sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Chương 10

Reacher đang ngủ trên giường trong căn phòng số 310 ở khách sạn Marriott. Ông nằm ngửa, như một người chết. Ông và Hutton đã trò chuyện quá lâu trong quán cà phê đến nỗi bà suýt muộn cuộc hẹn. Bà xem đồng hồ vào lúc bốn giờ kém năm phút và đã dúi thẻ khóa phòng cho ông, và nhờ ông cất túi xách của mình vào phòng. Rồi bà chạy vội ra đường. Ông nghĩ rằng lẽ ra mình nên trả thẻ khóa ở bàn tiếp tân. Nhưng ông không làm vậy. Ông không phải đi đến nơi nào cụ thể cả. Hoặc là chưa. Nên ông cất túi xách và ở lại trong phòng.

Ông không sướng điên lên vì được ở lại phòng 310, nếu cân nhắc mọi điều kiện. Nó nằm trên tầng ba, khiến cho việc thoát ra bằng cửa sổ rất khó khăn. Phòng số tám ở nhà trọ thì tiện hơn nhiều. Tầng trệt, khu nhà cũ, nó cho người ta một cơ hội may rủi khá cao. Mở cửa sổ, bước ra, tìm con hẻm, hay một cánh cửa, hay một cái cửa sổ khác. Ở đó thì dễ. Ở đây không dễ chút nào. Ông đang ở tầng ba. Leo xuống cũng lâu đấy. Và ông không biết chắc cửa sổ của khách sạn Marriott có mở được hay không. Có thể nó không mở. Có thể những luật gia ở văn phòng chính ngại liên đới. Có thể họ đã lường trước một trận lũ những đứa trẻ sơ sinh rơi xuống nền trải nhựa của bãi đậu xe. Hay có thể nó thuộc vấn đề mở rộng quy mô. Có thể giá chốt cửa và tay nắm cửa vượt qua hóa đơn máy điều hòa một ít. Bất kể vì lý do gì đi nữa, thì căn phòng này cũng không phải lựa chọn tuyệt vời. Không một chút nào. Không thích hợp cho cư trú dài hạn.

Nhưng cho một thời gian ngắn thì nó cũng tạm ổn. Thế nên ông nhắm mắt và thiếp đi. Hãy ngủ khi có thể, vì mi không thể biết khi nào mình sẽ được ngủ lại. Đó là quy tắc cổ điển trong quân đội.

Kế hoạch của Emerson rất đơn giản. Ông để Donna Bianca ở phòng số bảy. Bảo hai viên cảnh sát tuần tiễu cất xe họ cách ba con đường rồi đi bộ trở lại và chờ trong phòng số chín. Ông cho một chiếc xe chờ cách hai con đường sau lưng nhà trọ, và một chiếc cách bốn khối phố về hướng Bắc, nơi có những bãi bán xe, và chiếc nữa cách hai khối phố về hướng Nam. Ông yêu cầu tay quản lý thức canh chừng qua cửa sổ, và gọi cho Bianca ở phòng số bảy ngay khi thấy người mà anh ta biết dưới tên Heffner bước vào.

Eileen Hutton trở về khách sạn Marriott lúc bốn giờ ba mươi. Không có thẻ khóa ở bàn cho bà. Không có lời nhắn. Thế nên bà vào thang máy đi lên và theo những mũi tên hướng dẫn đến phòng 310, gõ cửa. Im lặng một thoáng rồi cánh cửa mở ra và Reacher để bà bước vào.

Bà hỏi, "Phòng của em thế nào?"

Ông đáp, "Giường khá thoải mái."

Bà nói, "Em có trách nhiệm phải gọi cho Emerson nếu thấy anh."

"Em có gọi không?"

"Không."

"Khai man trước tòa và chứa chấp kẻ đào thoát. Chỉ trong có một ngày."

Bà lục ví rồi lấy ra danh thiếp của Emerson. "Anh là nghi can duy nhất của họ. Ông ta cho em ba số điện thoại khác nhau. Họ có vẻ rất nghiêm trọng."

Ông lấy tấm danh thiếp trên tay bà. Bỏ nó vào túi sau cùng với miếng khăn giấy có ghi số điện thoại của Helen Rodin. Ông đã trở thành một cuốn niên giám biết đi.

Ông hỏi, "Chuyện với ông Rodin thế nào?"

"Thẳng thắn."

Ông không nói gì. Bà đi loanh quanh, xem xét căn hộ. Phòng tắm, phòng ngủ, phòng khách, nhà bếp. Bà lấy túi xách của mình và dựa nó vào tường ngay ngắn.

Bà hỏi, "Anh muốn ở lại không?"

Ông lắc đầu.

Ông nói, "Không được."

Bà nói, "Được thôi."

"Nhưng anh sẽ quay lại sau, nếu em muốn."

Bà ngừng lại một thoáng.

"Được thôi. Trở lại sau nhé."

Alex Rodin quay vào phòng, đóng cửa lại và gọi điện cho Emerson.

Ông hỏi, "Ông tóm được hắn chưa?"

Emerson đáp, "Không sớm thì muộn thôi. Chúng tôi đang tìm hắn khắp nơi. Và đang canh chừng căn phòng hắn thuê. Hắn ở một phòng trọ. Dùng tên giả."

"Thú vị nhỉ. Có nghĩa là có thể hắn đã dùng tên giả ở Metropole nữa."

Emerson nói, "Tôi sẽ xem lại. Tôi sẽ cho lễ tân xem tấm ảnh."

Rodin nói, "Chúng ta sẽ tóm cổ hắn." Ông gác máy, nghĩ đến hai dòng tít đóng khung mới sẽ treo trên vách văn phòng. Trước tiên là Barr, rồi đến Reacher.

Reacher ra khỏi phòng của Hutton và đi cầu thang thay vì dùng thang máy. Ở tầng trệt, ông tránh lối vào khách sảnh và tìm thấy một hành lang phía sau có một cửa thoát hiểm nằm ở cuối đường. Ông đẩy cánh cửa thoát hiểm mở ra và dùng chân giữ nó mở hờ. Lấy tấm danh thiếp của Emerson ra, xé đôi nó theo chiều dài, rồi gấp phân nửa có tên trên đó lại làm bốn. Ông ấn tịt lưỡi khóa vào trong bằng đầu ngón tay cái và lấy mảnh giấy gấp chêm nó trong đó. Ông nhẹ nhàng khép cửa và đẩy nó khớp vào khung cửa bằng lòng bàn tay. Rồi ông bỏ đi, qua thùng rác lớn, qua bãi đậu xe của nhân viên, ra ngoài đường thẳng về hướng Bắc. Hè phố đông đúc và những làn xe bắt đầu tắc nghẽn. Ông bước đi với tốc độ bình thường và lợi dụng chiều cao của mình để quan sát từ xa, tìm các xe tuần tiễu hay cảnh sát ở các góc phố. Trời vẫn còn ấm. Có một cơn áp thấp ở đâu đó. Ở rất gần đây. Áp suất không khí khá cao, nén xuống, chặn lại cái mùi đất ẩm và phân bón ni tơ trong không khí.

Ông đến chân xa lộ treo và rẽ về hướng Tây dưới bóng nó. Mặt đường xa lộ chạy dọc trên những cây trụ cao bốn mươi bộ. Bên dưới nó là những khu đất bừa bộn, một số để trống và đầy rác, một số có những tòa nhà gạch cũ với cửa thông gió tối om trên mái, một số có nhà kho mới bằng kim loại chứa những tiệm làm đồng xe và tiệm sơn xịt. Ông đi qua phía sau tòa cao ốc kính đen và vẫn ở nguyên dưới bóng xa lộ rồi rẽ về hướng Nam, chuẩn bị băng ngang qua phía sau thư viện. Bất ngờ ông dừng chân, cúi xuống lắc lắc cái giày. Như có sạn trong giày. Liếc nhìn dưới cánh tay ra sau và không thấy ai theo mình cả. Không có đuôi bám.

Ông đi tiếp. Sau thư viện thì ông đi giữa trời trong bốn mươi thước. Quảng trường nằm về hướng Đông của ông. Ông dừng lại trong một thoáng ở cái chỗ mà ông cho rằng nằm ngay dưới nơi Helen Rodin đã đậu xe ngày hôm trước và là nơi James Barr chắc đã đậu trong ngày thứ Sáu. Xuống thấp bốn mươi bộ, cảnh vật khác hẳn nhưng về hình học thì giống nhau. Ông có thể thấy những vòng hoa héo úa dựa vào bức tường phía Nam của cái hồ nước. Chúng là những vệt màu nhàn nhạt ở xa. Bên ngoài chúng là cánh cửa của Sở Đăng kiểm. Người ta bước ra một mình hay từng đôi. Ông xem đồng hồ. Năm giờ kém mười.

Ông đi tiếp ngoài khoảng trống và băng ngang đến khối phố cực Bắc của đường số Một. Ông đi vòng một khối về hướng Nam và ba khối về hướng Đông rồi đi lên đến lối vào bãi đậu xe từ hướng Tây. Ông đi lên con dốc và tìm thấy ống kính máy quay an ninh. Nó là một vòng kính nhỏ bẩn bụi được gắn trên một chiếc hộp trơn màu đen bắt trên cao ở giao điểm của hai cây xà nhà bằng bê tông. Ông vẫy tay với nó. Nó quá cao, lý tưởng đối với ông. Lẽ ra nó phải thấp hơn, ngang tầm với bảng số xe. Nhưng tất cả các cây cột dưới khoảng ngang hông đều bị trầy xơ xác. Một cầu vồng nhiều màu khác nhau. Giới tài xế nói chung khá bất cẩn. Gắn thấp hơn, chiếc máy quay chắc chỉ sống sót được một ngày rưỡi. Có thể ít hơn.

Ông đi lên con dốc đến tầng hai. Nhắm về hướng Bắc và Đông, đến góc tít trong cùng. Bãi đậu xe yên lặng và vắng vẻ, nhưng chật xe. Chỗ đậu mà James Barr từng dùng đã có xe đậu. Không có chỗ dành cho sự đa cảm khi phải giành chỗ đậu xe ở khu thương mại. Không có chỗ dành cho lòng tôn kính.

