sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Pendragon ( Tập 1: Con Buôn Tử Thần ) - Chương 10 - Phần 01

Mình đã làm một chuyện ngu ngốc. Càng tìm hiểu thêm thế giới này mình càng kém hiểu biết hơn. Tệ hơn nữa, mới thử hành động, mình đã làm hỏng việc. Loor và mình suýt chết vì lỗi tại mình. Mình muốn về nhà, muốn nằm trên chiếc giường của mình, muốn cảm thấy cái mũi của con Marley dụi vào mình và ngửi hơi thở tanh tanh mùi chó của nó. Nhưng mình lại phải nằm đây –  lạnh lẽo bầm dập – trên một bờ sông, bên kia vũ trụ. -Loor, cô không sao chứ? Mình nghe giọng nói trước, rồi thấy hắn len lỏi từ trong rừng ra. Đó là gã hiệp sĩ đã làm mình phát khiếp, phải nhảy ùm xuống sông. Khi hắn xuất hiện từ sau bụi cây, mình thấy hắn không lớn tuổi hơn mình bao nhiêu. Hắn cao ráo và giáp da làm hắn trông càng có vẻ to lớn hơn. Nhưng tay này không nhanh nhẹn lắm đâu. Những gã hiệp sĩ khác mà mình đã thấy nguy hiểm và kinh nghiệm như những thủy thủ già. Còn tay này cũng chỉ được cái vỏ ngoài, đi đứng lóng ngóng như một con rối to lớn, tay chân lòng thòng, vụng về. Hết va phải cây, lại vướng vào rễ, suýt ngã sấp mặt xuống đất, rồi hắn trợn mắt, e sợ nhìn nhìn hai đứa mình. Loor nói cho hắn yên tâm: -Chúng tôi không sao. Tay hiệp sĩ rên rẩm: -Tôi rất tiếc. Chuyện này là lỗi tại tôi. Loor vừa nói vừa nắn xem có bị gãy xương nào không: -Pendragon, đây là Alder. -Alder gì? Mình hỏi, dù đã biết trước câu trả lời. y chang. Gã hiệp sĩ nói: -Chỉ là… Alder thôi. Thấy chưa? Lại một cái tên cụt ngủn nữa. Khi nào một xã hội mới tiến triển đến chỗ có tên họ đàng hoàng nhỉ? Alder sôi nổi nói: -Pendragon, tôi không thể nào nói hết niềm hân hoan của chúng tôi khi cậu tới đây. -Bây giờ chúng tôi có thể khởi sự được rồi. Hả? hắn nói khởi sự gì? Cái gì khởi sự? Mình phát bệnh vì phải luôn đi sau những người khác một bước. Mình hỏi: -Khởi sự gì? Alder nhìn Loor như ngạc nhiên vì sao mình lại không hiểu những gì hắn nói. Anh ta nên làm quen với chuyện này đi là vừa. Mình cũng nhìn Loor. Rõ ràng có ai nói gì với mình về tất cả những vụ này đâu. Loor nhìn ra sông. Mình đoán cô ta đang cân nhắc có nên trả lời mình không. Môi mím chặt, cô ta trừng trừng nhìn mình, rồi nói: -Anh đã thấy Bedoowan đối xử với Milago thế nào rồi đó. Còn nhiều điều anh chưa được thấy. tra khảo, đói khát, bệnh tật. Chúng coi người Milago không bằng loài chó. Họ không có đủ lương thực, thuốc men. Một nửa số trẻ sơ sinh chỉ sống vài tháng. Họ mất mạng hàng ngày trong mỏ đá quý. Nếu sự đối xử ghê tởm đó không bị ngăn chặn lại, bộ lạc Milago sẽ bị tuyệt vong. Thời điểm ngăn chặn chuyện đó đã tới. Mình chẳng thích nghe vụ này chút nào. Đúng, những người này đang rất khốn khổ, mọi chuyện cần thay đổi. Nhưng điều mình không hiểu nổi là mình liên quan gì đến tất cả chuyện này? Mình cũng không chắc là muốn biết được điều đó. Alder nói: -Milago là những người hiền lành. Họ không phải chiến binh. Mất nhiều năm vất vả mới thuyết phục được họ đồng ý hành động. Nếu không nhờ ông Press, có lẽ không bao giờ họ sẵn sàng chấp nhận. Mình hỏi: -Cậu Press là gì trong vụ này? Giọng Alder đầy tôn kính: -Ông Press là nguồn cảm hứng của họ. Ông cho họ sức mạnh để chiến đấu. Lần đầu tiên mình nghe từ “chiến đấu” và mình chẳng thích tí nào. Mình hỏi Alder: -Anh không phải người Milago. Anh là một người Bedoowan. Vì sao anh lại quan tâm đến họ quá vậy? Loor nhìn thẳng mắt mình: -Pendragon, anh ấy là một Lữ khách. Như tôi, ông Press và mẹ tôi. Đó là công việc của Lữ khách. Nơi nào cần, Lữ khách phải giúp. Anh đã sẵn sàng cho trách nhiệm đó chưa? -À… chưa. Mình nói thành thật, vậy mà Loor bộp ngay, đầy miệt thị: -Tôi thật không ngờ. Alder chăm chú nhìn mình lo lắng và có lẽ hơi… thất vọng: -Nhưng ông Press đã nói nhiều về cậu. ông bảo với chúng tôi, nếu có chuyện gì xảy ra cho ông, cậu sẽ là người thay thế. Mình kêu lên, tránh xa anh ta: -Nhưng, trời đất, cậu Press không hề nói một lời với tôi về vụ này. Tất cả những gì ông nói chỉ là, có một số người đang gặp khó khăn cần giúp đỡ. Tôi tưởng chỉ là chở ai đó bằng xe mô-tô đến một nơi nào, hoặc là vận chuyển bàn ghế. Tôi đâu có ngờ ông nói về… về… lãnh đạo một cuộc cách mạng dễ sợ như vậy. Loor liếc mình bằng một đôi mắt nẩy lửa: -Cách mạng. Một từ rất chính xác. Người Milago đang sửa soạn nổi dậy chống lại Bedoowan. Ông Press đã làm cho họ tin tưởng là họ có thể thành công. Không có ông, họ sẽ không có sức mạnh để chiến đẩu, và tất cả sẽ… chết. Tôi không biết vì sao, nhưng ông ấy đã làm người Milago tin rằng anh có khả năng dẫn dắt họ như ông. Đó là lý do anh có mặt tại đây. Đó là điều anh phải chấp nhận. Mình cảm thấy như lại đang ở trên dòng sông. Bị cuốn đi mà không có cách nào ngăn lại được. Tim mình đập rộn ràng y như lúc trôi dạt trên sông. Mark ơi! Mình đâu phải là một nhà cách mạng. Lần mình suýt “chiến đấu” là khi mình và bạn vật lộn giành nhau cây vợt bóng chày. Điều đó đâu đủ để coi mình như nhà lãnh đạo một cuộc cách mạng! Mình nói, ráng không vất váp: -Nghe này, tôi rất áy náy vì hoàn cảnh những người ở đây. Nhưng tôi không hiểu gì hết. Cô bảo tôi là một Lữ khách ư? Được thôi. Nhưng thậm chí mới hai ngày trước tôi không hề biết có nơi này, có những con người này tồn tại. Làm sao thình lình tôi có thể lãnh đạo một cuộc cách mạng được? Alder nghiêm túc nói: -Nhưng cậu phải làm. Người Milago tin tưởng cậu là người thay thế ông Press. Mình la lên: -Vậy thì hãy đi tìm cậu Press đi. Alder cúi đầu nhìn mặt đất. Rõ ràng có chuyện không hay đang xảy ra. Loor vội hỏi: -Bây giờ ông Press đang ở đâu? Alder cứ dằn chặt mắt xuống mặt đất và đáp: -Ông đang bị giam trong đồn lũy của Bedoowan. Ông đã bị Kagan kết án tử hình. Giờ hành quyết là lúc xuân phân ngày mai. Ôi trời! Cậu Press sắp chết! Còn gì tệ hại hơn nữa không? Loor rời mắt khỏi Alder, nhặt lên một viên đá. Với tiếng gầm giận dữ, cô vung tay ném viên đá qua sóng, như thể đang dồn nén nỗi thất vọng và phẫn nộ vào cú ném dữ dội đó. Rồi cô nhào lại mình như một con bò hung hãn. Mình giật lùi vài bước, tưởng như sẽ bị cô túm lấy, quay như chong chóng. Nhưng không. Thay vào đó, cô dí sát mũi vào mặt mình, sôi sùng sục: -Không hiểu vì sao Press lại tin tưởng mi. Mi là một kẻ hèn nhát, yếu đuối, không quan tâm tới ai ngoài bản thân mình. Nhưng mi là một Lữ khách, hãy bắt đầu hành động như một Lữ khách đi. Tới thời điểm mi phải nhìn thẳng vào sự thật rồi. Nói xong, cô ta xô cho mình một cái suýt bật ngửa. Mình phải quạt hai cánh tay để không bị bổ nhào. Alder ôn tồn nói: -Cô biết tôi không đi cùng cô được. Loor đáp: -Tôi hiểu. Gặp lại chúng tôi lúc trời tối. Cô ta xô mình một cái nữa rồi mới bước đi. Mình đi theo, chứ biết sao bây giờ. Trên đường trở lại làng Milago, hai đứa không nói năng gì, nên mình có dịp “tiêu hóa” những thứ vừa mới biết. Mình đoán Lữ khách là một loại người hành hiệp xuyên không gian. Rất cao thượng. Nhưng mình đâu có tình nguyện làm công việc đặc biệt cao quý này? Trái lại, mình không muốn tham gia một phần nhỏ nào trong vụ này. Mọi người cứ khăng khăng bảo mình là Lữ khách và mình phải có trách nhiệm. Nhưng kẻ quái quỷ nào đã biến mình thành Lữ khách? Mình nhớ là chưa hề ký một mảnh giấy tình nguyện nào. Có lẽ chuyện này giống như…nghĩa vụ quân sự? Nhưng nếu là thằng cha tuyển các Lữ khách, chắc chắn không bao giờ mình lại tuyển một kẻ như mình. Ít ra cũng chọn mấy tay trong người nhái Hải quân, hay mấy cha như trong đội phòng chống tội phạm… tuyển một thẳng nhóc mười bốn tuổi làm chi. Cho dù mình có muốn giúp người Milago, mình vừa mở miệng thiên hạ biết ngay mình là …hàng dỏm. Không, điều hay ho nhất mình có thể làm là theo đúng kế hoạch A: tìm ống dẫn và rời khỏi nơi này càng sớm càng tốt. Tuy nhiên vẫn còn một chuyện làm mình bận tâm. Cậu Press đang lâm nguy. Không, còn tệ hơn cả lâm nguy. Cậu sẽ chết vào ngày mai. Nhưng mình có thể làm được gì đây? Nếu đi tìm cậu, mấy gã hiệp sĩ của Kagan sẽ băm mình ra từng mảnh và cả hai cậu cháu đều phải chết. Mình kẹt trong  một hoàn cảnh thật khủng khiếp. Mình và Loor về tới làng. Bà Osa đón tụi mình với vẻ mặt đầy lo lắng. Chắc bà đã đoán biết tình hình đang xấu đi. Nhưng bà chưa kịp hỏi han gì, Loor đã lên tiếng: -Phải cho hắn thấy hầm mỏ. Bà Osa không hỏi lý do, chỉ nhìn mình và cô con gái, thở dài mệt mỏi, rồi bảo mình trước khi quay đi: -Theo ta, Pendragon. Mình hỏi, vì không hề muốn làm chuyện đó: -Nếu cháu không muốn thấy hầm mỏ thì sao? Bà Osa nhìn thẳng mình với ánh mắt mạnh mẽ. Bà không quở trách mình. Cũng không cố hăm dọa mình. Thật khó diễn tả, nhưng ánh mắt dứt khoát của bà như nói: “Mi sẽ tới để thấy hầm mỏ, vì đó là việc mi phải làm”. Có thể đó là một cách thôi miên, vì ngay khi bà ta nhìn mình, mình biết không còn chọn lựa nào khác nữa. Vậy là mình đi theo bà. Kỳ lạ chưa? Loor không đi cùng. Bà Osa cũng không bảo cô ta theo. Mình cảm thấy không có cô ta càng dễ chịu. Khi đi qua làng Milago, mình bắt đầu nhận ra một điều mà trước đây mình chưa hề thấy. Mỗi khi đi qua một người Milago, mình lại nhận được một cái liếc nhìn. Hai ánh mắt của mình và họ vừa gặp nhau, họ vội vàng nhìn xuống đất và tiếp tục bước đi ngay lập tức. Thật lạ lùng. Cứ như họ đang ngắm ngía mình, nhưng lại hốt hoảng khi nhận ra sự hiện diện của mình. Cho đến lúc đó, mình vẫn tưởng không ai biết mình có mặt tại nơi này. Không ai chuyện trò với ai, huống chi mình. Tất nhiên, ngoại trừ Figgis. Hắn là người Milago độc nhất đã nói chuyện với mình. Tất cả những người khác đều âm thầm, lặng lẽ. vậy mà lúc này họ lại đang dòm ngó mình. Mình cá là những dân làng này đang vừa nhìn mình vừa nghĩ: “ Làm sao thằng nhóc kia có thể là nhà lãnh đạo cuộc cách mạng của chúng ta? Nó yếu như sên!”. Họ rất có lý. Mình theo bà Osa trở lại con đường mòn dẫn ra biển. Qua một đoạn ngắn trong rừng, mình thấy còn một lối nhỏ khác phía bên phải. Bọn mình theo lối đó, tới một khoảng trống có một bệ đá lớn. Bệ đá này giống khán đài giữa làng, nơi đã diễn ra nghi lễ Chuyển giao, nhưng trên mặt không có sàn gỗ. Thay vào đó là một khung gỗ khổng lồ, với một đòn quay ngay chính giữa. Một sợi dây thừng vững chắc cuốn quanh đòn quay, một đầu dây thả xuống hố. Hai người đàn ông lực lưỡng đang kéo dây, đưa một vật gì đó từ dưới lên. Hình ảnh đó làm mình nhớ lại những cái giếng cổ lổ, với gầu được buộc dây thả xuống để kéo nước lên. Nhưng ở đây người ta không kéo nước, mà kéo minh thạch. Hai người đàn ông níu giỏ minh thạch vừa kéo lên, đổ trên mặt đất. Vài viên minh thạch lởm chởm rớt ra ngoài. Hai người nhìn nhau thở dài. Một mẻ đá quá nhỏ nhặt. Mình chợt nhớ, họ phải có trọng lượng minh thạch đủ để cân bằng với trọng lượng người góa phụ của người đàn ông bị giết hôm qua. Họ chất những tảng đá mới kéo lên vào đống đá lớn kế bên bệ dài. Không nhiều nhặn gì. Nếu họ không kéo thêm được nhiều mình thạch hơn, người đàn bà khốn khổ sẽ phải theo chồng xuống đáy hố thăm thẳm. Cột sống mình lạnh buốt! Bà Osa tiến tới, ngồi lên bờ bệ đá, đưa hai chân vào trong. Bà ra lệnh: “Thận trọng”. Ngay sau đó, bà hạ người xuống thấp. Bà đi đâu vậy? Nhảy xuống à? Mình lại gần, ngó xuống và thấy có một cái thang ngắn sát vách hầm. Bà Osa đang leo xuống một nơi trông như một… cái hố không có đáy. Lập tức, bà khuất vào bóng tối. Mình nhìn sang hai người thợ mỏ. Quả nhiên họ đang nhìn lại mình. Nhưng ngay khi mấy ánh mắt vừa gặp nhau, họ vội quay đi ngay và tiếp tục công việc. Mình không biết điều nào đáng sợ hơn: biết ai ai cũng đang theo dõi mình, hay lần theo cái thang lỏng lẻo, lúc lắc kia để xuống vùng tối mịt mùng xa lạ. Giọng bà Osa từ dưới vọng lên: -Lẹ lên, Pendragon. Mình cuối xuống, lắc thử cái thang xem có chắc không, rồi leo vào, nắm thang và bắt đầu lần xuống. May là hầm tối thui, vì nếu nhìn thấy tất cả những gì bên dưới, chắc mình không đủ can đảm leo xuống đâu. Cái thang thô sơ bện bằng những cây con, nhưng rất chắc. Xuống được mấy mét, mình phát hiện chân thang chấm dứt trên một gờ đá. Nhưng chưa tới đáy. Đầu một thang khác bắt đầu từ một gờ đá kế bên. Không nhìn thấy bà Osa đâu, mình đoán là lại phải xuống tiếp. Tổng cộng tất cả là mười lăm cái thang. Thật không thể tin nổi, cái hố này sâu phát khiếp.Cứ mỗi ba gờ đá lại có một đường hầm nằm ngang. Mình đoán đó là những khu mỏ bỏ hoang. Chắc là khi khai thác hết minh thạch ở mỗi tầng đất, họ lại phải đào sâu hơn, sâu nữa, sâu mãi xuống dưới. Sau cùng mình cũng xuống tới đáy. Bà Osa đang đứng đợi. Ở dưới đây cũng có ánh sáng. Những ngọn nến nhỏ được thắp khắp nơi. Không sáng sủa lắm, nhưng khi mắt đã quen với ánh sáng, mình cũng nhìn ra một đường hầm thông với đáy hố này. Bà Osa bước vào đó. Mình ngoan ngoãn theo bà. Đường hầm được đục từ trong đá. Mình có thể đi thẳng người, nhưng bà phải đi lom khom. Bà Osa giảng giải: -Đường thông hầm chính đã được thiết lập từ nhiều thế hệ trước. Nhưng khi họ khám phá ra một mạch trù phú minh thạch dưới tầng đất này, thợ mỏ đã quyết định khai thác theo cách khác. -Họ đã làm gì? Bà Osa không cần trả lời. Đi thêm mấy mét, đường hầm mở ra một hang động khổng lồ. Tầng hang cao phải tới mười mét. Thật hùng vĩ. Từ hang động này lại mở ra nhiều đường hầm khác. Hai người mình như đứng giữa một bánh xe, còn các đường hầm như những nan xe tỏa ra mọi hướng. Cứ mỗi đường hầm là một loạt ngã rẽ nhỏ. Trước kia mình đã được xem hình chụp các mỏ vàng, nên mình đoán những ngã nhỏ này dành cho xe chở quặng. Bà Osa giải thích: -Ngay khi vừa khám phá ra dưới tầng đá này có minh thạch, đường hầm được đào tỏa ra các ngã dài hàng dặm hàng dặm, chằng chịt tới mức chính thợ mỏ cũng bị lạc đường cả mấy ngày. Thú thật, mình bị ấn tượng mạnh, nhất là tất cả những việc này đều làm bằng tay. Đứng sát một bên vách hang, mình nhìn hoạt động chung quanh. Hoàn toàn không máy móc, chỉ có những tấm lưng lam lũ của những người thợ mỏ Milago. Người đẩy xe đất, người đổ đất đá giữa hang, người phân loại từng mảnh nhỏ minh thạch. Xa xa, mình nghe thấy tiếng cuốc chim bổ vào đá của những người thợ mỏ nối dài đường hầm, tìm thêm minh thạch. bà Osa cắt nghĩa: -Thợ mỏ làm việc suốt ngày đêm. Chỉ bằng cách đó họ mới đáp ứng nổi đòi hỏi quá quắt của Kagan. Cúi nhặt một dụng cụ của thợ mỏ - một cuốc chim sắt có cắn bằng gỗ - bà bảo mình: -Những dụng cụ này bị cấm trên mặt đất vì chúng làm bằng sắt. Hình phạt cho kẻ nào trên mặt đất dám sử dụng đồ sắt là tử hình. Nghe bà nói, bấy giờ mình mới nhớ là không hề nhìn thấy vật gì bằng sắt trên mặt đất. Tất cả dụng cụ được dùng đều bằng gỗ hoặc đá. Dường như Bedoowan muốn cầm chân người Milago trở lại thời kỳ đồ đá. Tất nhiên trừ khi khai thác minh thạch quý giá cho chúng mà thôi. Mình chợt nhận ra trong mỏ có mùi ghê ghê. Không kinh lắm, thật ra lại có vị ngòn ngọt. mình hỏi: -Mùi gì vậy? Bà không trả lời mà ra dấu cho mình đi theo. Bọn mình xuyên qua hang động rộng lớn, băng qua những đường ray. Tới cuối hầm, mình bắt đầu hiểu ra điều gì đã làm mình thấy ghê ghê. Mình đã không nhìn thấy nó trước đó vì ánh sáng quá lờ mờ, nhưng giờ đến nơi mình đã có thể thấy rõ. Thú thật, ước gì mình đã không nhìn thấy, nhưng lỡ thấy mất rồi. nằm trên nền hang là hàng chục thợ mỏ. Trông họ thật khủng khiếp. Người rên rỉ đau đớn, người ngồi ngây đó với ánh mắt vô hồn. Mình bảo: -Trông họ như bị bệnh. Bà Osa buồn rầu nói: -Họ bị bệnh. Đó là mùi hơi khí tuôn ra khi minh thạch được tách rời ra khỏi đá. Hơi độc đó hủy hoại dần khả năng hít thở của họ. Mình hỏi, sẵn sàng bay vọt lại cầu thang: -Chúng ta đang hít hơi độc sao? Bà ta điềm đạm đáp: -Đừng lo. Phải hít trong vòng nhiều năm mới đáng ngại. Nhìn những người thợ mỏ bệnh hoạn, mình hỏi: -Những người này đã hít thở khí độc này nhiều năm rồi sao? Bà Osa buồn rầu gật đầu: -Đó là một cái chết rất đau đớn. Mình kinh hoàng: -Sao họ không lên trên để thở không khí trong lành? -Họ không còn đủ sức lực nữa. Những con người khốn khổ này đã ở thời kỳ cuối của bệnh rồi. Họ sẽ chết tại đây. Nghe câu trả lời nghiêm nghị của bà Osa, mình giật lùi mấy bước khỏi đám thợ mỏ bệnh tật. Dù đáng xấu hổ, nhưng phải thú thật, mình sợ bị lây căn bệnh kinh khiếp này. Thình lình, hang động khổng lồ dường như không còn hùng vĩ nữa. Các vách hang như đang khép lại gần nhau hơn, làm mình muốn ra khỏi đây ngay lập tức. Mình hỏi: -Sao bà lại muốn cho cháu thấy những cảnh này cơ chứ? -Vì đó là điều rất quan trọng để cháu hiểu được tình trạng tuyệt vọng của người Milago như thế nào. Mình muốn gào lên. Bà ta đang gài bẫy mình. Bà ta bắt mình phải chứng kiến sự khốn khổ của  những con người này, để mình phải cảm thấy xót thương mà đồng ý lãnh đạo cuộc cách mạng của họ. Nhưng tại sao? Rõ ràng bà ta đâu phải người khờ khạo? Bà ta hẳn quá biết mình đây phải loại người dẫn dắt được một cuộc cách mạng? Con gái bà ta nhận ra điều này mà. Tại sao bà ta không nhận ra? Không muốn tranh cãi với bà Osa ở đây ngay trước mặt những người thợ mỏ khốn khổ này, mình tiến về con đường hầm dẫn tới những chiếc thang. -Cháu đi đâu vậy? -Về nhà. Mình trả lời cụt ngủn. Vội vã băng qua hang, mình vừa nhảy qua những đường ray, vừa né tránh những xe đẩy đá. Rồi, ngay khi sắp bước vào đường hầm, mình thấy một người chạy ngay trước mặt. Chính là Figgis. Nhưng lần này hắn không ngừng lại nài nỉ mình mua gì. Hắn rất vội. Dường như hắn không biết là vừa cắt ngang đường mình. Nhìn gã nhỏ con hấp tấp chạy xuống đường hầm về phía những cái thang, mình định bám theo. Vừa lúc đó, mặt đất bỗng rung lên. Trời! động đất sao? Hay sập hầm? Chỉ một giây sau là… một tiếng nổ kinh hồn. Mình quay nhìn về hướng phát ra tiếng nổ và thấy khói đen cuồn cuộn tuôn ra từ một đường hầm. Nhiều thợ mỏ ngẩn người nhìn đường hầm mù mịt khói. Những con người này từng khai thác mỏ quá lâu rồi, chắc họ đã quá quen với những tiếng nổ như thế này rồi chứ. Thế nào bạn cũng nghĩ họ sẽ lập tức vồ lấy thiết bị cứu hộ và rút khỏi mỏ, hoặc bắt đầu kiểm tra những hư hại. Rất có thể có các thợ mỏ kẹt trong đó cần được giải cứu. Nhưng không. Những người thợ mỏ chỉ nhìn nhau, sợ hãi pha lẫn bối rối. Cứ như họ không biết phải làm gì. Sau cùng bà Osa lớn tiếng hỏi: -Có ai trong đó không? -Rellin. Một người kêu lên. Tới lúc đó mọi người mới như bừng tỉnh. Họ vội vàng tiến tới để giải cứu người đội trưởng. Một thợ mỏ cột dây thừng quanh thắt lưng, rồi dũng cảm xông qua đám khói, vào đường hầm. Mấy người khác nắm đầu dây còn lại. Chắc để kéo người kia trở ra, nếu anh ta bị ngất. Mặt đất không còn rung lên nữa. Nếu có hư hại gì thì cũng chỉ trong phạm vi đường hầm đó thôi. Mình không hề hấn gì, nên muốn ở lại xem Rellin có được an toàn không. Mình hỏi bà Osa: -Thường thường bao lâu họ kích nổ một lần? Vừa trừng trừng nhìn đám khói, bà vừa nói một câu mà mình không bao giờ ngờ nổi: -Nổ là gì? Hả? sao bà không biết nổ là gì chứ? Người đàn bà này biết mọi thứ trên đời cơ mà. Không thể là vấn đề ngôn ngữ vì Lữ khách hiểu được mọi ngôn ngữ còn gì. Mình nói: -Bà biết mà. Nổ. Một vụ nổ lớn được tạo ra bằng… chất nổ. Bà ta bối rối nhìn mình: -Chưa bao giờ ta thấy chuyện như thế này xảy ra tại đây, kể cả tại lãnh địa của ta. Cháu nói tiếng động to lớn đó có thể… gây thương vong, tổn thất như… như sấm sét sao? Thật kỳ lạ. Tuy nhiên, điều đó có thể cắt nghĩa vì sao các thợ mỏ lại có kiểu phản ứng như vậy.Có lẽ họ cũng không biết chuyện gì đã xảy ra. Nhưng nếu vậy thì nguyên nhân vụ nổ là gì? Có lẽ họ cuốc phải túi khí ngầm trong lòng đất. Bà Osa và mình chưa kịp trao đổi thêm về chuyện này, thì những người cầm đầu dây bắt đầu gắng sức kéo. Các thợ mỏ khác xúm lại lo lắng nhìn. Họ lom lom nhìn con đường hầm đầy khói, chờ đợi xem chuyện gì xảy ra. Mấy giây sau,người thợ mỏ ở đầu dây bên kia nhô ra từ đám khói, trong vong tay anh ta là… Rellin. Người đội trưởng toàn thân phủ bồ hóng đen thui, quanh trán ông ta đầy vết máu. Ông ta bị choáng nhưng… còn sống. Mọi người dìu ông ấy ngồi xuống. Đỡ túi da đầy nước, Rellin uống ừng ực, rồi súc miệng, phun ra. Rồi một chuyện kỳ dị xảy ra, Rellin lần lượt nhìn chăm chăm từng người thợ mỏ và bật cười ha hả. Tất cả ngẩn người không biết ông ta cười cái gì. Có lẽ kết quả thoát chết trong đường tơ kẽ tóc đã làm ông bật lên tiếng cười căng thẳng đó. Hay ông ta đã hóa điên? Thật tình mình không hiểu nổi. Nhìn ánh mắt bối rối của những người thợ mỏ, mình tin họ cũng chẳng hiểu gì. Thú thật mình thấy rờn rợn. Mình cảm thấy bà Osa cũng vậy, vì bà đặt tay lên vai mình bảo: -Chúng ta trở lại mặt đất thôi. Không cần bà nói tới lần thứ hai. Mình xuống đường hầm và leo lên thang ngay lập tức. Vừa leo, mình vừa ngước nhìn. Mình càng lên cao, vòng tròn của bầu trời xanh càng lớn dần lớn dần. Đó là nguồn sáng của đầu con đường hầm tăm tối, dài thăm thẳm mà có cố, mình cũng không thể lên tới đó nhanh hơn. Vừa ló được đầu ra vùng không khí trong lành, mình hít một hơi đầy buồng phổi và tự hứa sẽ không bao giờ xuống lại cái địa ngục đó nữa. Một trong những người thợ mỏ làm công việc kéo giỏ  minh thạch lên đang đứng dựa vào khung gỗ cần quay, chăm chăm nhìn mình. Những thợ mỏ khác không còn đó nữa. Thế rồi mình cảm thấy một điều là lạ. Khi mắt mình bắt gặp cái nhìn của anh ta, không hiểu sao người thợ mỏ đó không quay đi, mà vẫn trừng trừng nhìn mình. Bà Osa ló đầu ra khỏi miệng hầm,nhảy lên mặt đất và nói ngay: -Hãy cho ta biết thêm về cái mà cháu gọi là…chất nổ. Mình chưa kịp trả lời, bà Osa chợt chú ý đến một điều gì đó sau lưng mình. Quay vội lại, mình thấy người thợ mỏ vẫn trừng trừng nhìn. Bà Osa bước vụt qua mình, mắt dán vào anh ta. Anh ta đứng im lìm, nhìn mình với vẻ  mặt dại khờ. Bà Osa lại bên anh ta, nhìn chăm chú thêm một lát, rồi quay phắt lại, la lên:-Pendragon, chạy đi. -Hả? Trước khi bà Osa kịp trả lời, người thợ mỏ đã đổ ập xuống dưới chân bà. Mắt mình trợn tròn nhìn mũi tên bằng gỗ xuyên qua lưng anh ta. Phải, người thợ mỏ đã chết. Đó không phải là cái nhìn dại khờ, mà là cái nhìn của sự chết chóc. Chưa bao giờ mình nhìn thấy người chết. Mình không nhúc nhích nổi. Bà Osa chạy lại, nắm tay mình, kéo mình chạy về phía rừng. Nhưng mới chạy được mấy bước, bốn gã hiệp sĩ của Kagan nhảy ra chặn ngang đường. Bây giờ mình đã hiểu chuyện gì xảy ra cho người thợ mỏ. Chúng dõng dạc tuyên bố: -Chúng ta tới bắt thằng nhỏ.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx