một phong cách nhã nhặn và nghiêm túc hơn nhờ trường Thú y là môi trường không rượu chè.
Trong khi theo học để trở thành bác sĩ thú y, tôi được kết nạp vào Hội sinh viên Học bổng Acacia, một hội đoàn uy tín của trường. Sau khi tôi được bầu làm Phó Chủ tịch và huấn luyện viên của Acacia, một trong những nhiệm vụ của tôi là thuyết phục cho được Jesse Owens tham gia vào Hội. Jesse Owens là người da đen, là anh hùng nổi tiếng thế giới của Thế vận hội và được rất nhiều người đánh giá là vận động viên vĩ đại nhất của Hoa Kỳ. Trên đường trở lại trường, Owens hỏi tôi có ở trong Hội sinh viên không và tôi nói là có, tôi đang là thành viên Hội Acacia.
- Là người có họ Hassan, là người Ả Rập, anh không nên vào hội sinh viên. Các hội sinh viên không cho phép người da đen đứng chung hàng ngũ với họ. - Jesse Owens nói. - Anh không biết các hội sinh viên chính là thành lũy chủ chốt của chủ nghĩa phân biệt chủng tộc tại Hoa Kỳ hay sao?
Tôi suy nghĩ về lời nói của vận động viên nổi tiếng này trong mấy tuần lễ kế tiếp. Sau đó, tôi giới thiệu một cầu thủ bóng đá da đen, một người bạn của tôi có điểm số học tập khá cao gia nhập hội. Tôi kinh ngạc khi thấy một số các thành viên năng nổ đã bỏ phiếu chống lại việc gia nhập của anh chàng thông minh này, viện dẫn là họ từng có lần nghe anh ta chửi thề. Thái độ đạo đức giả này làm tôi thật xấu hổ vì tôi đã nhiều lần nghe các thành viên của hội cũng dùng ngôn từ thiếu lịch sự như thế. Lúc đó, tôi mới thấy một điển hình về tệ phân biệt chủng tộc mà Jesse Owens đã nói.
Tôi giận dữ phản đối và bước ra khỏi tòa nhà của hội sinh viên, bắt đầu vận động những thành viên cởi mở hơn nhằm xóa bỏ sự bất công trong thủ tục bầu chọn. Cuối cùng, một nhóm đông thành viên đi đến căn hộ của tôi và thông báo rằng vị giám sát hội sinh viên đã đồng ý sửa đổi điều lệ. Họ đề nghị tôi trở lại cương vị Phó Chủ tịch hội, nhưng tôi nói là sẽ không trở lại cho đến khi người bạn cầu thủ của tôi được đón chào giống như tôi. Tôi chắc rằng mình đã làm một điều đúng đắn.
Mặc dù sắp trở thành bác sĩ thú y, những người mà tôi kính trọng lại xem tôi như là một bác sĩ y khoa. Mẹ Dinsmore – một Mẹ giám thị ký túc xá tốt bụng của Acacia – thường hay quan sát tôi. Một ngày nọ, Mẹ kéo tôi sang một bên và nói rằng Mẹ nghĩ những kỹ năng của tôi sẽ hữu dụng trong vai trò một bác sĩ y khoa hơn là một bác sĩ thú y. Lời Mẹ nói chạm vào sâu thẳm tim tôi, bởi nó chính là những lời mà ông ngoại yêu quý của tôi đã từng nói.
- Con có nhiều khả năng phục vụ cho con người hơn là phung phí cho loài vật. - Mẹ Dinsmore nói với tôi.
- Nhưng con yêu các con vật cũng như yêu con người. - Tôi trả lời.
- Hãy yêu hết thảy sinh vật của tạo hóa, - Mẹ nói. - Nhưng phải tối ưu hóa tiềm năng của mình. Phải phát huy hết ưu điểm của mình.
Mẹ Dinsmore giúp tôi vào trường Y. Mẹ gọi điện đến trường đại học và nói với ban giám hiệu rằng tôi vừa tốt nghiệp hạng ưu ở trường Thú y, rằng tôi là một người hết sức đáng yêu, và theo suy nghĩ của Mẹ, tôi sẽ thành công trong vai trò một bác sĩ y khoa hơn là một bác sĩ thú y. Tôi nộp đơn và theo học trường Y của Iowa State University, trong khi vẫn làm việc bán thời gian như là bác sĩ thú y thuộc Chương trình Triệt tiêu Bệnh Gia súc của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ. Chương trình học gồm 50% là nghe giảng và đọc sách, tài liệu; thời gian còn lại là học cách khám chữa bệnh qua việc tiếp xúc với bệnh nhân. Vậy là tôi đã làm theo ý nguyện của ông ngoại.
Có một thời gian, tôi có ý muốn trở thành bác sĩ giải phẫu thần kinh. Nhưng một phần trong chương trình phẫu thuật hoán chuyển, tôi đến làm việc ở nhiều phòng cấp cứu của bệnh viện thuộc tiểu bang California, từ các bệnh viện ở nội ô Oakland cho đến các bệnh viện chữa trị cho người da đỏ thuộc khu Hoopa, hạt Humboldt. Không kể đến rất nhiều ca phẫu thuật mà trước đây tôi từng thực hiện tại trường Thú y, giờ đây tôi phải tham dự hàng trăm ca phẫu thuật khác nhau trên cơ thể người, từ việc giải phẫu cắt bỏ khối u các loại, đến mổ bụng và ngực trong các trường hợp cấp cứu, gãy xương, cắt bỏ tứ chi… Tôi cũng giúp vài ca đỡ đẻ.
Tôi tin nghề y là một nghề cao quý. Tôi rất thích một câu trích dẫn của nhà văn Robert Lewis Stevenson, người từng bị bệnh lao và tiếp xúc với rất nhiều bác sĩ. Stevenson đã viết: “Có những người và tầng lớp người được xếp trên những thứ bậc bình thường: binh lính, thủy thủ và những người chăn cừu là lớp người bình thường; người nghệ sĩ khá hiếm hoi; giáo sĩ còn hiếm hơn; và bác sĩ thì hầu như là ngoại lệ. Người bác sĩ là tinh hoa, là đỉnh cao của nền văn minh chúng ta… Lòng quảng đại của người thầy thuốc, sự thận trọng được đúc kết bằng cả trăm bí quyết, cả trăm cách làm mà nhiều người không biết, tài xử trí được tôi luyện qua hàng ngàn tình huống khó xử, và quan trọng hơn hết là sự can đảm và tấm lòng sẵn sàng giúp đỡ. Rõ ràng người bác sĩ mang lại sinh khí cho phòng bệnh, mang lại sự hồi sinh cho người bệnh”.
Sau thời gian thử thách với kỷ luật nghiêm khắc của trường Y và thời kỳ ngoại trú ở khoa thần kinh, tôi quyết định theo chuyên khoa bệnh học thần kinh. Tôi nói với các bạn đồng học rằng bệnh học thần kinh là một lĩnh vực mà tôi có thể nghiên cứu về con người mà không phán xét họ. Về mặt lý thuyết, chuyên khoa này có phương pháp rèn luyện tinh thần nhẹ nhàng mà tôi cảm thấy thích hợp nhất. Tôi đặc biệt quan tâm đến bệnh học thần kinh xuyên văn hóa, một ngành của bệnh học thần kinh không chỉ nghiên cứu các nhóm vị thành niên trong tù mà còn tìm hiểu nền văn hóa, phong tục của các dân tộc trên thế giới.
Tôi ước mơ có thể hợp nhất sự hiểu biết dựa trên kinh nghiệm với lý thuyết thành một tổng thể, để phục vụ cho sự nghiệp y tế cộng đồng trên toàn thế giới. Năm 1966, tôi chuyển đến sinh sống ở khu vực Bắc California theo quy trình nội trú luân chuyển, phục vụ tại bệnh viện Mount Zion ở San Francisco, và theo một chương trình huấn luyện tại chỗ về bệnh học thần kinh tại Mendocino State Hospital, một bệnh viện tâm thần ở gần San Francisco. Những trải nghiệm không mấy tốt đẹp ở California cuối cùng đã khiến tôi tình nguyện đến Việt Nam.
Tôi làm việc ở phòng cấp cứu bệnh viện Mercy San Juan ở Sacramento vào những ngày cuối tuần. Tôi cũng tiến hành một vài nghiên cứu độc lập tại các trường đại học lân cận nhưng hầu hết thời gian tôi có mặt tại bệnh viện tâm thần. Tôi chúi đầu vào sách vở nghiên cứu về bệnh thần kinh, học hỏi tất cả những gì về các loại bệnh tâm thần. Tôi cho rằng, các bác sĩ bệnh thần kinh có thể làm những điều tốt đẹp nhất khi phục vụ cho người nghèo, những người thiệt thòi và chữa trị những bệnh thần kinh ngặt nghèo nhất.
Thế nhưng, một trong số những bác sĩ ở bệnh viện Mount Zion đã nói với tôi rằng, trừ phi tôi có phòng mạch ở Nob Hill, San Francisco, nếu không, tôi không được xem là một bác sĩ thần kinh giỏi. Sau khi nghiên cứu ở bệnh viện Mendocino hai năm rưỡi, tôi mới tỉnh ngộ từ môi trường không mấy thân thiện mà nhân viên bệnh viện này tạo ra đối với người bệnh. Cơ bản mà nói, tôi cảm thấy chúng tôi là những người “lưu kho” vì không ai trong số những bác sĩ nội trú chúng tôi được hướng dẫn, giảng giải tường tận nên sau khi rời bệnh viện Mendocino, nhiều người đã phải nghiên cứu thêm một năm nữa mới theo kịp những gì mình chưa được giảng dạy.
Thông thường, một bác sĩ nội trú sẽ phục vụ với tư cách là bác sĩ cho cả một phòng bệnh với những bệnh nhân loạn thần kinh. Tôi được phân công làm bác sĩ phụ trách một phòng bệnh gồm những người trẻ tuổi lạm dụng thuốc gây mê trong 6 tháng. Lãnh đạo của bệnh viện dường như chỉ quan tâm chủ yếu đến việc kiểm soát bệnh nhân, việc sử dụng các loại thuốc thần kinh liều nặng như Thorazine và Mellaril cùng các kiểu hành hạ gần như giống với thời trung cổ.
Tôi tin rằng, nhiệm vụ của mình là phải hiểu người bệnh mà mình đang chăm sóc, phải điều trị cho họ chứ không phải là phê bình, phán xét họ. Chính thái độ này của tôi đã gây nhiều phiền hà cho bản thân vì tôi đã đụng chạm đến những nhân vật có trách nhiệm giám sát tôi, những người mà tôi không bao giờ kính trọng. Một trong số những người đó đã để cho 3 trong số những con ngựa nuôi của ông ta chết đói. Vì từng là bác sĩ thú y, hơn nữa, là một người lớn lên từ nông trang rất yêu quý gia súc, việc bỏ bê và tàn nhẫn với thú nuôi như thế đã làm tôi thấy thật kinh khủng.
Những vị giám sát khác cũng có một số vấn đề với tôi. Có lần, tôi cho đám trẻ bị nhốt trong một phòng bệnh được ra khỏi phòng, đưa chúng lên đầy một xe rồi chở ra bờ biển gần bệnh viện Mendocino. Bọn nhóc sinh hoạt vui vẻ mà không cần dùng đến thuốc tác động thần kinh. Chúng tôi chơi dã cầu, nướng bánh mì kẹp xúc xích. Sau đó, tôi liên hệ với nhân viên cứu hộ ở bờ biển để bọn trẻ có thể bơi lội thỏa thích trong sóng nước Thái Bình Dương. Tôi dùng tiền riêng của mình để tổ chức, vì biết rằng những sinh hoạt ngoài trời như thế sẽ có lợi cho bệnh nhân, đúng như hướng dẫn trong các tài liệu chuyên ngành bệnh học thần kinh.
Không lâu sau đó, bác sĩ John Gonda, một chuyên gia thần kinh của Đại học Stanford và là giáo sư thỉnh giảng của chương trình, đã ghé bệnh viện Mendocino và nói với tôi là ông đã nghe kể mọi chuyện. Ông nói rằng chính tôi là người đã mở tung những cánh cửa sổ để cho ánh nắng tràn vào bệnh viện Mendocino với những hoạt động như thế. “Hãy cứ thế mà làm”, ông nói. “Rồi anh sẽ trở thành một chuyên gia thần kinh cừ khôi cho mà xem.”
Nhưng không phải mọi người đều nhìn nhận như vậy về việc làm đó của tôi. Khi các nhà quản lý bệnh viện Mendocino hay biết sự việc, họ đã đưa vào hồ sơ của tôi một bản ghi nhớ với nhận xét là “hành xử không chuyên nghiệp”. Một lần khác, sau khi tôi dẫn một đứa bé ra khỏi bệnh viện Mount Zion để cho cháu ăn một cây kem, thì lại thêm một bản ghi nhớ nữa được đưa vào hồ sơ của tôi.
Mọi chuyện không phải đã hết. Tôi thật sự kinh hoàng khi thấy cách họ xử sự với một cô gái vị thành niên thuộc phòng bệnh loạn thần kinh, và tôi đã buộc phải hành động để cứu cô bé. Cô bé được đưa tới bệnh viện vài ngày trước đó vì chứng lo âu thái quá cùng thái độ “bộc lộ ra bằng hành động”. Hai ngày sau khi nhập viện, người ta phát hiện cô quan hệ tình dục với một bệnh nhân khác dưới các bụi cây. Để trừng phạt, họ đưa cô vào phòng loạn thần kinh với những bệnh nhân nặng thuộc lứa tuổi trên 60.
Một cách xử lý thật là kinh khủng! Những bệnh nhân ở đó chửi thề liên tục, lại thường tấn công, ném phân người vào nhau. Đó không phải là nơi dành cho cô bé. Tôi yêu cầu đưa cô sang một phòng bệnh khác thích hợp hơn, với những bệnh nhân cùng độ tuổi và cùng triệu chứng. Người ta bảo đó không phải là việc của tôi. Thế là tôi trở về phòng của mình, tìm một cái rìu rồi đến trước cửa phòng bệnh kia và tuyên bố: “Nếu các ông không đưa cô bé ra khỏi phòng này ngay, tôi sẽ phá cửa phòng!”.
Vậy là thêm nhiều lời phê bình, khiển trách nặng nề được ghi vào hồ sơ của tôi. Những việc như thế khiến tôi phải tự hỏi mình có làm đúng vai trò của một bác sĩ và một chuyên gia tâm thần? Tôi đã hoàn tất 13 năm miệt mài học tập và đã nhận được hai bằng cấp y khoa. Tôi đã được giáo dục đến mức mụ cả người đi. Lúc ấy, tôi cảm thấy buồn chán và không nghĩ là mình đã làm được điều gì xứng đáng cho cuộc đời này. Tôi ao ước được đáp trả cho đời.
Một thời điểm có ý nghĩa trong cuộc đời tôi đã đến. Bên ngoài cái thế giới nhỏ nhoi của bệnh viện Mendocino, tin tức về cuộc chiến ở Việt Nam đang nóng lên. Tôi đã đọc những mảng thông tin chiến sự, và riêng cá nhân mình, tôi phản đối cuộc chiến, cho dù tôi tin tưởng mạnh mẽ vào lòng tốt và sự cao thượng của Hoa Kỳ. Tôi háo hức muốn biết nhiều hơn về Việt Nam nên khi có lời kêu gọi, người cựu binh Thủy quân lục chiến trong tôi đã đáp lời ngay.
@by txiuqw4