Biên giới giữa bãi đậu xe cũ và khu xây dựng mới được đánh dấu bằng một bộ ba dải băng giăng giữa các cây cột. Có dòng chữ Chú Ý Không Được Vào trên dải băng tiêu chuẩn màu vàng - đen của nhà thầu, bên trên và bên dưới nó là những đoạn băng mới màu xanh - trắng Đường Vạch Cảnh Sát Không Được Băng Qua. Ông dùng cẳng tay kéo cả ba dải băng lên cao hơn và chui qua bên dưới. Không cần phải quỳ một gối xuống. Không cần làm xơ rách chiếc quần jeans. Không cần phải để lại cả đống sớ vải. Không cần thậm chí là với một người cao hơn Barr đến mười lăm phân, và thậm chí dải băng mới còn thấp hơn mười lăm phân so với dải băng mà Barr đã gặp. Hắn đã đi quá xa theo nghĩa đen khi cố để lại bất kỳ chứng cứ gì có thể.

Reacher bước vào chỗ tối. Khu xây dựng mới có hình chữ nhật. Có lẽ bốn mươi thước theo chiều Nam-Bắc, hai trăm thước theo chiều Đông-Tây. Có nghĩa là Reacher đến cái góc Đông Bắc mới sau ba mươi lăm bước chân. Ông đứng lui lại cách bức tường vành đai sáu bộ và nhìn xuống về bên phải. Ông có được tầm nhìn tuyệt hảo. Không cần phải dựa vào cây cột. Không cần vặn vẹo như một con ngựa cọ lưng trong một cánh đồng cỏ mùa hè.

Ông đứng đó nhìn. Người ta đang đi ra khỏi tòa văn phòng chính phủ càng lúc càng đông. Một dòng khá lớn. Vài người dừng chân châm thuốc lá ngay khi họ vừa ra ngoài. Những người khác đi tiếp thẳng về hướng Tây, người đi nhanh, người bước chậm. Tất cả rẽ và đi quanh rìa phía Bắc của cái hồ. Không một ai đi vào nơi những nạn nhân của Barr đã đi. Những vòng hoa tưởng niệm xua đuổi họ. Một sự nhắc nhở. Do đó thật khó đánh giá cảnh tượng hôm thứ Sáu trông ra sao. Khó, nhưng không phải là không thể. Reacher nhìn những người đang bước và, trong hình dung, bắt họ từ bỏ những bước rẽ phải đầy tôn trọng của họ. Ông tưởng tượng họ tiếp tục đi thẳng. Họ sẽ chậm bước khi vào đến đoạn cổ chai. Nhưng không quá chậm. Và họ sẽ ở gần. Sự kết hợp giữa tốc độ vừa phải và sự kề cận sẽ gia tăng góc lệch. Nó sẽ làm cho công việc trở nên khó hơn. Đó là nguyên tắc căn bản khi sử dụng súng trường. Một con chim bay ngang bầu trời cách một trăm thước là một mục tiêu dễ bắn. Cũng con chim đó với cùng một tốc độ bay trước mặt bạn sáu bộ lại là một mục tiêu không thể bắn trúng.

Ông hình dung mọi người đi xuôi từ phải qua trái. Ông nhắm một mắt lại và vươn tay ra chỉ bằng ngón tay. Tạch, tạch-tạch, tạch-tạch-tạch. Sáu phát có ngắm. Bốn giây. Nhanh. Bài toán hình học gay go. Căng thẳng, lộ liễu, dễ bị tấn công.

Sáu phát, gồm cả phát cố tình trượt.

Tài năng ngoại hạng.

Họ không quên.

Ông thả tay xuống bên hông. Trong chỗ tối này lạnh. Ông rùng mình. Không khí lạnh và ẩm ướt và nồng mùi vôi vữa. Trời Kuwait City rất nóng. Không khí rung rinh và tràn đầy mùi đất bụi bị nung khô và cát sa mạc. Reacher đã đứng trong bãi đậu xe và đổ mồ hôi. Con đường bên dưới ông sáng lóa lên. Tàn bạo. Như một cái lò nung.

Trời Kuwait City rất nóng.

Bốn phát ở đó.

Sáu phát ở đây.

Ông đứng nhìn mọi người đi ra từ cánh cửa Sở Đăng kiểm. Đông quá. Mười, mười hai, mười lăm, hai mươi. Họ rẽ và đi vòng hướng Bắc rồi lại rẽ và đi về hướng Tây giữa cái hồ và con công của NBC. Họ nhường bước cho nhau. Nhưng nếu họ vào trong đoạn cổ chai thì sẽ phải chen chúc nhau.

Họ đông quá.

Sáu phát, trong bốn giây.

Ông tìm một ai đó đứng yên. Không thấy một ai. Không có cớm, không có những người già mặc bành tô. Ông quay đi và bước lại những dấu chân mình.

Nâng dải băng lên và chui bên dưới và quay trở xuống đoạn dốc. Chuồn ra đường và rẽ về hướng Tây, đi thẳng đến vùng tối dưới xa lộ. Nhắm hướng thư viện.

Ông băng qua bốn mươi thước ngoài trời, men theo bức tường bên hông của thư viện và vào qua lối dành cho người tàn tật. Ông phải đi gần chiếc bàn, nhưng ông không lo điều đó. Nếu Emerson bắt đầu phân phát lệnh truy nã thì ông ta sẽ đến các bưu điện và quán rượu và khách sạn trước. Phải mất một thời gian khá lâu thì ông ta mới đi vận động những người thủ thư.

Ông đi đến khách sảnh an toàn và bước đến dãy điện thoại công cộng. Lấy tờ khăn giấy trong túi ra rồi bấm số di động của Helen Rodin. Cô nghe ở hồi chuông thứ năm. Ông hình dung cô lục túi xách, liếc nhìn màn hình, lóng ngóng bấm nút.

Ông hỏi, "Cô đang một mình chứ?"

"Reacher đấy à?"

Ông đáp, "Phải. Cô đang một mình chứ?"

Cô đáp, "Có. Nhưng ông đang gặp rắc rối to."

"Ai gọi cho cô?"

"Cha tôi."

"Cô tin ông ấy không?"

"Không."

"Tôi sẽ đến gặp cô."

"Có một tay cảnh sát trong khách sảnh."

"Tôi cũng nghĩ vậy. Tôi sẽ đi lối nhà xe."

Ông cúp máy, đi trở lại ngang qua bàn giấy và ra ngoài lối vào bên hông nhà. Trở lại dưới xa lộ. Ông đi dưới bóng che chắn của nó cho tới khi ông đối diện với mặt sau tòa cao ốc kính đen. Đối diện con dốc cho xe lên. Ông xem xét bên trái, bên phải rồi đi thẳng xuống. Đi qua những chiếc xe tải của NBC, qua chiếc Mustang mà ông nghĩ là của Ann Yanni, đến thang máy. Ông nhấn nút gọi và chờ. Xem đồng hồ. Năm giờ ba mươi. Phần lớn mọi người đang rời tòa nhà. Buồng thang máy đi xuống chắc ngừng ở tầng khách sảnh. Buồng thang máy đi lên, có lẽ không. Ông hy vọng vậy.

Buồng thang máy đến nhà để xe và ba người đi ra. Họ bỏ đi. Reacher bước vào. Bấm số 4. Bước lui. Buồng thang máy chạy lên một tầng rồi dừng lại. Trong khách sảnh. Hai cánh cửa trượt trở lại như cánh màn sân khấu. Tay cớm đứng ngay đó, cách thang máy bốn bộ, mặt hướng về phía khác. Chân ông ta dạng ra và tay chống nạnh. Ông ta đứng gần bên hầu như có thể chạm được. Một người đàn ông bước vào thang máy. Ông ta không nói năng gì. Chỉ khẽ gật đầu theo kiểu bạn đồng hành thang máy. Reacher gật đầu trả. Ông ta bấm số 7. Hai cánh cửa vẫn còn mở. Tay cớm nhìn con đường. Người mới vào lắc lắc cái nút. Tay cớm động đậy. Ông ta lột mũ ra khỏi đầu rồi luồn tay vuốt tóc. Cửa đóng lại. Thang máy đi lên.

Reacher đi ra ở lầu bốn, và đi qua một nhóm người đang ra về. Helen Rodin mở sẵn cửa cho ông. Ông bước vào phòng và cô đóng cửa lại. Cô đang mặc một chiếc váy ngắn màu đen và áo trắng. Cô nhìn rất trẻ. Như một nữ sinh. Và có vẻ lo lắng. Như một người đang bối rối.

Cô nói, "Tôi phải nộp ông cho cảnh sát."

Reacher nói, "Nhưng cô sẽ không làm thế."

Cô đáp, "Không. Tôi phải nộp, nhưng tôi sẽ không làm."

Reacher nói, "Sự thật là tôi mến cô bé ấy. Cô ta là một cô bé dễ thương."

"Cô ta đã gài ông."

"Tôi không bực mình."

"Một kẻ nào đó không thích cô ta."

"Chúng ta không chắc được. Tình cảm không có trong chuyện này. Cô ta là thứ xài xong thì vứt bỏ, chỉ vậy thôi. Một phương tiện để đạt được cứu cánh."

"Kẻ giật dây quả thật không muốn ông hiện diện chút nào."

Reacher gật đầu. "Điều đó là chắc chắn. Nhưng hắn rủi đứt đi rồi, vì giờ thì tôi không bỏ đi nữa. Hắn vừa mới tự mình đảm bảo điều đó."

"Ở lại thì có an toàn không?"

"Tàm tạm. Nhưng chuyện cô bé này sẽ làm tôi chậm lại. Thế nên cô phải thực hiện phần lớn công việc."

Cô dẫn ông vào phòng bên trong. Cô ngồi vào bàn giấy. Ông đứng cách cửa sổ khá xa. Ông ngồi xuống sàn nhà và dựa lưng vào tường.

Helen nói, "Tôi đã bắt đầu công việc. Tôi nói chuyện với Rosemary và những người hàng xóm của Barr. Rồi tôi trở lại bệnh viện. Tôi nghĩ là chúng ta đang cần một kẻ có tên là Charlie. Nhỏ con, tóc đen lởm chởm. Khoái chơi súng. Tôi có cảm giác hắn thuộc loại người ẩn mặt. Tôi nghĩ tìm ra hắn không dễ đâu."

"Hắn có mặt được bao lâu rồi?"

"Hình như năm hay sáu năm. Hắn là người bạn lâu dài duy nhất mà mọi người có thể nêu lên. Và hắn là kẻ duy nhất mà Barr thừa nhận."

Reacher lại gật đầu. "Tôi chấp nhận điều này."

"Và Barr không biết Jeb Oliver cũng không chơi ma túy."

"Cô tin hắn ư?"

Helen đáp, "Vâng, tôi tin. Thật vậy. Ngay bây giờ thì tôi tin mọi chuyện hắn nói. Như thể hắn đã bỏ ra mười bốn năm để làm lại cuộc đời và giờ thì hắn không thể tin là mình đi lại đường cũ. Tôi nghĩ là hắn cũng đau buồn về chuyện này như bất cứ ai khác."

"Ngoại trừ các nạn nhân ra."

"Nương tay với hắn tí chút nào, Reacher. Một chuyện kỳ quái đang xảy ra."

"Gã Charlie này biết chuyện ở Kuwait City không?"

"Barr không nói. Nhưng tôi nghĩ là biết."

"Gã sống ở đâu?"

"Barr không biết."

"Barr không biết ư?"

"Anh ta chỉ gặp hắn đây đó. Hắn chỉ thỉnh thoảng xuất hiện. Như tôi nói, tôi nghĩ là tìm ra hắn không dễ đâu."

Reacher không nói gì.

Helen hỏi, "Ông đã nói chuyện với Eileen Hutton chưa?"

"Cô ấy không phải là mối đe dọa. Quân đội che giấu mọi chuyện."

"Ông có tìm ra tên theo dõi ông không?"

Reacher đáp, "Không. Tôi không thấy lại hắn. Hẳn là chúng rút hắn đi rồi."

"Vậy là chúng ta không có manh mối gì cả."

"Chúng ta có tiến triển hơn trước. Chúng ta có thể nhận thấy cái hình thù của sự việc. Chúng ta có thể biết ít nhất là bốn tên. Một là gã lớn tuổi mặc bành tô. Hai là kẻ có tên Charlie. Ba là một tên to con, rất khỏe và thuận tay trái."

"Tại sao?"

"Hắn giết cô gái tối hôm qua. Gã lớn tuổi quá già và có vẻ như Charlie rất nhỏ con. Và chứng cứ vật lý cho biết rằng đó là một cú đấm tay trái."

"Và bốn là kẻ giật dây."

Reacher lại gật đầu. "Ở một nơi đâu đó trong bóng tối, lập kế hoạch, giật dây. Chúng ta có thể đoán rằng hắn không chạy quanh và tự tay thực hiện những việc loại này."

"Nhưng làm thế nào để chúng ta tiếp cận hắn đây? Nếu hắn đã rút mất tên theo dõi ông, thì chúng ta có thể cho rằng hắn cũng rút Charlie luôn. Chúng đang thủ thế."

"Có một con đường khác. Một xa lộ rộng mênh mông."

"Ở đâu?"

Reacher đáp, "Chúng ta bỏ qua một điều rất hiển nhiên. Chúng ta trước giờ đã nhìn lầm đầu khẩu súng. Tất cả những gì mà chúng ta đã làm là nhìn xem ai đã bắn nó."

"Lẽ ra chúng ta nên làm gì?"

"Lẽ ra chúng ta cần suy nghĩ nhiều hơn."

"Về chuyện gì?"

"James Barr bắn bốn phát ở Kuwait City. Và hắn bắn sáu phát ở đây."

Helen nói, "OK. Hắn bắn nhiều hơn hai phát ở đây. Vậy thì sao nào?"

Reacher đáp, "Nhưng không phải vậy. Thật sự không. Khác hoàn toàn nếu ta nhìn từ bên lề. Sự thật là ở đây hắn đã bắn ít hơn bốn phát."

"Thật buồn cười. Sáu so với bốn là nhiều hơn hai. Không phải ít hơn bốn."

"Kuwait City rất nóng. Vào ban trưa thật không thể chịu nổi. Có khùng mới đi lang thang ra ngoài. Đường phố phần lớn thời gian vắng vẻ."

"Thì sao nào?"

"Thế nên ở Kuwait City, James Barr giết mọi người mà hắn thấy. Một, hai, ba, bốn, chấm dứt. Con đường hoàn toàn vắng trừ bốn anh chàng của ta. Chỉ có mỗi họ ngu ngốc đến nỗi đi ra ngoài trong nhiệt độ ấy. Và Barr làm thịt cả bốn. Hắn làm láng. Lúc đó câu chuyện có vẻ trở nên hợp lý với tôi. Hắn muốn nhìn thấy máu phụt ra thành màn sương màu hồng. Điều làm tôi sực tỉnh là lẽ ra hắn có thể thỏa mãn sau một lần nhìn nó thôi, nhưng rõ ràng hắn không thỏa mãn. Vậy thì hợp lý sẽ là nếu hắn không dừng lại ở một vụ, thì hắn sẽ làm tới cho đến khi không còn mục tiêu nào nữa. Và hắn đã làm như vậy. Ở Kuwait City, hắn không tìm được thêm mục tiêu."

Helen không nói gì.

Reacher nói, "Nhưng ở đây thì hắn không hết mục tiêu. Phải có cả chục người trong đoạn cổ chai đó. Hay mười lăm người. Dù sao thì cũng nhiều hơn mười người. Và hắn có băng đạn mười viên. Nhưng hắn ngừng bắn sau phát thứ sáu. Cứ thế ngừng. Hắn chừa lại bốn viên trong khẩu súng. Chúng được ghi lại trong quầy triển lãm của Bellantonio. Và đó là điều tôi muốn nói. Hắn đã bắn xả láng ở Kuwait City, vậy mà ở đây ít hơn bốn viên so với mức xả láng. Đó là sự khác biệt về mặt tâm lý ở đây. Hắn quyết định không làm láng ở đây. Vì sao vậy?"

"Vì hắn đang vội chăng?"

"Hắn có bộ phận nạp đạn tự động. Băng ghi âm trong máy tính ra sáu phát trong bốn giây. Có nghĩa là lẽ ra hắn có thể bắn mười viên trong chưa đến bảy giây. Ba giây sẽ không tạo ra sự khác biệt nào đối với hắn."

Helen không nói gì.

Reacher nói, "Tôi đã hỏi hắn. Khi tôi gặp hắn trong bệnh viện. Tôi hỏi hắn sẽ làm chuyện đó như thế nào, về mặt lý thuyết. Như là một dự thảo chiến thuật. Nên hắn suy nghĩ về nó. Hắn rành khu vực đó. Hắn nói rằng mình sẽ đậu xe trên xa lộ. Sau lưng thư viện. Hắn nói sẽ quay kính xe xuống và trút hết băng đạn."

Helen không nói gì.

"Nhưng hắn đã không trút hết băng đạn. Hắn ngưng bắn ở phát thứ sáu. Cứ thế ngưng. Một cách lạnh lùng và bình tĩnh. Điều này khiến toàn bộ động cơ trở nên khác biệt. Đây không phải là một gã điên xuất hiện để khủng bố cả thành phố vì một trò thách đố nữa. Hắn không bị đẩy vào nó vì niềm vui được giết chóc. Helen, chuyện này không phải là ngẫu nhiên. Không phải là rối loạn tâm thần. Mà có một mục đích rõ ràng, giới hạn và chặt chẽ ở phía sau. Điều này khiến tiêu điểm hoàn toàn đảo ngược. Lẽ ra chúng ta phải nhận ra nó. Lẽ ra chúng ta phải nhận ra rằng toàn bộ chuyện này là ở các nạn nhân chứ không phải ở người bắn. Họ không phải là những kẻ bất hạnh đã chọn nhầm chỗ, nhầm thời điểm."

Helen hỏi, "Họ là những mục tiêu?"

Reacher đáp, "Được chọn lựa kỹ lưỡng. Và ngay khi chắc ăn rằng họ bị hạ gục thì Barr thu dọn và chuồn đi. Với bốn viên đạn vẫn còn lại. Một hồi kịch về kẻ loạn trí bắn bừa sẽ không rẽ ngang theo kiểu đó. Hắn sẽ tiếp tục kéo cò cho tới khi hết đạn. Thế nên vụ này không phải là do lên cơn. Mà nó là một vụ ám sát."

Căn phòng chìm trong im lặng.

Reacher nói, "Chúng ta cần xem các nạn nhân là những ai. Và cần tìm hiểu xem ai muốn họ phải chết. Đó là con đường sẽ dẫn chúng ta đến nơi cần đến."

Helen không cử động.

Reacher nói tiếp, "Và chúng ta cần làm điều này thật nhanh. Vì tôi không có nhiều thì giờ và chúng ta đã phí phạm hết ba ngày tốt nhất để xem xét mọi sự đảo ngược hết cả."

Tay bác sĩ mệt mỏi trạc ba mươi tuổi ở tầng sáu của bệnh viện hạt đang kết thúc tua khám buổi chiều của anh ta. Anh ta đã chừa James Barr lại sau cùng. Một phần vì anh ta không chờ đợi một thay đổi đột ngột nào trong tình trạng của hắn, một phần vì dù sao anh ta cũng không thèm quan tâm. Chăm sóc cho bọn trộm cắp bịp bợm cũng đã quá tệ rồi, nhưng chăm sóc cho một tên giết người hàng loạt thì thật là vô lý. Vô lý bội phần, bởi ngay khi Barr khỏe hẳn thì hắn sẽ bị đè ra trói xuống giường và một bác sĩ nào khác sẽ đến giết hắn.

