sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Bắt Đầu Rạn Nứt

Thời ấy, Luân Đôn chỉ có một cái cầu là cầu Luân Đôn, với một số nhà nằm trên. Cầu này nối liền Luân Đôn với Xaothuak, vùng ngoại ô lát bằng loại đá cuối sông Tami, gồm toàn phố nhỏ và ngõ hẹp, nhiều chỗ rất hẹp và cũng như trong thành phố, rất nhiều nhà cửa, chỗ ở và chòi gỗ, một thứ tạp nham dễ cháy làm mồi cho thần hỏa hoành hành. Năm 1666 đã chứng minh điều ấy.

Hồi bây giờ Xaothuak đọc là Xuđric; ngày nay người ta đọc thành Xuxuok, gần đúng. Vả lại cách đọc các tên Anh tốt nhất là chẳng đọc gì cả. Như Xaothamton thì cứ nói Stpntn.

Đấy là thời mà Satam được đọc là Giơtem[1].

Xaothuak thời ấy giống như Xaothuak ngày nay, cũng giống như Vôgira giống Macxây. Đó là một thị trấn; một thành phố. Tuy vậy, ở đấy giao thông đường biển cũng rất tấp nập. Trong một bức tường cũ khổng lồ trên sông Tami có gắn những khoanh sắt để buộc các loại tàu thuyền chạy trên sông. Bức tường ấy gọi là tường Epfrôc hay là Epfrôc-Xton. York, hồi còn thuộc Xăcxơ, tên là Epfrôc. Tục truyền có một vị công tước xứ Epfrôc chết đuối dưới chân bức tường ấy. Nước ở đấy quả tình khá sâu đối với một công tước. Lúc triều xuống vẫn còn sáu sải có dư. Cái bến nhỏ này tốt nên nó thu hút tầu thuyền đi biển và chiếc thuyền bầu cổ của Hà Lan, tức là chiếc Vôgrat, đến buộc tại Epfrôc-Xton. Thuyền Vôgrat, chạy thẳng một tuần một chuyến từ Luân Đôn đến Rôtecđam và từ Rôtecđam đến Luân Đôn. Các thuyền khác chạy hai chuyến một ngày, hoặc đi Depfor, hoặc đi Grinuyt, hoặc đi Grevơxen, tùy theo con nước lên xuống. Quãng đường đến Grevơxen, mặc dầu dài đến hai mươi hải lý, đi mất có sáu tiếng.

Thuyền Vôgrat thuộc kiểu ngày nay ta chỉ được thấy trong các viện bảo tàng hàng hải. Thứ thuyền bầu này gần giống chiếc đò. Thời đó, trong khi nước Pháp bắt chước Hylạp thì Hà Lan bắt chước Trung Quốc. Thuyền khoang rất kín, vuông góc, với một buồng sâu ở giữa thuyền và hai sàn tàu, một phía trước, một phía sau, có sàn thấp giống như những tàu sắt có tháp canh nhỏ ngày nay, nhờ vậy có điểm lợi là ít bị sóng đập lên thuyền những lúc gió to, và điểm bất tiện là thủy thủ dễ bị sóng hất xuống biển vì thiếu lan can. Không có gì ngăn giữ lại trên boong người sắp ngã. Vì vậy thường xảy ra tai nạn rơi xuống hiển và mất xác khiến phải bỏ loại thuyền ấy. Thuyền Vôgrat đi thẳng một mạch sang Hà Lan, và đến Grevơxen cũng không đỗ lại.

Một mép gờ bằng đá kiểu cổ, vừa bằng đá tảng vừa xây gạch, chạy dọc bên dưới Epfrôc-Xton, nước lên hay xuống cũng vẫn đi lại được, giúp cho việc lên xuống các tàu thuyền buộc vào tường được dễ dàng. Từng quãng, từng quãng, bức tường cũ lại có cầu thang cắt ngang. Nó đánh dấu mũi nam của Xaothuak. Một chỗ đắp cao cho phép người qua lại tì tay lên Epfrôc-Xton Như tì vào lan can bến tàu. Từ đó nhìn thấy sông Tami. Bên kia dòng nước, là hết Luân Đôn. Chỉ còn có đồng ruộng.

Phần trên Epfrôc - Xton, chỗ khuỷu sông Tami, gần đối diện với lâu đài Xanh Giêm, sau lưng Lambet- Haodơ, không xa con đường dạo chơi lúc ấy gọi là Focxhon[2], giữa một lò gốm làm đồ sứ và một lò thủy tinh làm chai vẽ hoa, có một bãi đất hoang cỏ mọc xanh um, ngày xưa ở Pháp gọi là đất trồng trọt, đường dạo chơi, và ở Anh gọi là bolinh-grin. Từ chữ bolinh-grin - thảm cỏ xanh để lăn một hòn cù, chúng ta có chữ bolinh- grin[3]. Ngày nay, trong nhà người ta vẫn có loại bãi cỏ như thế, có điều người ta đưa nó lên bàn, nó bằng dạ chứ không phải bằng cỏ xanh, và người ta gọi nó là bàn bi-a.

Vả lại không hiểu tại sao đã có từ bulova (hòn cù xanh), cũng vẫn là từ bolinh-grin. Kể cũng kỳ lạ, một nhân vật nghiêm trang như từ điển mà cũng có những khoản xa xỉ vô ích như vậy.

Bãi cỏ xanh của Xaothuak hồi ấy gọi là Tarinhzô-phin, vì trước thuộc các nam tước Haxtinh, vốn là nam tước Tarinhzô và Môsơlin. Từ tay lãnh chúa Haxtinh, Tarinhzô-phin chuyển sang tay lãnh chúa Tacaxtơ, những vị này đã khai thác nó trước mắt công chúng, cũng như về sau một công tước xứ Orlêăng đã khai thác Pale-Royan. Rồi sau đó Tarinhzô-phin trở thành đồng cỏ hoang và tài sản của giáo khu.

Tarinhzô-phin là một thứ bãi chợ phiên, thường xuyên, rộn ràng bọn ảo thuật, đi dây, múa rối, cánh nhạc sĩ sân khấu, và lúc nào cũng đầy dẫy bọn ngốc nghếch đến "nhìn quỉ sứ", như ngài tổng giám mục Sacpơ vẫn nói. Nhìn quỉ sứ tức là đi.

Nhiều quán rượu, lấy khách từ các rạp hát chợ phiên ấy và cũng gửi khách đến đấy, nhìn ra cái bãi quanh năm hội hè kia mà phát đạt. Các quán rượu ấy chỉ là những cửa hàng nhỏ, ban ngày mới có người ở. Tối đến chủ quán đút chìa khóa vào túi quần và ra về. Có độc một quán là nhà hẳn hoi. Khắp cả bãi không có cái nhà nào khác, vì lều lán, chợ phiên luôn luôn có thể biến mất trong chốc lát; tất cả cánh làm trò kia chẳng có gì ràng buộc và lúc nào cũng lang thang. Dân nghề múa rối sống một cuộc đời mất gốc.

Quán rượu ấy có tên là quán Tacaxtơ, lấy tên các lãnh chúa cũ, giống nhà trọ hơn quán rượu, và giống lữ quán hơn nhà trọ, có một cửa cho xe ra vào và một cái sân khá rộng.

Cửa xe ra vào mở từ sân ra bãi chợ phiên là cửa chính thức của quán Tacaxtơ, và bên cạnh là một cái cửa phụ cho người ra vào. Phụ tức là ưa thích. Cái cửa thấp này là cửa ra vào duy nhất. Nó mở thẳng vào tiệm rượu, một cái nhà tồi tàn, thênh thang, ám khói, kê bàn, trần thấp lè tè. Tầng trên có một cửa sổ. Cửa lớn, có chốt có then cố định, lúc nào cũng đóng im ỉm. Phải đi qua tiệm rượu mới vào được sân.

Trong quán Tacaxtơ có một chủ và một tớ. Chủ tên Nicơlex, tớ tên Gôvicâm. Ông Nicơlex - chắc hẳn là Nicôla biến thành Nicơlex do lối phát âm của người Anh - là một lão goá vợ hà tiện, run rẩy, luôn luôn tôn trọng pháp luật. Thêm lông mày chổi sể và bàn tay lông lá.

Còn thằng bé mười bốn, chuyên bưng bê và hễ ai gọi Gôvicâm thì dạ, có một cái đầu to hay toe toét với một chiếc tạp dề. Nó húi trọc, dấu hiệu của phận tôi đòi.

Nó ngủ ngay tầng trệt, trong một buồng xép, nơi trước kia người ta nuôi chó. Buồng xép có một cái lỗ con thay cửa sổ nhìn ra bãi.

Một buổi chiều gió to khá lạnh, đầy đủ lý do trên để rảo bước ngoài phố, một người đang đi trên cánh đồng Tarinhzô, men theo bức tường quán Tacaxtơ, bỗng dừng lại. Lúc ấy, vào quãng cuối đông năm 1704 – 1705. Người ấy, ăn mặc như thủy thủ, có dáng vẻ khỏe mạnh, tầm vóc cân đối, điều quy định với triều thần và không cần đối với thường dân. Tại sao y đứng lại? Để nghe. Nghe gì? Một giọng người đang nói. Chắc hẳn ở trong sân, bên kia bức tường, giọng có hơi già yếu, nhưng vẫn sang sảng, đến nỗi người qua lại ngoài đường ai cũng nghe. Đồng thời, trong khu vực có tường bao quanh mà giọng nói kia đang huyên thuyên, có tiếng ồn ào của đám đông. Giọng người kia nói:

