sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

VIII. Triết Học Chính Trị Và Xã Hội

DIMITRI: Tasso này, chúng ta có thể luận bàn triết học cho đến khi xanh mặt xanh mày, nhưng nếu đến mức phải động chân động tay thì tất cả những gì tôi thực sự muốn từ cuộc sống chỉ là ngôi nhà nhỏ của riêng mình, một con cừu, và ba bữa ăn tươm tất mỗi ngày.

Tasso huých Dimitri.

DIMITRI: Cậu làm cái quái gì thế?

TASSO: Ai cấm được tôi huých cậu - hoặc huých ai đó khác - nếu tôi thích thế hả?

DIMITRI: Vệ binh của Nhà nước chứ còn ai!

TASSO: Làm sao họ biết phải làm gì và tại sao?

DIMITRI: Nhờ Zeus. Nhưng chúng ta lại luận bàn triết học đấy à?

TRẠNG THÁI TỰ NHIÊN

Các triết gia chính trị thế kỷ mười bảy và mười tám như Thomas Hobbes, John Locke, và Jean-Jacques Rousseau cho rằng sự bất an của con người sống trong trạng thái tự nhiên lộn xộn là động lực dẫn đến hình thành chính phủ. Các nhà triết học này không chỉ nói về sự nguy hiểm của những mãnh thú hoang dã trong thiên nhiên; họ còn nói về tình trạng vô luật lệ: những nguy cơ của giao thông hai chiều, những người láng giềng ồn ào, nạn cướp vợ, và những sự việc đại loại. Những phiền toái như vậy khiến con người phải tự tổ chức lại thành các nhà nước có chủ quyền. Hạn chế tự do cá nhân được chấp nhận như là sự trao đổi công bằng lấy những lợi ích mà nhà nước mang lại.

Một con thỏ rừng bị bắt đưa đến phòng thí nghiệm của Viện Sức khỏe Quốc gia. Tại đây, nó kết bạn với một con thỏ sinh ra và được nuôi lớn lên trong phòng thí nghiệm.

Một buổi tối, thỏ rừng phát hiện ra chuồng của nó cài then không kỹ và quyết định tẩu thoát tìm tự do. Nó rủ con thỏ phòng thí nghiệm cùng đi trốn. Con thỏ phòng thí nghiệm rất do dự vì nó chưa bao giờ ra khỏi phòng thí nghiệm, nhưng cuối cùng cũng bị thỏ rừng thuyết phục.

Khi đã tự do, con thỏ rừng nói, "Tớ sẽ dẫn cậu đến cánh đồng tốt thứ ba," và dẫn bạn đến một cánh đồng trồng đầy rau diếp.

Sau khi ăn no nê, con thỏ rừng nói, "Tớ sẽ dẫn cậu đến cánh đồng tốt thứ hai," và nó dẫn con thỏ phòng thí nghiệm đến cánh đồng trồng toàn cà rốt.

Sau khi ăn no cà rốt, con thỏ rừng nói, "Tớ sẽ dẫn cậu đến cánh đồng tốt nhất," và nó dẫn con thỏ phòng thí nghiệm đến một nơi có nhiều hang thỏ đầy những thỏ cái. Cả hai như lạc vào thiên đường, làm tình liên miên suốt đêm.

Trời vừa rạng đông, con thỏ phòng thí nghiệm tuyên bố rằng nó phải quay trở về phòng thí nghiệm.

"Tại sao?" con thỏ rừng ngạc nhiên. "Tớ đã dẫn cậu đến cánh đồng tốt thứ ba với rau diếp, cánh đóng tốt thứ hai với cà rốt, và cánh đồng tốt nhất với các cô nàng. Tại sao cậu còn muốn quay lại phòng thí nghiệm?"

Con thỏ phòng thí nghiệm trả lời, "Tớ không chịu được. Tớ đang thèm thuốc lá muốn chết!"

Đó là những lợi ích của một xã hội có tổ chức.

Mô tả cuộc sống của con người sẽ thế nào nếu không có chính phủ, Hobbes từng có nhận xét nổi tiếng về trạng thái tự nhiên của con người là “cô độc, nghèo [sic], dơ bẩn, dã man, và ngắn”. Như chúng ta biết, Hobbes không có mấy khiếu hài hước, nhưng các danh sách dài luôn gắn theo một thứ đặc sắc rất nghịch lý ở cuối lại làm bật ra tiếng cười, chẳng hạn một quý bà phàn nàn rằng thực phẩm ở nơi nghỉ dưỡng của bà ta “lạnh, sống sít, ghê tởm và khẩu phần quá ít!”

Nhưng Hobbes đã không lường đến một khía cạnh trong bản chất con người, đó là sự lãng mạn của đời sống trong trạng thái tự nhiên, đặc biệt là hiện nay, khi rất nhiều người trong chúng ta đang cố tìm cách nối kết với con người hoang dã bên trong mình.

Trudy và Josephine đăng ký một chuyến đi săn ở miền hoang dã nước Úc. Đêm khuya, một thổ dân đóng khố đột nhập vào lều của họ và lôi Trudy ra khỏi võng, kéo cô vào rừng sâu và "làm cái cách của anh ta với cô". Mãi đến sáng hôm sau người ta mới tìm thấy cô, nằm mê man dưới gốc một cây cọ. Cô được đưa khẩn cấp vào bệnh viện ở Sydney để chữa chạy. Hôm sau, Josephine đến thăm Trudy và thấy bạn mình đang rất ủ rũ.

Josephine: Chắc cậu cảm thấy khủng khiếp lắm.

Trudy: Tất nhiên, quá khủng khiếp ấy chứ! Hai mươi tư giờ đã trôi qua rồi, vậy mà không thiệp cũng không hoa. Anh ấy thậm chí còn không gọi điện nữa!

LẼ PHẢI THUỘC VỀ KẺ MẠNH

Niccolò Machiavelli thế kỷ mười sáu, tác giả của Quân vương, được coi như cha đẻ của thuật cai trị hiện đại bởi vì ông khuyên các nhà cai trị thời Phục hưng đừng đếm xỉa đến những tiêu chuẩn đã được thừa nhận về phẩm hạnh và “sử dụng cái ác khi cần”. Ông quan niệm không quyền lực nào cao hơn nhà nước, nên lời khuyên của ông đối với các nhà cai trị là... theo xu hướng Machiavelli. Ông thừa nhận thẳng thừng rằng tiêu chuẩn của ông về phẩm hạnh là bất cứ điều gì cho phép nhà cai trị sống còn về phương diện chính trị. Mặc dù đối với nhà cai trị, được sợ thì tốt hơn là được yêu, nhưng ông ta phải tránh bị ghét, vì điều đó có thể đe dọa quyền lực của ông ta. Tốt nhất là theo đuổi quyền lực một cách nhẫn tâm, trong khi tỏ ra liêm chính. Ví dụ sau đây là để suy ngẫm:

Một phụ nữ kiện một người đàn ông đã phỉ báng, bôi nhọ thanh danh của bà ta, tố cáo ông kia đã gọi bà ta là con lợn. Người đàn ông bị kết tội và phải chịu bồi thường. Sau phiên tòa, ông ta hỏi quan tòa, "Như thế có nghĩa là từ nay tôi không thể gọi bà Harding là con lợn nữa à?"

Quan tòa nói, "Đúng."

"Và điều đó có nghĩa là tôi không được gọi con lợn là bà Harding?"

Quan tòa nói, "Không, ông được tự do gọi một con lợn là bà Harding. Như thế không có tội."

Người đàn ông nhìn vào mắt bà Harding và nói, "Xin chào bà Harding."

Các truyện cười luôn luôn thừa nhận rằng tất cả chúng ta đều bị những thủ đoạn theo xu hướng Machiavelli cám dỗ, đặc biệt khi chúng ta tin chắc mình sẽ không bị lật tẩy.

Một người thắng 100.000$ ở Las Vegas, và không muốn cho ai biết, anh ta mang tiền về nhà, chôn ở sân sau. Sáng hôm sau, anh ta ra tìm thì thấy hố trống không. Anh ta thấy vết chân người huớng sang nhà kế bên, là nhà của một người câm-điếc, nên anh ta nhờ một giáo sư ở dưới phố, là người biết ngôn ngữ ra hiệu, giúp anh ta nói chuyện với người hàng xóm. Anh ta lấy khẩu súng và cùng với giáo sư gõ cửa nhà bên. Khi người hàng xóm mở cửa, anh ta chĩa súng vào mặt hắn và nói với giáo sư, “Ông bảo hắn rằng nếu hắn không trả lại tôi 100.000$, tôi sẽ giết hắn ngay bây giờ!"

Ông giáo sư dùng ngôn ngữ cử chỉ để truyền đạt cho người hàng xóm. Anh hàng xóm đáp rằng anh ta quả có giấu số tiền đó trong sân sau nhà mình, dưới gốc cây anh đào.

Ông giáo sư quay sang người đàn ông và nói, "Anh ta không chịu nói. Anh ta bảo thà chết còn hơn."

Không có gì đáng ngạc nhiên khi Machiavelli là người ủng hộ án tử hình, vì lợi ích nhất đối với nhà cai trị là được coi là hà khắc chứ không phải khoan dung. Nói cách khác, Machiavelli đồng ý với một người đã châm biếm nói, “Án tử hình có nghĩa là không bao giờ phải nói, ‘Lại là anh đấy à?’”

Dù bề ngoài chúng ta tỏ ra chính trực bao nhiêu - hoặc thậm chí cả trong tư tưởng - thì Machiavelli vẫn tin rằng chúng ta thảy đều là những kẻ theo xu hướng Machiavelli từ tâm can phế phổi.

Bà Parker được gọi ra làm hội thẩm trong một phiên tòa nhưng bà yêu cầu được miễn vì về nguyên tắc bà phản đối án tử hình. Luật sư bào chữa nói, "Nhưng thưa bà, đây không phải là một vụ án giết người. Đây là một vụ kiện dân sự. Một người phụ nữ kiện chồng cũ của bà ta vì ông này đánh bạc hết 25.000$ mà ông ấy đã hứa dùng để sửa sang lại nhà tắm nhân dịp sinh nhật của bà ta."

"Ồ, thế thì tôi sẽ nhận lời," bà Parker nói. "Còn về án tử hình, tôi nghĩ có lẽ tôi đã sai rồi."

CHỦ NGHĨA NỮ QUYỀN

Đây là câu đố làm đau đầu người ta suốt mấy thập kỷ:

Một người chứng kiến con trai mình bị tai nạn xe đạp khủng khiếp. Anh ta bế đứa bé lên, đặt vào ghế sau xe ô tô và lao nhanh đến phòng cấp cứu. Khi thằng bé được đẩy vào phòng mổ, bác sĩ giải phẫu kêu lên, "Ôi Chúa ơi! Nó là con tôi!"

Chuyện này có thể giải thích ra sao?

Rất đơn giản! Bác sĩ giải phẫu là mẹ đứa bé.

Thời nay, ngay cả Rush Limbaugh (Người dẫn chương trình truyền thanh và phê bình chính trị bảo thù nối tiếng ở Mỹ.) cũng không phải rối trí chút nào trước câu đố này; số lượng nữ bác sĩ ở nước này đã gần cân bằng với số lượng bác sĩ nam. Và đó là kết quả của sức mạnh triết lý nữ quyền cuối thế kỷ hai mươi.

Buổi rạng đông thực sự của triết học nữ quyền bắt đầu từ thế kỷ mười tám với tác phẩm phôi thai (hay ta nên gọi là tác phẩm trứng nước?) của Mary Wollstonecraft Chứng minh các quyền của phụ nữ. Trong khảo luận này, bà thách thức không ai khác ngoài chính Jean-Jacques Rousseau, người đề xuất một hệ thống giáo dục cấp thấp cho phụ nữ.

Chủ nghĩa nữ quyền trong thế kỷ hai mươi được giải thích lại theo quan điểm hiện sinh với việc xuất bản cuốn Giới tính thứ hai của nhà triết học (và là người tình của Jean-Paul Sartre) Simone de Beauvoir. Bà tuyên bố không tồn tại thứ nữ tính bản chất nào hết, đó chỉ là tấm áo bó buộc do nam giới khoác cho nữ giới mà thôi. Về thực chất, phụ nữ tự do tạo ra phiên bản đàn bà theo quan niệm của họ.

Nhưng quan niệm về nữ tính mềm dẻo đến mức độ nào? Phải chăng những cơ quan sinh sản có từ khi chúng ta chào đời không liên quan gì đến nhận dạng giới tính của chúng ta? Một số nhà nữ quyền hậu de Beauvoir cho là vậy. Họ tuyên bố rằng con người bẩm sinh là một tấm bảng trắng về giới tính, nhận dạng giới tính là thứ chúng ta sở hữu về sau từ cha mẹ và xã hội. Và ngày nay, việc lĩnh hội vai trò giới tính đã trở nên phức tạp hơn bao giờ hết.

Hai anh chàng đồng tính đang đứng ở góc phố thì có một cô gái tóc vàng thon thả, đẹp lộng lẫy trong bộ váy mỏng bó sát, ngực áo khoét sâu, đi qua.

Một chàng thốt lên với chàng kia, "Những lúc như thế này, tôi ước gì mình là les!"

Phải chăng những vai trò giới tính truyền thống chỉ là định ước xã hội do đàn ông tạo ra để giữ đàn bà trong vòng lệ thuộc? Hay là những vai trò đó được quy định về phương diện sinh học? Thế lưỡng nan này tiếp tục chia rẽ cả các nhà triết học lẫn tâm lý học. Một số nhà tư tưởng sâu sắc ủng hộ mạnh mẽ quan điểm cho rằng những khác biệt giới tính được quy định bỏi yếu tố sinh học. Chẳng hạn, khi Freud tuyên bố rằng “giải phẫu học là số phận”, ông đã sử dụng mục đích luận để chứng minh rằng cấu tạo cơ thể của phụ nữ quyết định vai trò của phụ nữ trong xã hội. Có điều vẫn chưa rõ ông nói đến thuộc tính giải phẫu học nào khi kết luận là ủi quần áo là công việc của phụ nữ?

Một câu hỏi khác - vậy liệu quy định sinh học có chi phối đàn ông hay không? Chẳng hạn, phải chăng do kết quả giải phẫu học của họ, đàn ông dễ có xu hướng dùng những tiêu chuẩn nguyên thủy nhất trong việc lựa chọn bạn đời?

Một anh chàng hò hẹn với ba cô gái và đang cố gắng quyết định sẽ cưới ai. Anh ta đưa cho mỗi người 5.000 đô la để xem họ làm gì với số tiền đó.

Người thứ nhất đi mông má lại toàn thân. Cô ta vào một salon thượng hạng, làm tóc, làm móng, sửa mặt, và mua nhiều quần áo trang sức. Cô nói với anh rằng cô làm thế để trở nên hấp dẫn hơn với anh, bởi vì cô rất yêu anh.

Cô thứ hai mua cho anh một vài món quà. Cô mua một bộ gậy chơi golf, một số phụ kiện máy tính và quần áo đắt tiền. Cô nói rằng cô đã tiêu tất cả số tiền đó cho anh bởi vì cô rất yêu anh.

Cô thứ ba đầu tư số tiền đó vào chứng khoán. Cô kiếm được gấp đôi gấp ba 5.000$. Cô trả lại anh 5.000$ và tiếp tục đầu tư số còn lại vào chứng khoán. Cô nói với anh rằng cô muốn đầu tư cho tương lai của hai người bởi vì cô rất yêu anh.

Vậy anh ấy chọn ai?

Trả lời: Cô có bộ ngực to nhất.

Male chauvinist pig: Thuật ngữ của những nhà hoạt động nữ quyền những năm 1960 dùng để chỉ những người đàn ông thường có quyền lực (ví dụ ông chủ hoặc giáo sư), công khai bằng lời nói và việc làm cho rằng đàn ông hơn hẳn đàn bà.

Còn đây là một câu chuyện khác luận về sự khác biệt bản chất giữa đàn ông và đàn bà. Nó là bản chất, vì Người Đàn Ông Đầu Tiên chưa vướng vào các định ước xã hội, và tính bốc đồng của anh ta vì thế là thiên bẩm.

Chúa xuất hiện trước mặt Adam và Eve trong vườn Địa đàng, tuyên bố rằng ngài có hai món quà, cho mỗi người một món, và ngài muốn để hai người tự chọn lấy. Ngài nói, "Món quà thứ nhất là khả năng đứng đái."

Adam hấp tấp kêu to, "Đứng đái à? Tuyệt diệu! Nghe quá đã! Con muốn món này."

"Ô kê," Chúa nói. "Món này là của con, Adam. Còn Eve, con được món kia - cực khoái nhiều lần."

Thành quả xã hội và chính trị của phong trào nữ quyền nhiều vô kể: quyền bầu cử, luật bảo vệ nạn nhân bị cưỡng hiếp, được đối xử và đối đãi tốt hơn ở nơi làm việc. Gần đây, một hệ quả xã hội khác của phong trào nữ quyền là sự phản đòn của đàn ông. Từ đó dẫn đến một hiện tượng mói - sự ra đời của những truyện cười lệch lạc chính trị.

Coi một truyện cười công kích phong trào nữ quyền bất kỳ nào là lệch lạc chính trị tức là gia tăng chiều kích cho câu chuyện đó. “Tôi biết câu chuyện này chống lại triết lý tự do đã được thừa nhận của thời đại, nhưng bây giờ chẳng lẽ đến đùa cũng không được nữa sao?” Tạo ra những truyện cười theo khuynh hướng này, người kể đòi hỏi có quyền bất kính, một phẩm chất có thể làm cho một truyện cười thêm phần hài hước, và gây ra những rắc rối về mặt xã hội cho người kể, như ta thấy trong câu chuyện quá đỉnh sau đây:

Trong chuyến bay vượt đại dương, một chiếc máy bay bay qua vùng bão lớn, rung giật dữ dội. Tình hình càng tồi tệ hơn khi một bên cánh máy bay bị sét đánh.

Một người phụ nữ đặc biệt kinh hoảng. Cô đứng trên lối đi, gào lên, "Tôi còn quá trẻ mà phải chết rồi sao?" Rồi cô la, "ôi, tôi sắp chết rồi. Tôi muốn những giây phút cuối của tôi trên đời đáng ghi nhớ! Chưa từng có ai làm cho tôi cảm thấy tôi thật sự là đàn bà! Đuợc rồi, tôi đã quyết! Có ai trên máy bay này có thể làm cho tôi cảm thấy tôi thật sự là đàn bà không?"

Một hồi lâu im lặng. Mọi người quên đi mối hiểm nguy của chính mình, cùng nhìn như đóng đinh vào người phụ nữ tuyệt vọng ở phía trước. Rồi ở phía cuối máy bay có một người đàn ông đứng lên. Anh ta cao to lực lưỡng, da rám nắng, tóc đen nhánh, và anh ta bắt đầu vừa bước chậm rãi trên lối đi, vừa mở cúc áo sơ mi của mình. "Tôi có thể làm cô cảm thấy cô thật sự là đàn bà," anh ta nói.

Không ai nhúc nhích. Khi người đàn ông tới gần, cô gái bắt đầu bị kích động. Anh ta cởi sơ mi ra. Các bắp thịt cuồn cuộn trên ngực anh khi anh với đến cô, giơ cánh tay cầm chiếc sơ mi cho người phụ nữ đang run rẩy, và nói, "Là cái áo này đi."

Cơn bão công kích của những truyện cười lệch lạc chính trị này cũng khiến sinh ra vô số truyện cười phản kích, mở đầu như những truyện kỳ thị cực đoan điển hình truyền thống, nhưng kết cục lại bất ngờ giành phần thắng cho phụ nữ.

Hai tay chia bài trong sòng bạc đang buồn chán ngồi chờ ở bàn xúc xắc thì một phụ nữ tóc vàng rất hấp dẫn bước đến và đặt cược 20.000 đô la cho một lần gieo xúc xắc duy nhất. Cô ta nói, "Tôi hy vọng các anh không thấy phiền, nhưng tôi cảm thấy sẽ may mắn hơn khi tôi hoàn toàn trần truồng." Nói rồi, cô cởi bỏ quần áo, gieo xúc xắc, và kêu lên, "Cố lên, con ơi, Má cần quần áo mới!" Khi xúc xắc ngừng lại, cô nhảy tưng tưng và ré lên, "Ha! Ha! Ta thắng! Ta thắng rồi!" Cô ôm từng người chia bài, nhặt lấy số tiền thắng cuộc và quần áo của mình rồi nhanh chóng biến mất. Hai người chia bài đứng chết lặng nhìn nhau. Cuối cùng, một người nói, "Cô ấy gieo cái gì?" Người kia nói, "Tôi không biết. Tôi tưởng anh nhìn."

Bài học: không phải tất cả các phụ nữ tóc vàng đều ngốc, nhưng tất cả đàn ông đều là đàn ông.

Đây lại một thí dụ nữa về thể loại truyện nữ quyền mới:

Một cô gái tóc vàng ngồi cạnh một luật sư trên máy bay. Anh này cứ lải nhải rủ cô chơi trò chơi, xem ai am hiểu rộng hơn. Cuối cùng, anh ta nói anh xin đánh cá mười ăn một. Cứ mỗi lần không trả lời được một câu hỏi của anh ta, cô sẽ phải trả năm đô la. Mỗi lần không trả lời được một câu hỏi của cô, anh ta phải mất năm mươi đô.

Cô đồng ý chơi, và anh ta hỏi, "Khoảng cách từ Trái Đất đến ngôi sao gần nhất là bao nhiêu?"

Cô không nói gì, chỉ đưa cho anh ta tờ năm đô la.

Cô hỏi, "Con gì đi lên núi bằng ba chân nhưng đi xuống bằng bốn chân?"

Anh ta suy nghĩ hồi lâu nhưng cuối cùng phải thú nhận rằng anh chẳng biết tí gì. Anh ta đưa cô năm mươi đô la.

Cô gái đút tiền vào ví không bình luận gì.

Chàng luật sư nói, "Khoan đã. Câu trả lời cho câu hỏi của cô là gì?"

Không nói một lời, cô đưa cho anh ta năm đô la.

CÁC TRIẾT THUYỂT KINH TẾ HỌC

Trong câu đầu tiên của cuốn sách kinh điển của Robert Heilbroner về các nhà lý thuyết kinh tế học, Các triết gia thế gian, tác giả thú nhận rằng đây là cuốn sách về “một số người có tham vọng kỳ lạ về danh tiếng”. Đúng thế, ngay cả kinh tế học cũng có các triết gia của riêng nó.

Triết gia kinh tế người Scotland Adam Smith viết cuốn Nghiên cứu bản chất và nguồn gốc tài sản quốc gia trong cùng năm Hoa Kỳ tuyên bố độc lập. Tác phẩm này đã hình thành bản thiết kế cho chủ nghĩa tư bản thị trường tự do.

Theo Smith, một trong những sức mạnh của chủ nghĩa tư bản là nó cổ vũ sáng tạo kinh tế. Dường như những lợi ích cá nhân có khả năng kích thích tư duy không kém gì một cảnh tượng tử hình treo cổ.

Một người bước vào ngân hàng nói rằng ông ta muốn vay 200$ trong sáu tháng. Nhân viên tín dụng hỏi ông ta có gì để thế chấp. Người kia nóí, "Tôi có chiếc Rolls Royce. Chìa khóa của nó đây. Các ông hãy giữ nó đến khi nào tôi trả xong nợ."

Sáu tháng sau, người ấy quay lại ngân hàng, trả 200$ nợ cộng thêm 10$ tiền lãi và nhận lại chiếc Rolls Royce. Nhân viên tín dụng hỏi, "Thưa ngài, cho phép tôi hỏi, tại sao một người đi Rolls Royce mà lại cần vay 200$?"

Người kia trả lời, "Tôi phải sang châu Âu sáu tháng, và tôi có thể gửi chiếc Rolls Royce ở đâu trong thời gian lâu như thế mà chỉ mất có 10$?"

Đúng đấy,con yêu, mẹ phái giữ đôi tay thật đẹp lỡ khi mẹ muốn quay lại khoa phẫu thuật não."

Theo lý thuyết của chủ nghĩa tư bản, “nguyên tắc của thị trường” điều tiết nền kinh tế. Chẳng hạn, kiểm soát tốt hàng hóa có thể tạo ra lợi thế cạnh tranh cho một doanh nghiệp.

Người phỏng vấn: Thưa ngài, ngài đã gây dựng được một sản nghiệp đáng kể trong suốt cuộc đời mình. Ngài làm ra tiền bằng cách nào?

Tỷ phú: Tôi làm ra tất cả số tài sản đó bằng việc kinh doanh chim bồ câu đưa thư.

Người phỏng vấn: Chim bồ câu đưa thư! Thật hấp dẫn! Ngài đã bán được bao nhiêu con?

Tỷ phú: Tôi chỉ bán một con, nhưng nó cứ quay về hoài.

Khi chủ nghĩa tư bản tiến hóa, triết học kinh tế đã phải cố chạy theo để bắt kịp. Đổi mới thị trường đã đưa đến những vấn đề phức tạp mà Adam Smith và các nhà triết gia kinh tế kinh điển chưa tưởng tượng ra. Chẳng hạn, bảo hiểm y tế đã tạo ra một bối cảnh trong đó lợi ích cao nhất của người mua là không nhận về số tiền của mình. Nếu bạn nói với một tay môi giới hàng về việc mua thịt lợn, thì thứ anh ta nghĩ đến sẽ không phải là những con lợn, mà là một hợp đồng giao dịch tưong lai. Xổ số là một sự đổi mới tương tự, trong đó các quy luật kinh điển về thị trường dường như không hoàn toàn thích hợp.

Jean-Paul, một người Cajun, chuyển đến Texas và mua một con lừa của một ông già nông dân với giá 100$. Người nông dân đồng ý đem con lừa đến vào hôm sau.

Hôm sau, người nông dân đến và nói, "Xin lỗi, nhưng tôi có một tin xấu: con lừa chết rồi."

"Thôi được, thế thì trả lại tiền cho tôi."

"Không được. Tôi tiêu hết mất rồi."

"Thôi được, thế thì bỏ con lừa xuống đây."

"Anh định làm gì với nó?"

"Tôi dùng nó làm phần thưởng xổ số."

"Anh không thể dùng một con lừa đã chết làm phần thưởng xổ số!"

"Chắc chắn tôi làm được. Cứ chờ xem. Tôi sẽ không nói với ai là nó đã chết."

Một tháng sau, người nông dân gặp lại anh chàng Cajun và hỏi, "Chuyện gì xảy ra với con lừa chết ấy?"

"Tôi dùng nó làm phần thưởng xổ số. Tôi bán 500 vé, mỗi vé 2$ và được lời 898$."

"Không có ai phàn nàn à?"

"Có anh chàng trúng số. Bởi vậy tôi trả lại anh ta 2$."

Các nhà kinh tế học cổ điển cũng không chú ý lắm đến cái mà ngày nay chúng ta gọi là “giá trị ẩn”, chẳng hạn như lao động không được trả công của các bà mẹ ở nhà. Cậu chuyện sau đây minh họa khái niệm giá trị ẩn:

Một nhà sưu tầm nghệ thuật nổi tiếng đang dạo bước trên phố thì chợt thấy có con mèo nhem nhuốc đang liếm sữa trong đĩa bên lối vào một cửa hàng. Nhìn kỹ, ông ta nhận ta cái đĩa rất cổ và rất có giá trị, bèn làm ra vẻ tình cờ bước vào cửa hàng và ngỏ ý muốn mua con mèo với giá hai đô la.

Chủ cửa hàng trả lời, "Xin lỗi, nhưng con mèo đó không phải để bán."

Nhà sưu tầm nói, "Làm ơn đi, tôi cần một con mèo đó ở nhà để bắt chuột. Tôi sẽ trả ông hai mươi đô la cho con mèo đó."

Người chủ nói, "Vâng tôi bán," và đưa con mèo cho nhà sưu tầm.

Nhà sưu tầm tiếp tục, "Này, với hai mươi đô la, không hiểu ông có vui lòng quẳng thêm chiếc đĩa cũ kia không. Con mèo đã quen với nó và tôi đỡ tốn công đi kiếm một chiếc đĩa."

Người chủ nói, "Xin lỗi, ông bạn, nhưng nó là chiếc đĩa may mắn của tôi. Cho đến tuần này tôi đã bán được ba mươi tám con mèo rồi."

Xứng đáng với danh tiếng của mình, Adam Smith đã thấy trước những tảng đá ngầm của chủ nghĩa tư bản tự do, chẳng hạn như sự lớn mạnh của các tổ chức độc quyền. Nhưng chỉ có Karl Marx ở thế kỷ mười chín mới có thể xây dựng được triết thuyết kinh tế tấn công vào tình trạng phân phối phúc lợi bất công trong chính hệ thống chủ nghĩa tư bản. Sẽ xảy ra một cuộc cách mạng, và chính quyền của những người vô sản sẽ xóa bỏ chênh lệch giàu nghèo tác động đến tất cả các lĩnh vực xã hội - từ chế độ sở hữu đến lòng tin.

Cách đây không lâu, chúng tôi sang Cuba để mua một ít xì gà rẻ không được nhập khẩu vào Mỹ vì lệnh cấm vận. Khi dừng chân ở một câu lạc bộ hài kịch ở Havana chúng tôi nghe được mẩu đối thoại sau đây:

José: Một thế giới mới điên rồ làm sao! Người giàu, có thể trả tiền mặt, thì được mua chịu (mua bằng thẻ tín dụng). Người nghèo, không có tiền, lại phải trả tiền mặt. Chẳng phải Marx đã nói cần phải lật ngược lại hay sao? Nên cho phép người nghèo mua chịu, còn người giàu phải trà tiền mặt.

Manuel: Nhưng nếu các chủ cửa hàng bán chịu cho người nghèo thì chẳng bao lâu chính họ cũng sẽ thành người nghèo!

José: Thế càng tốt! Khi đó họ cũng có thể mua chịu!

Theo Marx, chuyên chính vô sản tiếp sau cách mạng sẽ kéo theo “sự suy tàn của nhà nước”. Chúng tôi vẫn nghĩ Marx phải chịu tai tiếng là một kẻ vô chính phủ cực đoan.

Có thể bạn đang tự hỏi, “Chính xác thì chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản khác nhau ở chỗ nào?” Có thể bạn không hỏi. Bất luận thế nào thì câu trả lời cũng hết sức đơn giản. Dưới chế độ tư bản, người này bóc lột người kia. Dưói chế độ cộng sản thì ngược lại.

Vấn đề phức tạp này dẫn đến sự thỏa hiệp giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, được biết đến dưới tên gọi nền dân chủ xã hội, trong đó người không có khả năng lao động đưực hưởng trợ cấp, và pháp luật bảo hộ thỏa ước tập thể. Nhưng sự thỏa hiệp này đã buộc một số người phái tả phải chấp nhận các đối tác “đồng sàng dị mộng”.

Một đại biểu công đoàn sang dự hội nghị ở Paris và quyết định đi chơi nhà thổ. Anh ta hỏi bà chủ, "Đây có phải nhà nghiệp đoàn không?"

"Không, không phải," bà ta trả lời.

"Vậy các cô gái kiếm được bao nhiêu?" vị đại biểu công đoàn hỏi.

"Ông trả tôi 100$, nhà chứa được 80$, cô gái được 20$."

"Như vậy là bóc lột tàn tệ." Người đàn ông nói và huỳnh huỵch bước ra.

Cuối cùng, anh ta tìm được một nhà thổ mà bà chủ nói đó là nhà nghiệp đoàn. "Nếu tôi trả bà 100$, cô gái được bao nhiêu?" anh ta hỏi.

"Cô ấy được 80$."

"Tuyệt!" ông ta nói. "Tôi muốn Collette."

"Vâng, tôi chắc anh thích con bé," bà chủ chứa nói, "nhưng phải ưu tiên Thérèse, vì ở đây cô ấy có thâm niên."

Lý thuyết kinh tế thường ngụy biện khi cố nêu lên sự khác biệt ở những hoàn cảnh không có sự khác biệt. Chẳng hạn, về nguyên tắc liệu có sự phân biệt thực sự nào không giữa việc trợ cấp cho người nghèo và giảm thuế cho người giàu?

Trong truyện cười này, ông Fenwood đã áp dụng chiến thuật khiến hai thỏa thuận kinh tế khác nhau thực ra không có gì khác biệt:

Ông Fenwood có một con bò nhưng không có chỗ chăn thả. Bởi vậy ông sang thăm ông bạn láng giềng Potter, và đề nghị trả ông Potter mỗi tháng hai mươi đô la để thả con bò ở bãi cỏ của ông Potter. Ông Potter đồng ý. Nhiều tháng trôi qua, con bò được thả ở bãi cỏ nhà ông Potter nhưng ông Fenwood không đưa cho ông Potter đồng nào. Cuối cùng, ông Potter sang nhà ông Fenwood và nói, "Tôi biết ông đang khó khăn tiền bạc, vậy chúng ta thỏa thuận với nhau một chút nhé? Tôi đã chăn con bò cho ông mười tháng, ông nợ tôi 200$. Tôi nghĩ con bò cũng đáng giá chừng đó. Bây giờ tôi giữ con bò và chúng ta không ai nợ nần ai nhé?"

Ông Fenwood nghĩ một phút rồi nói, "Thôi ông hãy giữ nó thêm một tháng nữa, rồi con bò sẽ thuộc về ông!"

TRIẾT HỌC LUẬT PHÁP

Triết học về luật pháp, hay luật học, nghiên cứu những vấn đề nền tảng như “Mục đích của pháp luật là gì?”

Triết học luật pháp có một số học thuyết chính. “Luật đức hạnh”, bắt nguồn từ đạo đức học của Aristotle, quan niệm rằng luật pháp nên khuyến khích phát triển đức hạnh. Những người chủ trương áp dụng luật đức hạnh có thể lập luận rằng mục đích của Luật hành vi nơi công cộng (cấm đái ở quảng trường) là khuyến khích phát triển những tiêu chuẩn đạo đức cao hơn trong mọi nhóm người, đặc biệt ở nhóm đái bậy nơi công cộng. (Tuy nhiên, một bồi thẩm đoàn gồm những người đái bậy có thể không đồng ý với lập luận này.)

Immanuel Kant ủng hộ quan điểm “nghĩa vụ luận” (deontology), cho rằng mục đích của luật pháp là luật hóa các nghĩa vụ đạo đức. Đối với những nhà nghĩa vụ luận, Luật chống đái bậy chủ trương mọi công dân phải có nghĩa vụ tôn trọng cảm giác của người khác.

Triết gia vị lợi thế kỷ mười chín Jeremy Bentham cho rằng mục đích của luật pháp là đem lại kết quả tốt đẹp cho nhiều người nhất. Theo quan điểm của các nhà vị lợi, Luật chống đái bậy đem lại kết quả tốt đẹp cho nhiều người (dân thành thị) hơn là gây bất tiện cho một số ít người ưa đái bậy sẽ phải thay đổi tập quán xã hội lâu dài của mình.

Tuy nhiên, như ta vẫn thường chứng kiến trong triết học, những người bình thường có lẽ sẽ có ngay câu hỏi đầu tiên dành cho các nhà lý luận, “Liệu có tồn tại khác biệt thực tế nào - theo quan điểm của Tòa Thẩm phán Judy (“Judge Judy's court": chương trình truyền hình phổ biến kiến thức pháp luật gia đình rất nổi tiếng của Mỹ, do cựu thẩm phán Judy Sheindlin dẵn dắt.) chẳng hạn - giữa các lý thuyết sắc sảo mà các vị đề ra không?” Ba lý thuyết nêu trên đều có thể dùng để giải thích về sự cần thiết không chỉ của Luật hành vi nơi công cộng, mà cả của nhiều nguyên tắc pháp lý vững chắc khác, như quan điểm áp dụng hình phạt đối với tội nhân để làm thăng bằng cán cân công lý. Bạn có thể giải thích hình phạt theo quan điểm phát triển đức hạnh (phục hồi nhân cách), quan điểm nghĩa vụ luận (trừng phạt tội vi phạm nghĩa vụ công dân), hay quan điểm vị lợi (ngăn chặn hậu quả xấu trong tưong lai).

Những người không liên quan gì đến triết học có thể hỏi, “Nếu các vị đều thống nhất với nhau ở kết cục, vậy thì lý do chúng ta áp dụng hình phạt có gì khác nhau không?” Vấn đề thiết thực duy nhất ở đây có lẽ là làm thế nào tạo được tương quan thích hợp giữa một hành vi phạm pháp, ví dụ như chửi mắng quan tòa, với một hình phạt như nộp hai mươi đô la chẳng hạn. Làm sao cho thích hợp đây?

Một người chầu chực suốt ngày ở tòa án giao thông để chờ xét xử vụ việc của mình. Cuối cùng cũng đến lượt anh ta đứng trước quan tòa - nhưng quan tòa chỉ nói với anh ta rằng ngày mai anh ta phải quay lại, vì phiên tòa hôm nay đã hoãn. Cáu tiết, anh ta quát lên, "Để làm cái chó gì?"

Quan tòa quát lại, "Hai mươi đô la vì xúc phạm tòa!"

Người đàn ông rút ví ra. Quan tòa nói, "Anh không phải trả ngay hôm nay."

Người kia nói, "Tôi chỉ kiểm xem tôi còn đủ tiền để nói thêm hai từ nữa không thôi."

Một nguyên tắc pháp lý nổi tiếng nữa là không thể luận tội dựa trên các chứng cớ gián tiếp. Lại một lần nữa, cả ba lý thuyết gia trừu tượng kia đều có thể ủng hộ nguyên tắc này. Một nhà lý thuyết theo quan điểm Luật đức hạnh có thể lập luận rằng tiêu chuẩn cao về tính công bằng trong phòng xử án sẽ trở thành mẫu mực đức hạnh cho toàn thể công dân noi theo. Đối với nhà nghĩa vụ luận, sử dụng chứng cớ gián tiếp có thể vi phạm nghĩa vụ chung của công dân là phải tuyệt đối công bằng đối với người khác. Đối với nhà vị lợi, việc sử dụng chứng cớ gián tiếp có thể gây hậu quả không mong muốn là bỏ tù người vô tội.

Lại một lần nữa, những người thực tế hơn trong chúng ta có thể hỏi, “Ai cần quan tâm đến lý do khiến chúng ta bàn về chứng cớ gián tiếp một cách thận trọng như vậy?” Một cách thiết thực, chúng ta chỉ cần vạch ra tính chất không đáng tin cậy của nó, như người phụ nữ trong câu chuyện sau đây đã làm. [Lưu ý cách vận dụng phép phản chứng (reductio ad absurdum) rất khôn ngoan của cô ấy].

Một đôi vợ chồng đi nghỉ ở một khu nghỉ dưỡng câu cá. Trong khi chàng chợp mắt, nàng quyết định lấy thuyền của chàng bơi ra hồ và đọc sách. Trong khi nàng đang tắm nắng thì có một cảnh sát bơi thuyền đến và bảo, “Ở đây không được câu cá, thưa bà. Tôi phải bắt giữ bà."

Nàng nói, "Nhưng thưa ông, tôi có câu cá đâu?"

Cảnh sát trưởng nói, "Thưa bà, bà có tất cả dụng cụ cần thiết. Tôi buộc phải bắt giam bà."

Nàng nói, "Nếu ông làm thế, thưa ông, tôi sẽ phải tố cáo ông tội cưỡng hiếp."

"Nhưng tôi chưa hề chạm đến người bà," viên cảnh sát nói.

"Tôi biết," nàng nói, "nhưng ông có đủ dụng cụ cần thiết.”

Tuy nhiên vẫn tồn tại những nguyên tắc pháp lý trở nên rất khác biệt tùy thuộc vào việc chúng ta áp dụng lý thuyết nào trong số ba lý thuyết nêu trên, như trong câu chuyện sau đây:

Một quan tòa gọi hai luật sư của hai bên đến văn phòng của ông và nói, "Lý do tôi gọi các anh hôm nay là hai anh đều đã hối lộ tôi." Hai luật sư cùng ngọ nguậy trên ghế. "Anh, Alain, đã đưa tôi 15.000$. Phil, anh đã đưa 10.000$."

Quan tòa trao cho Alain một tấm séc trị giá 5.000$ và nói, "Bây giờ các anh ngang nhau, và tôi sẽ hoàn toàn dựa vào công lý để phán quyết vụ này."

Nếu mục đích của việc cấm hối lộ chỉ là để loại trừ tình trạng vi phạm nghĩa vụ xét xử công bằng đối với tất cả các bên, thì chúng ta có thể đồng ý với ông quan tòa rằng việc nhận mức hối lộ ngang nhau có cùng kết quả như không nhận hối lộ. Cũng như vậy, nếu mục đích của việc cấm hối lộ là để đảm bảo đem lại những kết quả tốt đẹp một cách công bằng cho mọi người. Nhưng sẽ khó khăn hơn nhiều nếu lập luận rằng nhận hối lộ ngang nhau sẽ khuyến khích đức hạnh ở cả quan tòa lẫn các luật sư. Lạ thật, sao chúng ta có thể dông dài mãi mà không kể một câu chuyện cười về các luật sư nhỉ? Ồ, nhưng cần gì băn khoăn, chúng ta chỉ là những con người thôi mà.

Một luật sư gửi thư cho thân chủ của mình: "Frank thân mến: Tôi nghĩ hôm qua tôi trông thấy anh ngoài phố. Tôi đã băng qua đường để chào anh, nhưng hóa ra không phải. 1/10 giờ: 50$."

DIMITRI: Cậu khiến tôi hào hứng rồi đấy, Tasso ạ. Tôi đã quyết định ứng cử vào Lực lượng cảnh sát đạo đức. Cậu có ủng hộ tôi một phiếu không?

TASSO: Tất nhiên, bạn ạ. Nếu cuộc bầu cử tiến hành bằng bỏ phiếu kín.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx