sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

IV. Đạo Đức Học

DIMITRI: Tôi đã suy nghĩ về câu hỏi của cậu, “tốt” nghĩa là gì, và tớ đã có câu trả lời: tốt là hành động theo nguyên tắc đúng.

TASSO: Trời đất, Dimitri, ngạc nhiên quá, cậu bắt đầu nói y như một triết gia thực thụ rồi. Chỉ một câu hỏi cuối cùng nữa: Làm sao cậu xác định được những nguyên tắc đúng?

DIMITRI: À ừ! Thì cũng như mọi người thôi, tôi học chúng từ mẹ.

TASSO (ngoảnh sang bên nói khẽ): Sao Socrates lại có được toàn những môn đệ hạng “A” nhỉ?

ĐẠO ĐỨC TUYỆT ĐỐI: LUẬT CHÚA

Luật Chúa làm cho vấn đề đạo đức học thành đơn giản: Nếu Chúa bảo cái gì sai thì nó là sai, trọn vẹn và tuyệt đối. Luật chỉ viết có thế. Nhưng ở đây lại nảy sinh vấn đề phức tạp. Trước hết, làm sao chúng ta có thế biết Chúa thật sự nghĩ gì? Những tín đồ chính thống đáp: Kinh Thánh nói vậy. Nhưng làm sao các nhân vật trong Kinh Thánh biết dấu hiệu họ nhận được thật sự là từ Chúa? Abraham nghĩ ông được Chúa kêu gọi hy sinh đứa con trai trên bàn thờ. Abraham suy nghĩ, “Nếu Chúa nói thế, thì mình hãy làm như thế.” Nghi vấn triết học đầu tiên chúng ta đặt ra cho Abraham là, “Ông sao thế, điên à? Ông nghe ‘Chúa’ khiến ông làm chuyện điên rồ, mà thậm chí ông không cần hỏi để biết có thật là Chúa không?”

Một vấn đề khác của việc tuân theo Luật Chúa nằm ở sự diễn dịch. Nên thể hiện lòng tôn kính đối với cha mẹ như thế nào cho phải? Một tấm thiếp nhân Ngày của Mẹ? Hay kết hôn với anh chàng tẻ nhạt con nhà nha sĩ vì cha mẹ đáng kính của bạn muốn bạn làm vậy? Những câu hỏi này hoàn toàn không phải là đi quá sâu vào chi tiết, khi cậu con nhà nha sĩ cao mét rưỡi và nặng tạ hai.

Đặc tính đầu tiên của Luật Chúa là Chúa luôn luôn có tiếng nói cuối cùng.

Moses lê bước từ đỉnh Sinai xuống, bảng đá trong tay, và loan báo với đám đông đang tụ tập: "Ta có tin lành, và cũng có tin dữ. Tin lành là ta đã khiến Người rút xuống còn mười điều răn. Tin dữ là 'tội ngoại tình' vẫn còn đó."

ĐẠO ĐỨC KIỂU PLATO

Trong tác phẩm trứ danh của mình, Cộng hòa, Plato viết “Nhà nước chính là một linh hồn”. Bởi vậy để bàn về đức hạnh cá nhân, ông đã viết một đoạn đối thoại về phẩm hạnh của nhà nước lý tưởng. Ông gọi các nhà lãnh đạo của nhà nước này là các đấng Quân vương Triết gia, điều này cho thấy tại sao Plato rất được các triết gia ưa thích. Những ông Vua Triết gia ấy dẫn dắt quốc gia như Lý trí dẫn dắt linh hồn con người. Đức hạnh hàng đầu, của cả Vua Triết gia và Lý trí, là Thông tuệ - theo Plato định nghĩa là hiểu được ý niệm về tính Thiện. Tuy nhiên, tính thiện của người này lại là mồi ngon của người khác.

Trong cuộc họp khoa của trường đại học, bỗng có một thiên sứ xuất hiện, nói với ông trưởng Khoa Triết: "Tôi sẽ ban cho ngài một trong ba điều ước để lựa chọn: Sự Thông tuệ, sắc đẹp hoặc mười ngàn đô la."

Vị giáo sư lập tức chọn Thông tuệ.

Một ánh chớp lóe lên và vị giáo sư dường như đã biến đổi, nhưng ông vẫn ngồi đấy, đăm chiêu nhìn xuống bàn. Một trong những đồng nghiệp cùa ông thì thầm, "ông nói cái gì đi chứ."

Vị giáo sư nóí, “Lẽ ra tôi nên chọn đô la."

THUYẾT KHẮC KỶ

Vấn đề đạo đức mà những nhà khắc kỷ ở thế kỷ thứ tư trước Công nguyên quan tâm là phải phản ứng thế nào với xu thế thổng trị của thuyết định mệnh, vốn là đặc trưng cho cuộc sống trong một đế chế bị kiểm soát ngặt nghèo. Họ không thể thay đổi bất kỳ điều gì trong cuộc sống hằng ngày, nên quyết định thay đổi thái độ đối với chính cuộc sống. Họ chỉ còn có cách kiểm soát cá nhân. Phái Khắc kỷ lựa chọn chiến lược tách cảm xúc khỏi cuộc sống. Họ gọi thái độ của họ là apathia (vô cảm xúc), và đối với người khắc kỷ, vô cảm xúc là đức hạnh, mặc dù điều đó biến họ thành trò cười trong các quán rượu địa phương. Những người khắc kỷ tự nguyện chối bỏ một số khoái lạc (tình dục, ma túy, và rượu chè) để tránh những điều bất hạnh mà những đam mê của bản thân mang lại (bệnh tình dục, say xỉn, và nói năng bừa bãi). Họ chỉ hành động theo lý trí, không bao giờ theo đam mê, và coi mình là những người duy nhất thực sự hạnh phúc - mặc dù điều này chỉ nói lên rằng họ không-bất-hạnh.

Trong câu chuyện sau đây, ông Cooper thể hiện một dạng khắc kỷ hiện đại: khắc kỷ qua ủy nhiệm.

Vợ chồng nhà Cooper tới tiệm nha khoa, ở đây ông Cooper cho biết ông đang rất vội. "Khỏi cần dùng mấy thứ rườm rà đó, bác sĩ ạ!" ông yêu cầu. "Không gây tê, không tiêm hay gì gì hết, ông cứ nhổ cái răng ra là được rồi."

"Ước gì tôi có nhiều bệnh nhân khắc kỷ như ông nhỉ," nha sĩ thán phục thốt lên. "Đâu, ông nhổ chiếc răng nào?"

Ông Cooper quay sang vợ. "Há miệng ra đi cưng."

Gilbert Keith Chesterton (1874-1936): nhà văn, nhà thơ, triết gia người Anh.

THUYẾT VỊ LỢI

Tất cả chúng ta đều biết lãnh tụ nổi tiếng thể kỷ hai mươi Vladimir Lenin từng nói, “Mục đích biện minh cho phương tiện.” Thật trớ trêu, câu này khá gần với quan điểm của một trong những triết gia yêu thích của nhóm vận động theo Đảng Cộng hòa, John Stuart Mill. Mill và những nhà vị lợi chủ nghĩa đề xuất một thứ đạo đức học “vị kết quả”: Sự đúng đắn về mặt đạo đức của một hành động chỉ được xác định bằng kết quả của nó.

Nhân vật chính trong câu chuyện sau đây rõ ràng là một người vị lợi:

Bà O’Callahan đề nghị ông họa sĩ đã vẽ xong chân dung mình vẽ thêm đôi vòng vàng trên hai cổ tay, một chuỗi hạt trân châu quanh cổ, đôi bông tai hồng ngọc, và một mũ miện bằng kim cương.

Họa sĩ lưu ý bà rằng làm thế khác nào nói dối.

Bà O’Callahan nói, "Anh biết không, chồng tôi đang chạy theo một cô ả tóc vàng. Sau khi tôi chết, tôi muốn nó phát rồ lên mà đi tìm những món châu báu này."

Lối biện minh này có thể khiến chúng ta thỏa hiệp với những vấn đề nghiêm trọng, nếu cảm thấy kỳ vọng được vào những kết quả đủ “tốt”.

Bà quả phụ Brevoort đang dạo vẩn vơ bên hồ bơi ở câu lạc bộ thì trông thấy một anh chàng đẹp trai đang tắm nắng. Bà rụt rè đến gần anh ta và thốt lên, "Ổ, tôi không nghĩ mình đã từng trông thấy anh ở đây."

"Có lẽ vậy, ngưởi kia nói. “Tôi đã ở tù ba mươi năm."

"Thật không? Vì tội gì?"

"Tôi giết vợ.

"A!" bà Brevoort vui mừng. "Có nghĩa là anh đang độc thân!"

Triết gia vị lợi đương đại nổi tiếng Peter Singer thường so sánh để tìm sự giống nhau giữa các quyết định mà chúng ta đều đồng ý là dẫn đến hậu quả khủng khiếp và các quyết định có vẻ nhân từ hơn - về mặt đạo đức ông cho rằng chúng như nhau. Trong một tiểu luận, ông đặt ra tình huống trong đó một người có thể kiếm tiền mua ti vi mới bằng cách bán một đứa trẻ vô gia cư cho một nghiệp đoàn thu mua nội tạng để cấy ghép. Khủng khiếp, tất cả chúng ta đều nhất trí. Nhưng Singer lại lập luận tiếp, rằng khi một người lại đi mua ti vi mới thay vì góp số tiền đó cho quỹ từ thiện bảo vệ trẻ em vô gia cư, về bản chất hành động của anh ta là y hệt người kia. Bạn có thấy ghét khi ông ấy nói như vậy không? Đó là một lập luận loại suy đi từ trường hợp kịch tính cá biệt đến một tuyên bố đạo đức chung, giống như trong truyện cười kinh điển sau đây:

Chàng: Em có chịu ngủ với anh lấy một triệu đô la không?

Nàng: Một triệu đô ư? Chà! Em nghĩ là có.

Chàng: Thế hai đô la thì sao?

Nàng: Biến đi, ông kễnh! Anh nghĩ tôi là hạng người nào chứ?

Chàng: Hạng người nào thì chúng ta đã xác định xong rồi. Bây giờ chỉ là thỏa thuận xem giá cả thế nào thôi.

MỆNH LỆNH TUYỆT ĐỐI TỔI CAO VÀ

QUY TẮC VÀNG CỔ XƯA

Nguyên tắc bao quát của Kant, tiêu chuẩn cho tất cả các châm ngôn đạo đức khác, là cái mà ông gọi là “mệnh lệnh tuyệt đối tối cao”. Thoạt nghe qua, mệnh lệnh này có vẻ như phiên bản tân trang của một quy tắc vàng cổ xưa.

Quy tắc vàng: “Hãy làm cho người khác điều mà anh muốn người khác làm cho anh.”

Mệnh lệnh tuyệt đối tối cao: “Hãy chỉ hành động theo châm ngôn nào mà anh đồng thời có thể muốn nó trở thành quy luật phổ quát.”

Tất nhiên, diễn đạt của Kant nghe nhất định là lạnh lùng hơn. Bản thân thuật ngữ “mệnh lệnh tuyệt đối tối cao” nghe đầy chất Đức. Nhưng Kant không làm khác được, ônglà người Đức.

Tuy nhiên, mệnh lệnh tuyệt đối và quy tắc vàng thực sự có chung một lãnh địa khá rộng lớn trong triết học:

- Cả hai đều không phải là quy tắc cho bất cứ hành động cụ thể nào, chẳng hạn như “Hãy kính trọng cha mẹ!” hay “Hãy ăn rau chân vịt!”

- Thay vào đó, cả hai cung cấp các nguyên tắc trừu tượng để xác định hành động cụ thể nào là đúng và hành động nào là sai.

- Trong cả hai trường hợp, các nguyên tắc trừu tượng này nêu quan điểm mọi người đều giá trị ngang với bạn và tôi, do đó, về mặt đạo đức nên đối xử với tất cả mọi người như đối với bạn và tôi... đặc biệt là như đối với tôi.

Nhưng giữa mệnh lệnh tuyệt đối và quy tắc vàng có một khác biệt cơ bản - và nó đã được lột tả rất xuất sắc trong câu chuyện cười ngắn sau đây:

Kẻ bạo dâm là một kẻ khổ dâm tuân theo nguyên tắc vàng.

Khi làm đau người khác, kẻ khổ dâm chỉ thực hiện điều mà nguyên tắc vàng đòi hỏi: làm cho người khác điều y muốn người khác làm cho y, với một ngọn roi thì càng thích. Nhưng Kant có lẽ sẽ nói rằng khó có kẻ khổ dâm nào dám thành thực tuyên bố rằng mệnh lệnh đạo đức “làm đau người khác”, có khả năng trở thành nguyên tắc chung cho một thế giới đáng để sống. Thậm chí người khổ dâm cũng thấy điều đó là phi lý.

Những kiến giải tương tự đã dẫn nhà soạn kịch người Anh George Bernard Shaw đến chỗ giễu nhại quy tắc vàng như sau:

"Đừng làm cho người khác điều mà anh muốn người khác làm cho anh; họ có thể có sở thích khác."

Những biến thể của quy tắc vàng được bắt gặp không chỉ ở Kant, mà cả trong nhiều truyền thống tôn giáo trên khắp thế giới:

HINDU GIÁO (khoảng thế kỷ mười ba trước C.N): Đừng làm cho kẻ khác những gì mình không muốn kẻ khác làm cho mình…Đây là toàn bộ Dharma (Pháp). Hãy nhớ kỹ.

Mahabharata

Trong triết học Ẩn Độ, Dharma (Pháp - luật và giáo pháp nói chung) có nhiều tầng ý nghĩa, được hiểu và giải thích từ những góc độ khác nhau. Theo truyền thổng Hindu giáo, một người thực hành đúng Pháp là thực hành theo những gì đã được quy định trong các thánh điển. Trong Mahabharata, thực hành Pháp là thực hành theo tám nguyên tắc: sùng kinh thần linh, học hỏi, bố thí, khổ hạnh, chân thật, tha thứ, từ mẫn và không tham lam..

DO THÁI GIÁO (khoảng thế kỷ mười ba trước C.N): Điều ngươi không ưa thì chớ làm cho người bên cạnh; đó là toàn bộ Torah (Năm quyển đầu của bộ Kinh Thánh Do Thái, thường gọi là Luật Giao Ước hay Ngũ Kinh của Moses); phần còn lại đều là bình chú; hãy học lấy điều này.

Talmud Babylone

HỎA GIÁO (khoảng thế kỷ mười hai trước C.N): Bản tính con người chỉ là thiện khi không gây cho kẻ khác bất kỳ điều gì không là thiện đối với chính mình.

Dadistan-i-Dinik

PHẬT GIÁO (khoảng thể kỷ sáu trước C.N): Đừng gây cho người khác nỗi đau mà chính anh cảm thấy là đau đớn.

Dhamamapada Tây Tạng (Kinh Pháp Cú)

KHỔNG GIÁO (khoảng thế kỷ sáu trước C.N): Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân (Điều gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác).

Khổng Tử (Luận Ngữ)

HỒI GIÁO (khoảng thế kỷ bảy): Không ai trong các ngươi thành tín đồ được cho tới khi các ngươi muốn cho người khác những gì các ngươi muốn cho chính mình.

“Sunnah”, trích Hadith

BAHÁ’Í (khoảng thế kỷ mười chín): Chớ gây cho bất kỳ ai khác điều ngươi sẽ không tự gây ra cho chính mình, và chớ nói với bất kỳ ai điều ngươi sẽ không nói với mình. Đây là mệnh lệnh của ta dành cho ngưoi, hãy tuân thủ.

Bahá'u'lláh, Ẩn Ngữ

THUYẾT SOPRANO (thế kỷ hai mươi mốt) Hãy nện gã bên cạnh anh với lòng kính trọng mà anh muốn được hưởng khi bị nện, hiểu chưa?

Câu thoại của nhân vật Tony Soprano, một tên tội phạm người Mỹ gốc Ý trong bộ phim truyền hình nổi tiếng The Sopranos (đạo diễn David Chase).

Ý CHÍ QUYỀN LỰC

Triết gia Đức thế kỷ mười chín Friedrich Nietzsche liều lĩnh tuyên bố rằng ông đang bắt đạo đức Cơ Đốc truyền thống phải dỏng tai lên. Ông đã bắt đầu nhỏ nhẹ, bằng cách loan báo cái chết của Chúa. Chúa trả đũa bằng cách loan báo, trên những bức tường ngăn vệ sinh nam trong khu đại học, cái chết của Nietzsche. Điều Nietzsche muốn nói qua cái chết của Chúa là nền văn hóa phương Tây đã lớn vượt lên những giải thích siêu hình về thế giới cũng như nền đạo đức Cơ Đốc song hành. Ông gọi giáo lý Cơ Đốc là "luân lý bầy đàn”, bởi vì nó truyền dạy một thứ “đạo đức phi tự nhiên” – rằng làm một con đực số một thống trị bầy đàn là tồi tệ. Ông thay thế đạo đức Cơ Đốc bằng thứ đạo đức sức mạnh đã được khẳng định bởi cuộc sống, mà ông gọi là ý chí quyền lực. Cá nhân kiệt xuất, Übermensch hay siêu nhân, đứng trên đạo đức bầy đàn và hoàn toàn xứng đáng tự do thể hiện sức mạnh tự nhiên và sự vượt trội của mình đối với bầy đàn. Khi vấn đề liên quan đến quy tắc vàng, Friedrich rõ ràng là thành viên của trường phái Tony Soprano. Hệ lụy là Nietzsche bị gán trách nhiệm cho đủ thứ, từ chủ nghĩa quân phiệt cho đến món dưa bắp cải Đức:

Vấn đề của thực phẩm Đức là, dù bạn ăn bao nhiêu đi chăng nữa, sau một giờ bạn đã đói quyền lực.

CHỦ NGHĨA DUY CẢM

Đến giữa thế kỷ hai mươi, phần lớn các khuynh hướng triết đạo đức học đều là siêu đạo đức học. Thay vì hỏi, “Hành động nào tốt?” giờ đây các triết gia hỏi, “Nói một hành động là tốt có nghĩa là gì? Có phải ‘x tốt’ chỉ có nghĩa là ‘tôi tán thành x’? Hay phải chăng ‘x tốt’ biểu thị một cảm xúc mà tôi có khi quan sát x hoặc nghĩ về x?” Quan điểm cuối này, được biết dưới tên gọi chủ nghĩa duy cảm, biểu hiện qua câu chuyện sau đây:

Một người viết một bức thư cho Sở Thuế rằng: "Tôi mất ngủ khi biết mình gian lận thuế thu nhập cá nhân. Tôi đã giấu giếm bớt thu nhập chịu thuế của mình nên gửi kèm theo đây tờ séc 150$. Nếu vẫn mất ngủ, tôi sẽ gửi tiếp số còn lại."

ĐẠO ĐỨC HỌC ỨNG DỤNG

Ngay khi các suy tưởng siêu đạo đức học về ý nghĩa của ngôn từ “tốt” bắt đầu mất dần sức lôi cuốn, thì thi hành đạo đức một lần nữa trở nên hợp mốt, và các triết gia lại lần nữa viết về những hành động cụ thể nào là tốt. Đạo đức sinh học, đạo đức nữ quyền, và đạo đức về đối xử đúng đắn với động vật đã trở thành bắt buộc.

Một kiểu mẫu đạo đức ứng dụng rất phát triển ở thế kỷ hai mươi là đạo đức nghề nghiệp, chính là các chuẩn tắc điều chỉnh mối quan hệ của những người làm nghề đối với khách hàng và bệnh nhân.

Sau hội nghị đạo đức nghề nghiệp, bốn bác sĩ tâm thần cùng nhau bước ra. Một người nói, "Mọi người lúc nào cũng mang theo gánh nặng tội lỗi và âu lo của họ đến với chúng ta, còn chúng ta chẳng có ai để bày tỏ những vấn đề của mình cả. Sao lúc này chúng ta không dành chút thời gian để lắng nghe nhau thổ lộ nhỉ?" Ba người kia nhất trí.

Bác sĩ tâm thần thứ nhất thú nhận, "Tôi gần như không thể nào kiểm soát nổi ý muốn giết bệnh nhân của mình."

Bác Sĩ tâm thần thứ hai nói, "Tôi luôn tìm cách lừa tiền bệnh nhân khi có dịp."

Người thứ ba, “Tôi dính vào buôn bán ma túy và thường nhờ bệnh nhân bán hộ."

Đến lượt bác sĩ tâm thần thứ tư thú nhận, "Các ông biết không, dù cố đến mấy, tôi hầu như không cách nào giữ kín được một bí mật."

Mỗi chuyên ngành y khoa phát huy những nguyên tắc đạo đức riêng của mình.

Bốn thầy thuốc cùng nhau đi săn vịt trời: một bác sĩ gia đình, một bác sĩ phụ khoa, một nhà phẫu thuật, một nhà bệnh lý học. Khi một con chim bay qua trên đầu, bác sĩ gia đình định bắn nhưng lại thôi vì ông không chắc liệu nó có phải là chim vịt không. Bác sĩ phụ khoa cũng định bắn nhưng lại hạ súng xuống khi nhận ra ông không biết con chim vịt này là trống hay mái. Trong khi đó bác sĩ phẫu thuật đã kịp bắn chết con chim và quay sang nói với nhà bệnh lý học, “ông đi xem liệu nó có phải con vịt không."

Thậm chí các luật sư cũng có đạo đức nghề nghiệp. Khi một khách hàng nhầm lẫn trả cho luật sư 400$ thay vì 300$ theo hóa đơn, tự nhiên sẽ nảy sinh vấn đề đạo đức là luật sư có nên nói cho khách hàng biết điều đó không.

Không có gì đáng ngạc nhiên khi giới tăng lữ cũng có đạo đức nghề nghiệp hay đạo đức của họ đi kèm với sự trừng phạt của thánh thần.

Một giáo sĩ Do Thái trẻ rất mê chơi golf. Thậm chí vào ngày lễ Yom Kippur thiêng liêng nhất trong năm mà anh ta cũng lén đi làm một ván chín lỗ chớp nhoáng. (Còn gọi là Ngày Chuộc tội, một trong những ngày lễ thiêng liêng nhất của người Do Thái, diễn ra sau lễ Rosh Hashanah, kéo dài 25 giờ, chủ yếu là ăn chay và tập trung cầu nguyện, thường ở giáo đường.)

Khi anh phát bóng lỗ cuối cùng thì một cơn gió cuốn quả bóng đến ngay trên miệng lỗ và thả nó vào lỗ.

Một thiên thần chứng kiến phép lạ đó phàn nàn với Chúa, "Hắn choi golf trong ngày lễ Yom Kippur mà Người lại giúp hắn ăn cú một gậy trúng lỗ ư? Đây có phải là hình phạt không?"

"Tất nhiên rồi," Chúa mỉm cười nói. "Hắn còn dám hé răng với ai về chuyện này nữa?"

Macbeth, hay Vở bi kịch về Macbeth là vở bi kịch ngắn nhất của William Shakespeare được cho là viết vào khoảng 1603 và 1607, Macbeth - ngay khi đang tỏa sáng trong vinh quang, danh vọng đã nghe những lời tiên tri ghê gớm của ba mụ phù thủy về một tương lai với vinh quang và danh vọng còn to lớn hơn. Lời tiên tri rằng Macbeth sẽ sở hữu ngai vàng đã đánh thức trong Macbeth tham vọng quyền lực dữ dội. Cùng với sự thúc giục và khuyến khích của vợ, Macbeth phạm tội sát nhân khi vua Duncan (vua nước Anh) đến thăm lâu đài của hắn. Sau đó Macbeth đã lên ngôi vua theo đúng lời tiên tri, nhưng luôn phải cố sức giữ ngôi vua, liên tục gặp ác mộng, hồn ma hiện hình, hình ảnh con dao găm nhuốm máu lơ lửng trong tâm hồn, và cuối cùng bị giết chết.

TÁC ĐỘNG CỦA PHÂN TÂM HỌC

ĐẾN ĐẠO ĐỨC HỌC TRIẾT HỌC

Sigmund Freud, mặc dù không phải triết gia, nhưng đã có ảnh hưởng lớn tới triết học đạo đức với tuyên bố rằng thật ra chính những thôi thúc sinh học vô thức xác định hành vi của con người chứ không phải những phân biệt tỉnh táo, lý trí và tốt đẹp. Dù chúng ta có cố gắng đến mấy để khép cuộc sống của mình vào vòng kiểm soát của lý trí theo lời khuyên của các triết gia đạo đức học, thì vô thức vẫn luôn đột phá. Chẳng hạn sự lỡ lời kiểu Freud - là tình trạng khi chúng ta “nhầm lẫn” nói điều gì đó bộc lộ mong muốn từ vô thức, ví dụ ông ủy viên hội đồng thành phố giới thiệu vị chủ tịch xinh đẹp của mình là “một nữ công bộc xuất sắc. (nguyên văn: ‘a great public servant’ - nghĩa là ‘một viên chức xuất sắc’ cũng có thể hiểu theo cách khá là khiếm nhã, vì trong tiếng Anh, ''public house" nghĩa là ‘nhà chứa’.

Nhà trị liệu tâm thần hỏi bệnh nhân về cuộc viếng thăm mẹ của ông ta. Bệnh nhân nói, "Tệ quá. Tôi bị lỡ lời quá kinh khủng kiểu Freud."

"Thật ư?" nhà trị liệu hỏi. "ông đã nói gì?"

"Tôi định nói, 'Đưa hộ con lọ muối', nhưng tôi lại nói ra thành, 'Đồ chó! Bà đã lam hỏng cả cuộc đời tôi!' "

Theo Freud, toàn bộ triết học đạo đức trên thế giới chủ yếu nói với chúng ta về một giấc mơ đẹp hơn là về những kiểm soát vô thức có thật điều khiển hành vi của chúng ta.

Một anh chàng lao bổ vào phòng khám của bác sĩ tâm thần lắp bắp xin lỗi đã đến muộn vì ngủ dậy trễ.

"Nhưng trong mơ tôi đã có một bước đột phá không thể tin nổi," anh ta hổn hển kêu lên. "Tôi đang nói chuyện với mẹ thì bỗng dưng bà ấy biến thành ông! Đúng lúc đó tôi thức giấc, mặc quần áo, tợp vội một lon Coca với cái bánh rán rồi lao đến đây ngay."

Bác sĩ tâm thần nói, ''Một lon Coca và cái bánh rán? Anh gọi thế là một bữa sáng đấy à?”

Mặt khác, ngay cả Freud cũng thừa nhận rằng việc hạ thấp hành vi của con người xuống thành những thôi thúc vô thức đôi khi có thể bỏ qua những sự thật hiển nhiên. Ông có một câu nổi tiếng, “Đôi khi điếu xì gà chỉ đơn giản là một điếu xì gà.”

Một anh chàng đang cạo râu chợt con dao tuột khỏi tay rơi xuống tiện đứt mất của quý. Anh ta nhặt của quý lên, nhét vào túi, lao ra đường chặn một chiếc taxi, bảo lái xe chở gấp đến phòng cấp cứu.

Tại đó, anh ta kể lại sự việc với bác sĩ phẫu thuật. Bác sĩ nói, "Cần phải làm thật nhanh. Đưa nó đây cho tôi."

Anh ta thọc tay vào túi và trao vật nằm trong túi vào tay bác sĩ.

"Nhưng đây là điếu xì gà, có phải dương vật đâu!" bác sĩ phẫu thuật nói.

"Ôi Chúa ôi," anh ta rên lên, "chắc tôi đã hút hết nó trong taxi rồi."

ĐẠO ĐỨC HỌC TÌNH HUỔNG

Thập niên 1960 bỗng trở nên xôn xao với cái gọi là “đạo đức học tình huống”. Những người đề xuất trào lưu tuyên bố rằng hành vi đạo đức thực hiện trong bất kỳ tình huống nào cũng phụ thuộc vào sự pha trộn đặc thù của các nhân tố trong tình huống đó. Những người cụ thể nào chịu sự tác động của tình huống? Họ có cái lý gì khi gây ra kết quả của tình huống? Kết quả ảnh hưởng thế nào đển các tình huống tương lai? Và nói cho cùng thì ai đang đặt ra những câu hỏi này? Chẳng hạn trong trường hợp ngoại tình, bên cạnh các thứ khác, các nhà đạo đức học tình huống sẽ quan tâm đến tình trạng hôn nhân và có thể đi tới những đánh giá trái ngược, tùy thuộc vào việc cuộc hôn nhân có diễn ra suôn sẻ hay không. Những người phản đối đạo đức học tình huống tỏ ra bất bình, họ cảm thấy lối lập luận như thế có thể được dùng để biện hộ cho bất cứ chuyện gì người ta muốn làm. Một số người phản đối giữ lập trường cực đoan: bội tín luôn luôn sai, bất kể trong hoàn cảnh nào.

Nhưng thật nghịch lý, đôi khi vì lờ đi hoàn cảnh đặc thù, chúng ta đã tạo cơ hội cho những hành động ích kỷ.

Bọn cướp có vũ trang đột nhập vào một ngân hàng, bắt toàn bộ nhân viên cùng khách hàng đứng dựa vào tường và bắt đầu lột ví tiền, đồng hồ, nữ trang của họ. Hai kế toán của ngân hàng đứng trong hàng người chờ bị cướp. Một người đột nhiên dúi thứ gì đó vào tay người kia. Người kia thì thầm hỏi, "Cái gì thế?" Người thứ nhất thì thầm đáp, "Đây là năm chục đô tôi nợ ông."

DIMITRI: Tôi vẫn không chắc cái gì là đúng cái gì là sai, nhưng có một việc tôi biết chắc - điều quan trọng trong cuộc sống là khiến thần linh hài lòng.

TASSO: Như Zeus và Apollo.

DIMITRI: Đúng. Hoặc vị thần yêu thích của tôi: Aphrodite.

TASSO: Ồ, cũng là vị thần tôi thích... nếu nàng tồn tại.

DIMITRI: Nếu nàng tồn tại ư? Tốt nhất là cậu hãy thôi bẻm mép đi, Tasso ạ. Tôi đã chính mắt trông thấy có những người bị sét đánh tan thây vì nói thế.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx