Tĩnh vương ngẩng đầu, hít sâu một hơi, vứt hết những nghi vấn trong đầu, lấy tinh thần sải bước tới thư phòng.
Đúng lúc này đột nhiên có tiếng ồn ào vang lên ngoài cửa, một thân binh chạy vội vào, thở hồng hộc, bẩm: “Thánh chỉ của Bệ hạ đến! Mời điện hạ tiếp chỉ...” Nói đến đây, tên thân binh này lại nuốt nước miếng cho mượt giọng, bổ sung với giọng cực kỳ hưng phấn: “Đến truyền chỉ là giám chính đại nhân ở ti lễ giám.”
Tĩnh vương lập tức hiểu ra, trong lòng cũng không khỏi cảm thấy vui vẻ, nhưng ngoài mặt vẫn trầm tĩnh, chỉ khẽ mỉm cười.
Lúc này hắn còn chưa cởi triều phục cho nên không cần mất thời gian, nhanh chóng bước ra ngoài nghênh đón.
Người mang thánh chỉ đến đây quả nhiên là giám chính của ti lễ giám, trên người mặc quan phục nghiêm cẩn, vẻ mặt tươi cười.
Tĩnh vương chào hỏi hắn rồi cùng sánh vai đi vào.
Tổng quản trong phủ sớm đã chuẩn bị hương án. Giám chính bước tới phía trước hương án, mở thánh chỉ thằng lụa vàng ra, cao giọng đọc: “Phụng thiên thừa vận, Hoàng đế chiếu viết: Thất hoàng tử Tiêu Cảnh Diễm lương thiện nhân hiếu, đức lễ liêm khiết, cẩn trọng trung thành, liên tiếp lập công, nay gia phong làm Tĩnh thân vương, đội mũ năm ngọc. Lĩnh chỉ lĩnh ân!”
Trước khi Tiêu Cảnh Diễm được gia phong thân vương, bất kể là hậu cung hay triều đình, thậm chí cả Hoàng đế Đại Lương đều phải đau đầu với quyết định lựa chọn một trong hai.
Dường như không chọn Thái tử thì phải chọn Dự vương, không chọn Dự vương thì phải chọn Thái tử. Ngay cả lúc này, dù chưa biểu thị rõ ràng thái độ ủng hộ ai thì trong tương lai, sớm muộn cũng phải cho một trong hai người đó ngồi lên ngai vàng.
Với tư duy đã định hình như vậy, khi mọi người nhìn thấy Tĩnh vương vốn đứng hàng tôn thất nhị phẩm lại mặc long phục, đầu đội vương miện ngũ châu, anh khí bừng bừng, tư thế hiên ngang đứng bên cạnh Dự vương, hiệu ứng thị giác thậm chí còn mãnh liệt hơn lúc nghe thấy tin tức hắn được tiến phong.
Cho dù người thiếu nhạy bén chính trị nhất cũng lập tức ý thức được một cục diện triều chính mới đã được mở ra.
Thực ra lúc này Tĩnh vương còn chưa thể hoàn toàn ngang bằng Dự vương, trên vương miện của hắn còn ít hơn Dự vương hai viên hoàng châu, nhưng bất kể thế nào thì bây giờ bọn họ cũng đều là thân vương nhất phẩm, chênh lệch hai viên ngọc hình như dễ dàng vượt qua hơn nhiều so với sự chênh lệch giữa thân vương và quận vương trước kia.
Con người luôn dễ dàng đưa một số thứ vào điểm mù, thứ gì trong thời gian dài không được chú ý tới thì dù có đặt trước mặt cũng không nhìn thấy. Nhưng một khi lớp giấy cửa sổ mỏng manh đó bị đâm thủng, hình như tất cả mọi người đều đột nhiên phát hiện, thực ra Tĩnh vương không hề thua kém Dự vương. Trước kia sở dĩ không ai biết đến hắn là vì hắn ít nhận được ân sủng mà thôi.
Nhưng cũng chính vì ít nhận được ân sủng nên hắn thường xuyên bị đẩy ra ngoài kinh làm việc hay cầm quân, cuối cùng lại nhờ họa được phúc, quân công và kinh nghiệm xử lý chính vụ không ngừng được tích lũy khiến hắn đè bẹp tất cả các huynh đệ khác của mình trên phương diện này.
Còn xuất thân ư? Nhờ ơn Dự vương sắp xếp tranh luận trên triều năm ngoái, mọi người đã nói quá rõ ràng chuyện này, không ai là con chính thất, không ai cao quý hơn ai. Huống hồ Tĩnh phi bây giờ ngày càng được sủng ái, mà Dự vương tuy là con nuôi của Hoàng hậu nhưng trước khi chết thì mẹ đẻ của hắn cũng chỉ là một cung tần.
Lại nói đến vấn đề thứ tự tuổi tác, Tiêu Cảnh Diễm quả thật đứng sau Dự vương, nhưng đây dù sao cũng không phải một nhân tố quan trọng, nếu mọi người chỉ dựa vào tuổi để kế vị thì mười mấy năm qua Thái tử và Dự vương đấu đá làm gì?
Nếu như hai, ba tháng trước có người nói sẽ có một hoàng tử khác trỗi dậy để sánh vai với Dự vương như mặt trời ban trưa thì có lẽ người này sẽ bị xem như người khờ nói nhảm. Nhưng chỉ sau một thời gian rất ngắn, mọi người đã có thể nhìn thấy rõ ràng Dự vương không chỉ có một đối thủ khác ngoài Thái tử, mà trước đối thủ này hắn còn không chiếm được ưu thế gì lớn.
Đương nhiên người cảm nhận rõ ràng nhất sự thay đổi này vẫn là bản thân Tĩnh vương.
Ban đầu khi quyết định tham dự tranh đoạt quyền kế vị trong tình hình yếu thế hơn, thực ra lòng tin của hắn cũng hết sức mỏng manh. Hắn còn từng hỏi Mai Trường Tô nên khéo léo tiết lộ tâm tư tranh vị của mình với các thuộc hạ và tướng lĩnh tâm phúc trong quân như thế nào để những người này không quá sợ hãi.
Khi đó Mai Trường Tô trả lời thế này: “Không cần tiết lộ, khi điện hạ dần dần có tư cách tranh giành thì những người bên cạnh điện hạ còn phát hiện ra sớm hơn cả điện hạ nữa.”
Sau khi tiến phong thân vương, Tĩnh vương mới dần hiểu được ý nghĩa thực sự những lời Mai Trường Tô nói.
Trước kia hắn nghị sự với thủ hạ, cho dù lúc bực tức thì cùng lắm mọi người cũng chỉ oán trách những chuyện vặt vãnh như quân lương không đủ, áo bông quá mỏng, triều đình có thể chú ý hơn nữa hay không... Nhưng bây giờ nội dung thảo luận trong Hổ Ảnh đường của Tĩnh vương phủ đều là những việc lớn của triều đình như làm thế nào để xây dựng chế độ tập kết binh mã hữu hiệu hơn, làm thế nào để đẩy mạnh việc nuôi ngựa ở địa phương...
Mấy tâm phúc và hảo bằng hữu có kiến thức thậm chí đã bắt đầu vô tình hay cố ý giật dây khích lệ hắn phải thể hiện tài năng nhiều hơn trên triều đình, phải lôi kéo nhân tài để còn sử dụng. Nếu Tĩnh vương hơi tỏ ý cảm hoài đối với giang sơn hoặc ngôi vị Hoàng đế là đám tâm phúc này lập tức hai mắt lấp lánh, sắc mặt sáng ngời, tràn trề hưng phấn, thậm chí Tĩnh vương còn phải bóng gió để bọn họ kiềm chế một chút.
Nước đã dâng cao đến đây, quả thật không cần phải nói gì nữa, trong lòng mọi người đều hiểu rõ.
Mặc dù Tĩnh vương tin tưởng cho dù mình vĩnh viễn không có quyền thế thì đám cựu bộ theo mình chém giết nhiều năm này cũng sẽ không rời không bỏ, nhưng nếu nói từ góc độ kiến công lập nghiệp của nam nhân thì theo một thân vương có hi vọng khai sáng triều đại mới luôn thoải mái hơn đi theo một hoàng tử luôn bị áp chế rất nhiều.
Người nổi nóng nhất trước việc Tĩnh vương được tiến phong đương nhiên là Dự vương Tiêu Cảnh Hoàn.
Bây giờ hồi tưởng lại, hắn nhận ra mình gần như đã trơ mắt nhìn Tĩnh vương từng bước một đứng vững trong triều. Mà trong quá trình này rõ ràng hắn có rất nhiều cơ hội có thể chèn ép Tĩnh vương đến mức không ngóc đầu lên được. Vậy mà hắn lại vô cớ buông tha như ma xui quỷ khiến, thậm chí còn có lúc từng đưa tay giúp đỡ hắn.
Dự vương cảm thấy mình giống như người nông dân ủ ấm con rắn sắp chết rét trong truyện nọ, hối hận chỉ muốn chửi bới ầm ĩ.
Bởi vì nhiều năm qua chủ yếu tập trung sức mạnh đối phó Thái tử, Dự vương phủ không đủ hiểu biết đối thủ mới này, chỉ nắm được một số thông tin bề ngoài. Ngay cả Hoàng hậu trong cung cũng nói không rõ rốt cuộc Tĩnh phi là người như thế nào.
Sau khi Tiêu Cảnh Diễm tiến phong thân vương, trong một tháng Dự vương liên tục triệu tập tâm phúc luận đối sách vài lần, nhưng đều không có kết quả. Hắn đi tìm Mai Trường Tô bàn bạc, Mai Trường Tô lại không nóng vội, ngược lại còn cười, nói: “Chúc mừng!”
Dự vương không nhịn được nổi giận vỗ bàn, nói: “Cảnh Diễm phong thân vương, ngươi còn chúc mừng ta?”
“Tĩnh vương được phong thân vương có nghĩa là Thái tử sẽ nhanh chóng bị phế, nguyện vọng nhiều năm của điện hạ đã thành sự thật, chẳng lẽ không nên chúc mừng sao?” Dự vương cau mày, tạm thời không nói gì.
Hắn hiểu ý Mai Trường Tô. Do ảnh hưởng của việc năm đó Kỳ vương lớn mạnh đến mức không thể khống chế, Hoàng đế Đại Lương bắt đầu hứng thú với trò chơi cân bằng, cho nên mới có cục diện hai cực đối lập của mình và Thái tử mấy năm nay.
Giờ đây Tĩnh vương được phong thân vương quả thật đồng nghĩa với việc Thái tử đã bị vứt bỏ, Hoàng đế Đại Lương định xây dựng cục diện cân bằng mới. Nhưng dù nói vậy, vừa nghĩ đến việc mình vất vả chừng đó năm, cuối cùng vẫn không nhận được thứ gì, Dự vương khó tránh khỏi giận dữ trong lòng.
“Ta mất mười năm đánh đổ Thái tử, chẳng lẽ lại phải mất mười năm nữa để đấu với Tĩnh vương sao?”
Mai Trường Tô cười lạnh, nói: “Tĩnh vương và Thái tử làm sao giống nhau được? Thái tử có danh phận, điện hạ vốn đã thấp hơn Thái tử một bậc. Nhưng Tĩnh vương chỉ là một thân vương ngũ châu, chỉ vì là tân sủng ái nên mới có vẻ nóng bỏng tay như thế. Chuyện sau này tạm không nói, riêng việc khiến Thái tử bị loại bỏ khỏi vị trí Đông cung cũng đã là một đại thắng của điện hạ rồi. Nếu không đi nước cờ này trước, vạn nhất sau này Bệ hạ có chuyện gì, điện hạ có chèn ép Thái tử đến mấy thì ngai vàng cũng vẫn là của Thái tử. Đến lúc đó nếu còn tranh giành thì chính là phản nghịch.”
Nghe chàng khuyên như vậy, Dự vương mới bình tĩnh hơn, nhưng về phủ ngẫm nghĩ lại vẫn đứng ngồi không yên. Nếu là giờ này năm trước, lực lượng trong tay hắn đang mạnh mẽ, cách nói của Mai Trường Tô sẽ lập tức làm hắn cảm thấy mừng rỡ. Tuy nhiên hiện nay, hắn nghiêm túc tính toán lại vốn liếng trong tay, đột nhiên phát hiện mình đã không còn thứ gì có thể nắm chắc, trong lòng không khỏi hốt hoảng.
Dự vương đang nghi hoặc không yên, mà Mai Trường Tô cũng biết rõ lần này rất khó có thể lừa được hắn, cho nên sau khi Tĩnh vương tiến phong, việc phòng vệ của Tô trạch cũng được tăng cường, ngoài lỏng trong chặt, được Lê Cương và Chân Bình bày bố chắc chắn như tường đồng vách sắt.
Đồng Lộ vẫn cách một ngày đến một lần, lúc có tin tức khẩn cấp thậm chí ngày nào cũng đến. Nhưng thời gian hắn ở lại Tô trạch không lâu, cùng lắm cũng chỉ non nửa canh giờ. Nếu Mai Trường Tô chỉ thị gì cho Thập Tam tiên sinh thì hắn lại lấy cớ chở rau đến Diệu Âm phường một chuyến, nếu không có thì hắn liền đi thẳng về chỗ ở của mình.
Do phải che giấu thân phận nên Đồng Lộ sống trong một khu dân nghèo, ngoài những người trong hai ngôi nhà bên trái và bên phải là thuộc Giang Tả minh, những nhà khác đều là dân chúng dưới đáy xã hội, có người bán đậu phụ, bán tạp hóa, khuân vác, làm thuê, may vá hồ áo, cuộc sống vô cùng vất vả, ít có tâm tư chú ý đến người khác.
Thường ngày, khi Đồng Lộ về đến ngôi nhà rách nát của mình thì đã là hoàng hôn, có lúc vừa đánh xe lừa chở rau vào sân đã nghe thấy tiếng thở nặng nề vang lên phía sau, liền biết là Khâu ma ma ở cách đó hai nhà về phía tây đang leo dốc về nhà.
Khâu ma ma được gả tới đây từ lúc còn trẻ, hơn nửa đời người sống ở chỗ này, chồng và con trai đều chết sớm, bên người chỉ có một đứa cháu nội tầm bảy, tám tuổi, hằng ngày pha ít nước đường, dùng xe đẩy đi bán khắp nơi. Sau một ngày vất vả, lúc về nhà đã không còn sức lực đẩy xe lên con dốc nhỏ. Cho nên mỗi lần gặp là Đồng Lộ đều ra ngoài giúp bà lão một tay.
Thói quen này đã hình thành từ khi Đồng Lộ chuyển đến đây ở mấy năm trước, nhưng hơn một tháng nay lại có chút thay đổi.
Khác với trước kia là hắn chỉ giúp đỡ mỗi khi tình cờ gặp, còn bây giờ hắn luôn vô tình hay cố ý tìm mọi cách về nhà đúng thời gian đó để giúp Khâu ma ma đẩy chiếc xe lên dốc.
Hơn nữa sau khi giúp xong, hắn còn có thể nhận được một bát nước đường chưa bán hết do cô cháu gái của Khâu ma ma tự tay múc đưa cho.
Cháu gái Khâu ma ma tên là Tuyển Nương, hơn một tháng trước mới từ quê gốc ở Vụ Châu cách xa ngàn dặm đến đây nương nhờ bà. Lúc nàng tìm đến, trên đường đi chắc đã trải qua rất nhiều sương gió khổ cực, không những mặt mày xanh xao mà vẻ mặt cũng ngơ ngẩn, lúc hỏi thăm đường thậm chí còn nói không rõ, cuối cùng ngất xỉu ven đường. Chính Đồng Lộ đã cứu nàng về, hỏi một hồi lâu mới biết là đến tìm Khâu ma ma.
Tuy nhiên, Khâu ma ma đã lấy chồng xa nhà quá lâu, mặc dù còn nhớ có một đứa cháu gái như vậy nhưng vẫn khó mà nhận ra được, cuối cùng phải nhờ nhìn thấy hai nốt ruồi đỏ cạnh nhau trên vai trái của Tuyển Nương mới nhận ra người, hai dì cháu ôm nhau khóc ròng một trận, hàng xóm láng giềng khuyên bảo mãi mới thôi.
Đã đến sống nhờ ở đây thì xóm giềng cũng phải qua lại, thỉnh thoảng Tuyển Nương cũng thổ lộ một vài chuyện của mình, hình như là trượng phu chết lại không có con, ác bá ở địa phương định cưỡng bức, cuối cùng nửa đêm nàng trốn thoát được. Mọi người thấy nàng mặc dù gầy gò hốc hác nhưng quả thật là một mĩ nhân, khó trách lại bị ác bá dòm ngó, cho nên ai cũng thông cảm với nàng.
Đặc biệt là Đồng Lộ, nhớ tới những nỗi nhục nhã mà muội muội phải chịu trước kia nên hắn càng cảm động, lúc rảnh rỗi thường sang giúp đỡ. Còn Tuyển Nương cũng muốn báo ân vì lúc đầu được hắn cứu nên thường xuyên làm vài việc vặt như quét nhà, vá áo cho hắn.
Hai người không tránh được thường xuyên tiếp xúc.
Có người mới tới, như thường lệ Thập Tam tiên sinh cũng điều tra một chút, xác nhận chuyện mới lấy chồng thì chồng chết, người nhà trách tội, ác bá cưỡng bức, nửa đêm chạy thoát mà Tuyển Nương nói đều có thật.
Hơn nữa sau khi đến đây, ngày ngày Tuyển Nương thức khuya dậy sớm, giúp đỡ Khâu ma ma chế nước đường rao hàng, có thể chịu khổ, biết làm rất nhiều chuyện, cuộc sống hằng ngày cũng hết sức đơn giản, có thể thấy là nữ tử xuất thân bần hàn từ nhỏ nên cũng không quá chú ý.
Sau một tháng đến đây, mặc dù làm việc kham khổ nhưng có người dì thương yêu, hàng xóm hòa thuận, cuộc sống an bình nên tâm tình Tuyển Nương càng lúc càng tốt, thân thể bớt gầy gò hơn, cả người ngày càng có phong tư, chỉ cần cài trâm gai mặc váy vải thô cũng có thể lộ rõ sắc đẹp thanh nhã của nàng.
Ngay cả người thường xuyên đến Diệu Âm phường gặp rất nhiều mĩ nữ như Đồng Lộ cũng phải ngẩn ngơ trước sóng mắt ngượng ngùng của nàng, nếu ngày nào có việc không gặp được nàng là trong lòng hắn liền thất vọng, đau khổ như mất mát thứ gì đó.
Còn Tuyển Nương cũng không phải hoàn toàn không có tình cảm với hắn, có lúc liếc mắt đưa tình, có lúc như gần như xa, thần thái kiều diễm, dịu dàng đó bất tri bất giác đã khiến Đồng Lộ yêu thương da diết, thần hồn điên đảo...
@by txiuqw4