Nhưng những ràng buộc về nguyên tắc thì khó mà làm ngơ. Thói quen cũng vậy. Chưa kể bổn phận, thủ tục, và sự ổn định. Thế nên viên bác sĩ bước vào phòng của Barr và nhặt tờ biểu đồ bệnh trạng của hắn lên. Anh ta lấy bút ra. Liếc nhìn các máy móc. Liếc nhìn bệnh nhân. Hắn đang thức. Đôi mắt hắn chuyển động.

Viên bác sĩ viết. Tỉnh táo.

Anh ta hỏi, "Vui không?"

Barr đáp, "Vui vẻ gì."

Viên bác sĩ viết. Có phản ứng.

Anh ta nói, "Đồ khốn kiếp sống dai." Và cất cây bút.

Chiếc còng trên tay phải của Barr va lắc leng keng vào thanh chắn giường. Bàn tay phải đang run và hơi cụm lại, ngón cái và ngón trỏ đang nhúc nhích liên tục, như thể hắn đang cố lăn một viên bi tưởng tượng bằng sáp cho thật tròn.

Viên bác sĩ nói, "Ngưng cái trò đó đi."

"Ngưng cái gì?"

"Bàn tay anh."

"Tôi không thể."

"Tình trạng đó là mới có à?"

"Một hay hai năm rồi."

"Không phải là chỉ có từ khi anh tỉnh dậy à?"

"Không."

Viên bác sĩ nhìn tờ biểu đồ bệnh trạng. Tuổi: Bốn mươi mốt.

Anh ta hỏi, "Anh có uống rượu không?"

Barr đáp, "Không nhiều. Thỉnh thoảng một ngụm, để dễ ngủ."

Viên bác sĩ tất nhiên không tin hắn, anh ta giở biểu đồ đến kết quả kiểm tra độc tố trong máu và thử nghiệm chức năng gan. Nhưng kiểm tra độc tố thì sạch sẽ còn chức năng của gan thì rất tốt. Không phải là dân nhậu. Không phải là kẻ nghiện rượu. Thậm chí không uống nữa.

Anh ta hỏi, "Gần đây anh có đi khám bác sĩ riêng không?"

Barr đáp, "Tôi không có bảo hiểm y tế."

"Có tê cứng ở tay chân không?"

"Chút ít."

"Tay kia của anh có bị như vậy không?"

"Đôi khi."

Viên bác sĩ lại lấy bút ra và ghi vào dưới cùng của biểu đồ: Tay phải có dấu hiệu run rẩy, không phải là hội chứng hậu chấn thương, chẩn đoán sơ bộ không nghiện rượu, tay chân cứng, có khả năng PA giai đoạn đầu?

Barr hỏi, "Tôi bị gì vậy?"

Viên bác sĩ đáp, "Câm miệng." Rồi xong việc, anh ta cặp biểu đồ trở lại chân giường và bước ra khỏi phòng.

Helen Rodin lục hết các thùng giấy đựng chứng cứ và lấy ra bản liệt kê chính thức những lời cáo buộc dành cho James Barr. Giữa nhiều vi phạm luật pháp có tính hình thức khác, thì bang Indiana đã đưa ra năm điểm buộc tội giết người bậc một với tình tiết tăng nặng, và theo quy định của nguyên tắc đúng pháp trình đã liệt kê năm nạn nhân theo tên tuổi, giới tính, địa chỉ và nghề nghiệp. Helen lướt qua trang giấy, dò theo địa chỉ và nghề nghiệp.

Cô nói, "Tôi không thấy có mối liên hệ rõ ràng nào cả."

Reacher nói, "Tôi không có ý muốn nói rằng tất cả bọn họ đều là các mục tiêu. Chắc hẳn chỉ một người trong số họ thôi. Nhiều nhất là hai người. Những người khác chỉ là để ngụy trang. Vụ ám sát được giả như một vụ xả súng. Tôi đoán thế."

Cô nói, "Tôi phải đi làm việc đây."

Ông nói, "Ngày mai tôi sẽ gặp lại cô."

Ông dùng lối cầu thang thoát hiểm thay vì dùng thang máy và trở lại nhà để xe mà không bị ai thấy. Ông bước vội lên con dốc, băng qua đường và lại đi dưới xa lộ. Kẻ tàng hình. Sống trong bóng tối. Ông mỉm cười. Ông dừng chân.

Ông quyết định đi tìm điện thoại công cộng.

Ông tìm thấy một trạm trên bức tường bên hông của một tiệm tạp hóa nhỏ có tên là Martha's, nằm cách tiệm bán áo quần rẻ tiền mà ông đã mua hai khối phố. Trạm điện thoại đối mặt với một con hẻm rộng được dùng làm một bãi đậu xe hẹp. Có sáu lô chéo đã đậu đủ sáu chiếc xe. Bên ngoài chúng là một bức tường gạch cao có gắn mảnh chai bên trên. Con hẻm rẽ chín mươi độ phía sau tiệm tạp hóa. Ông đoán là nó rẽ lại ở một chỗ nào đó và dẫn ra khối phố kế bên về hướng Nam.

Ông nghĩ, Khá an toàn.

Ông lấy tấm danh thiếp bị xé của Emerson ra khỏi túi. Chọn số điện thoại di động. Dựa vai vào bức tường và quan sát cả hai đầu của con hẻm cùng một lúc, lắng nghe tiếng chuông reo.

Emerson nói, "Vâng?"

Reacher nói, "Đoán xem ai đây nào?"

"Reacher?"

"Ông nói đúng chóc."

"Ông ở đâu?"

"Tôi vẫn trong thị trấn."

"Ở đâu?"

"Không xa lắm."

"Ông biết là chúng tôi đang truy tìm ông phải không?"

"Tôi có nghe."

"Vậy thì ông nên ra đầu thú đi."

"Tôi không nghĩ vậy."

Emerson nói, "Thế thì chúng tôi sẽ tìm ra ông."

"Ông nghĩ tìm được hả?"

"Dễ dàng thôi."

"Ông có biết một người có tên là Franklin không?"

"Tôi biết chứ."

"Hãy hỏi xem dễ đến mức nào."

"Lúc đó khác. Ông có thể đang ở bất cứ nơi nào."

"Ông đã theo dõi cái nhà trọ rồi phải không?"

Im lặng trong một thoáng. Emerson không trả lời.

Reacher nói, "Cứ để người của ông ở lại đó. Có thể tôi sẽ quay lại. Mà cũng có thể không."

"Chúng tôi sẽ tìm ra ông."

"Không hy vọng đâu. Ông không đủ giỏi để làm chuyện đó."

"Có thể chúng tôi đang lần theo cú gọi này."

"Tôi sẽ đỡ cho ông một tay. Tôi đang ở bên ngoài một tiệm tạp hóa tên là Martha's."

"Ông nên vào trong tiệm đi kẻo lạnh."

Reacher đáp, "Ta sẽ trao đổi nhé. Hãy tìm xem ai đã đặt cái trụ chắn đường trong bãi đậu xe và rồi tôi sẽ nghĩ đến việc ra nộp mình."

"Barr đã đặt cái trụ."

"Ông biết là hắn không đặt. Chiếc xe của hắn không hiện diện trong các cuốn băng."

"Vậy thì hắn dùng xe khác."

"Hắn không có xe nào khác."

"Thì hắn mượn xe."

Reacher nói, "Mượn của một người bạn? Có thể. Hay có thể là người bạn đặt cái trụ cho hắn. Dù thế này hay thế khác, ông tìm ra người bạn đó thì tôi sẽ nghĩ đến việc tới nói chuyện với ông."

"Có hàng trăm chiếc xe trong những cuốn băng đó."

Reacher nói, "Ông được hỗ trợ mà."

Emerson nói, "Tôi không trao đổi gì cả."

Reacher nói, "Tôi nghĩ tên hắn là Charlie. Một gã nhỏ con, tóc đen thô và xoăn."

Emerson lặp lại, "Tôi không trao đổi gì cả."

Reacher nói, "Tôi không giết cô gái đó."

"Đó là ông nói."

"Tôi mến cô ấy."

"Ông đang làm tôi đau lòng đấy."

"Và ông biết là tôi không ngủ ở khách sạn Metropole tối qua."

"Đó là lý do vì sao ông vứt cô ấy ở đó."

"Và tôi không thuận tay trái."

"Tôi không hiểu ý ông."

"Hãy bảo Bellantonio nói chuyện với nhân viên pháp y của ông."

Emerson nói, "Chúng tôi sẽ tìm ra ông."

Reacher nói, "Các ông không tìm ra đâu. Trước đây chưa từng có ai làm được."

Rồi ông cúp máy và đi trở ra đường. Băng qua đường và cuốc bộ lên nửa khối phố về hướng Bắc rồi núp sau một chồng cọc chia làn bằng bê tông chưa sử dụng trong một khu đất trống. Ông chờ. Sáu phút sau hai xe tuần tra dừng lại trước tiệm tạp hóa. Bật đèn, nhưng không hụ còi. Bốn tay cảnh sát nhảy ra. Hai người vào tiệm, hai người kia đi tìm trạm điện thoại công cộng. Reacher quan sát họ gặp lại nhau trên vỉa hè. Quan sát họ lục soát con hẻm và góc phố của nó. Quan sát họ trở lại. Quan sát họ chấp nhận thua cuộc. Ông thấy một trong bốn người gọi máy bộ đàm nói chuyện vắn tắt gì đó đầy những cử chỉ thanh minh. Giơ tay lên, nhún vai. Rồi cuộc đàm thoại chấm dứt và Reacher chuồn đi về hướng Đông, nhắm hướng trở lại khách sạn Marriott.

The Zec chỉ có một ngón cái và một ngón duy nhất nữa còn lại trên mỗi bàn tay. Trên bàn tay phải là phần còn lại của ngón trỏ, đen lại và teo quắt vì giá lạnh. Có lần lão đã sống một tuần ngoài trời trong mùa đông, mặc một chiếc áo choàng Hồng quân cũ, và do người chủ cũ của nó đeo bình toong nước trên dây thắt lưng nên đã làm mòn phần vải túi bên phải nhiều hơn là túi bên trái. Sự sống còn đã treo trên những khác biệt nhỏ mọn ấy. Bàn tay trái của lão đã thoát, và bàn tay phải mất đi. Lão đã cảm thấy từng ngón tay chết đi từ ngón út trở vào. Lão đã rút bàn tay ra khỏi túi áo và để cho nó đông cứng lại đủ để không còn cảm thấy gì nữa. Rồi lão cắn đứt những ngón tay đã chết trước khi chứng hoại thư kịp lan ra. Lão vẫn nhớ đã nhả chúng xuống đất, từng ngón một, như những nhánh cây con màu nâu.

Bàn tay trái của lão còn ngón út. Ba ngón giữa đã mất. Hai ngón bị một tên bạo dâm cắt đứt bằng kéo làm vườn. Chính tay The Zec cắt đi ngón còn lại, với một chiếc thìa được mài sắc, để được tính là thiếu khả năng lao động trong một xưởng máy nào đó.

Lão không thể nhớ lại các chi tiết, nhưng vẫn nhớ một lời đồn rất thuyết phục rằng thà mất thêm một ngón tay còn hơn là làm thứ công việc đó. Có vấn đề gì đó với tay đốc công.

Hai bàn tay hư hoại. Chỉ là hai trong nhiều kỷ vật về một thời điểm khác, một nơi chốn khác. Lão không còn để tâm nhiều đến chúng, nhưng chúng làm cho đời sống thời hiện đại trở nên khó khăn. Điện thoại di động trở nên quá bé. Số của Linsky dài đến mười con số, bấm được nó thật là khốn nạn. The Zec chẳng bao giờ giữ lại một chiếc điện thoại đủ lâu để đáng lưu lại một con số. Giữ lại là một chuyện điên rồ.

Rốt cuộc lão cũng bấm được số và cố tập trung, và bấm nút gọi bằng ngón út của bàn tay trái. Rồi lão chuyển chiếc điện thoại vào lòng bàn tay kia và úp nó vào tai. Lão không cần giữ sát nó vào tai. Thính giác của lão vẫn còn rất tuyệt, điều này quả là một phép lạ.

Linsky nói, "Vâng?"

The Zec nói, "Chúng không thể tìm ra hắn. Lẽ ra ta không nên bảo mày chấm dứt việc tự theo dõi đi. Lỗi của ta."

"Chúng đã tìm ở đâu?"

"Đây đó. Tối qua hắn ngủ ở nhà trọ. Chúng đã cho người giám sát khu đó, nhưng ta tin chắc là hắn sẽ không quay lại đó. Chúng cắt một người ở phòng luật sư. Ngoài chuyện đó ra, chúng đang va vấp mò mẫm trong bóng tối."

"Thầy muốn em làm gì đây?"

"Ta muốn mày tìm hắn. Dùng Chenko và Vladimir. Và ta sẽ phái Raskin tới mày. Hợp tác với nhau. Hãy tìm ra hắn trong tối nay và gọi cho ta."

Reacher dừng chân cách khách sạn Marriott hai khối phố. Ông biết Emerson sẽ làm những gì. Ông đã từng là Emerson trong mười ba năm. Emerson sẽ duyệt lại một danh sách trong đầu mình. Những nơi có khả năng thường lui tới, những mối quan hệ đã được biết. Những nơi có khả năng thường lui tới vào giờ này sẽ bao gồm những quán ăn. Thế nên Emerson sẽ điều xe đến các quán ăn, nhà hàng, quán cà phê, gồm luôn quán ăn nhẹ mà Helen Rodin thích và quán bar thể thao. Rồi ông ta sẽ tính đến những mối quan hệ được biết, như thế là hạn chế lại chỉ còn bản thân Helen Rodin. Ông ta sẽ phái tay cớm ở khách sảnh lên tầng bốn và gõ cửa văn phòng.

Rồi ông sẽ thử thời vận với Eileen Hutton.

Vì thế Reacher dừng chân cách khách sạn Marriott hai khối phố và nhìn quanh tìm nơi để chờ. Ông tìm thấy một chỗ phía sau một tiệm giày. Có một tường quây cao ba mặt bằng gạch, chắn một hộc chứa rác bằng nhựa cao ngang vai khỏi mắt thiên hạ. Reacher bước vào và phát hiện ra rằng nếu ông dựa vai vào thùng rác thì ông có thể thấy một khoảnh cửa chính của Marriott rộng chừng một thước. Tư thế đó không phải là không thoải mái. Và nó là đống rác có mùi dễ chịu nhất mà ông từng gặp. Cái thùng tỏa mùi giấy bìa và giày mới. Khá hơn những nơi có thể gặp ở phía sau một tiệm bán cá.

Ông nghĩ rằng nếu Emerson là người năng nổ thì ông sẽ phải chờ ít hơn ba mươi phút. Rất năng nổ, thì ít hơn hai mươi phút. Trung bình, thì chừng gần một giờ. Ông dựa vào thùng rác giết thì giờ. Chưa muộn lắm nhưng đường phố đã vắng ngắt. Rất ít người ra ngoài lang thang. Ông quan sát, và chờ. Rồi mùi da mới từ những hộp giày vứt đi làm ông phân tâm. Nó khiến ông nghĩ đến giày dép. Có lẽ một lúc nào đó ông nên ghé lại tiệm mua một đôi giày mới. Ông duỗi chân ra và nhìn xuống. Đôi giày thuyền ông đang mang mềm, nhẹ và đế mỏng. Nó hợp với Miami. Nhưng không tốt cho tình cảnh hiện tại chút nào. Ông có thể hình dung được mình sẽ cần đến một đôi khác nặng hơn.

Rồi ông lại nhìn xuống. Đu người về phía sau, khép hai bàn chân lại với nhau và bước tới trước cùng một nhịp. Rồi dừng lại. Ông làm lại với chân kia, rồi dừng lại, như khuôn hình bất động một người đang bước đi. Ông nhìn chăm chăm xuống, lờ mờ nghĩ một điều gì đó trong đầu. Một điều gì đó từ mớ chứng cứ của Bellantonio. Một điều gì giữa hàng trăm tờ giấy được in ra đó.

Rồi ông lại ngẩng lên, vì ông cảm thấy có sự chuyển động trong khóe mắt cạnh cánh cửa của khách sạn Marriott cách hai khối phố. Ông thấy một mui xe tuần cảnh. Nó chạy vào tầm nhìn của ông và chúi xuống một thoáng khi phanh và dừng lại. Rồi hai tay cảnh sát mặc đồng phục xuất hiện, bước tới trước. Ông liếc nhìn đồng hồ. Hai mươi ba phút. Ông mỉm cười. Emerson giỏi, nhưng không đến nỗi xuất sắc. Các viên cảnh sát bước vào cửa. Họ sẽ mất năm phút với tay nhân viên đứng quầy tiếp tân. Tay lễ tân sẽ cho họ số phòng của Hutton mà không tranh cãi gì. Nói chung, những tay lễ tân khách sạn ở những thành phố nhỏ miệt trong không phải là những nhà hoạt động trong Liên hiệp tự do dân sự Hoa Kỳ. Và ngày mai thì khách sẽ đi, nhưng sở cảnh sát địa phương thì luôn luôn còn đó.

Vậy là các tay cảnh sát sẽ lên phòng của Hutton. Họ sẽ gõ cửa. Hutton sẽ để cho họ vào. Bà không có gì giấu giếm. Các tay cớm sẽ nhìn ngó quanh phòng rồi trở xuống. Mười phút là cao nhất, từ đầu cho đến cuối.

Reacher lại ngó đồng hồ lần nữa, và chờ.

Các viên cảnh sát trở ra sau tám phút. Họ dừng lại bên ngoài cửa, những dáng người nhỏ tí xa xa. Một người trong bọn chúi đầu xuống cổ áo và dùng máy truyền tin, gọi báo cáo tiến trình thất bại, lắng nghe địa chỉ kế đến là ở đâu. Nơi có khả năng thường lui tới kế tiếp. Mối quan hệ được biết đến kế tiếp. Hoàn toàn thủ tục. Reacher nghĩ, Chúc mấy em trai một buổi tối vui. Vì tôi sẽ vui. Điều đó là chắc chắn. Ông nhìn họ lái xe đi và chờ thêm một phút phòng hờ họ chạy về phía mình. Rồi ông bước ra khỏi bức tường quây bằng gạch và đi thẳng đến chỗ Eileen Hutton.

Grigor Linsky ngồi chờ trong xe tại một lối thoát hiểm ở một bãi đậu xe của siêu thị, đối diện với một cửa sổ dán nguyên một tấm quảng cáo thịt bò xay hạ giá khổng lồ màu cam. Linsky nghĩ, Cũ và hỏng rồi. Hay đầy nhóc vi khuẩn. Loại thịt mà có thời mình và The Zec sẽ giết người để có mà ăn. Và giết người là sự thật. Linsky không có chút ảo tưởng nào cả. Không một chút nào. The Zec và hắn là những kẻ xấu bị cuộc sống làm cho tồi tệ hơn. Những nỗi khổ nhục chung của chúng không sinh ra tình cảm khoan dung hay cao thượng nào cả. Mà hoàn toàn ngược lại. Những kẻ trong hoàn cảnh của chúng mà xem trọng sự khoan dung và cao thượng đã chết ngay trong vài giờ. Nhưng The Zec và hắn đã sống sót, như những con chuột cống, bằng cách vứt bỏ mọi ức chế, bằng cách chiến đấu và cắn xé, bằng cách phản bội những kẻ mạnh hơn mình, bằng cách khống chế những kẻ yếu hơn mình.

Và chúng đã học nằm lòng. Điều gì thành công một lần sẽ luôn thành công trong những lần sau đó.

Linsky nhìn vào kính chiếu hậu thấy xe của Raskin đang chạy đến. Đó là một chiếc Lincoln Town Car kiểu cũ dáng vuông, màu đen và bụi bặm, nghiêng ngả như một tàu chiến bị thủng lỗ. Nó đậu nối đuôi xe hắn và Raskin bước ra. Hắn giống y như trước kia, một thằng lưu manh hạng hai của Moscow. Đậm người, mặt dẹt, áo khoác da rẻ tiền, mắt lờ đờ. Trên bốn mươi. Theo quan niệm của Linsky thì hắn là một thằng đần độn, nhưng hắn đã sống sót qua chiến thắng cuối cùng của Hồng Quân ở Afghanistan, việc này cũng có ý nghĩa chút đỉnh. Khối kẻ khôn ngoan hơn Raskin không trở về được nguyên vẹn, hay chẳng trở về là đằng khác. Điều làm cho Raskin thành một kẻ sống sót là phẩm chất có ý nghĩa hơn bất cứ phẩm chất nào khác, đối với The Zec.

Raskin mở cửa sau và chui vào băng ghế ngay sau lưng Linsky. Hắn không nói lời nào. Chỉ chìa ra bốn bản sao tờ áp phích lệnh truy nã của Emerson. Do The Zec gửi. Làm thế nào mà The Zec có được mấy tờ áp phích thì Linsky không biết chắc. Nhưng hắn có thể đoán. Những tờ áp phích trông khá được. Nhìn rất giống. Nó sẽ thực hiện được mục đích của mình.

Linsky lịch sự nói, "Cám ơn."

Raskin không đáp.

Hai phút sau, Chenko và Vladimir đến trong chiếc Cadillac của Chenko. Chenko cầm lái. Chenko luôn luôn cầm lái. Hắn đậu xe sau chiếc Lincoln của Raskin. Ba chiếc xe lớn màu đen đậu thẳng hàng. Đoàn xe tang dành cho Reacher. Linsky cười thầm. Chenko và Vladimir ra khỏi xe và bước tới, một gã nhỏ con da sậm, gã kia to con da sáng. Chúng lên chiếc Calillac của Linsky, Chenko ngồi ghế trước, Vladimir lên ghế sau kế bên Raskin, đếm theo chiều kim đồng hồ thì Linsky trên ghế tài xế, rồi Chenko, rồi Vladimir, và Raskin. Đúng tôn ti trật tự, được tuân thủ một cách bản năng. Linsky lại mỉm cười và đưa ra ba bản sao áp phích. Hắn giữ lại cho mình một bản, cho dù hắn không cần nó. Hắn đã thấy Jack Reacher quá nhiều lần rồi.

Hắn nói, "Chúng ta sẽ bắt đầu lại từ đầu. Ngay từ khởi điểm. Chúng ta có thể tin rằng cảnh sát sẽ bỏ sót một điều gì đó."

Reacher mở cánh cửa thoát hiểm và lấy miếng chêm bằng giấy bìa ra khỏi hốc khóa rồi cất nó vào túi. Ông bước vào và để cánh cửa tự khóa lại sau lưng. Ông theo hành lang phía sau đến thang máy và lên tầng ba. Gõ cửa phòng Hutton. Trong đầu vang vang một câu thoại, do tài tử Jack Nicholson đóng vai một tay đại tá thủy quân lục chiến lão luyện trong một bộ phim nào đó nói về những tay luật sư của Hải quân: Không có điều gì thắng nổi người đàn bà mà bạn phải cúi chào vào buổi sáng.

Hutton không vội mở cửa. Ông đoán rằng bà đã ổn định lại một nơi nào đó sau khi thoát được đám cảnh sát. Bà không mong mình lại bị quấy nhiễu sớm như vậy. Nhưng sau cùng thì cửa cũng mở ra và bà đứng ngay đó. Bà mặc áo choàng tắm, rõ ràng vừa mới tắm xong. Ánh sáng phía sau làm tóc bà sáng lên. Hành lang mờ tối và căn phòng trông ấm cúng và mời mọc.

Bà nói, "Anh đã trở lại."

"Em nghĩ rằng anh sẽ không trở lại à?"

Ông bước vào và bà đóng cửa lại.

Bà nói, "Cảnh sát mới ở đây."

Ông nói, "Anh biết. Anh quan sát họ cả buổi."

"Anh ở đâu?"

"Trong một bồn rác cách đây hai khối phố."

"Anh muốn tắm rửa chút không?"

"Bồn rác này rất sạch. Sau lưng một tiệm giày."

"Anh muốn đi ăn tối không?"

Ông đáp, "Anh khoái được phục vụ tại phòng hơn. Anh không muốn đi lòng vòng nhiều hơn cần thiết."

Bà nói, "Được thôi. Có lý đấy. Phục vụ tại phòng vậy."

"Nhưng chưa phải bây giờ."

"Em có nên thay đồ không?"

"Chưa đâu."

Bà ngưng một thoáng.

Bà hỏi, "Tại sao không?"

Ông đáp, "Còn việc chưa hoàn tất."

Bà không nói gì.

Ông nói, "Anh rất vui được gặp lại em."

Bà nói, "Chỉ mới chưa đầy ba giờ thôi mà."

Ông nói, "Ý anh muốn nói là hôm nay. Cả ngày hôm nay. Sau ngần ấy thời gian."

Rồi ông bước đến ôm lấy gương mặt bà trong lòng bàn tay. Chuồi những ngón tay vào tóc như ông từng làm trước kia và dùng ngón cái lần theo đường viền xương má bà.

Bà hỏi, "Chúng ta có nên làm chuyện này không?"

"Em không muốn sao?"

Bà nói, "Đã mười bốn năm rồi."

Ông nói, "Có nhảy lên xe đạp vẫn sẽ bon như trước."

"Anh nghĩ là vẫn như cũ à?"

"Nó sẽ hay hơn."

Bà hỏi, "Hay hơn thế nào?"

Ông nói, "Mình luôn luôn hay. Không phải sao? Nó còn có thể hay đến mức nào đây?"

Bà giữ yên một lúc lâu. Rồi bà vòng tay ra sau đầu ông. Bà kéo, ông cúi xuống và họ hôn nhau. Rồi lần nữa, say đắm hơn. Rồi lần nữa, lâu hơn. Mười bốn năm tan biến mất. Cùng mùi vị cũ, cùng cảm nhận cũ. Cùng háo hức cũ. Bà kéo áo ông ra khỏi quần và cởi nút nó từ dưới lên, nôn nả. Khi chiếc khuy sau cùng mở xong, bà vuốt lòng bàn tay lên khắp ngực ông, vai ông, lưng ông, xuống thắt lưng, vòng ra trước. Đôi giày ông trượt ra dễ dàng. Và đôi tất. Ông đá hất chiếc quần ngang qua phòng và cởi dây lưng của bà. Chiếc áo mở toang ra.

Ông nói, "Trời ạ, Hutton. Em không thay đổi chút nào cả."

Bà nói, "Anh cũng vậy."

Rồi họ đi tới giường, ngã nhào xuống, nhanh vội, khóa cứng lấy nhau như một con thú bốn chân kỳ dị.

Grigor Linsky theo hướng sườn Nam của thị trấn. Hắn kiểm tra quán ăn nhanh rồi xuôi xuống bến tàu. Rẽ quanh và chạy cắt ngang dọc những con đường hẹp, bao hết ba mặt của từng khối phố, ngừng lại ở mỗi ngã rẽ để quan sát các vỉa hè trên mặt thứ tư. Chiếc Cadillac bò chầm chậm. Bộ tiếp lực rít lên ở mỗi góc phố. Một công việc chậm chạp và kiên nhẫn. Nhưng đây không phải là một thành phố lớn. Không huyên náo rộn ràng. Không đám đông. Và không một ai có thể trốn tránh được mãi mãi. Điều đó là kinh nghiệm của Grigor Linsky.

Sau đó Hutton nằm trong vòng tay của Reacher và dò những ngón tay làm một cuộc kiểm kê dài và chậm thân thể mà bà đã quá thân thuộc. Nó đã thay đổi trong mười bốn năm. Ông đã nói Em không thay đổi chút nào cả và bà nói Anh cũng vậy, nhưng bà biết cả hai đã rộng lượng với nhau. Không một ai giữ nguyên như cũ. Gã Reacher mà bà đã biết trong sa mạc trẻ hơn và được cái nóng nung cho săn chắc lên, uyển chuyển duyên dáng như một con chó nòi. Giờ đây ông nặng nề, với những bắp thịt rắn như gỗ gụ. Những vết sẹo mà bà nhớ đã phẳng lại và phai mất đi, và được thay thế bằng những vết mới. Trên trán ông có những đường nhăn. Chân chim trên khóe mắt. Nhưng mũi của ông vẫn thẳng và không bị gãy. Răng trước của ông còn nguyên vẹn, như những huy chương. Bà vuốt xuôi xuống tay ông và mân mê những khớp ngón tay. Chúng to và rắn, như vỏ quả óc chó phủ đầy thớ sẹo. Bà nghĩ, Vẫn còn là một tay võ sĩ. Vẫn hy sinh đôi bàn tay cho mũi và răng nguyên vẹn. Bà lần lên ngực ông. Ông có một cái lỗ thủng ở đó, về bên trái. Bắp thịt bị rách, miệng đủ rộng để bỏ đầu ngón tay của bà vào. Một vết đạn. Cũ rồi, nhưng là mới đối với bà. Chắc là một viên cỡ 38 ly.

Reacher nói, "Ở New York. Nhiều năm trước. Ai cũng hỏi."

"Ai là ai?"

"Những ai thấy nó."

Hutton rúc vào sát hơn. "Có bao nhiêu người thấy nó?"

Ông mỉm cười, "Em biết mà, trên các bãi biển, đại loại như thế."

"Và trên giường?"

Ông nói, "Phòng thay đồ."

Bà lặp lại. "Và trên giường."

Ông nói, "Anh đâu phải là nhà tu."

"Nó đau không?"

"Anh không nhớ. Anh mê man trong ba tuần."

"Nó ngay trên tim của anh."

"Nó là một khẩu súng ngắn. Chắc là loại đạn không mạnh. Lẽ ra hắn nên nổ vào đầu. Bắn vậy thì tốt hơn."

"Tốt cho hắn. Không phải cho anh."

"Anh là kẻ may mắn. Trước đã vậy, sau này vẫn vậy."

"Có thể. Nhưng anh nên thận trọng hơn."

"Anh vẫn cố hết sức."

Chenko và Vladimir đi với nhau lên hướng sườn Bắc của thị trấn. Chúng tránh cái nhà trọ. Có thể đoán là cảnh sát đã bố trí nơi ấy đâu vào đó rồi. Do đó điểm dừng đầu tiên của chúng là quán bar thể thao. Chúng vào và đi vòng quanh. Bên trong tối và không đông lắm. Có lẽ chừng ba mươi khách. Không có ai giống với bức chân dung phác họa. Không có ai là Reacher. Vladimir đứng ở gần cửa còn Chenko vào xem nhà vệ sinh. Một buồng vệ sinh đóng cửa. Chenko chờ cho tới khi có tiếng giật nước và một người bước ra. Không phải Reacher. Chỉ là một người bình thường. Chenko đi ra với Vladimir và cả hai trở lại xe. Lại chạy cắt ngang dọc những con đường hẹp, bao hết ba mặt của từng dãy phố, ngừng lại ở mỗi ngã rẽ để quan sát các vỉa hè trên mặt thứ tư.

Hutton chống cùi chỏ nhỏm người lên và nhìn xuống gương mặt của Reacher. Đôi mắt ông vẫn như trước. Có lẽ hằn sâu hơn một chút, và hơi sụp hơn. Nhưng chúng vẫn sáng xanh như những mảnh nước đá dưới mặt trời miền Bắc cực. Như một tấm bản đồ màu của hai cái hồ tuyết tan giống y nhau trong phong cảnh ở vùng núi cao. Nhưng biểu cảm của chúng đã thay đổi. Mười bốn năm trước chúng viền đỏ vì những cơn bão cát sa mạc và mờ đi do một cảm giác khinh bạc cay đắng nào đó. Chúng là đôi mắt lính. Mắt cảnh sát. Bà nhớ cái kiểu chúng quét lười biếng và chậm rãi ngang căn phòng như một viên đạn khói chết chóc cuốn về phía mục tiêu. Giờ đây chúng trong hơn. Trẻ trung hơn. Hồn nhiên hơn. Ông già đi mười bốn tuổi, nhưng ánh mắt lại trở lại trẻ thơ.

Bà nói, "Anh mới cắt tóc."

Ông đáp, "Mới sáng nay. Cắt vì em."

"Vì em?"

"Hôm qua anh giống một gã người rừng. Họ nói là em sắp đến. Anh không muốn em nghĩ anh là một kiểu ma cà bông nào đó."

"Anh không phải như thế sao?"

"Một kiểu nào đó, anh đoán vậy."

"Kiểu gì nào?"

"Kiểu tự nguyện."

Bà nói, "Mình ăn thôi."

Ông nói, "Nghe cũng hay đấy."

"Anh muốn ăn gì đây?"

"Bất cứ gì em gọi. Mình ăn chung. Hãy kêu một phần ăn lớn."

"Anh có thể chọn món cho mình nếu anh muốn."

Ông lắc đầu. "Một tháng nữa thì một tay thư ký nào đó của Bộ Quốc phòng sẽ xem qua những chi tiêu của em. Tốt hơn là hắn chỉ thấy có mỗi một phần ăn thay vì hai."

"Anh lo cho tiếng tăm của em sao?"

"Anh lo về lần thăng chức sắp tới của em."

"Em sẽ không thăng chức đâu. Em lên đến chuẩn tướng là hết mức thôi."

"Giờ sẽ khác vì gã Petersen này nợ em một cú khá lớn."

"Không thể chối cãi là hai sao sẽ rất oách."

Reacher nói, "Oách cho anh nữa. Anh bị các tay hai sao phang cho nhiều trận rồi. Cứ nghĩ chính mình phang lại một tay thì cũng khoái lắm."

Bà nhăn mặt.

Reacher nói, "Gọi thức ăn đi."

Bà nói, "Em thích sa lát."

"Ai đó phải nhường thôi, anh nghĩ thế."

"Anh không thích à?"

"Hãy bắt đầu với một sa lát gà Caesar và theo sau là bít-tết. Em ăn mớ rau cỏ, anh sẽ ăn bít-tết. Rồi lấy một suất tráng miệng thật nhiều. Và một bình cà phê lớn."

"Em thích trà."

Reacher nói, "Không thể làm vậy. Có một số thỏa hiệp mà anh không thể đồng ý. Thậm chí có là cho Bộ Quốc phòng cũng mặc kệ."

"Nhưng em khát."

"Họ sẽ mang nước trà đá. Lúc nào chẳng có."

"Em cấp cao hơn anh."

"Em luôn luôn ở cấp cao hơn anh. Có bao giờ em thấy anh uống trà vì điều đó không?"

Bà lắc đầu và xuống giường. Khỏa thân bước ngang qua căn phòng. Xem thực đơn và quay điện thoại. Gọi sa lát gà Caesar, bốn trăm rưỡi gam thịt thăn bò, và một cái bánh to phủ kem. Và một bình cà phê sáu tách. Reacher mỉm cười với bà.

Bà nói, "Hai mươi phút. Mình đi tắm thôi."

Raskin nhận khu thương mại. Hắn đi bộ, tay cầm tờ chân dung phác thảo và trong đầu có một danh mục: nhà hàng, bar rượu, quán ăn, tiệm bánh mì, tiệm tạp hóa, khách sạn. Hắn bắt đầu ở khách sạn Metropole Palace. Khách sảnh, quầy rượu. Không gặp may. Hắn tiếp tục đến một nhà hàng Tàu cách hai khối phố. Vào rồi trở ra, nhanh chóng và kín đáo. Hắn cho rằng mình rất giỏi trong loại việc này. Hắn không phải là một người dễ gây chú ý. Loại người không đáng nhớ. Cao trung bình, nặng trung bình, gương mặt không đặc điểm. Chỉ là con số không trên đời, điều mà xét về mặt này là sự thất bại, nhưng mặt khác lại là một lợi thế rất lớn. Người ta nhìn hắn, nhưng thật sự họ không thấy hắn. Mắt họ trượt ngay qua.

Reacher không có mặt trong nhà hàng Tàu. Cũng không có mặt trong tiệm bánh mì, hay quán rượu của người Ái Nhĩ Lan. Nên Raskin dừng chân trên vỉa hè và quyết định đi về hướng Bắc. Hắn có thể kiểm tra văn phòng của ả luật sư và đến khách sạn Marriott. Vì theo Linsky thì các bà các cô ở những nơi đó. Và theo kinh nghiệm của Raskin thì những kẻ không phải là con số không trên đời ưa la cà với đàn bà nhiều hơn mức trung bình.

Reacher bước khỏi phòng tắm và mượn bàn chải, kem đánh răng, và lược của Hutton. Rồi ông lau khô và đi quanh nhặt lại áo quần. Mặc chúng vào, nhét áo vào trong quần. Ông đã mặc đồ xong và ngồi trên giường khi nghe tiếng gõ cửa phòng.

Một giọng ngoại quốc vang lên, "Phục vụ phòng."

Hutton thò đầu ra khỏi cửa phòng vệ sinh. Bà đã mặc đồ rồi nhưng đang sấy tóc giữa chừng.

Reacher nói, "Em ra đi."

"Em?"

"Em phải ký nhận mà."

"Anh có thể ghi tên em."

"Trong hai giờ nữa bọn cớm cũng sẽ chưa tìm ra anh và chúng sẽ quay lại đây. Tốt hơn là chúng ta không để cho kẻ nào bên dưới kia biết là em không ở một mình."

"Anh chẳng bao giờ thư thả cả sao?"

"Anh càng ít thư thả thì càng được may mắn."

Hutton vuốt tóc cho gọn lại rồi đi ra cửa. Reacher nghe tiếng leng keng của chiếc xe đẩy và chén đĩa va nhau và tiếng sột soạt của ngòi bút trên giấy. Rồi ông nghe tiếng cửa đóng lại và ông bước qua phòng khách, bắt gặp một chiếc bàn có bánh xe đẩy được dọn ra ở giữa phòng. Người bồi đã đặt một chiếc ghế bên nó.

Hutton nói, "Một dao, một nĩa, một thìa. Mình không nghĩ đến chuyện đó."

Reacher nói, "Mình sẽ thay phiên nhau. Càng lãng mạn."

"Em sẽ cắt thịt của anh ra và anh dùng tay bốc nhé."

"Em có thể đút cho anh. Lẽ ra chúng ta nên gọi nho."

Bà mỉm cười.

Ông hỏi, "Em có nhớ James Barr không?"

Bà đáp, "Quá lâu rồi. Nhưng em vừa đọc lại hồ sơ của hắn hôm qua."

"Hắn bắn giỏi đến đâu?"

"Không phải là người giỏi nhất mà chúng ta từng có, cũng không phải là người tệ nhất."

"Anh cũng nhớ vậy. Anh vừa vào bãi đậu xe xem lại. Thật là bắn quá tuyệt. Rất ấn tượng. Anh không nhớ rằng hắn bắn giỏi đến vậy."

"Có rất nhiều chứng cứ ở đó."

Ông gật đầu, không nói gì.

Bà nói, "Có thể hắn tập ghê lắm. Hắn trong quân ngũ sáu năm nhưng đã xuất ngũ gần gấp ba lần thời gian. Có thể sau này hắn mới phát triển tài năng."

Ông đáp, "Có thể."

Bà nhìn ông. "Anh không ở lại phải không? Anh định đi ngay sau khi ăn. Vì có chuyện này với đám cảnh sát. Anh nghĩ rằng họ sẽ quay lại phòng."

Reacher nói, "Họ sẽ quay lại. Tin thế đi."

"Em không bắt buộc phải để cho họ vào."

"Một nơi như thế này thì bọn cớm muốn làm gì chẳng được. Và nếu chúng tìm thấy anh ở đây thì em rắc rối to."

"Không rắc rối gì cả nếu anh vô tội."

"Em không có cách gì chính đáng để bào chữa cho anh. Đó là điều họ sẽ nói."

Hutton nói, "Em là luật sư mà."

Reacher nói, "Và anh đã từng là một tay cớm. Anh hiểu họ như thế nào. Họ ghét những kẻ đào thoát. Những kẻ đào thoát làm họ điên đầu. Họ sẽ bắt nhốt em cùng lúc với anh và tháng sau mới phân giải xong mọi việc. Bằng vào lúc đó thì chiếc sao thứ hai của em sẽ tiêu tùng."

"Vậy anh đi đâu đây?"

"Chưa biết. Nhưng anh sẽ nghĩ ra."

Cánh cửa mở ra đường ở tầng dưới cùng của tòa cao ốc kính đen khóa lại vào ban đêm. Raskin gõ lên nó hai lần. Tay nhân viên bảo vệ ngồi ở bàn đặt trong khách sảnh ngước lên. Raskin dùng tờ phác họa vẫy anh ta.

Hắn la lên, "Giao hàng."

Tay bảo vệ đứng dậy bước lại và dùng một chiếc trong xâu chìa khóa để mở khóa cửa. Raskin bước vào trong.

Hắn nói, "Rodin. Tầng bốn."

Tay bảo vệ gật đầu. Văn phòng luật của Helen Rodin nhận rất nhiều gói hàng trong hôm đó. Hộp, thùng giấy, xe đẩy. Thêm một món nữa cũng là bình thường. Chẳng có gì ngạc nhiên. Anh ta trở về bàn mà không có ý kiến gì. Raskin bước vào thang máy, bấm số 4.

Điều đầu tiên hắn thấy trên tầng bốn là tay cớm của thành phố đang đứng bên ngoài cửa phòng ả luật sư. Raskin hiểu ngay lập tức điều đó có ý nghĩa gì. Nó có nghĩa là văn phòng của luật sư vẫn là một khả năng để ngỏ. Có nghĩa là Reacher không có mặt trong đó vào lúc này và trong thời gian gần đây chưa lúc nào vào đó. Do đó Raskin đi loanh quanh như thể hắn bối rối vì cách bố trí của hành lang và đi vào một góc. Chờ một lát rồi đi trở lại thang máy. Hắn gấp tờ phác thảo lại, cho vào túi. Trong khách sảnh hắn vẫy tay chào tay bảo vệ ra hiệu đã xong việc và đi ra ngoài bóng đêm. Rẽ trái, đi về hướng Bắc và Đông phía khách sạn Marriott.

Bình cà phê có dung tích sáu tách vượt quá khả năng của Reacher. Ông bỏ cuộc sau năm tách. Hutton có vẻ không quan tâm. Ông đoán bà nghĩ rằng uống hết năm trong sáu tách là đã giải thích được đòi hỏi nằng nặc của ông.

Bà nói, "Đến thăm em ở Washington nhé."

Ông đáp, "Anh sẽ đến. Chắc chắn vậy. Lần tới anh đến đó."

"Đừng để chúng bắt."

Ông đáp, "Không đâu. Anh không để cho mấy thằng này bắt đâu."

Rồi ông chỉ nhìn bà thêm một phút. Lưu giữ ký ức. Đính thêm một mảnh nữa vào bức khảm của mình. Ông hôn một lần lên môi bà và bước ra cửa. Đi ra hành lang và thẳng đến cầu thang. Ở tầng trệt ông đi tránh khách sảnh và lại dùng lối cửa thoát hiểm. Nó đóng sập và khóa lại sau lưng ông, và ông hít một hơi sâu và bước ra khỏi những bóng tối về phía hè phố.

Raskin thấy ông ngay lập tức. Ông cách hắn ba mươi bộ, rảo bước nhanh, ra khỏi Marriott từ phía hậu. Hắn thấy một ánh lóe lên của cửa kính trong ánh đèn đường. Một cửa thoát hiểm, đang mở. Hắn thấy một người đàn ông dáng cao bước ra. Đứng yên. Rồi cánh cửa đóng sập bằng bộ phận thủy lực, người đàn ông dáng cao quay nhìn nó khóa lại sau lưng và một luồng ánh sáng phản chiếu trên tấm kính đang di động rọi nhanh ngang mặt ông. Chỉ trong một thoáng giây, như một ánh đèn pin quét nhanh. Như là lia qua khung hình. Không nhiều. Nhưng đủ cho Raskin tin chắc. Kẻ vừa đi qua cánh cửa thoát hiểm là người trong bức phác thảo. Jack Reacher, chắc chắn, không nghi ngờ gì nữa. Đúng chiều cao, đúng cân nặng, đúng nét mặt. Raskin đã nghiên cứu những chi tiết rất lâu và rất kỹ.

Nên hắn đứng im, bước lui vào bóng đêm. Quan sát, và chờ. Thấy Reacher liếc nhìn bên phải, bên trái, rồi đi thẳng về phía trước, về hướng Tây, nhanh và thư thái. Raskin đứng yên tại chỗ và đếm thầm một, hai, ba trong đầu. Rồi hắn bước ra khỏi bóng tối băng ngang bãi đậu xe, và lại dừng rồi nhìn quanh góc phố về hướng Tây. Reacher cách hai mươi thước ở đằng trước. Vẫn bước đi thoải mái. Vẫn không cảnh giác. Đi giữa hè phố, bước sải dài, hai cánh tay đánh vung ở bên sườn. Ông là một người to con. Điều đó là chắc chắn. Dễ phải to ngang Vladimir.

Raskin lại đếm đến ba và để cho Reacher đi trước bốn mươi thước. Rồi hắn bắt đầu đi theo. Hắn nhìn dính vào mục tiêu và lục túi lấy điện thoại di động ra. Bấm số của Grigor Linsky. Reacher vẫn bước cách bốn mươi thước đằng trước. Raskin áp chiếc điện thoại vào tai.

Linsky nói, "Gì vậy?"

Raskin thì thầm, "Tôi tìm thấy rồi."

"Ở đâu?"

"Hắn đang đi. Từ Marriott về hướng Tây. Giờ thì hắn sắp ngang với tòa án, hai khối phố về hướng Bắc."

"Hắn đi đâu?"

Raskin thì thầm, "Gượm, chờ tí."

Reacher dừng lại ở góc phố. Liếc nhìn bên trái và rẽ phải, về phía khoảng tối dưới xa lộ treo. Vẫn thoải mái. Raskin quan sát ông băng ngang cái bồn rác cao ngang hông trong một khu đất trống.

Hắn thì thầm, "Hắn rẽ về hướng Bắc."

"Về đâu?"

"Tôi không biết. Có thể là cái quán bar thể thao."

Linsky nói, "OK. Tụi tao sẽ đến hướng Bắc. Tụi tao sẽ chờ ở cách năm mươi thước đầu con đường từ cái quán thể thao. Đúng ba phút nữa gọi lại cho tao. Lúc này thì đừng rời mắt khỏi hắn nhé."

Raskin đáp, "OK." Hắn tắt điện thoại di động nhưng vẫn giữ nó áp vào tai và đi tắt băng ngang qua khu đất trống. Dừng lại dựa vào bức tường gạch trống và ngó ra quanh góc phố. Reacher vẫn đang phía trước, cách bốn mươi thước, vẫn đi giữa hè phố, tay vung, vẫn bước nhanh. Raskin nghĩ, một người tự tin. Có lẽ, quá tự tin là đằng khác.

Linsky ngưng cuộc nói chuyện với Raskin và lập tức bấm máy cho Chenko và Vladimir. Hắn bảo chúng đến gặp tại chỗ cách quán bar thể thao năm mươi thước về hướng Bắc, càng sớm càng tốt. Rồi hắn bấm cho The Zec.

Hắn nói, "Bọn em đã tìm thấy hắn."

"Ở đâu?"

"Phía Bắc khu thương mại."

"Ai đang theo hắn?"

"Raskin. Cả hai đang đi bộ trên đường."

The Zec im lặng giây lát.

"Chờ cho tới khi hắn đến nơi nào đó. Rồi bảo Chenko gọi cho bọn cớm. Hắn có giọng nói chuẩn. Hắn có thể xưng là một thằng bồi pha rượu hay lễ tân hay là cái quái gì đó."

Raskin giữ khoảng cách bốn mươi thước ở đằng sau. Hắn gọi cho Linsky lần nữa và mở máy để giữ liên lạc. Reacher vẫn bước đi, giữ nguyên nhịp sải chân. Áo quần ông sậm màu, rất khó nhận ra trong bóng tối. Cổ và tay ông rám nắng, nhưng hiện rõ hơn một chút. Và ông có một đường da hẹp nhợt nhạt vòng quanh mái tóc vừa cắt, trông ma quái trong ánh sáng mờ mờ. Raskin dán mắt vào đó. Nó là một vệt trắng hình chữ U, cách mặt đất sáu bộ, luân phiên nhấp nhô lên xuống hai phân theo nhịp Reacher bước. Raskin nghĩ, Thằng ngu. Lẽ ra hắn nên dùng xi đánh giày. Ở Afghanistan mình sẽ làm như thế. Rồi hắn lại nghĩ: Mà chẳng bao giờ giày mình được đánh bóng. Hay được cắt tóc.

Hắn dừng lại vì Reacher dừng lại ở bốn mươi thước đằng trước. Raskin bước lui vào bóng tối và Reacher liếc nhìn bên phải và rẽ trái vào một con đường cắt ngang, khuất tầm nhìn sau một tòa nhà.

Raskin thì thầm vào điện thoại di động, "Hắn lại đi về hướng Tây."

Linsky hỏi, "Hướng đó đến quán bar thể thao vẫn được chứ?"

"Hay khu phòng trọ."

"Chỗ nào cũng tốt cho chúng ta. Hãy tiến lên gần hơn. Giờ đừng mất dấu hắn nữa."

Raskin chạy lên mười bước và chậm lại ở ngã rẽ. Tựa sát người vào góc của tòa nhà và nhìn quanh. Rắc rối to rồi. Không phải tại tầm nhìn. Con đường cắt ngang dài và rộng và thẳng và được thắp sáng ở đầu xa xa bởi những ngọn đèn sáng trên con đường bốn làn chạy về hướng Bắc đến xa lộ. Do đó hắn có một tầm nhìn tuyệt hảo. Kẹt cái là Reacher không còn nằm trong tầm nhìn đó. Ông đã hoàn toàn biến mất.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx