sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Nhân chứng có ba bộ mặt - Chương 07 - Phần 2

Hai đứa trẻ chơi bên cạnh bờ ao nước xanh đen có đường kính khoảng chín mét. Một thác nước lởm chởm đá cao chừng mười lăm mét cung cấp nước cho ao. Khi đầy, nước ao chảy xuống các khe đá nhỏ (xác một đứa trẻ nằm ở đây thì được, nhưng quá hẹp đối với xác của người lớn). Liễu mọc um tùm bên bờ ao dưới ánh nắng mặt trời. Chim chóc bay lượn chỗ này, chỗ khác. Một con quạ dang đôi cánh đen trên không trung. Một con chim cổ đỏ líu lo trong bụi rậm.

Hai đứa trẻ đi chân đất. Giày trên tay và nước thì rất lạnh. Chúng muốn xem nhiệt độ nước là bao nhiêu.

- Ôi nói xem - Ferdie kêu to - Thật là tuyệt. Chúng ta kiếm giải băng vải và chơi trò kẻ cướp đi.

Willy khịt mũi:

- Trò kẻ cướp ư! Thú vị hơn câu cá đấy. Này, ném lưỡi câu đi.

Ferdie ném lưỡi câu. Mặt nước hiện lên những vòng tròn quanh vật vừa ném xuống.

- Này! Có cái gì, tớ thấy lưỡi câu mắc rồi...

Nó kéo lưỡi câu. Cần câu cong lên bởi một vật nặng. Ferdie không chú ý, nó đang mải nhìn một vật gì màu trắng treo trên cành liễu.

- Cái gì kia? - Nó ngạc nhiên hỏi - Có phải là ma không, Willy?

Willy không ngước mắt lên. Nó vừa kéo cần câu vừa thở.

- Cậu nghĩ vớ vẩn. Có thể đấy là một cành cây hoặc cái gì đó.

Một vật màu sẫm đỏ nổi lên. Rồi vật đó lật ngửa: một cái đầu, tóc vàng, mặt hình bầu dục hiện ra như để thay đổi cách sống.

- Này - Willy kêu to - Xác chết! Chạy đi Ferdie.

Đằng sau chúng, cái đầu hình như ngập ngừng một thoáng sau đó lại chìm sâu xuống chỗ nó vừa nổi lên.

(Willy và Ferdie kể đến đây là hết.)

Oliver Baynes lại nói tiếp trong khi ông De Hirsch uống nốt chai nước khoáng.

- Cha mẹ của bé Willy đi gọi Cảnh sát và viên Cảnh sát ấy đi gọi tôi. Hai tiếng đồng hồ sau, sáu người chúng tôi có mặt ở nhà ông Mark Hillier. Ông nhà văn tỏ ra đáng mến khi chúng tôi nói lí do của cuộc gặp này.

- Nếu đã tìm thấy mụ ta, các ông hãy xem trong túi áo trượt tuyết của mụ. Mụ có một ngàn đô la khi ra đi và tôi rất muốn lấy lại.

Chúng tôi tới hiện trường dùng kích và dây thừng để lôi xác Marianne lên. Danny, cũng đi theo chúng tôi, kêu lớn:

- Đúng là bà ta rồi. Nhưng tại sao xác lại ở cách xa ngôi nhà như vậy? Bà ta biết bay ư?

Xác người chưa bị phân hủy nhiều vì nước lạnh giá. Mụ có một ngàn đô-la trong túi. Chúng tôi tháo móc ngoạm và lột mũ, tháo găng tay của mụ ra. Tôi để cho người của mình tiếp tục khám nghiệm và ra lệnh vớt tiếp những vật ở dưới ao lên. Chỉ thấy một vài vỏ chai bia, vỏ đồ hộp đã han gỉ, không có cầu vượt cũng như vật nào khác.

Chúng tôi đã tìm thấy xác chết cách ngôi nhà của Mark Hillier bốn trăm mét nhưng không biết tại sao lại như vậy.

Tôi cho mổ tử thi. Người này chết vì lạnh. Dạ dày không có gì. Cũng không có chất độc trên cơ thể. Người này chết mấy tiếng đồng hồ sau bữa ăn cuối cùng? Cũng không thể biết được.

Oliver Baynes nhìn De Hirsch với vẻ thách đố.

- Ông đã nghe toàn bộ câu chuyện về mụ tống tiền tóc vàng - Anh nói - Chúng tôi xin nghe những lời giải thích của ông. Nhưng xin đừng nói đến đĩa bay, cây cầu bằng thủy tinh hay những vật tương tự.

Ông bạn người Hung-ga-ri của chúng tôi chắp những ngón tay lại.

- Tôi không thể giả thiết nếu không nói đến đĩa bay, cây cầu bằng thủy tinh và đặc biệt là vải liệm được.

Trung úy Baynes nói với vẻ chán nản:

- Tôi hiểu. Ông hãy kể một vài chuyện nhảm nhí loại ấy trong khi ông không biết gì về đã có chuyện gì xảy ra đối với mụ Marianne.

- Không thể như vậy được - Ông De Hirsch phản đối với vẻ đáng mến - Vì tôi đã biết chuyện xảy ra. Có nghĩa là tôi sẽ biết nếu anh nói rõ một việc.

- Việc gì? - Baynes hỏi.

- Cái vật màu trắng mà thằng bé Ferdie tưởng nhầm là ma ấy.

- Đơn giản nó chỉ là một mảnh vải trải giường mắc vào một cành liễu. Có tên ông Hillier do thợ giặt thêu trên đó. Theo ông nhà văn có thể nó bị gió bay trong khi phơi hồi mùa xuân. Các chuyên gia đã xem xét từng sợi vải một. Đúng là vải trải giường.

- Không, không phải là vải trải giường mà là vải liệm - Ông Hillier nói chữa lại - Một tấm vải liệm? Các anh không thấy ư? Đúng là cái tôi đã nói - một đĩa bay, một cây cầu bằng thủy tinh, một tấm vải liệm. Các anh không tin ư? Ỷ lại vào trí thông minh của mình, ông ta đã nói sự thật với các anh! Ông ta đã cho các anh mọi chi tiết của dấu hiệu, ít nhất là trong lời khai của ông ta đối với viên Cảnh sát tới đầu tiên. Ông ta đã giết mụ Marianne và đưa mụ lên một đĩa bay hoặc một cây cầu bằng thủy tinh để ném mụ xuống ao.

Baynes cắn môi. Anh nhìn ông De Hirsch với vẻ ngạc nhiên. Đây đúng là lúc ông già hài lòng nhất - khi ông dùng những lời giải thích của mình để ném người nghe chuyện xuống dưới vực sâu của sự lúng túng.

Từ từ lấy trong túi ra chiếc ví và từ chiếc ví, Baynes lấy ra một tờ hai chục đô-la.

- Tôi đánh cược hai mươi đô-la là ông sẽ nộp giống Hillier - Anh ta nói với vẻ nghiêm trang.

Mắt ông De Hirsch sáng lên. Nhưng rồi ông lắc đầu.

- Chúng ta là hai vị khách mời của một người bạn thân thiết nhất. Làm thế nào mà tôi có thể lấy tiền vì một câu trả lời rất đơn giản này.

Baynes nghiến răng. Anh lại lấy trong ví ra hai tờ giấy bạc nữa.

- Năm mươi đô-la. Tôi cho rằng ông không biết gì cả.

Ông De Hirsch nhìn tôi. Tôi tính rất nhanh số tiền nhuận bút mà tôi có thể nhận được nếu viết được câu chuyện này và tôi lấy cuốn sổ séc ra.

- Tôi đánh cược một trăm đô-la rằng ông không thể cho chúng tôi lời giải đáp được - Tôi nói và nhìn thẳng vào mắt ông.

Tôi tin chắc người bạn Hung-ga-ri này không thể có được, một trăm, năm mươi thậm chí là năm đô- la.

Nam tước De Hirsch đứng lên.

- Với tư cách là một người đứng đắn, tôi thấy mình không thể từ chối làm việc này được. Tuy nhiên tôi cần một chiếc cặp phơi quần áo...

Ông Baynes thì ngậm miệng lại còn tôi thì há ra.

- Trong ngăn kéo tủ bếp. Bà Ruggle, người giúp việc tôi có thể để chúng ở trong ấy..

Ông già nhẹ nhàng đứng lên, lấy trong túi ra một chiếc khăn tay và một chiếc bút máy.

Tôi nhìn Baynes, anh ta cũng nhìn tôi. Không ai thốt lên một lời nào cả. Ông De Hirsch vào trong bếp chừng năm phút đồng hồ... Tôi nghe thấy tiếng động mạnh. Có lẽ đây là tiếng cánh cửa tủ lạnh đóng lại. Sau đó ông trở lại và ngồi xuống. Ông mở một chai nước khoáng nữa, chai nước khoáng tôi vừa lấy thêm cho ông.

- Phải chờ chừng một vài phút. Trong khi đó chúng ta có thể nói chuyện. Các anh nghĩ gì về sự khôn khéo?

- Trời! Sự khôn khéo - Baynes càu nhàu - Ông hãy nói Hillier đã giết con mụ tống tiền ấy như thế nào cho chúng tôi nghe.

Ông De Hirsch vỗ trán.

- Tôi quên không hỏi các anh một chuyện. Ông Hillier có mắc chứng mất ngủ không?

Baynes cau mày.

- Có - Anh ta nói - Đây là một phần trong báo cáo về y tế người ta đưa cho tôi... nhưng...

- Tất nhiên, như tôi đã dự đoán... nhưng chúng ta không nên có giả thiết nào cả... Nghe đây, trung úy, Hillier đã giết người phụ nữ ấy bằng cách cho thuốc ngủ vào nước uống, mụ ta đã mê đi, ông ta lấy tuyết gói mụ lại. Khi tỉnh lại thì người mụ đã bị đông cứng đến một nửa rồi. Mụ cố thoát khỏi vật bao bọc mình cứng như thép ấy. Và cuối cùng là cái chết đến với mụ.

- Thật là lãng mạn - Baynes càu nhàu - Như vậy là ông chưa nói gì cả. Ông không nói mụ ta bị trói như thế nào mà trên người không có dấu vết gì. Có thể là mụ ta đã uống phải thuốc ngủ. Tôi đã nghĩ đến điều này. Nhưng rồi sao nữa?

Nam tước De Hirsch nói sang vấn đề khác.

- Bob, anh nói xem, có phải là Mark Hillier đã vô đạo đức khi làm việc này không? Ông ta vẫn tìm sự nổi tiếng mà không được, đúng không?

- Đúng thế - Tôi trả lời - Đã có một cuộc tranh luận về chuyện này: ông ta đã giết hay không giết mụ này? Mụ Marianne đã chui vào trong tuyết như thế nào? Đây là một điều bí mật. Một trăm năm nữa tên của Mark Hillier còn được nêu lên trên sách báo và những nhà thông thái của thế kỉ vẫn còn tranh luận về sự phạm tội hoặc vô tội của ông ta. Như Baynes đã nói, ông ta còn được ưa chuộng. Một số sách mới của ông ta sẽ ra đời. Những sách cũ được tái bản. Ông ta đã nổi tiếng và sẽ càng nổi tiếng hơn khi bí mật này chưa được làm sáng tỏ. Bí mật được giữ càng lâu bao nhiêu, ông ta càng nổi tiếng bấy nhiêu.

- Phải. Khi bí mật được khám phá, hắn sẽ trở thành một tên giết người dã man, một kẻ bỉ ổi. Một cú rơi trời giáng của kẻ hoang tưởng tự đại. Nhưng lúc này tôi cho rằng chúng ta có thể thảo luận về những bí mật của đĩa bay, của cây cầu bằng thủy tinh và tấm vải liệm. Chúng có một đặc điểm chung là người ta không thể nhìn thấy chúng được.

Ông đứng lên và đi xuống bếp. Lại có tiếng mở và đóng của cánh cửa tủ lạnh. Ông trở lại với một vật trên tay. Vật đó được bọc trong chiếc khăn tay, ông đặt vật đó lên mặt bàn.

- Bây giờ chúng ta trở lại tháng Hai ấy - Ông nói với giọng đầy uy lực - Chiều hôm ấy trời rất lạnh. Mark Hillier, qua cửa sổ, giận dữ đứng nhìn mụ tống tiền ấy tới nhà. Ở sườn đồi có một tốp trẻ con đang nô đùa. Bất chợt một ý nghĩ lóe lên trong óc hắn ta với mọi chi tiết. Với may mắn tối thiểu, hắn có thể loại trừ mụ ta một cách an toàn. Nếu thất bại thì bệnh tật có thể biện hộ cho hắn. Nếu thắng lợi hắn sẽ rất sung sướng khi thấy mọi người vắt óc để tìm ra sự bí mật tự tay hắn tạo ra ấy.

Lập tức hắn bắt tay vào việc. Hắn lấy một tấm khăn trải giường lớn nhất trong nhà trải xuống nền nhà ở tầng trệt phía bắc. Một vài phút sau, mụ Marianne tới nơi. Hai người nói chuyện. Hắn mời mụ một cốc rượu trong đó có một liều thuốc ngủ rất mạnh. Hai mươi phút sau, mụ ngủ li bì.

Hắn đẩy chiếc xe có người phụ nữ trên một tấm thảm nhỏ xuống tầng trệt ấy. Không cần nhiều sức khỏe. Không gì làm tim hắn đập mạnh hơn.

Tới nơi, hắn đặt mụ nằm co dúm trên chiếc khăn trải giường…

Với điệu bộ như đang trên sân khấu, ông Hillier mở chiếc khăn tay ra. Đây là chiếc khăn bằng vải. Vật gói trong chiếc khăn là một cái cặp phơi quần áo. Chiếc cặp như là một người phụ nữ thu nhỏ lại. Chiếc khăn tay là đại diện cho tấm khăn trải giường.

Để thấy được chiếc cặp, người ta phải mở chiếc khăn từ từng góc của nó vì mỗi góc của khăn được đặt vào giữa khăn, gói gọn chiếc cặp. Như là chiếc phong bì thư.

Chiếc khăn đã được nhúng nước và đặt vào tủ lạnh như quần áo được phơi trong mùa đông. Nó cứng lại như gỗ. Tất cả thành một gói chỉ to vài xăng- ti-mét. Nếu là khăn thật và người thật thì mỗi chiều cũng chỉ hơn một mét.

Và cuối cùng, tôi và Baynes, chúng tôi đã biết rõ những việc mà Mark Hillier đã làm. Hắn đã tưới nước vào tấm khăn trải giường lớn. Hắn đã đặt mụ tống tiền nằm co quắp giữa tấm khăn, sau đó hắn gói từ bốn góc khăn kẻ khốn khổ ấy lại. Trời lạnh đã làm cái gói ấy cứng như gỗ. Một vài phút sau, mụ Marianne đã bị giây thép trói chặt và đặt nằm trong cỗ quan tài bằng tuyết ấy. Mark Hillier chỉ còn việc lăn cái gói ấy xuống chân đồi. Cái gói ấy có diện tích lớn nên không để lại dấu vết gì trên tuyết.

Để chứng minh điều này, ông Hillier đã búng ngón tay vào cái gói khăn tay ấy và ngay lập tức cái gói rơi vào sọt đựng giấy vụn.

- Một chiếc đĩa bay - Ông Hillier kêu lên - Khi khai báo, Danny Gresham đã nói đến việc bọn trẻ ngồi trên những chiếc mâm bằng nhôm và trượt xuống chân đồi với một tốc độ khủng khiếp. Đó là những chiếc đĩa bay mà Hillier đã nhìn thấy và dựa vào cách ấy để giết người. Cây cầu bằng thủy tinh thì đã có sẵn, đó là lớp tuyết dày từ ngôi nhà tới thác nước lởm chởm đá.

Chiếc đĩa bay đã lăn tròn trên tuyết xuống chân dốc. Nó không tự dừng lại được. Một vật trắng, lăn trên tuyết trắng. Không thể nhìn thấy được. Gió lại thổi tung những mẩu tuyết nhỏ lên, phủ từng lớp mỏng trên nền tuyết cũ. Muốn tìm ra dấu vết phải đặt chân lên đó. Nhưng rất ít may mắn.

Thế đấy! Chỉ cần một tấm khăn trải giường cũ với mùa đông băng giá, đầy tuyết phủ là có thể tạo ra một bí mật khó bề giải thích. Một phụ nữ bay xa bốn trăm mét với phương tiện thật là kì diệu. Một lão già ốm đau lại gây ra được một tội ác hoàn hảo.

- Cái lão mất dạy! - Baynes quát to - Trước mặt ta, lão đã nói rõ tội ác của lão như kể một câu chuyện nhảm nhí ấy! Người phụ nữ trong chiếc khăn trải giường ấy có thể bị treo trên cành cây cho đến hết mùa xuân. Đến khi tuyết tan, xác người rơi xuống thác nước rồi lăn xuống ao mà không để lại một dấu vết nào. Chỉ còn lại tấm khăn trải giường cũ mắc trên cành cây! Chúng ta không thể dùng nó làm chứng cứ để buộc tội lão ta được.

- Có thể là như vậy! - Ông Baynes nói - Nhưng chúng ta có thể cho hắn biết: bí mật của lão chỉ có giá trị đến năm 2000 thôi, nó trở thành đề tài cho việc nghiên cứu về tội phạm học. Tôi sẽ gửi cho hắn ta một bức thư.

Ông tới phòng làm việc của tôi và trong nửa tiếng đồng hồ người ta nghe thấy tiếng gõ máy chữ trong đó. Ông gửi thư ngay chiều hôm đó. Ngày mai Mark Hillier sẽ nhận được thư. Tôi không biết ai là người lấy thư trong thùng ra, nhưng Oliver Baynes đã thuật lại câu chuyện theo lời kể của bà hầu phòng thuật lại.

Bà Hoff đang lau chùi đồ đạc trong phòng làm việc của Mark Hillier thì người đưa thư tới nhà. Bà mang thư từ xuống nhà cho người chủ đang làm việc ở tầng trệt vì trời quá nóng bức. Khi nhìn thấy lá thư mặt lão ta tái đi. Đọc thư mặt lão nổi lên những vết đỏ. Khi đọc đến trang thứ hai thì lão xé thư thành trăm mảnh và ném chúng vào cái khay hứng tro. Lão bật que diêm với những ngón tay run rẩy và đốt thư đi.

Không thể chế ngự được cơn giận dữ, lão bê và ném chiếc khay xuống nền nhà. Lão nắm hai tay vào nhau, mắt đăm đăm nhìn về phía thác nước.

Lão thấy khó thở. Lão quay lại tìm tay vịn nhưng rồi lão ngã khuỵu xuống trước khi với được chiếc ghế. Hai tay ôm lấy ngực, lão hổn hển: "Thuốc của ta... Thuốc của ta!"

Thuốc chữa bệnh đau tim của lão không để trong tủ thuốc mà để ở đầu giường lão.

Phải mất đến hai ba phút đồng hồ thì bà Hoff mới tìm được thuốc và mang đến cho lão. Khi bà tới nơi thì lão đã chết.

Xin thú nhận là tâm trí tôi rất nặng nề khi nhận được tin này. Nhưng ông De Hirsch can đảm hơn tôi.

- Utovegre! - Ông nói.

Cầu đó có nghĩa là: chết tức là đã thú nhận.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx