Khoa học kỹ thuật thời Vãn Minh tương đối phát triển, điều này có thể thấy rõ qua hai tác phẩm “ Nông chính toàn thư “ của Từ Quang Khởi và “ Thiên công khai vật “ của Tống Ứng Tinh. Từ Quang Khởi là người huyện Thượng Hải, phủ Tùng Giang, Tiêu Hoành là thầy học của y trong kỳ thi hương, bây giờ có lẽ y đã nhậm chức trong viện Hàn Lâm rồi. Sau khi Trương Nguyên vào kinh, chắc là có thể gặp được sư huynh Từ Quang Khởi. Tống Ứng Tinh là người mới ở Giang Tây, năm kia khi sinh đồ Cửu Giang là Hoàng Mặc Lôi đến theo học ở Đại Thiện Tự, Trương Nguyên từng dò hỏi Hoàng Mặc Lôi về Tống Ứng Tinh, chẳng ngờ Hoàng Mặc Lôi lại nói là chưa từng nghe qua, chắc hẳn gã mới chỉ là một tú tài mà thôi. Trương Nguyên thầm nghĩ trong lòng: “Cuốn sách “ Thiên công khai vật “ là đại diện cho nền khoa học kỹ thuật Trung Quốc cổ đại vào thời kỳ thịnh vượng nhất, nhưng đến triều Thanh thì bị trở thành sách cấm phải tiêu huỷ. Nhà Mãn Thanh tiến vào Trung Nguyên, khiến nền văn minh bị đẩy lùi một cách đáng sợ.
Có những loại máy móc riêng cho từng loại vải khác nhau, có hộ dệt thì chuyên sử dụng máy lăng, có hộ thì dùng máy lụa, thao tác hết sức thành thạo, quy mô nghề dệt của trang viên Lục thị quả là không nhỏ. Trương Nguyên không hiểu biết gì về kỹ thuật dệt, nên không thể đưa ra ý kiến gì để cải tiến máy dệt, nhưng hắn có con mắt kinh doanh của người đời sau, hắn hỏi tỷ tỷ Trương Nhược Hi:
- Những năm trước Lục thị tiêu thụ vải vóc, tơ lụa như thế nào?
Trương Nhược Hi nói:
- Có lái buôn vải đến tận nơi thu mua.
Trương Nguyên nói:
- Vậy thì giá bán chắc chênh lệch nhiều so với giá bán lẻ ngoài chợ nhỉ?
Hai chữ “bán lẻ” Trương Nhược Hi chưa từng nghe qua, nhưng cũng hiểu được ý nghĩa của nó, nàng nói:
- Gần như chỉ bằng nửa giá bán lẻ.
Trương Nguyên nói:
- Khoản tiền này chúng ta tự kiếm lời không phải tốt hơn sao.
Trương Nhược Hi nói:
- Ở Thanh Phổ và Tô Châu, Lục thị cũng có mấy cửa hàng tơ lụa, nhưng lượng bán ra hàng năm không nhiều, chủ yếu vẫn phải trông chờ lái buôn đến thu mua với số lượng lớn.
Trương Nguyên nói:
- Đệ có một cách, có thể khiến cho vải bông và tơ lụa nhà họ Lục làm ra không đủ bán.
Trương Nhược Hi biết đệ đệ mình tài trí hơn người, vội hỏi:
- Cách gì?
Trương Nguyên cười nói:
- Kế này của đệ đáng giá ngàn vàng, sao có thể dễ dàng nói ra được.
Trương Nhược Hi lườm đệ đệ một cái, cất giọng uy hiếp nói:
- Nói mau!
Trương Nguyên nói:
- Tỷ tỷ, đệ không đùa đâu, nếu Lục thị ở Thanh Phổ dùng cách này của đệ, đảm bảo không đến mười năm sẽ trở thành hộ giàu có nhất Tùng Giang. Đệ không mang tư lợi, nhưng nếu đến lúc đó, đệ cần dùng đến một số tiền lớn, thì tỷ tỷ với tỷ phu cũng đừng keo kiệt.
Trương Nhược Hi thấy vẻ mặt Trương Nguyên nghiêm túc, thì cũng tỏ ta nghiêm túc, nói:
- Vậy để tối về lại trong thành, tỷ sẽ cùng tỷ phu đệ đến nghe diệu kế của đệ, thực ra nếu đệ cần dùng tiền, tỷ tỷ có thể cho đệ.
Trương Nguyên cười nói:
- Đệ không dễ dụ vậy đâu, chút tiền riêng còm cõi của tỷ tỷ đệ chẳng thèm đâu.
Hai tỷ đệ cứ thế người này nhìn người kia, giống như hồi Trương Nguyên còn nhỏ, hai chị em chơi trò nhìn nhau thi xem ai chớp mắt trước vậy…
Tiết trời sau giờ ngọ nóng bức, Trương Nguyên thấy trên khoé miệng tỷ tỷ toát ra mấy giọt mồ hôi, không khỏi bật ra một tiếng “hì”, xoè cây quạt trong tay ra quạt quạt cho tỷ tỷ, cười nói:
- Xem, đệ khiến cho tỷ tỷ lo đến vã cả mồ hôi ra rồi kìa, đành phải nói trước diệu kế của đệ cho tỷ tỷ nghe vậy.
Trương Nhược Hi không nhịn được cười, nói:
- Ta chẳng lo gì chuyện này, hiện nay những việc phải lo quá nhiều rồi, vẫn chưa đến lúc lo cầu tài.
Trương Nguyên nói:
- Làm việc gì cũng phải có dự tính thì mới thành được, không có dự tính trước thì hỏng, việc này cũng cần phải làm dần dần. Chuyện bên chỗ Hoa Đình Đổng thị không cần tỷ tỷ phải lo, đệ và Đại huynh, Tam huynh sẽ lo liệu ổn thoả.
Trương Nhược Hi thở dài nói:
- Nếu lúc này Lục thị không có được sự giúp đỡ của Trương thị, thì chắc chắn sẽ không đấu lại được với Đổng thị, gia nghiệp nhà họ Lục cũng khó mà giữ được. Tỷ phu đệ là người rất tốt, nhưng làm việc lại thiếu dứt khoát, cũng chẳng có trợ thủ đắc lực nào.
Trương Nguyên nói:
- Cho nên tỷ tỷ mới cần phải giúp đỡ tỷ phu nhiều hơn nữa, tỷ tỷ là nữ trung hào kiệt mà.
Trương Nhược Hi mím miệng cười tủm, song mắt lấp lánh, nói:
- Được rồi, đệ đừng có thổi phồng ta, nói đi, đệ muốn tỷ tỷ làm thế nào?
Trương Nguyên nói:
- Thực ra rất đơn giản, chính là bỏ lợi nhỏ kiếm lợi lớn. Tỷ tỷ chỉ cần phái nô bộc thân cận của hai tiệm vải ở Thanh Phổ và Tô Châu tìm đến chỗ các thợ may giỏi, nói với họ, cứ có khách mang vải mua ở tiệm nhà họ Lục đến chỗ họ may quần áo, thì cứ mỗi bộ, thợ may có thể đến tiệm nhà họ Lục để nhận hai cắc bạc, mười bộ thì được hai tiền. Không cần lo thợ may nói láo nói nhiều lên, chỉ cần đám thợ may tham chút lợi nhỏ đó, chỉ cần bọn họ lấy được bạc từ nhà họ Lục, thì tất sẽ giới thiệu với khách là vải nhà họ Lục đẹp.
Đương nhiên, vải bông, tơ lụa của nhà họ Lục cũng phải đẹp thật mới được, không được để thua các nhà khác về chất lượng. Trước mắt cứ mở rộng thị trường ở Tùng Giang và Tô Châu trước, rồi sau đó mở tiếp cửa hiệu ở Hàng Châu, Nam Kinh, à, mở thêm một tiệm ở Sơn Âm luôn.
Trương Nhược Hi nghe vậy hai mắt sáng rỡ, quả đúng là một việc hết sức đơn giản, nhưng sao lại chẳng ai nghĩ ra nhỉ!
Trương Nguyên lại nói:
- Việc này cần Lục thị tạo được một thương hiệu thống nhất cho các tiệm vải, tiệm lụa của mình, in biểu tượng thương hiệu lên các đầu vải. Đồng thời cũng phải luôn giám sát xem trên thị trường có ai làm giả thương hiệu nhà họ Lục hay không, nếu có thì phải nghiêm khắc công kích, để làm được việc này thì phải có mối liên hệ mật thiết với quan phủ địa phương. Cho nên đệ mới nói là cách này tuy nhìn có vẻ đơn giản, nhưng để làm và duy trì được thì không hề dễ dàng. Tỷ tỷ và tỷ phu phải cố gắng, bên chỗ quan phủ thì sau này đệ có thể giúp được. Nếu mọi việc thuận lợi, thì trong mười năm tới, Thanh Phổ Lục thị trở thành hộ giàu nhất Tùng Giang cũng không phải là chuyện khó. Vải nhà họ Lục bán được nhiều, thì có thể dần dần mở rộng rừng dâu và ruộng bông, chiêu mộ thêm những thợ dệt giỏi, cải tiến máy dệt, nâng cao kỹ thuật dệt, đưa thương hiệu Lục thị trở thành thương hiệu vải bông và tơ lụa hàng đầu Giang Nam. Hàng đầu Giang Nam thì cũng đồng nghĩa với hàng đầu Đại Minh rồi.
Thật ra Trương Nguyên rất muốn đích thân mình làm lấy những việc này, nhưng Đông Trương hắn ở Sơn Âm lại không có cơ sở về phương diện này. Bắt đầu từ hai bàn tay trắng cũng không phải là không được, nhưng phải đợi hai ba mươi năm thì hắn không đợi được. Thanh Phổ Lục thị vốn đã rất có thế mạnh về trồng dâu, nuôi tằm, dệt lụa, chỉ cần chỉ dẫn thêm chút ít là đã có thể nổi lên như diều gặp gió.
Bây giờ Thanh Phổ Lục thị về cơ bản đã là do một tay tỷ phu nắm giữ, cũng coi như là người nhà rồi, đáng để giúp đỡ. Trương Nhược Hi đứng im một lúc lâu, trống ngực phập phồng, có vẻ hết sức kích động, đột nhiên nàng trừng mắt nhìn Trương Nguyên, nói:
- Tiểu Nguyên, sao đệ có thể nghĩ ra việc này?
Trương Nguyên cười nói:
- Đọc sách, đọc sách nhiều sẽ rất có ích, học rồi suy nghĩ sâu xa thêm.
Trương Nhược Hi lắc đầu, nói:
- Bây giờ, không chỉ bát cổ văn đệ làm rất hay, mà ngay cả việc kinh doanh cũng sành sỏi nữa, tỷ tỷ thật không thể hiểu nổi.
Trương Nguyên nói:
- Đệ chỉ là học theo lời của bậc tiên hiền Đào Chu Công Phạm Lãi ngày xưa thôi: “Trung để báo quốc, trí để giữ thân, thương để giàu có thành danh trong thiên hạ”. Nhưng mà bây giờ khoản “thương để giàu có” đệ nhường cho tỷ tỷ đấy. (“thương” ở đây là chỉ việc làm ăn buôn bán).
Trương Nhược Hi rất thích cái kiểu hăng hái, và tác phong ung dung tự tin này của đệ đệ Trương Nguyên, nàng đưa ngón tay dứ dứ lên trán Trương Nguyên, nói:
- Vậy chắc là đệ còn muốn tìm một mỹ nhân tuyệt thế như Tây Thi làm bạn nữa chứ gì?
Trương Nguyên cười hì hì, nói:
- Chim xa cá lặn, hoa nhường nguyệt thẹn, biết đâu mà tìm chứ.
- Được lắm.
Trương Nhược Hi vờ giận nói:
- Thì ra đệ đúng là có ý đó, chẳng lẽ nữ lang nhà họ Thươngvẫn không đủ xinh đẹp sao?
Trương Nguyên chắp tay lại xin tha:
- Đệ chỉ đùa thôi, chỉ đùa thôi.
Trương Nhược Hi liếc nhìn người tỳ nữ bên cạnh một cái, nói khẽ:
- Tiểu Nguyên đệ chớ có mong tìm Tây Thi nào nữa, bản lĩnh của đệ là cưới Vương gia sư muội về làm vợ. Ta thấy Vương gia sư muội đó rất có tình ý với đệ, còn giúp đệ đọc bao nhiêu sách như thế, lần trước chẳng phải đệ cũng nói là đệ thích cô ấy sao.
Trương Nguyên nhíu mày, nói:
- Anh Tư sư muội cũng bằng tuổi với đệ, nàng ấy cũng nên tính đến chuyện gả chồng rồi, đệ sao có thể khiến nàng ấy lỡ làng.
Trương Nhược Hi khẽ thở dài một tiếng, không nói gì thêm, dẫn mấy người vú già và mấy tỳ nữ đi hỏi thăm an ủi Tiểu Bình, A Hà và mấy thiếu nữ hái dâu bị làm cho kinh hãi khi nãy. Thấy Mục Chân Chân đang ngồi nói chuyện với A Hà, Trương Nhược Hi cũng nghe nói là Mục Chân Chân cứu bọn A Hà và Tiểu Bình ra từ tay bọn côn đồ, nàng vui vẻ nói:
- Tiểu Nguyên vẫn chưa biết việc Chân Chân cứu người nhỉ, lát nữa ta sẽ nói lại với đệ ấy, để đệ ấy thưởng cho cô, ta cũng phải thưởng cho cô.
Nói đoạn, gỡ chiếc vòng tay bằng vàng đang đeo trên cổ tay phải xuống, kéo bàn tay phải của Mục Chân Chân, đeo lên cho nàng. Mục Chân Chân lớn bằng chừng này nhưng chưa từng được đeo đồ trang sức bằng vàng bạc, cúi đầu nhìn xuống chiếc vòng vàng lấp lánh nơi cổ tay, ấp úng nói:
- Đại tiểu thư, nô tỳ không dám nhận đâu.
Trương Nhược Hi nắm lấy bàn tay của thiếu nữ đọa dân, nói:
- Có gì mà không dám nhận chứ, có cô hầu hạ bên cạnh Tiểu Nguyên, ta và mẫu thân đều rất yên tâm.
Đám du côn lưu manh vẫn thường đến gây chuyện hôm nay đã bị ăn một trận đòn no, các hộ trồng dâu, trồng bông, nuôi tằm trong trang viên đều hết sức háo hức, cảm thấy những tháng ngày phải chịu sự bức hiếp của Đổng thị đã qua rồi, bọn họ lại có thể sống những ngày yên bình, đàn ông đi cày, đàn bà dệt lụa. Sau bữa trưa, Trương Đại đi thăm qua vườn chè nhà họ Lục, hắn thấy đây chẳng phải là loại trà tốt, nhà họ Lục không buôn bán chè, mấy mẫu trồng trà này đều là để trong nhà sử dụng.
Đến lúc hoàng hôn, Trương Nhược Hi, Trương Đại, Trương Nguyên về đến dinh thự Lục thị ở trong thành Thanh Phổ. Lục Thao và Trương Ngạc cũng mới vừa trở về từ huyện nha, tám tên du côn đó bị xử ngay bốn mươi trượng trên công đường, giờ đã bị giam lại, Vương huyện lệnh nói sẽ xin lên Án Sát ty, đưa tám tên này đi xung quân vào Kim Sơn Vệ. Kim Sơn Vệ lại ở Hoa Đình, như vậy chẳng phải dễ dàng cho bọn chúng quá hay sao, Trương Nguyên nói với Lục Thao:
- Tỷ phu cứ phải để mắt cẩn thận một chút, biết đâu chỉ cần Đổng Kỳ Xương gửi tới một bức thư, thì tám tên này bèn được lẳng lặng thả đi mất đấy.
Lục Thao nói:
- Ta đã bảo Lục Đại cho hai người đi theo dõi rồi.
Trương Ngạc tức giận nói:
- Tên quan thối này mà dám bao che cho Đổng thị, thì ta sẽ khiến cho lão không làm quan được nữa.
Sau bữa cơm chiều, Trương Nhược Hi mời chồng mình là Lục Thao cùng với đệ đệ Trương Nguyên đến thư phòng, cùng bàn bạc về việc xây dựng thương hiệu vải vóc, tơ lụa nhà họ Lục. Lục Thao nghe xong ý tưởng của Trương Nguyên, vui mừng hết cỡ, nói:
- Việc này không khó để làm, lần này nếu có thể cứu được Nhị đệ ra, giữ được rừng dâu ở Dư Sơn, thì ta và Nhược Hi sẽ bắt tay vào làm ngay theo lời Giới Tử.
Hắn lại nói them:
- Lần này, đúng là Giới Tử cứu giúp Thanh Phổ Lục thị ta, không lời cảm tạ nào cho hết, sau này nếu có việc gì cần thì cứ nói, ta quyết không từ chối.
.
Lục Thao và Trương Nhược Hi bàn với nhau, sau này các tiệm vải, hiệu tơ lụa nhà họ Lục sẽ gọi là “ Thịnh Mỹ hiệu”.
Ngày hôm nay Liễu Kính Đình không theo bọn Trương Nguyên đến trang viên nhà họ Lục, y dẫn theo một thị đồng, và hai nô bộc nhà họ Lục đến quán trà của Hồng Đạo Thái kể chuyện. Câu chuyện mà y kể là “Hắc bạch truyện”, không chỉ đích danh Đổng thị ở Hoa Đình, chỉ nói là quan viên nào đó ở Tùng Giang, nhưng những người Thanh Phổ nghe kể chuyện trong quán trà vừa nghe thì biết ngay là nói về cha con Đổng Kỳ Xương và đám gia nô nhà chúng. Cuộc đấu giữa Đổng thị và Lục thị đã được loan truyền khắp Thanh Phổ từ lâu, hôm qua lại có việc lớn như vậy xảy ra, nên ai mà không biết chứ?
Về việc Hoa Đình Đổng thị chiếm đoạt điền sản, doạ nam nạt nữ, thì nhiều dân chúng Thanh Phổ cũng từng nghe, dù sao thì Thanh Phổ và Hoa Đình cũng gần sát ngay nhau. Nhưng những việc đó đều không liên quan gì đến mình, nên chỉ nghe thế biết thế mà thôi, nhưng nay nghe Liễu Kính Đình kể lại, cảm giác lại rất khác. Nghe chuyện Đổng thị bức hiếp người lương thiện, mà bọn họ cảm thấy như chúng đang bức hiếp người thân của mình vậy, nghe mà buồn bã, phẫn nộ, Liễu Kính Đình kể chuyện đúng là hết sức truyền cảm. Đường thuỷ từ huyện thành Thanh Phổ đến huyện thành Hoa Đình dài gần bốn mươi dặm, thuyền bè đi dọc theo sông Đại Hoàng Phổ mất không đầy một canh giờ là tới. Môn khách Đổng thị Bặc Thế Trình, kẻ bị Trương Ngạc đánh cho đến vãi phân trên bến tàu Thanh Phổ, cùng với các gia nô và đám du côn của nhà họ Đổng đáp thuyền về đến Hoa Đình thì trời đã tối. Mười hai người đều bị đánh trọng thương, chen chúc đến y quán chữa trị, đồng thời nhờ người đến Đổng phủ báo tin. Nửa canh giờ sau, Đổng Tổ Nguyên, Đổng Tổ Thường dẫn theo vài gia nô chạy tới, thấy bọn Bặc Thế Trình người nào người nấy mặt mũi bầm dập, không nhận được ra nữa, kinh hãi hỏi có chuyện gì xảy ra?
Bặc Thế Trình mặt như đưa đám, nói:
- Đại công tử, Nhị công tử, tên Trương Nguyên đó đến Thanh Phổ rồi, hắn đánh bọn ta ra thế này, rồi lại còn trói đưa đến huyện nha Thanh Phổ. Tên Vương huyện lệnh đó cũng chẳng nể mặt Hoa Đình Đổng thị, đánh bọn ta mỗi người bốn mươi trượng, xém chút nữa là mất mạng rồi.
Lại là Trương Nguyên, Đổng Tổ Thường nổi giận lôi đình, la hét đòi tụ tập nô bộc đánh sang Thanh Phổ. Đổng Tổ Nguyên đã gần bốn mươi tuổi, không bồng bột như nhị đệ, ra hiệu cho nhị đệ không nên làm càn, rồi lệnh cho Bặc Thế Trình kể lại chi tiết sự việc hôm nay. Bặc Thế Trình bèn kể lại từ lúc bao vây cổng lớn nhà họ Lục, rồi gặp huynh đệ Trương Nguyên đến, không nói không rằng, sốc tới là đánh, đám thủ hạ dưới trướng của huynh đệ họ Trương đều võ nghệ cao cường, bọn chúng không phải đối thủ…
Đổng Tổ Nguyên cố kìm lửa giận, thấy Bặc Thế Trình cũng đang phải lột quần lộ mông để bôi thuốc, bèn nhíu mày hỏi:
- Bặc tiên sinh là người có công danh sinh đồ, mà Vương Thiện Tích đó dám dụng hình với ngươi sao?
Bặc Thế Trình xấu hổ nói:
- Vương huyện lệnh thì không dụng hình với ta, là cái tên ác tặc tên gọi Trương Ngạc dẫn theo nô bộc đuổi đến tận bến tàu, mua chuộc sai dịch, rồi đánh, còn nói chỉ cần là người nhà Đổng thị, hắn gặp là đánh…
Chớ nói Đổng Tổ Thường tức đến điên người, Đổng Tổ Nguyên cũng tức muốn ói máu, nói:
- Phải lập tức bẩm báo lại việc này với phụ thân. Năm ngoái phụ thân đã bỏ qua cho Trương Nguyên không truy cứu, tên Trương Nguyên này lại cho rằng Đổng thị ta dễ bắt nạt. Hôm nay hắn lại dám đánh người nhà họ Đổng ta, đúng là làm người không thể yếu đuối được.
Đổng Tổ Thường hằn học nói:
- Lần này ta sẽ cho tên Trương Nguyên đó chết dưới tay ta, đánh chết hắn, rồi tìm đại một ai đó chịu tội thay là được, có thể để Ngô Long đi tìm người.
Bặc Thế Trình nói:
- Đại công tử, còn có ba tú tài người Hoa Đình đi cùng với Trương Nguyên, ta nhận ra bọn chúng, tên là Kim Lang Chi, Ông Nguyên Thăng, còn một tên nữa họ Tưởng, ba tên này cũng cùng bọn với Trương Nguyên.
Đổng Tổ Nguyên gật đầu nói:
- Ông Nguyên Thăng, ta nhớ rồi, sẽ không bỏ qua cho bọn chúng đâu.
Đoạn quay sang nói với Đổng Tổ Thường:
- Nhị đệ, đệ và ta cùng nhau đi gặp phụ thân, xem ý phụ thân thế nào.
Năm hai mươi chín tuổi từ bỏ mũ áo học trò, Trần Kế Nho bỏ hẳn ý định khoa cử, năm nay đã năm mươi bảy tuổi, má hóp, người gầy như cây mai, đầu đội mũ trúc, người mặc bộ đạo bào, cưỡi một con hươu sừng lớn đi đến trước cổng Đổng phủ, trên cái chạc sừng huơu lớn có treo một cái túi vải, trong túi có hai bức họa, một bức là “ Hồng nhạn bách chu đồ “ do Trần Kế Nho vừa bỏ ra số tiền lớn để mua của Nghê Vân Lâm, bức còn lại là “ Hoành tà sơ mai đồ “ Trần Kế Nho mới vẽ gần đây.
Trần Kế Nho và Đổng Kỳ Xương là bạn chí giao, lần này vì thích họa tác của một họa sĩ tiền bối nổi tiếng mà càng đắc ý hơn với tác phẩm “ Hoành tà sơ mai đồ “ của mình, liền cưỡi huơu đi từ núi Đông Dư đến Đổng phủ ở Hoa Đình để mời người bạn cũ Đổng Kỳ Xương đánh giá.
Trần Kế Nho coi con huơu như một báu vật, con hươu này lúc trước thuộc về một lão thày lang ở làng quê Thiệu Hưng, lão thầy lang này rọ mõm siết cương hươu lại, trên chạc sừng treo một hồ lô, hũ thuốc rồi cưỡi hươu đi hành nghề y. Trương Nhữ Sương nhìn thấy đã mua con hươu sừng to này với ba mươi lạng bạc. Do Trương Nhữ Sương quá to béo khiến cho hươu chở ông ta đi mới có vài trăm bước đã phải dừng lại thở dốc nên ông ta bèn tặng lại cho Trần Kế Nho. Trần Kế Nho gầy nên hươu chở mà không tốn sức. Đi được vài dặm Trần Kế Nho cảm thấy rất vui. Lúc ở Hàng Châu, non xanh nước biếc, đê dài rợp bóng liễu, Trần Kế Nho đội mũ trúc mình mặc vũ y cưỡi hươu đi hết sáu cầu, ba gian chòi trúc của Hồ Tây, nhìn giống như thần tiên vậy, người ta gọi là “tiên giáng trần”. Trần Kế Nho tự xưng mình là “Mi Công” là chuyện của mười năm trước rồi, câu đối của Trương Đại “Mi Công khóa lộc, tiền dong huyện lý đả thu phong” chính là câu chuyện lúc đó.
Đi theo sau con hươu là một thư đồng với một người hầu. Lúc Trần Kế Nho xuống hươu trước cửa Đổng phủ, người hầu vội vàng bước đến phía trước đỡ lấy. Trần Kế Nho gỡ cái túi vải trên sừng hươu xuống rồi dặn dò:
- Hãy chăm sóc con hươu này cho thật tốt, tìm một ít cỏ tươi về cho nó ăn.
Một người hầu mặc áo xanh đội mũ nhỏ vừa bước ra từ Đổng phủ nhìn thấy liền khom người chào:
- Mi công!
Lúc Trần Kế Nho nhìn lên thì chính là Tông Dực Thiện, trước đây là thư đồng hầu hạ ở thiền thất, trí tuệ hơn người. Trần Kế Nho cũng rất thích thưởng thức thư pháp của người này. Bây giờ Tông Dực Thiện đã lớn rồi, lại trở thành tiện dịch coi cổng. Trần Kế Nho đã nghe nói về chuyện Tông Dực Thiện qua lại với cháu Trương Nhữ Sương, vì Đổng Tổ Thường có oán thù với cháu của Trương Nhữ Sương nên đã cố ý trừng phạt Tông Dực Thiện làm quản môn.
@by txiuqw4