Những người bạn thân nhứt của chúng tôi, có theo dõi công cuộc nghiên cứu của chúng tôi để viết quyển sử, và để viết quyển sách nầy.
Các bạn ấy nói: "Thượng với ta, có tiếp xúc với nhau, và đã học qua học lại với nhau. Như thế có giống nhau, đâu có gì gọi là đồng chủng”.
Các nhà phê bình trên báo cũng đã nói y hệt như vậy về Nam Dương và ta.
Chúng tôi thấy rằng chỉ cần đưa ra thí dụ sau đây là đủ biện minh cho chủ trương của chúng tôi. Con ký sinh trùng mà miền Bắc gọi là con RUN, miền Nam không có gọi như vậy mà gọi là con LÃI. Thế nhưng người Mạ, có địa bàn ở Biên Hoà, chỉ tiếp xúc với miền Nam, lại gọi con đó là con VRUN từ 1623, còn trước nữa, họ gọi là gì không ai biết, bởi dân ta chỉ tiếp xúc với họ từ 1623 mà thôi.
Thế thì đồng chủng hay vay mượn?
Người Kuy, không sống trong lãnh thổ Việt Nam mà định cư tại biên giới Thái Lan và Cao Miên từ đời thuở nào không ai biết. Thế mà:
Chim = CHEEM
Cắn = KÁP
Con = KOON
Ngày = TANGAY
Mưa = MIA
Mây = KMƠL
Mắt = MAAT
Cá = QAKA
Chơn = JƯN (CHƯN)
Trái = PLÁI
Tay = TÊ
Lá = HLA
Mới = KMAI
Mũi = MỦ
Một = MUUY
Thấp = TIÂP
Ngắn = NGKÉN
Cây = KAL
Rửa = RIAU
"Thế thì đồng chủng hay vay mượn? Nếu vay mượn thì hồi nào và tại đâu?”
"Lâu lắm, hồi cổ thời”.
"Có chứng tích rằng hồi cổ thời Mạ, Kuy, Nhựt Bổn, Đại Hàn có sống chung với ta hay không?”
Tới đây, không có câu trả lời của bạn hữu của chúng tôi. Nhưng chúng tôi trả lời hộ các bạn đó được:
"Có, đã có cuộc sống chung của các thứ dân ấy hồi cổ thời và quanh chân núi Himalaya. Và có sự đồng chủng”.
Khoa học muốn bác chủ trương nào đều phải trưng bằng chứng nghịch lại, chớ không thể chỉ nói nghịch lại mà được với khoa học. Muốn bác chủ trương đồng chủng, phải có chứng tích rằng hồi đời Lý Bôn chẳng hạn ta có sống chung với người Kuy và vì thế họ đã học với ta, và vào thời Đinh Bộ Lĩnh chẳng hạn, ta đã dạy Nhựt Bổn Cây sào, Múa, May, Rửa, Nấc, Mất, Cá, Halá, Sán (xơ mít) v.v.
Bằng không chưng được những bằng chứng ấy thì một là nên cố tìm bằng chứng, hay là không nên bác một chủ trương mà chỉ bằng cách nói nghịch lại mà không chứng minh được.
Nếu Nhựt phải học với ta thì họ học những gì quan trọng hơn, chớ chẳng học CON SÁN, mà chi hết. Thí dụ ta nói BƯỞI BỒNG thì họ nói ZABÔNG, hai danh từ đó có thể ngờ là họ mới học của ta khi mua bưởi của ta về sau nầy, vì khí hậu của họ không cho phép họ trồng bưởi, chớ họ có đâu thì giờ để học CON SÁN (xơ mít)?
Ngoài quân đội Việt Nam và thông ngôn quân đội Mỹ, thử hỏi có người Việt Nam nào thấy mặt người Pacóh lần nào chưa? Chắc chắn là không. Thế mà người Pacóh có động từ TÊM TRẦU, trong khi quân đội Việt Nam không có ăn trầu, các ông thông ngôn quân đội Mỹ cũng không có ăn trầu bao giờ.
Các ông nhà binh ta có mang về Sài Gòn một động từ, đó là động từ "Bề” trong từ ngữ "Bề hội đồng”. Đó là động từ mà dân Pacóh và Ai Lao có chung vì họ sống tại biên giới Ai Lao, nhưng không biết ai học của ai. "Bề” nghĩa là "Thắng sau một trận xô xát dữ dội”.
Nhưng các ông nhà binh biết quá rõ những gì họ học với người Pacóh và những gì người Pacóh đã học với họ, chớ đừng tưởng là có sự kiện lẫn lộn cổ kim loạn xà ngầu không còn phân biệt đâu là đâu nữa.
Khi từ ngữ "Bề hội đồng” xuất hiện trên báo hằng ngày là chúng tôi đi điều tra lập tức, vì chúng tôi biết đó là một động từ mới vay mượn còn nóng hổi, và cần biết là của ai, và chúng tôi được biết liền, vài ngày sau khi mở một cuộc điều tra, nhờ gặp một quân nhơn từ vùng ấy về Sài Gòn.
Hiện toàn thể đồng bào Thượng đều có động từ và danh từ PHÁO. Nhưng chúng tôi cũng đã điều tra và biết chắc rằng họ chỉ mới có từ năm 1956 đây thôi mà họ tham gia vào cuộc chiến với ta, chớ trước kia thì họ tuyệt đối không nghe nói đến TRỌNG PHÁO và PHÁO KÍCH mà nay họ diễn bằng một động từ độc nhứt là PHÁO.
Không, không thể có sự kiện lầm lẫn vay mượn mới và vốn cũ chung, như CON VRUN của người Mạ ở Biên Hòa đã cho thấy.
Như quý vị đã thấy, trong sách nầy, Đại Hàn xuất hiện rất ít vì hai lẽ:
I) Họ đánh mất quá nhiều danh từ.
II) Chúng tôi học chưa đủ để nối kết danh từ của họ với của các nhóm khác, mặc dầu thấy là đồng gốc. Thường, người không chuyên môn về ngữ học, đã ít tin vào cuộc biến dạng mà chúng tôi đã trình bày, mặc dầu cuộc trình bày rất suôn sẻ, tức có đủ các khoen nối kết, thì làm thế nào chúng tôi được ai tin vì chúng tôi thiếu khoen nối kết giữa danh từ Đại Hàn và danh từ của các nhóm khác.
Có nhiều danh từ, chúng tôi biết nhưng không thể nối kết với Việt ngữ vì thiếu những cái khoen, có lẽ đang nằm tại Trung Mỹ và Nam Ấn mà có thể 10 năm nữa chúng tôi mới học xong.
Xin trở lại Chương I, đại danh từ TÔI thời cổ của chủng Mã Lai, thiếu mặt Đại Hàn. Đại Hàn nói là NA. Biết rằng nó là biến thể của NI của Trung Mỹ, nhưng phải có vài cái khoen đưa ta từ NI đến NA, chớ không thể bỗng dưng nói NA do NI mà ra, mà được ai tin.
Về danh từ chỉ cái ĐẢO là một danh từ rất cổ, chúng tôi cũng không dám đối chiếu. Chủng Mã Lai cũng có hai danh từ nhưng danh từ của Lạc bộ Mã là CÙ LAO thì tràn ngập Đ.N.A rất dễ đối chiếu, mà cũng chẳng cần đối chiếu. Còn danh từ của Lạc bộ Trãi là HÒN thì lại thiếu khoen nối kết vì đồng bào Thượng ở núi, không có dịp nói đến HÒN, mặc dầu họ là Trãi, tức hồi cổ thời họ có danh từ HÒN mà họ đã đánh mất:
Đại Hàn: Som
Việt Nam: Hòn
Nhựt: Shim (a)
Ta biết rằng Som đẻ ra Shim (a) và đẻ ra Hòn, nhưng không thể nói ra mà ai tin nếu thiếu khoen nối kết. Từ SAÊ đến CHIM mặc dầu quá khác, nhưng ai cũng phải tin vì có đầy đủ tất cả các cái khoen.
Yếu tố KU đã xuất hiện rồi, cách đây 5000 năm, và có mặt trong Hàn ngữ, nhưng chúng tôi cũng không dám lôi kéo AKU của Nam Dương vào với Đại Hàn, vì trong Hàn ngữ, KU là phần tử của ngôi thứ nhì chớ không phải ngôi thứ nhứt như nơi Mã ngữ, Nhựt ngữ và Khả Tu ngữ:
Nam Dương: Aku = Tôi
Nhựt: (Wat) Aku (Shi) = Tôi
Khả Tu: Ku = Tôi
Nhưng:
Đại Hàn: Ku Đai = Mầy
Những cái khoen thiếu, nằm cả ở Nam Ấn và Trung Mỹ với hàng trăm phương ngữ mà chưa biết bao giờ chúng tôi mới học xong, và chúng tôi tha thiết kêu gọi những vị có lòng với Việt ngữ cùng học với chúng tôi vì sức của một cá nhơn rất là có hạn.
Trong khi chờ đợi, chúng tôi thử làm một cuộc nối kết gượng ép, cho vui vậy thôi.
Chúng tôi nỗ lực trình bày cho quý vị thấy Sam đẻ ra HÒN và SHIM(a). Chữ A của Nhựt, hoàn toàn vô nghĩa. Dân Nhựt mắc bịnh sợ tử âm cuối, thế nên Sán (Sán xơ mít, tức con Sên của miền Nam) mới mọc đuôi A trong Nhựt ngữ và biến thành SANA.
Họ vay mượn CỐT (Xương) của Tàu, nhưng chữ Tàu cuối làm cho họ đau tim nên họ cho mọc đuôi SU. Cốt = Kotsu.
Vậy SHIMA của Nhựt chỉ là SHIM, con đẻ của SOM của Đại Hàn.
Nhưng chúng tôi chưa trình ra được mấy cái khoen giữa SOM và HÒN với lại CỒN của Việt.
Thế nên khi đối chiếu danh từ KA ở Chương I chúng tôi không dám để danh từ Đại Hàn là KÔGHI vào, mặc dầu dám để KAĐOÓNG của Khả Tu. Chỉ cho KAĐOÓNG rụng đuôi là đủ, nhưng từ KA đến KÔ phải có vài cái khoen nối kết.
Giữa MI Nhựt Bổn và CÁI MÌNH Việt Nam, quá dễ thấy, nhưng giữa MOM Đại Hàn và CÁI MÌNH Việt Nam cũng cứ phải có khoen nối kết. Những cái khoen ấy, như đã nói, đang nằm cả ở Nam Ấn và Trung Mỹ, thế nên trong quyển sử, và ở sách nầy, các biểu đối chiếu thường thiếu Đại Hàn, họ rất cần thiết vì họ là nhóm Lạc bộ Trãi tiên phong rời Hoa Bắc để di cư.
Giữa GAI của Phi Luật Tân và GHE của Việt Nam, rất dễ thấy sự liên hệ, nhưng giữa PAI của Đại Hàn và GHE của ta sự nối kết không dám thực hiện vì phải chứng minh có sự biến dạng từ âm P sang âm GH bằng vài cái khoen.
Nói PI của Đại Hàn là Máu của Việt Nam thì rất dễ chứng minh, khi ta đã chứng minh được rằng Pi của Đại Hàn thành MƯA của Việt Nam, nhưng không phải luôn luôn may mắn như thế.
Đại Hàn: PI
Xi Tiêng: MI
Kuy: MIA
Mạ: MIU
Sơ Đăng: MÊI
Nhựt: AMÊ
Nam Dương: AMA
Việt Nam: MƯA
Vả lại Đại Hàn mất gần hết danh từ Mã Lai, khiến chúng tôi buồn và chán nản quá. Một dân tộc mất gần hết ngôn ngữ, nhứt là dân đồng chủng, cứ bắt ta ngậm ngùi.
Vậy chúng tôi quyết tâm hà sinh khí cho Hàn ngữ một lần cho ngoạn mục, để cả thế giới đều biết rằng Đại Hàn là Mã Lai.
Chúng tôi đã đối chiếu TRỐNG (gà) của Việt Nam với GÔNG (gà) của Khả Tu, một nhóm Lạc bộ Trãi độc nhứt có tĩnh từ GÔNG = TRỐNG, và có nhắc rằng TRỐNG của Việt Nam thì nông thôn Bắc Việt hiện kim và Việt Nam cổ thời nói là SỐNG, chớ không nói TRỐNG.
Và Đại Hàn gọi GÀ SỐNG là GÀ SU.
SUK’OT là tĩnh từ duy nhất của chủng Mã Lai, Lạc bộ Mã và Lạc bộ Trãi đều chỉ có tĩnh từ đó có nghĩa là ĐỰC mà Nam Dương biến thành SUKU.
Vậy Su = Đực, Trống, đẻ ra Suku, Sống, Trống và Đực của Nam Dương và của ta.
Đại Hàn = SUK’OT
Nam Dương = SUKU
Nhựt Bổn = ÔSU
Việt Nam = SỐNG (TRỐNG)
Khả Tu = GÔNG
Dầu sao kẻ đầu đàn tiên phong cũng còn giữ được cái gì của chủng tộc để xứng đáng cầm cờ tiên phong trên bước đường di cư vĩ đại từ Đông Bắc Á đến Đông Nam Á, đến Nam Ấn và đến Trung Mỹ.
Có lẽ chính SỐNG đẻ ra GÔNG chớ không phải GÔNG đẻ ra SỐNG.
Suk’ot → SuKu → Ôsu → Sống → Gông → Trống
@by txiuqw4