- Thưa quí ông và quí bà Luân Đôn, tôi đã tới. Tôi xin thân ái chúc mừng quý vị là những công dân nước Anh. Quí vị là một dân tộc vĩ đại. Hơn thế nữa, quí vị là tầng lớp hạ lưu vĩ đại. Nắm đấm của quí vì còn đẹp hơn đường kiếm của quí vị. Quí vị luôn luôn thèm khát. Quí vị là quốc gia quen ăn các quốc gia khác. Chức năng thật tuyệt vời. Cái lối hấp thụ thế giới đó sắp xếp nước Anh riêng biệt sang một bên. Về mặt chính trị và triết học, và cai quản thuộc địa, dân số, công nghệ, và về mặt quyết tâm gây tai hoạ cho kẻ khác nhưng đối với mình lại là điều có lợi, thì quí vị thật độc đáo và phi thường. Đã gần đến lúc trên trần gian có hai tấm bảng, một cái ghi: phía dành cho người, một cái ghi: phía dành cho công dân Anh. Tôi nhận xét như vậy vì vinh quang của quí vị bởi tôi không phải là công dân Anh cũng không phải là con người, nhưng tôi có các vinh dự là một bác sĩ. Hai mặt ấy đi đôi với nhau. Thưa quí vị hào hoa phong nhã, tôi làm nghề đi dạy. Dạy gì? Hai điều, những gì tôi biết và những gì tôi không biết. Tôi bán thuốc và cho ý kiến. Xin quí vị xích lại gần đây và hãy lắng nghe, khoa học đang mời chào quí vị. Xin quí vị dỏng tai lên. Nếu tai bé, nó sẽ nắm được ít chân lý, nếu tai to, nhiều điều ngu ngốc sẽ lọt vào. Vậy xin chú ý. Tôi dạy Xođôđôxya Epiđêmica. Tôi có một anh bạn chuyên môn gây cười, còn tôi, tôi thích suy nghĩ. Chúng tôi cùng ở chung một cái hộp, cái cười vốn cũng con nhà gia giáo như hiểu biết. Khi người ta hỏi Đêmôcrit: Nhờ đâu mà ông biết? Ông đáp: Tôi cười. Còn tôi, nếu ai hỏi tôi: Tại sao ông cười? Tôi sẽ đáp: Tôi biết. Vả lại tôi không cười. Tôi là người uốn nắn những sai lầm của dân chúng. Tôi định tẩy rửa trí tuệ của quý vị. Nó bẩn quá. Chúa cho phép dân chúng bị lầm lẫn và bị đánh lừa. Không nên xấu hổ một cách ngu ngốc, tôi thành thực thú nhận là tôi tin ở Chúa, kể cả khi Chúa mắc phải sai lầm. Có điều khi nào thấy rác rưởi, sai lầm là rác rưởi, thì tôi quét dọn. Làm sao tôi biết được những điều tôi biết cái đó chỉ liên quan đến tôi. Mỗi người thu lượm khoa học theo lối của mình. Lăctăngxơ hỏi một cái đầu Viêcgin bằng đồng, nó trả lời ông: Xinvextơrơ đệ Nhị nói chuyện với chim không nói? Giáo hoàng có hót không? Đấy là những câu hỏi. Đứa con chết rồi của giáo sĩ Do thái Êlêaza nói chuyện với thánh Ôguxtanh. Nói riêng với nhau ở đây, từ hoài nghi tất cả những chuyện ấy. trừ chuyện cuối cùng. Thằng bé chết rồi còn nói được, cứ cho là thế đi, nhưng ở dưới lưỡi của nó có một chiếc lá bằng vàng trên khắc đủ các chòm sao. Quí vị thấy tính phải chăng của tôi. Tôi phân biệt cái đúng cái sai. Đây nhé, có những sai lầm khác mà chắc các vị, các vị đáng thương của dân chúng, mà tôi muốn tránh cho các vị. Điôxcôrit tưởng có Chúa trong cây giuyxkiam. Crixip tưởng có trong cây xinôpaxt. Giôdep tưởng có trong rễ cây bôrax. Hôme lại tưởng trong cây tỏi. Nhầm tuốt. Nằm trong các loại cây ấy, không phải Chúa, mà là quỉ sứ. Điều đó tôi đã xác minh rồi, bảo rằng con rắn cám dỗ Êva có mặt người như Camuy là không đúng. Garxuya Hortô, Cadamôxtô và Giăng Huygô, tổng giám mục xứ Tơrevơ, không công nhận việc chỉ cần cưa một cái cây ra là có một con voi. Tôi xin bái phục trước ý kiến của họ. Thưa quí vị công dân, những cố gắng của Lute là nguồn gốc của mọi ý đến sai lầm. Dưới triều đại của một vị vua như thế, phải xuất hiện những khí tượng sai lầm và hủy diệt. Thưa với quần chúng nhân dân, Claođiux Punse chết không phải vì gà con không ra khỏi chuồng; sự thật do biết trước cái chết của Claođiux Punse. Luxife đã có ý không cho gà ăn. Benzeebut truyền cho hoàng đế Vexpaziêng phép thuật giúp người què đứng được và trả ánh sáng lại cho người mù, bằng cách chạm vào người, đấy là việc hiển nhiên đáng khen nhưng động cơ thì có tội. Thưa các bậc hào hoa phong nhã, xin hãy cảnh giác với những vị "học giả" thường lợi dụng rễ cây brioan và cây culourơ trắng, họ lấy mật ong và tiết gà làm thuốc đau mắt. Các ngài cần thấy rõ chỗ giả dối. Chòm sao Thần nông sinh ra đâu phải do yêu cầu tự nhiên của Giuypite; sự thực là vì Mecquya tạo nên chòm sao ấy như vậy. Việc Ađam có rốn là không đúng. Lúc thánh Giorgiơ giết một con rồng, bên cạnh ông ta không có con gái một vị thánh nào cả. Ở trong phòng thánh Gierôm không có đồng hồ trên lò sưởi, thứ nhất vì đang sống trong động, ông ta không có phòng riêng, thứ hai vì ông không có lò sưởi, thứ ba vì lúc ấy đã làm gì có đồng hồ. Chúng ta phải cải chính lại. Hỡi các vị đang yêu quí đang lắng nghe tôi nói, nếu người ta bảo quí vị rằng: ai ngửi cỏ nữ lang hoa sẽ có thằn lằn sinh ra trong óc, rằng thịt bò thối nở ra trong mật ong, rằng thịt ngựa thối thành ong bò vẽ, rằng người chết nặng hơn người sống; rằng máu dê hoà tan ngọc bích, rằng khi gặp một con sâu, một con ruồi và một con nhện trên cùng một cái cây là điềm đói kém, chiến tranh và dịch hạch, rằng có thể chữa bệnh lão suy bằng một con sâu tìm thấy trong đầu một con hoẵng, thì xin quí vị chớ có tin, đấy chỉ là những điều sai lầm. Nhưng sau đây là một số chân lý: da bê biển chống được sét, cóc ăn đất nên trong đầu nó có hòn sỏi, hoa hồng Giêriczcô nở đêm trước lễ Giáng sinh; rắn không chịu được bóng cây tần bì; voi không có khớp xương buộc phải ngủ đứng, tựa vào cây; các vị cứ cho cóc ấp trứng gà, các vị sẽ được bọ cạp, con này sau đẻ ra kỳ nhông, một người mù sẽ sáng mắt khi đặt một bàn tay lên phía trái bàn thờ, bàn tay kia bịt mắt; tiết trinh không loại trừ sinh đẻ. Hỡi các vị hiền lành, xin hãy nhớ kỹ những điều hiển nhiên ấy, sau đó các vị có thể tin vào Chúa theo hai cách, hoặc như người khát nước tin ở quả cam, hoặc con lừa tin ở cái roi. Bây giờ tôi xin giới thiệu với quí vị con người của tôi.

Đúng lúc ấy một ngọn gió khá mạnh rung chuyển các khung các cửa và ván che quán rượu, vì nó là nột ngôi nhà đứng chơ vơ. Nghe y hệt một liếng rì rầm trên trời. Diễn giả chờ một lúc rồi lại nói át đi:

- Gián đoạn. Được. Gió bắc, mày cứ nói, thưa các vị hào hoa phong nhã, tôi không có giận đâu. Gió vốn ít lời như tất cả những kẻ cô đơn, trên ấy chẳng có ai làm bạn với gió. Cho nên nó phải ăn nói lăng nhăng. Bây giờ tôi lại xin tiếp tục. Các vị được thưởng thức ở đây những nghệ sĩ cùng chung tài hợp sức. Chúng tôi có tất cả 4 người. A lupo principium[4]. Trước tiên tôi bắt đầu bằng anh bạn thân của tôi là một con sói. Nó không hề che giấu đâu đó. Mời quí vị nhìn xem, nó có học, nghiêm trang và minh mẫn. Chắc hẳn Thượng đế đã có lúc định cho làm tiến sĩ trường đại học; nhưng muốn thế phải hơi đần độn một tí, mà nó thì không như vậy. Tôi xin nói thêm, nó không có thành kiến và không quí tộc tí nào. Gặp cơ hội nó cũng chuyện trò với chó cái, mặc dầu nó được quyền lấy một con sói cái. Các thái tử của nó, nếu có hẳn phải hoà tiếng ăng ẳng của mẹ chúng với tiếng rống của bố chúng một cách dễ thương. Vì nó hay rống. Phải rống với người chứ. Nó cũng sủa vì hạ cố văn minh. Một thái độ hoà nhã cao thượng. Ômô là một con chó hoàn hảo. Chúng ta hãy tôn trọng chó. Chó là một loại thú vật rất chi kỳ dị, nó đổ mồ hôi đằng lưỡi và mỉm cười đằng đuôi. Thưa quí vị hào hoa, về mặt khôn ngoan, Ômô sánh ngang, còn về mặt thân ái nó hơn hẳn loại sói không lông ở Mêhicô, giống xôlôitiênixki đáng khen. Tôi xin thêm là nó rất nhún nhường. Nó có cái nét khiêm tốn của một con sói có ích cho người đời. Nó biết giúp đỡ và rất từ thiện, một cách trầm lặng. Chân trái của nó không cần biết chân phải đã có hành động gì tốt. Đấy là những ưu điểm của nó. Còn một người nữa, người hạn thứ hai của tôi, chỉ nói một câu: nó là một con quái vật. Rồi quí vị sẽ được ngắm nhìn nó, trước đây nó bị bọn cướp biển bỏ rơi trên bờ đại dương hoang vắng. Cô này là một cô gái mù. Có phải một biệt lệ không? Không. Tất cả chúng ta đều là những người mù. Anh hà tiện là một thằng mù, thấy vàng mà không thấy cảnh giầu sang. Anh xa xỉ là một thằng mù thấy đoạn mở đầu mà không thấy chỗ kết thúc. Cô ả làm dáng là một con mù, ả không thấy những nếp nhăn của ả. Nhà bác học là một thằng mù, ông không thấy cái dốt của mình. Người quân tử là một thằng mù vì không thấy thằng vô lại. Tên vô lại là một thằng mù nó không thấy Chúa. Chúa là một thằng mù, lúc tạo nên trời đất, Chúa đã không thấy quỉ sứ sẽ len lỏi vào trần gian. Tôi, tôi là một thằng mù, tôi nói mà không thấy quí vị điếc. Con bé mù này, cùng đi với chúng tôi, là một nữ tu sĩ bí mật. Giá ở địa vị mình, Vexta[5] đã trao cho nó que củi cháy dở. Trong tính nết, nó có những chỗ tối tăm hiền lành như những chỗ thiếu sót trên tấm da cừu. Tôi tin rằng nó là con gái vua mà không dám khẳng định. Tính hoài nghi đáng khen vốn là tính chất của người hiền lành. Còn tôi, tôi vẫn quen vật lý và chuyên hành dược[6]. Tôi suy tư và tôi băng bó[7] Chrurgus sum[8]. Tôi chữa các bệnh sốt, chướng khí và ôn dịch. Hầu hết các bệnh phớt tỉnh và đau khổ của chúng ta đều là những thứ mụn nhọt tự gây để rút bớt độc và một khi chữa chạy tốt, chúng tránh cho ta những bệnh khác tệ hại hơn một cách nhẹ nhàng. Tuy thế, tôi không dám khuyên quí vị chuốc lấy một cái nhọt, nói cách khác, một cái đinh râu. Nó là một thứ bệnh chết tiệt vô tích sự. Người ta chết vì nó, nhưng chỉ thế thôi. Tôi không phải dốt nát, cũng chẳng phải quê mùa gì. Tôi tôn trọng khoa hùng biện và thi ca, tôi sống trong một tình thân trong trắng với các nữ thần ấy. Bây giờ tôi xin kết thúc hằng một ý kiến. Thưa quí ông hào hoa, quí bà phong nhã, trong lòng quí vị, từ nơi ánh sáng đến đây, xin quí vị hãy trau dồi đức hạnh, tính khiêm nhường, lòng ngay thẳng, công lý và tình yêu. Dưới trần gian này, mỗi người có thể bằng cách ấy có được một chậu hoa nho nhỏ trên cửa nhà mình. Thưa quí ngài quí tộc và quí ông, tôi đã nói xong. Trò vui sắp bắt đầu.

Anh chàng có lẽ là thủy thủ, từ nãy vẫn đứng nghe phía ngoài, liền bước vào căn phòng thấp của quán rượu đi ngang qua phòng, trả mấy xu vào cửa, đi tuốt vào một cái sân chật ních công chúng, nhận thấy ở cuối sân có một cái lán có bánh xe, cửa mở toang, và thấy trên sân khấu một ông già mình khoác tấm da gấu, một chàng trai có vẻ như đeo mặt nạ, một cô gái mù và một con sói.

- Lậy Chúa tôi! - y kêu lên - đúng là những con người tuyệt diệu.

Hộp Xanh, người ta vừa nhận ra nó, đã đến Luân Đôn. Nó dừng lại ở Xaothuak. Uyêcxuyt bị cái bãi cỏ lôi cuốn, bãi có điểm đặc biệt là ở chợ phiên không bao giờ vắng người, kể cả mùa đông.

Được nhìn cái mái tròn của nhà thờ Thánh Pôn, Uyêcxuyt đã thấy thú vị rồi.

Luân Đôn nói chung là một thành phố có mặt hay.

Việc hiến dâng một ngôi nhà thờ lớn cho Thánh Pôn biểu thị một hành vi dũng cảm. Ngôi nhà thờ lớn thật sự thiêng liêng là nhà thờ Thánh Pie. Người ta ngờ Thánh Pôn có tính chất tưởng tượng, mà về mặt tôn giáo, tưởng tượng tức là tà giáo. Thánh Pôn chỉ là thánh trong trường hợp giảm khinh thôi, ông chỉ bước vào cõi đời qua cái cửa của các hoạ sĩ.

Một toà nhà thờ lớn là một biểu tượng. Nhà thờ Thánh Pie tượng trưng cho La Mã, thành phố giáo lý; nhà thờ Thánh Pôn mang dấu hiệu Luân Đôn, thành phố của ly giáo. Triết lý của Uyêcxuyt có những cánh tay dài đến nỗi nó chứa đựng tất cả mọi thứ, ông là người biết đánh giá những điểm khác biệt ấy, vả Luân Đôn quyến rũ ông có lẽ phần nào cũng do ông thích thánh Pôn.

Cái sân lớn của Tacaxtơ đã khiến Uyêcxuyt quyết định việc lựa chọn. Hình như cái sân này đã được dự kiến dành cho Hộp Xanh; quả là một rạp hát hoàn chỉnh. Sân hình vuông, ba mặt có nhà xây, với một bức tường đối diện có các tầng lầu, lấy chỗ cho Hộp Xanh dựa lưng, lại thêm cái cổng xe rộng thênh thang làm cửa ra vào. Một dãy ban-công to hằng gỗ, có mái che do một hàng cột đỡ, dùng làm chỗ đi lại cho những phòng tầng một, áp vào ba bức vách của mặt tiền bên trong sân, với hai góc thước thợ. Các cửa sổ tầng trệt dùng làm hạng lô[9], dưới nhà, nền sân là hạng trước mặt sân khấu, và dãy bao lơn là ban-công.

Hộp xanh, xếp sát vào bức tường, có cả cái phòng xem hát ấy trước mặt. Giống hệt rạp Quả Cầu, nơi đã diễn Ôtenlô, Vua Lia và Bão táp.

Trong một góc, phía sau Hộp Xanh, có một chuồng ngựa.

Uyêcxuyt đã đàn xếp với ông chủ quán rượu là ông Nicơlex.

Vì tôn trọng luật pháp, ông này đồng ý nhận con sói nhưng phải trả đắt hơn. Cái bảng "Guynplên, Thằng Cười", tháo ở Hộp Xanh ra, được treo cạnh tấm bảng quán rượu. Phòng bán rượu, như ta đã biết, có một cửa trong mở ra sân. Bên cạnh cái cửa ấy, người ta đã dùng một thùng rượu rỗng ứng tạo thành một chỗ ngồi cho "cô thu tiền " lúc là Fipi, lúc là Vinơx. Giống như ngày nay. Vào cửa phải trả tiền. Dưới cái bảng "Thằng Cười", một tấm ván sơn trắng, treo vào hai cái đinh, có dòng chữ to viết bằng than, nhan đề vở kịch lớn của Uyêcxuyt: Hồng hoang chiến bại.

Chính giữa ban-công, ngay trước mặt Hộp Xanh, một phòng có vách chắn hai bên, ra vào bằng một cửa sổ sát đất dành riêng cho "giới quý tộc".

Phòng này cũng khá rộng nên có thể chứa được mười khán giả, ngồi thành hai hàng.

- Chúng ta đang ở Luôn Đôn - Uyêcxuyt nói. - Phải phòng khi có khách quí.

Ông cho trang hoàng khoang "lô" này với những ghế tốt nhất của quán rượu, và đặt ở giữa, một chiếc ghế bành to bọc nhung, núm vàng hoa mận, phòng khi có một pháp quan phu nhân nào đó đến.

Buổi trình diễn đã bắt đầu.

Lập tức quần chúng kéo tới.

Nhưng khoang dành cho quí tộc vẫn bỏ trống.

Trừ điểm ấy ra, kết quả thật mỹ mãn, đến nỗi trong nghề xiếc rong chưa bao giờ thấy được như vậy. Toàn thể Xoathuak đổ tới để ngưỡng mộ Thằng Cười.

Dân hề và múa rối ở cánh đồng Tarinhzô hốt hoảng vì Guynplên. Ấn tượng như lúc một con diều hâu sà xuống một lồng vàng anh và mổ vào cong thức ăn của chúng, Guynplên ngốn hết công chúng của họ.

Ngoài lớp linh tinh: nuốt gươm, nhăn mặt, trên bãi cỏ còn có trò vui thật sự. Có một rạp xiếc toàn đàn bà ầm ĩ suốt từ sáng đến tối vang rộn đủ loại khí cụ, nào trống, nào chuông, nào sáo, nào kèn mục tử, nào tù và Đức, tù và Anh, sáo ngang, sáo dọc. Trong một mái lều rộng, có những người nhảy nhót mà những tay chạy giỏi của chúng ta hiện nay ở Pirênê, Duynma, Bordonavô và Mêlôga cũng không theo kịp, những người này nhảy từ đỉnh Picrơphit xuống đồi Limaxông, nghĩa là gần như rơi xuống. Có một chuồng thú rong. Ở đây khán giả được thấy hổ ăn: con hổ bị người luyện thú quất, cố táp lấy cái roi và nuốt cái dây. Tên hề có mõm và móng vuốt ấy cũng bị át nết.

Lòng hiếu kỳ, tiếng vỗ tay, tiến vào cửa, quần chúng. Thằng Cười thu hút hết. Trong nháy mắt là xong. Chỉ có Hộp Xanh.

- Hồng hoang chiến bại và hồng hoang chiến thắng - Uyêcxuyt nói, tự xem mình có nửa phần trong thành công của Guynplên và kéo khăn bàn về mình, nói theo ngôn ngữ kép hát. Thành công của Guynplên thật là kỳ diệu, tuy nhiên nó vẫn mang tính chất địa phương. Lội qua nước là điều khó khăn đối với một danh tiếng. Tên tuổi của Secxpia phải một trăm ba mươi năm mới từ đất Anh vượt đến đất Pháp; nước là một bức tường thành và nếu Vonte không làm thang cho Secxpia trèo, điều mà về sau ông ta rất tiếc, Secxpia vẫn còn ở bên kia bức tường, bên Anh, giam hãm là một vòng vinh quang trên đảo.

Vinh quang của Guynplên không vượt qua khỏi cầu Luân Đôn. Nó không có tầm cỡ một tiếng vang của đô thành lớn, ít ra là trong buổi đầu. Nhưng Xaothuak có thể cũng đủ thoả mãn tham vọng của một anh hề.

Uyêcxuyt thường nói: "Túi tiền thu nhập cũng như một cô gái sai lầm, cứ phình mãi lên trông thấy".

Họ trình diễn Uyêcxuyt Ruyêxuyt rồi Hồng hoang chiến bại.

Trong giờ nghỉ Uyêcxuyt chứng minh tài nói bằng bụng và thực hành tài nói tiếng bụng cao siêu của mình; ông bắt chước mọi thứ tiếng trong đám khán giả, tiếng hát, tiếng kêu, giống đến mức chính người hát và người kêu cũng phải kinh ngạc; đôi khi ông bắt chước tiếng ồn ào của công chúng và thở phì phò y như một mình ông là đám đông. Tài nghệ thật phi thường.

Ngoài ra, ta vừa thấy xong, ông có tài diễn thuyết như Xixêrông[10] và còn bán các thứ thuốc, chăm sóc các loại bệnh, chữa chạy bệnh nhân nữa.

Xaothuak say sưa mê mẩn.

Uyêcxuyt thoả mãn được Xaothuak hoan nghênh, nhưng ông không vì thế mà ngạc nhiên.

Họ là những tơrinôbăng ngày xưa - Ông nói và tiếp thêm:

- Ta không hề lẫn lộn họ, về mặt tế nhị của thị hiếu, với những atơrôbat cư trú ở Becxơ, với người Bỉ sống ở Xômôcxet và người Pari đã thành lập York. Buổi diễn nào, sân quán rượu, biến thành hạng dưới nhà, cũng chật ních khán giả rách rưới và nhiệt tình.

Họ là những dân chèo thuyền, phu kiệu, thợ đóng tàu, xà ích trên sông, thủy thủ mới lên bờ đem tiền lương nướng vào chè chén và gái đĩ. Có bọn đầy tớ đeo kiếm, bọn ăn chơi phóng đãng và bọn thị vệ đen tức là bọn lính bị phạt về tội kỷ luật, phải mặc áo đỏ lộn lót đen ra ngoài và vì thế mà có tên blekgac từ đó chúng ta biến thành blagơ[11]. Tất cả đám người ấy, từ ngoài đường và vào rạp hát lại đổ xô vào phòng giải khát. Những vại bia không làm hại đến thành công. Trong số quần chúng mà người ta quen gọi là "cặn bã" ấy, có một anh chàng cao hơn cả, to hơn, khoẻ hơn, ít nghèo hèn hơn, vai vuông hơn, ăn mặc như thường dân, nhưng không rách rưới; anh ta hoan hô hết sức ồn ào, chen chỗ bằng quả đấm, đầu đội bộ tóc giả bù xù như quỉ sứ luôn mồm chửi rủa, gào hét, giễu cợt, không chút bẩn thỉu, và cần thì đấm người ta sưng mắt và bỏ tiền ra thết rượu.

Anh chàng quen thuộc ấy là khách qua đường mà ban nãy ta vừa nghe thốt lên câu nói đầy nhiệt tình.

Con người sành sỏi ấy bị mê hoặc ngay từ phút đầu đã tức khắc tán thưởng Thằng Cười. Không phải buổi biểu diễn nào anh ta cũng đến xem. Nhưng lần nào đến là anh ta trở thành nhân vật lôi cuốn công chúng[12]: hoan nghênh biến thành hò hét: thành công lên đến không phải đình màn sân khấu vì không có đình màn mà tận chín tầng mây. Mà cả đến mây xanh, vì không có trần, đôi khi cũng còn đổ mưa xuống kiệt tác của Uyêcxuyt.

Đến nỗi Uyêcxuyt phải để ý tới con người kia và Guynplên phải nhìn y.

Thật là một người bạn không quen biết đáng hãnh diện!

Uyêcxuyt và Guynplên muốn tìm hiểu anh ta, hay ít nhất biết anh ta là ai. Một tối nọ, đứng ở hậu trường, tức là chỗ cửa bếp của Hộp Xanh. Uyêcxuyt tình cờ gặp ông chủ quán Nicơlex bên cạnh, liền chỉ cho ông ta con người đứng lẫn trong đám đông và hỏi:

- Ông quen người kia chứ

- Tất nhiên.

- Ai thế

- Một tay thủy thu

- Y tên gì? - Guynplên xen vào.

- Tom-Jim-Jack - người chủ quán đáp.

Rồi vừa bước xuống bậc thang phía sau Hộp Xanh để trở vào quán rượu, ông Nicơlex vừa buông ra ý nghĩ vô cùng sắc sau đây:

- Tiếc rằng hắn ta không phải huân tước! Hắn có thể là một tên vô lại trứ danh.

Vả lại, tuy đóng trong một lữ quán, nhóm Hộp Xanh vẫn không thay đổi tập quán và vẫn duy trì tính chất biệt lập của mình. Ngoài dăm ba lời trao đổi đây đó với ông chủ quán, họ không hề quan hệ với những người thường xuyên hoặc vãng lai. Ở trong quán trọ, và họ tiếp tục chỉ sống riêng với nhau.

Từ ngày đến Xaothuak, sau buổi biểu diễn, sau bữa ăn của ngựa, trong khi Uyêcxuyt và Đêa ngủ mỗi người một nơi, Guynplên có thói quen hít thở khí trời một tí ngoài bãi cỏ giữa quãng mười một giờ và nửa đêm. Một làn sóng nào đó trong đầu óc thúc đẩy con người dạo chơi đêm và thơ thẩn dưới trời cao; tuổi thanh xuân là một giai đoạn đợi chờ bí mật, vì vậy người ta thích đi bách bộ ban đêm, không mục đích. Vào giờ ấy, không còn người nào trên bãi chợ phiên nữa, cùng lắm chỉ có một vài ba anh say rượu loạng choạng, thấp thoáng lảo đảo trong các xó tối; các tiệm rượu rỗng đóng cửa, căn phòng thấp của quán Tacaxtơ tắt đèn, chỉ để lại trong góc nào đó một ngọn nến cuối cùng, soi sáng cho con sâu rượu cuối cùng, một ánh sáng tù mù lọt qua khung cửa quán rượu mở hé. Guynplên tư lự, thoả mãn, nghĩ vẩn vơ, sung sướng trước một niềm hạnh phúc thần tiên còn mờ mịt, đi đi lại lại trước cánh cửa mở hé đó. Nó đang nghĩ gì? Đến Đêa, chẳng đến gì hết, đến tất cả, đến những nơi sau thẳm. ít khi nó đi xa quán rượu, nó thấy đi vài bước ra ngoài thế là đủ.

Rồi nó lại quay về, thấy toàn thể Hộp Xanh ngủ say và nó cũng đi ngủ.

Thành công không bao giờ được yêu quý, nhất là bởi những người vì thành công ấy mà thất bại. Mấy khi kẻ bị ăn lại tôn thờ những kẻ ăn mình. Chắc chắn là Thằng Cười được đặc biệt chú ý. Cánh múa rối xung quanh đều bất bình. Thành công của sân khấu như một cái ống xi-phông, nó hút quần chúng và làm rỗng xung quanh nó.

Cửa hiệu trước mặt hoảng hốt. Việc tăng thu của Hộp Xanh - chúng tôi đã nói - lập tức kéo theo mọi giảm thu xung quanh... Đột nhiên các trò vui từ trước đến nay vẫn đông khách bỗng thất nghiệp. Cứ như một mực nước đánh dấu ngước triều, nhưng với độ phù hợp rất chính xác; ở đây tăng ở kia giảm. Tất cả các gánh hát đều từng biết những hiệu quả thủy triều như vậy: triều chỉ lên ở gánh này trong điều kiện triều xuống ở gánh kia.

Toàn bộ chợ phiên đông như kiến vẫn trình diễn các loại tài năng và đội kèn trên những sân khấu ở quanh đấy thấy mình sạt nghiệp vì Thằng Cười, thất vọng nhưng cũng choáng váng. Tất cả bọn già lố lăng, bọn hề, bọn múa rối, đều ganh tị với Guynplên. Quả là một thằng sung sướng có được cái mõm thú dữ! Những bà mẹ làm trò hề và nhảy múa trên dây, có con xinh xẻo, hằm hằm nhìn con mình và chỉ vào Guynplên nói: "Hoài của, sao mày không có được bộ mặt như thế kia". Một số bà còn giận dữ đánh con vì con xinh quá. Nhiều bà, giá biết được điều bí mật, đã thu xếp cho con trai mình "theo kiểu Guynplên". Một cái đầu thiên thần mà không đem lại tí gì thì chẳng bằng bộ mặt quỉ có lợi. Có hôm người ta còn nghe bà mẹ một em bé đẹp như tranh vẽ và thường đóng vai điển trai, gào thật to: "con cái chúng ta đều bị nặn hỏng cả. Chỉ có một thằng Guynplên là đạt thôi". Và vừa nắm tay doạ con, bà vừa nói tiếp: "bà mà biết bố mày là thằng nào thì bà cả xé xác nó ra!". Guynplên là một con gà đẻ trứng vàng. Một hiện tượng thật kỳ diệu! Trong tất cả các lều lán đều thốt lên như vậy. Cánh leo dây múa rối, thích thú và uất ức, vừa thán phục Guynplên, vừa nghiến răng kèn kẹt. Điên cuồng ngưỡng mộ: đó là đố kỵ. Thế là hò hét. Họ tìm cách phá rối vở Hồng hoang chiến bại, họ âm mưu, họ thổi còi, họ lằm bằm, họ la lối. Như vậy càng giúp Uyêcxuyt có cớ để diễn thuyết một cách hùng hồn với dân chúng, anh bạn Tom-Jim-Jack có cơ hội tống mấy quả đấm để lập lại trật tự. Những quả đấm của Tom-Jim-Jack cuối cùng đã khiến cho Guynplên phải lưu ý, Uyêcxuyt phải quí mến. Từ xa thôi, vì Hộp Xanh quen sống một mình và cách biệt với mọi người; còn Tom-Jim-Jack, đàn anh của cánh vô lại, đóng vai một kiếm khách bậc thầy, không có quan hệ, không thân mật, chuyên phá phách, chuyên cầm đầu, lúc hiện lúc ẩn, chơi với hết thảy mọi người, nhưng lại chẳng đồng hành. Cuộc đố kỵ điên cuồng chống Guynplên không chịu thua vì mấy cái tát của Tom-Jim-Jack. La ó, thất bại, bọn leo dân múa rối trên cánh đồng Tarinhzô liền thảo một lá đơn khiếu nại. Họ đệ trình lên nhà chức trách.

Đấy là đường lối thông thường. Chống lại một sự thành công gây trở ngại cho mình, người ta tụ tập quần chúng, rồi người ta kêu lên quan. Các cố đạo hợp sức với cánh múa rối. Thằng Cười đã làm hại dần các buổi thuyết giáo. Không chỉ các lều trại, mà các nhà thờ cũng vắng hẳn người. Các tiểu giáo đường của năm giáo khu Xaothuak không còn ai đến nghe giảng. Người ta bỏ bài giảng để đến xem Guynplên. Hồng hoang chiến bại, Hộp Xanh, Thằng Cười, tất cả là những trò khả ố đó của Baal[13] đều hơn hẳn tài hùng biện của lầu giảng. Tiếng kêu gào trong sa mạc, vox clamans in deserto, không bằng lòng và sẵn sàng kêu chính phủ. Các linh mục của năm giáo khu than phiền với giám mục Luân Đôn, giám mục lại kiện lên vua.

Đơn kiện của dân múa rối dựa trên tôn giáo. Họ tuyên bố tôn giáo đã bị xúc phạm. Họ tố cáo Guynplên là phù thủ và Uyêcxuyt vô đạo.

Còn các cha cố lại nêu lên vấn đề trật tự xã hội. Họ đứng về phía các văn kiện của nghị viện bị vi phạm, bỏ chuyện chính thống sang một bên. Như vậy khôn ngoan hơn. Vì người ta đang ở thời đại của ông Lôck mới chết chưa đầy sáu tháng, ngày 28 tháng mười 1704 và thuyết hoài nghi mà Bolinhbrôc sắp hà hơi cho Vonte đang bắt đầu. Sau này Oetxlây phải đứng ra khôi phục Kinh Thánh cũng như Lôyôla đã khôi phục chế độ Giáo hoàng.

Bằng lối ấy Hộp Xanh bị đánh tới tấp từ hai phía, bởi cánh múa rối nhân danh các bộ Ngũ tập ở đầu Cựu ước và bởi vì các ngài trong giáo sắc nhân danh các qui tắc cảnh sát. Một bên là trời, một bên là sở lục lộ, các cha cố thì vì sở lục lộ mà cánh leo dây vì đạo trời. Hộp Xanh bị các cha tố cáo về tội choán chỗ và bị cánh làm trò tố cáo về tội phạm Thánh.

Có cớ gì không? Có nắm được gì không? Có. Tội trạng của họ là gì? Đây: nó có một con sói. Ở nước Anh sói bị cấm chỉ. Chó nhà; được, sói, dứt khoát không. Nước Anh chấp nhận chó biết sủa chứ không chấp nhận chó biết rống, điểm khác biệt giữa sân gia súc và rừng rú, các ngài viện trưởng và trợ tế của năm giáo khu Xaothuak trong đơn khiếu tố dẫn ra nhiều điều lệ của vua và đặt chó sói ngoài vòng pháp luật. Họ kết luận đại loại như phải bỏ tù Guynplên và nhốt con sói lại, hoặc ít nhất phải trục xuất. Vấn đề lợi ích công cộng, nguy hiểm đối với khách vãng lai...vân vân. Thế rồi họ kêu lên viện Đại học. Họ dẫn chứng phán quyết của nhóm Bát thập lương y của Luân Đôn, một tổ chức uyên bác thời Hăngri VIII cũng có dấu ấn như nhà nước, nuôi bệnh nhân với tư cách toà án, có quen bỏ tù những ai vi phạm luật pháp của nó hay làm sai đơn thuốc của nó, và trong các nhận xét có ích cho sức khoẻ công dân không để cho ai nghi ngờ điều sau đây đã thành của khoa học: người nào bị một con sói nhìn thấy trước tiên, người ấy bị khản tiếng suốt đời. Hơn nữa người ta có thể bị cắn.

Vậy Ômô là cái cớ.

Nhờ chủ quán, Uyêcxuyt đánh hơi được những âm mưu ấy, ông lo lắng. Sợ hai loại móng vuốt ấy, cảnh sát và công lý. Đối với giới tư pháp chỉ sợ là đủ; không cần phải phạm pháp. Uyêcxuyt ít muốn va chạm với cánh quận trưởng, hiến binh, pháp quan và thám tử, ông không hề khao khát muốn ngắm gần hết những bộ mặt quan trên ấy. Đối với các ngài tư pháp, ông muốn tò mò nhìn thì cũng như chuột đồng tò mò muốn nhìn bầy chó săn thôi.

Ông bắt đầu việc hối tiếc mình đã đến Luân Đôn.

- Cái tốt nhất là kẻ thù của cái tốt vừa, - Ông lẩm bẩm một mình. Ta cứ tưởng câu tục ngữ này đã lạc hậu, thế là sai lầm. Những chân lý ngu si lại là những chân lý thật.

Chống lại bằng ấy các thế lực liên minh với nhau, cánh leo dây múa rối thì lấy cớ vì lợi ích tôn giáo, các ngài tư tế bất bình nhân danh y học. Hộp Xanh đáng thương, bị nghi có yêu thuật ở Guynplên và bệnh sợ nước ở Ômô, chỉ trông mong vào mỗi một điều cứu được nó, nhưng là một sức mạnh lớn ở nước Anh, tính bất động của thành phố. Chính chủ nghĩa dửng dưng của địa phương đã đẻ ra nền tự do của nước Anh. Tự do ở nước Anh có thể ví như biển xung quanh nước Anh. Nó là một thứ thủy triều. Phong tục cổ dần dần dâng lên trên luật pháp. Một nền pháp chế quái gở bị chôn vùi, tập quán ở trần, một bộ luật độc ác vẫn còn thấy được qua sự trong suốt của nền tự do bao la, đấy là nước Anh. Thằng Cười, Hồng hoang chiến bại, Ômô, có thể là đối tượng chống đối của bọn múa rối, cánh mục sư, lớp giám mục, nghị viện công xã, nghị viện nguyên lão, nhà vua và Luân Đôn và cả nước Anh và vẫn được sống yên ổn, chừng nào Xaothuak còn ủng hộ chúng. Hộp Xanh là nơi mua vui ưa thích của ngoại ô và chính quyền địa phương dường như dửng dưng. Ở nước Anh, dửng dưng tức là che chở. Chừng nào quận trưởng của lãnh địa bá tước Xơre, mà Xaothuak trực thuộc. vẫn không động đậy, thì Uyêcxuyt còn ăn ngon và Ômô có thể ngủ yên trên hai tai sói của nó.

Với điều kiện không đi đến chỗ bóp chết, những chuyện thù ghét đó vẫn phục vụ cho thành công. Trước mắt, Hộp Xanh cũng không vì thế kém sút. Ngược lại. Công chúng biết có chuyện âm mưu. Thằng Cười vì thế càng nổi tiếng. Quần chúng đánh hơi được những sư việc bị tố cáo và hoan nghênh chúng. Bị nghi ngờ tức là được tiến dẫn. Dân chúng theo bản năng, nâng đỡ những gì bị đe doạ. Vật bị tố cáo, đấy là dấu hiệu của quả cấm; người ta phải vội vã ăn ngay. Vả lại, vỗ tay trêu ghẹo một người nào đó, đặc biệt người đó lại là nhà chức trách, thì thật là thích thú. Để cho hết một buổi tối thú vị, tỏ ra tán thành kẻ bị áp bức và chống đối kẻ áp bức, điều ấy thật là dễ chịu, vui đùa mà đồng thời lại che chở. Chúng ta hãy nói thêm là các rạp hát của bãi cỏ vẫn tiếp tục la ó và âm mưu chống Thằng Cười. Không gì tốt hơn, như thế càng giúp cho sự thành công. Kẻ thù càng làm ầm ỹ, càng thúc đẩy thắng lợi thêm rực rỡ. Một người bạn khen còn mệt hơn một kẻ thù chửi. Chửi rủa không có hại. Đó là điều mà kẻ thù không ngờ đến. Chúng không chửi, và đấy là một ích lợi của kẻ thù. Chúng không thể nào im tiếng, do đấy luôn thức tỉnh công chúng. Quần chúng càng kéo đến đông xem vở Hồng hoang chiến bại.

Uyêcxuyt giữ kín, nhưng ông Nicơlex cho biết về các âm mưu và những đơn từ khiếu nại lên trên; ông không nói cho Guynplên biết, để khỏi làm vẩn đục tính trong sáng của các buổi diễn vì lo nghĩ, nếu có gì không hay xảy đến, bao giờ ông cũng được biết khá sớm.

Tuy vậy có lần ông thấy cần phải vi phạm điều khôn ngoan ấy chính vì khôn ngoan thôi, và ông xét ra cố gắng làm cho Guynplên lo lắng cũng có ích. Trong đầu óc Uyêcxuyt, đúng đây là một việc quan trọng hơn các âm mưu của dân chợ phiên và cánh nhà thờ nhiều. Lúc đếm tiền vào cửa, Guynplên nhặt được một đồng xu rơi ở đất; nó nhìn kỹ rồi, trước mắt ông chủ quán, từ chỗ tương phản giữa đồng tiền xu tượng trưng cho sự nghèo khổ của dân chúng và hình nữ hoàng Anh, tượng trưng cho cảnh xa hoa ăn bám của ngai vàng, nó đã thốt lên một câu nói không hay. Câu nói này được ông Nicơlex nhắc lại: đã đi xa đến nỗi lại trở về với Uyêcxuyt qua mồm Fibi và Vinox. Nghe xong, Uyêcxuyt run bắn cả người. Lời nói phản nghịch. Tội phạm thượng, ông mắng Guynplên kịch liệt:

- Mày phải giữ gìn cái mõm khả ố của mày đấy. Có một qui tắc đối với người trên là đừng làm gì hết và một quí tộc đối với người dưới là không nói gì cả. Kẻ nghèo chỉ có một người bạn là im lặng. Nó chỉ được phát âm mỗi một tiếng: Vâng. Thú nhận và đồng ý, đấy là toàn bộ quyền hạn của nó. Vâng, trước mặt quan toà. Vâng, trước mặt vua. Các bậc quyền quí, nếu họ thích thì họ cứ vác gậy nện vào lưng chúng ta, tao đã từng được nếm nhiều, đấy là đặc quyền của họ và có đánh dập xương chúng ta ra họ cũng chẳng mất gì về mặt cao quí của họ cả. Hải yến vùng Nam Hải là một giống chim ưng. Chúng ta hãy kính trọng cây vương trượng, nó vốn đứng đầu các loại gậy. Kính trọng là khôn ngoan, và hèn hạ là ích kỷ. Kẻ nào xúc phạm nhà vua thì cũng như cô bé cả gan cắt bờm sư tử. Người ta cho biết mày đã nói bậy bạ về đồng tiền xu, nó cũng như đồng Lya, mà mày đã miệt thị cái huy chương cao cả ấy, nhờ nó mà ở chợ người ta cấp cho chúng ta một nửa góc cá mồi muối. Mày cứ liệu hồn. Phải đứng đắn lên. Mày nên hiểu là có nhiều loại hình phạt. Mà phải thấm nhuần những chân lý của luật pháp. Mày ở trong một đất nước mà kẻ nào cưa một cái cây con là bị lặng lẽ dẫn đến giá treo cổ. Những kẻ hay thề bồi đều bị còng chân. Người say rượu bị nhốt vào một cái thùng gỗ thủng đáy để cho nó đi, mặt trên thùng có một lỗ cho đầu ló lên và ở thành thùng có hai lỗ cho tay thò ra, thành thử nó không thể nằm, kẻ nào đánh người trong điện Oetminxtơ[15] thì bị tù chung thân và tịch thu tài sản. Kẻ nào đánh người trong cung vua thì bị chặt bàn tay phải. Búng mũi ai chảy máu là mày cụt tay ngay. Kẻ nào bị pháp viện giám mục xác nhận theo tà giáo đều bị thiêu sống. Chính vì một tội không đáng kể mà Cơtơbe Ximxơn đã bị xé xác bằng bàn quay[16], cách đây ba năm, năm 1702, không lâu lắm như mày thấy đấy, người ta đã quay trên đài bêu tội nhân một tên gian ác tên là Đanien Đi Fô, tên này dám cả gan in tên các thành viên công xã đã phát biểu hôm trước tại nghị viên. Kẻ nào bất trung với vua đều bị mổ sống, moi tim, và người ta cầm quả tim đó quật vào hai má nó. Mày cần phải nhớ kỹ khái niệm ấy về quyền hạn và công lý. Không bao giờ được tự cho phép mình nói một lời, và hễ có thoáng điều gì e ngại là phải vù ngay, đấy là kiểu dũng cảm mà tao vẫn thực hành và tao khuyên nên theo. Về mặt táo bạo, mày cứ bắt chước giống chim, còn về mặt chuyện trò tào lao thì cứ làm như loài cá. Vả lại, nước Anh có điểm đáng ca ngợi là pháp chế rất chi ôn hòa.

Quở mắng xong, Uyêcxuyt vẫn lo lắng mất một thời gian nữa, Guynplên hoàn toàn không thế. Tính to gan của thanh niên cũng do thiếu kinh nghiệm. Tuy nhiên hình như Guynplên cũng có lý do để bình tĩnh, vì mấy tuần trôi qua yên ổn, và chẳng có dấu hiệu gì về hậu quả câu nói ám chỉ hoàng hậu.

Như ta biết. Uyêcxuyt vốn cả lo, nên cứ như con hoẵng nghe ngóng, luôn luôn để ý đến mọi người. Một hôm, ít lâu sau lần ông giáo huấn Guynplên, nhân nhìn qua cái lỗ con ở bức tường trông ra ngoài, Uyêcxuyt tái mặt.

- Guynplên đâu?

- Cái gì ạ?

- Mày nhìn xem.

- Dạ nhìn đâu?

- Ngoài bãi kia kìa.

- Dạ, rồi sao?

- Mày thấy mấy người đang đi qua kia không?

- Người mặc bộ đồ đen ấy ư?

- Đúng.

- Dạ, người cầm cái gì như cái chùy phải không?

- Đúng.

- Thế rồi sao?

- Này. Guynplên, người ấy là quan thiết trượng đấy.

- Quan thiết trượng là thế nào?

- Đó là vị pháp quan của Đoàn một trăm.

- Pháp quan của Đoàn một trăm là thế nào?

- Đó là vị proepositus hundredi[17].

- Dạ procpositus hundredi là cái gì?

- Đó là vị quan chức đáng sợ.

- Ông ta cầm cái gì ở tay thế?

- Đó là cái thiết trượng.

- Thiết trượng là cái gì?

- Đó là một vật bằng sắt.

- Ông ta dùng của ấy để làm gì?

- Trước tiên ông ta tuyên thệ trên nó. Vì vậy người ta gọi ông là quan thiết trượng.

- Thế rồi sao?

- Sau đó với cái ấy ông ta chạm vào các người.

- Dạ, với cái gì cơ?

- Với cái thiết trượng

- Dạ, quan thiết trượng chạm vào người ta bằng cái thiết trượng?

- Đúng.

- Thế nghĩa là thế nào?

- Thế nghĩa là: đi theo ta.

- Và thế là phải đi theo lão?

- Đúng.

- Đi đâu?

- Đi đâu tao biết được

- Thế lão có nói dân mình đi đâu không?

- Không.

- Nhưng mình có thể hỏi lão điều ấy chứ?

- Không.

- Sao lại thế?

- Ông ta chẳng bảo gì mình mà mình cũng chẳng nói gì với ông ta cả.

- Nhưng...

- Ông ta chạm vào mình bằng cái thiết trượng, thế là đủ. Mình phải bước đi.

- Nhưng đi đâu?

- Theo ông ta. Đi đâu tuỳ ý ông ta. Guynplên ạ.

- Thế người ta cưỡng lại?

- Thì bị treo cổ.

Uyêcxuyt lại thò đầu qua cái lỗ con, thở một hơi dài và nói:

- Ơn chúa, lão đi qua rồi. Không phải lão đến nhà ta.

Uyêcxuyt hoảng hốt có lẽ vì những chuyện thóc mách và những lời tố cáo có thể có được về câu nói vô ý thức của Guynplên, hơn là vì lý trí.

Ông Nicơlex được nghe hai bên nói chuyện, thấy chẳng ăn gì mà làm hại đến những người đáng thương của Hộp Xanh. Chính nhờ Thằng Cười mà ông kiếm được một món lợi khá to. Vở Hồng hoang chiến bại có hai mặt thành công: nó làm cho nghệ thuật thắng lợi trong Hộp Xanh, đồng thời làm cho thói rượu chè phát triển $$trong quán rượu.

Uyêcxuyt còn bị một phen náo động nữa, khá hãi hùng. Lần này chính ông là đương sự. Ông bị gọi đến Bisopghêt, trước một hội đồng gồm ba bộ mặt rỗ khó thương. Ba bộ mặt đó là ba vị tiến sĩ gọi là uỷ viên, một vị tiến sĩ thần học, đại diện cho viện trưởng viện Oetminxtơ, một vị tiến sĩ y khoa, đại diện cho đoàn Bát thập, một vị tiến sĩ sử học và dân luật, đại diện trường Gretsam. Ba chuyên gia inomni re scibili[18] ấy có cảnh sát theo dõi những lời ăn tiếng nói của công chúng trên khắp một trăm ba mươi giáo khu Luân Đôn, bảy mươi ba giáo khu Mitđonxêc và hiểu theo nghĩa rộng, năm giáo khu Xaothuak. Các kiểu xét xử thuộc về thần học như thế hiện vẫn còn ở nước Anh và hoành hành có hiệu quả. Ngày 23 tháng chạp năm 1868, theo án quyết toà án Acsơ, được phán quyết của các Nguyên lão Cơ mật viện xác nhận, linh mục Macônôsi đã bị cảnh cáo và phải trả án phí, vì tội thắp nến trên bàn. Tế lễ đâu phải chuyện đùa.

Thế là một hôm Uyêcxuyt nhận được của các vị tiến sĩ đại diện lệnh phải đến trình diện; cũng may lệnh được trao đúng tay ông và ông giữ được bí mật, ông lẳng lặng tuân theo trát đòi, nơm nớp nghĩ đến việc mình có thể bị xem như thủ xướng câu chuyện, đến mức có thể bị nghi là to gan trong chừng mực nào đó. Đây là một bài học đau xót đối với ông, vẫn thường khuyên người khác im lặng. Garrule, sana te ipsum[19]. Ba ngài tiến sĩ uỷ viên ngồi tại Bisopghêt. Ở phía trong cùng một căn phòng tầng trệt, trên ba cái ghế có tay vịn bằng da mầu đen. Trên đầu họ, trong tường, ba bức tượng bán thân của Minôx, Ekơ và Rađamăng; trước mặt, một cái bàn, và ở chân, một cái yên bị cáo. Uyêcxuyt được một người hầu đeo khí giới thầm lặng và nghiêm trang dẫn vào; nhác trông thấy ba vị, lập tức trong tư tưởng, ông gán cho mỗi vị cái tên của diêm quan trên đầu họ.

Minôx, vị thứ nhất, người đại diện cho thần học, ra hiệu cho ông ngồi trên cái yên bị cáo. Uyêcxuyt chào rất đúng tư cách, nghĩa là sát tận đất và biết rằng người ta vẫn thuần phục gấu bằng mật ong, các ngài tiến sĩ bằng tiếng La tinh, ông vừa nói vừa lễ phép cúi gập đôi người:

- Tres faclunt capatulum,[20]. - Và cúi đầu, đức khiêm nhường tước hết vũ khí, ông đến ngồi trên ghế.

Mỗi vị tiến sĩ đều có trước mặt, trên bàn, một tập hồ sơ và đang giở xem từng trang.

Minôx bắt đầu:

- Anh vẫn hay nói ở nơi công cộng?

- Thưa vâng - Uyêcxuyt đáp.

- Dựa vào quyền gì

- Tôi là triết gia.

- Đó không phải là một cái quyền.

- Tôi làm trò múa rối nữa - Uyêcxuyt nói.

- Thế thì lại khác.

Uyêcxuyt thở phào nhưng kính cẩn. Minôx nói tiếp:

- Với tư cách múa rối anh có thể nói, nhưng với tư cách triết gia, anh phải im lặng.

- Tôi xin cố gắng ạ. - Uyêcxuyt nói.

Và ông nghĩ bụng: - Tôi có thể nói nhưng tôi phải im lặng. Rắc rối thật.

Ông vô cùng hoảng sợ.

Vị đại diện cho Chúa tiếp tục.

- Anh nói nhiều điều rất chướng tai. Anh xúc phạm đến tôn giáo. Anh phủ nhận những chân lý hiển nhiên nhất. Anh truyền bá những sai lầm rất phản nghịch. Chẳng hạn, anh bảo tính trinh bạch ngoại trừ tư cách làm mẹ.

Uyêcxuyt hiền lành ngước mắt lên.

- Bẩm tôi không nói thế. Tôi nói tư cách làm mẹ loại trừ tính trinh bạch.

Minôx trầm ngâm và lẩm bẩm:

- Xét cho cùng, có trái ngược.

Chính ra vẫn thế thôi. Nhưng Uyêcxuyt đã tránh được đòn thứ nhất.

Minôx vừa nghiền ngẫm câu trả lời của Uyêtxuyt vừa đắm mình trong cái ngu lâu của lão, thành thử vẫn im lặng một lúc.

Vị đại diện cho sử học, người mà Uyêcxuyt gọi là Rađamăng, che đỡ sự thất bại của Minôx bằng câu chất vấn sau đây:

- Bị cáo, những trò xấc xược của anh thuộc đủ loại. Anh nên công nhận rằng trận Phacxan thua vì Brutuyx và Catluyx gặp một tên da đen.

- Tôi nói - Uyêcxuyt nhỏ nhẹ - chính vì Xêda là một vị tướng tài ba hơn.

Nhà sử học không cần chuyển tiếp, bắt ngay sang vấn đề thần thoại.

- Anh đã tha thứ những chuyện đê tiện của Actêông

- Tôi nghĩ rằng - Uyêcxuyt lựa lời nói quanh - một người đàn ông không hề bị mất danh dự vì đã thấy một phụ nữ cởi truồng.

- Vì là anh đã có lỗi - vị pháp quan nghiêm nghị nói.

Rađamăng quay lại vấn đề sử học.

-Về vấn đề các tai nạn xảy đến cho đội kỵ binh của Mitơriđat, anh đã không thừa nhận hiệu năng của các loại cây cỏ. Anh đã phủ nhận việc một thứ lá, như cây Xêcunduca, có thể làm bong móng sắt của ngựa.

- Xin ngài thứ lỗi cho - Uyêcxuyt đáp - Tôi nói rằng hiệu năng đó chỉ có ở lá xfeta-cavalô. Tôi không phủ nhận hiệu năng của một loại lá nào cả.

Và ông nhỏ nhẹ tiếp thêm:

- Cũng như đúc hạnh của một người đàn bà nào cả.

Bằng món phụ nào đó thêm vào câu trả lời, Uyêcxuyt tự tỏ là mình, dù có lo ngại mấy cũng vẫn không ngã ngựa. Uyêcxuyt sợ hãi mà vẫn tỉnh táo.

- Tôi nhấn mạnh - Radamăng nói tiếp - Anh đã tuyên bố việc Xipiông dùng lá Êtiôpi để mở cửa thành Cartagiơ là một chuyện đơn giản, vì lá Êtiôpi không có tính năng bẻ khoá.

- Tôi chỉ nói giá ông ta dùng lá lynarya thì tốt hơn.

- Đó là một ý kiến - đến lượt Rađamăng cũng bị đâm trúng, khẽ nói. Và nhà sử học im lặng.

Vị thần học, sau khi hồi tỉnh, lại hỏi Uyêcxuyt. Lão đã có thì giờ tra cứu sổ tay.

- Anh đã xếp chất thạch anh vào chất có thạch tín, và anh bảo người ta có thể đầu độc bằng thạch hoàng. Kinh Thánh phủ nhận điều đó.

- Kinh Thánh phủ nhận - Uyêcxuyt thở dài, - nhưng thạch tín khẳng định.

Nhân vật mà Uyêcxuyt xem là Ekơ, đại diện cho y học, từ nãy vẫn chưa nói, liền can thiệp vào, hai mắt lim dim cao đạo, bênh vực Uyêcxuyt một cách rất bề trên.

Lão nói:

- Câu trả lời không phải là phi lý.

Uyêcxuyt cảm ơn bằng nụ cười tự hạ nhất.

Minôx bĩu môi nom đến xấu.

- Tôi tiếp tục - Minôx lại nói. - Anh hãy trả lời. Vấn đề rắn Bazilic[21] là vua các loài rắn, dưới cái tên Côcatơrix, anh cho là không đúng.

- Thưa ngài tôn kính - Uyêcxuyt nói, - tôi không hề có ý định hại rắn Bazilic nên tôi đã nói: chắc chắn là nó có một cái đầu người.

- Được đi - Minôx nghiêm nghị đáp - nhưng anh lại thêm rằng Poêruyx có một cái đầu chim ưng. Anh có thể chứng minh điều đó không?

- Bẩm khó đấy - Uyêcxuyt nói.

Chỗ này ông bị đẩy lùi một tí.

Minôx nắm lại phần thắng, tấn công.

- Anh là một tên Do Thái theo đạo Thiên chúa thì có mùi thum thủm.

- Nhưng tôi có thêm một người theo đạo Thiên chúa mà làm dân Do Thái có mùi hôi hôi.

Minôx liếc nhìn vào tập hồ sơ tố giác.

- Anh khẳng định và truyền bá những điều vô lý. Anh nói Êliêng đã thấy con voi viết cách ngôn.

- Thưa ngài tôi rất tôn kính, không phải thế, tôi chỉ nói rằng Ôpriêng có nghe một con hà mã tranh cãi về một vấn đề triết học.

- Anh tuyên bố chuyện một cái đĩa bằng gỗ giẻ gai tự nó đầy những món ăn ưa thích, là không thật.

- Tôi nói rằng đĩa mà lại có phép như vậy thì nó phải do quỷ sứ ban cho ngài.

- Cho tôi!

- Dạ bẩm không, thưa ngài tôn kính, cho tôi ạ! Không, không cho ai cả? Cho tất cả mọi người.

Và trong đầu Uyêcxuyt ngẫm nghĩ: "Mình nói gì mình cũng không biết nữa Nhưng vẻ bối rối bên ngoài của ông tuy lên đến cực độ nhưng cũng không lộ liễu lắm, Uyêcxuyt cố gắng cầm cự.

- Tất cả những điều trên đây. - Minôx lại nói chứng tỏ anh có tin tưởng phần nào vào ma quỉ.

Uyêcxuyt quyết chống đỡ.

- Thưa ngài rất tôn kính, tôi không phải không tin ở ma quỉ. Lòng tin vào ma quỉ là mặt trái đức tin dành cho Chúa. Cái nọ chứng minh cái kia. Kẻ nào không tin tí chút vào ma quỉ thì không tin ở Chúa lắm. Ai tin có mặt trời, phải tin có bóng tối. Quỉ sứ là đêm tối của Chúa. Đêm tối là gì? Là bằng chứng của ban ngày.

Uyêcxuyt ứng biến ở đây một kết hợp rất tài tình của triết học và tôn giáo. Minôx lại đâm ra trầm ngâm và lại chúi đầu vào cái vực im lặng.

Uyêcxuyt lại được thở.

Một cuộc tấn công đột ngột bỗng diễn ra, Ekơ, vị đại diện cho y học, vừa mới khinh khỉnh che chở cho Uyêcxuyt chống lại vị đại diện thần học, đột nhiên trở thành trợ lý tác chiến. Lão đặt nắm đấm lên tập hồ sơ dầy cộp, chi chít. Lão chất vấn đốp vào giữa mặt Uyêcxuyt:

- Người ta đã chứng minh rằng pha lê là nước đá kết tinh, rằng kim cương là pha lê kết tinh, người ta đã xác nhận rằng nước đá để một nghìn năm biến thành pha lê và pha lê để một nghìn thế kỷ biến thành kim cương. Anh đã phủ nhận những điều đó.

- Đâu có. - Uyêcxuyt buồn rầu đáp. - Tôi chỉ nói trong một nghìn năm nước đá có đủ thời gian để tan chảy và một nghìn thế kỷ thì rất khó đếm.

Cuộc hỏi cung tiếp tục, bên hỏi bên trả lời cứ như tiếng kiếm chạm nhau chan chát.

- Anh có phủ nhận việc cây cỏ biết nói.

- Bẩm hoàn toàn không. Nhưng muốn thế, cây cỏ phải mọc ở dưới một cái giá treo cổ.

- Anh công nhận là cây độc sâm gào thét được.

- Không, nhưng nó hát được.

- Anh phủ nhận việc ngón tay thứ tư của bên tay trái có một hiệu năng thân ái.

- Tôi chỉ nói ông hắt hơi sang bên trái là một điềm chẳng lành.

- Anh đã nói về chim phượng hoàng một cách liều lĩnh và láo xược.

- Thưa quí toà anh minh, tôi chỉ nói, khi viết rằng có phượng hoàng ngon nhưng gây ra nhức đầu. Pluytac đi quá xa, vì phượng hoàng không hề tồn tại.

- Lời nói của anh khả ố lắm. Chim xinaman làm tổ bằng vỏ quế, chim rintaxê mà Parysatix dùng làm thuốc độc, chim Manucôđiat vốn là loài chim trên thiên đàng, và chim xêmenda mỏ có ba ống, người ta đều nhầm là phượng hoàng, nhưng phượng hoang đã tồn tại.

- Bẩm tôi không phản đối điều ấy.

- Anh là một con lừa cái.

- Bẩm, tôi không đòi hỏi gì hơn.

- Anh đã thú nhận rằng hương mộc chữa được bệnh viêm hầu, nhưng anh lại thêm không phải do rễ nó có một cái u thần.

- Tôi nói rằng đó là do Giuđa[22] treo cổ ở một cây hương mộc.

- Ý kiến có thể chấp nhận được - nhà thần học Minôx lẩm bẩm, đắc thắng đã trả miếng được thầy thuốc Êkơ.

Kiêu ngạo bị xúc phạm lập tức trở thành giận dữ. Êkơ tỏ ra quyết liệt:

- Tên du cư kia, anh lang thang với trí tuệ cũng không kém gì bằng đôi chân. Anh có những khuynh hướng vừa khả nghi vừa kỳ quặc. Anh sát cánh với ma thuật. Anh quan hệ với những con vật xa lạ. Anh nói với dân hèn về những vật chỉ tồn tại trong đầu óc anh, và mang một tính chất vô lý, như con hêmôrôux.

- Bẩm hêmôrôux là một con rắn độc mà Tơrêmêliux đã từng thấy.

Câu trả lời ấy gây đôi chút bối rối cho cái khoa học nổi khùng của tiến sĩ Êkơ.

Uyêcxuyt thêm:

- Hêmôrôux cũng có thật như sói xạ, cầy hương, đã được Caxtenlyux tả.

Êkơ lợi dụng điểm này để tấn công đến nơi:

- Đây là nguyên văn lời nói rất nguy hại của anh. Nghe đây.

Mắt nhìn vào đống hồ sơ, Êkơ đọc:

- "Hai loại cây cỏ, cây talaxigon và cây aglaphôtix ban đêm có ánh sáng. Ngày là hoa đêm là sao."

Và lão nhìn xoáy vào Uyêcxuyt:

- Anh nói thế nào?

Uyêcxuyt đáp:

- Mỗi cây cỏ là một ngọn đèn. Hương thơm là ánh sáng.

Êkơ lật sang trang khác.

- Anh không công nhận mật rái cá cũng ngang với hương hải ly.

- Tôi chỉ nói, về điểm này có lẽ phải ngờ vực Aêtiux.

Êkơ nổi xung.

- Anh làm nghề thuốc?

- Tôi tập làm nghề thuốc - Uyêcxuyt rụt rè thở dài.

- Trên người sống?

- Chứ không phải trên ngưòi chết - Uyêcxuyt nói.

Uyêcxuyt đối đáp một cách vững vàng nhưng hờ hững, một kiểu pha chế tuyệt vời trong đó vẫn nổi bật tính chất dịu dàng, ông ăn nói ngọt ngào đến nỗi vị tiến sĩ thấy cần phải sỉ vả ông.

- Anh rủ rỉ cái gì với chúng tôi thế? - lão cộc cằn hỏi.

Uyêcxuyt ngơ ngác và chỉ dám trả lời.

- Thanh niên mới biết rủ rỉ, còn người già chỉ biết thở than. Than ôi. Tôi than thở.

Êkơ bẻ lại:

- Tôi cảnh cáo anh về điểm này; nếu một bệnh nhân nào do anh chữa chạy mà chết, anh sẽ bị xử tử.

Uyêcxuyt liền đặt một câu hỏi:

- Thế nếu người ấy khỏi?

- Trường hợp đó - vị tiến sĩ đáp, dịu giọng xuống - anh sẽ bị tử hình.

- Thế thì chẳng khác gì lắm. - Uyêcxuyt nói.

- Nếu chết, người ta trừng phạt tội ngu xuẩn. Nếu khỏi người ta trừng phạt tính ngạo mạn. Cả hai trường hợp, giá treo cổ.

- Tôi không biết chi tiết đó - Uyêcxuyt nói khẽ. - Xin cảm ơn ngài đã chỉ dẫn cho tôi, quả thật không sao hiểu hết những khía cạnh đẹp đẽ của luật pháp.

- Anh liệu hồn.

- Một cách kính cẩn. - Uyêcxuyt nói.

- Chúng tôi biết anh làm những gì rồi.

- Còn tôi- Uyêcxuyt nghĩ bụng. - không phải lúc nào cũng biết điều ấy.

- Chúng tôi có thể tống anh vào ngục.

- Bẩm quí ngài lãnh chúa, tôi cũng phỏng đoán thế.

- Anh thể chối cãi những chuyện vi cảnh và vượt quyền bạn của anh.

- Triết học của tôi xin lỗi.

- Người ta buộc anh về tội to gan.

- Người ta sai vô cùng.

- Người ta bảo anh chữa khỏi nhiều bệnh nhân, có đúng không?

- Tôi là nạn nhân của những trò nói xấu.

Ba cặp lông mày khủng khiếp chĩa vào Uyêcxuyt cau lại, ba bộ mặt thông thái chụm vào nhau thì thầm. Uyêcxuyt thấy như một chiếc mũ lừa lờ mờ thấp thoáng trên ba cái đầu quyền hành kia, tiếng càu nhàu thân mật và có thẩm quyền của tam-vị-nhất-thể kia kéo dài mấy phút; trong khoảng thời gian ấy Uyêcxuyt cảm thấy mình hết lạnh buốt lại nóng bừng vì lo âu, hồi hộp. Cuối cùng Minôx, nhân vật chủ yếu, ngoảnh lại phía ông và nói với vẻ giận dữ.

- Cút.

Uyêcxuyt cảm giác na ná như Giônax thoát khỏi bụng cá voi.

Minôx tiếp:

- Anh được thả.

Uyêcxuyt nghĩ bụng. Họ mà tóm được mình lần nữa thì chết. Thôi xin vái lạy y học.

Và trong thâm tâm, ông tiếp thêm:

- Từ nay ta phải thận trọng, cứ mặc cho mọi mgười chết.

Gập đôi người lại, ông chào tất cả, từ các vị tiến sĩ đến các pho tượng bán thân, cái bàn, mấy bức tường, và giật lùi về phía cửa. Biến mất gần như bóng tối tan dần.

Ông thong thả thoát khỏi căn phòng như một kẻ vô tội, và nhanh như chớp biến khỏi con đường y hệt một tên tội phạm. Việc đến gần những con người của công lý thật là kỳ quặc và đen tối, đến nỗi dù được tha rồi người ta vẫn phải chạy trốn.

Vừa chạy trốn, Uyôcxuyt vừa lẩm bẩm:

- Mình đã thoát nạn một cách vô cùng may mắn. Mình là nhà thông thái sống ở trong rừng, họ là những nhà thông thái được nuôi dưỡng trong nhà. Bọn tiến sĩ làm khổ những nhà thông thái. Khoa học giả là phân bã của khoa học thật; và người ta dùng nó để tiêu diệt các triết gia. Khi tạo ra bọn nguỵ biện, các triết gia tự gây tai họa cho mình. Cứt họa mi sinh ra tầm gửi, lấy tầm gửi người ta làm ra nhựa. Với thứ nhựa đó người ta bắt họa mi, Turdus sibi ma lum cacat[23].

Chúng tôi không cho Uyêcxuyt là người tế nhị, ông dám liều lĩnh dùng những từ diễn tả trong tư tưởng của ông. Ông không nhã nhặn bằng Vonte.

Uyêcxuyt chở về Hộp Xanh, kể lại với ông Nicơlex rằng mình mải theo một người đàn bà đẹp, và không đả động gì câu chuyện ly kỳ của ông cả.

Có điều tối đến ông nói rất khẽ với Ômô:

- Mày phải biết nhá. Tao đã thắng ba cái đầu của Xecbe[24].

Một sự việc bỗng xảy đến, khiến mọi người quên hết.

Càng ngày quán Tacaxtơ càng trở thành một trung tâm náo nhiệt của cười đùa vui nhộn. Không đâu ồn ào vui vẻ hơn, ông chủ quán và tên hầu bàn không đủ sức để rót bia, rượu mạnh, rượu cần. Tối đến tất cả mọi cửa kính đều sáng choang, căn phòng thấp không một phòng nào bỏ trống. Người ta đua nhau hò reo ca hát, cái lò sưởi to cũ kỹ kiểu bếp lò, chắn lưới sắt và bỏ đầy than, cháy rừng rục. Ánh sáng của quán Tacaxtơ tỏa khắp bãi chợ phiên. Y như một ngôi nhà toàn lửa và tiếng ồn ào.

Trong sân, nghĩa là trong rạp hát, càng đông hơn nữa.

Toàn thể công chúng ngoại ô, mà Xaothuak có thể cung cấp cho các buổi biểu diễn Hồng hoang chiến bại. Đông đến nỗi, nhà hát vừa mở, nghĩa là cái bảng Hộp Xanh vừa hạ xuống, là không sao tìm được chỗ đặt chân.

Cửa sổ đầy ắp khán giả, ban-công chật cứng. Không còn thấy một phiến đá lát nào trên sân, tất cả đều được thay thế bằng mặt người.

Duy cái khoang dành cho giới quý tộc vẫn bỏ không.

Thành thử ở đấy vì nằm giữa ban-công, có một lỗ đen ngòm, gọi theo lối ẩn dụ của tiếng lóng, đó là "một cái lò chẳng có ai". Chỗ nào cũng đông nghịt, trừ ở đấy.

Một tối nọ ở đây bỗng có người. Hôm ấy thứ bẩy, ngày mà người Anh hối hả vui chơi vì Chúa nhật chán lắm. Căn phòng đông như kiến.

Chúng tôi nói là phòng. Đến Sêcxpia rất lâu mới chỉ có sân khách sạn để làm rạp hát, và ông gọi nó là phòng. Phòng lớn.

Lúc màn vừa mở. Ở màn giáo đầu Hồng hoang chiến bại, Uyêcxuyt, Ômô, và Guynplên đã có mặt trên sân khấu. Như thường lệ, Uyêcxuyt đưa mắt nhìn khán giả, và ông bỗng thấy hồi hộp vô cùng. Khoang dành cho "quí tộc" đã có người. Một phụ nữ ngồi, một mình, ngay chính giữa khoang, trên chiếc ghế nhung Utorêc.

Chỉ có một mình mà chật cả khoang.

Có những người phát toả ra ánh sáng. Y hệt Đêa, người đàn bà này cũng có ánh sáng riêng biệt, nhưng khác hẳn. Đêa tái nhợt, người đàn bà này không tươi.

Đều là ánh sáng lê minh, người đàn bà này là bình minh rực rỡ. Đêa xinh đẹp, người đàn bà này lộng lẫy, Đêa chất phác thơ ngây, là màu trắng, là tuyết thạch; người đàn bà này là màu đỏ rực và người ta cảm thấy nó không rõ sắc hồng, ánh sáng phát ra tràn ngập cả khoang và người đàn bà đó ngồi ở giữa, không nhúc nhích, với một tư thế sung mãn của thần tượng. Giữa đám dân đen hèn hạ kia, nàng tỏa ra thứ hào quang cao quí của hồng ngọc, nàng làm cho dân chúng xung quanh tràn ngập ánh sáng đến mức như dìm họ vào trong bóng tối, và tất cả những bộ mặt tối tăm kia đều bị nàng che phủ. Sự rực rỡ của nàng xoá nhoà tất cả.

Mọi con mắt đều đổ dồn vào nàng.

Tom-Jim-Jack đứng lẫn trong đám đông. Như mọi người khác, y cũng biến mất trong vầng hào quang của nhân vật sáng chói kia.

Thoạt tiên người đàn bà kia thu hút sự chú ý của công chúng, cạnh tranh với buổi biểu diễn và phần nào làm hại đến kết quả đầu tiên của Hồng hoang chiến bại.

Mặc dầu đượm vẻ rất huyền ảo, đối với những người đứng cạnh, nàng vẫn thật. Đúng là một người đàn bà. Có lẽ còn hơn một người đàn bà nữa, nàng to lớn, khoẻ mạnh, và kiêu kỳ, ăn mặc một cách hết sức lộ liễu. Nàng đeo đôi hoa tai rất to bằng ngọc: cùng với những thứ nữ trang kỳ lạ gọi là chìa khoá nước Anh. Chiếc áo ngoài của nàng bằng loại the Xiêm La[25] mỏng tang, thêu kim tuyến, cực kỳ sang trọng, vì loại áo the như vậy giá đến sáu trăm ê-quy. Một cái cặp to nạm kim cương cài kín chiếc áo lót lộ rõ cả ngực, một kiểu thời trang lộ liễu của thời bấy, giờ may bằng thứ hàng Frizơ mà hoàng hậu Ann Đ'Ôtrisơ[26] dùng làm khăn trải giường, mỏng đến mức có thể luồn nó qua một chiếc nhẫn. Người đàn bà kia như có một thứ áo giáp bằng hồng ngọc, một số hạt ngọc thạch mới mài và những hạt bảo thạch đính khắp trên thân váy. Ngoài ra, đôi lông mày vẽ mực Tàu, cánh tay, khuỷu tay, hai vai, cái cằm, dưới cánh mũi, trên mí mắt, vành tai, lòng bàn tay, đều thoa phấn và một chút gì đo đỏ rất khêu gợi. Và trên tất cả những điểm ấy, một ý chí mãnh liệt tỏ ra mình đẹp. Nàng đẹp đến mức dễ sợ. Đấy là con báo, có thể làm mèo lại có thể vuốt ve. Mắt nàng một bên xanh: một bên đen, Guynplên cũng như Uyêcxuyt, chăm chú quan sát người đàn bà đó. Hộp Xanh phần nào là một gánh hát hư ảo, Hồng hoang chiến bại là một giấc mộng hơn là một vở tuồng. Họ quen gây ảo giác cho công chúng; lần này kết quả ảo giác quay về với họ, căn phòng hắt lại sân khấu sự ngạc nhiên, đến lượt họ hoảng sợ. Họ bị mê hoặc dây chuyền. Người đàn bà nhìn họ, họ nhìn người đàn bà. Đối với họ, đứng cách xa như họ, và qua ánh sáng mờ ảo của cảnh tranh tối tranh sáng trong rạp, mọi chi tiết đều bị xoá nhoà, và y như một ảo giác. Không nghi ngờ gì nữa, đó là một người đàn bà, nhưng đó chẳng phải cũng là một điều huyền ảo sao. Việc một ánh sáng vào chỗ tối tăm của họ khiến họ phải sững sờ. Y hệt một hành tinh xa lạ rơi xuống. Nó từ thế giới của những người hạnh phúc tới. Hào quang phát tán làm cho khuôn mặt kia to ra. Trên mình của người đàn bà kia có những điểm lấp lánh của trời đêm, như một dải Ngân hà. Tưởng đâu những bảo ngọc kia là tinh tú. Cái cặp kim cương kia có lẽ là chùm sao Thất tinh. Đường nét mỹ miều của lồng ngực dường như phi thường. Nhìn nhân vật từ cõi tinh tú kia, người ta cảm thấy lạnh buốt và thoáng được đến trời hạnh phúc tuyệt đỉnh. Gương mặt bình tĩnh khó lay chuyển kia là những chốn cùng thẳm của thiên đường đang cúi nhìn Hộp Xanh nghèo hèn và đám công chúng khốn khổ của nó. Lòng hiếu kỳ tột bậc tự thoả mãn, đồng thời nó cũng mặc cho tò mò của quần chúng được thoả thuê. Bề Trên cho phép Bề dưới nhìn mình.

Uyêcxuyt, Guynplên, Vinox, Fibi, quần chúng, tất cả đều rung động trước ánh sáng chói loà trừ mỗi Đêa, chẳng biết gì trong cảnh đêm tối của mình.

Sự xuất hiện mang tính chất ma quái nhưng không một ý nghĩ nào, mà từ ngữ đó thường gọi lên, thể hiện trên gương mặt kia, nó chẳng có gì mờ ảo, không rõ, bềnh bồng cả.

Không một gợn hơi khói nào, đây là một bóng ma hồng hào tươi tắn, khoẻ mạnh. Tuy vậy, đứng ở vị trí của Uyêcxuyt và Guynplên, do điều kiện quang học, nó lại là ảo ảnh. Những con ma béo người ta quen gọi là ma cà rồng thật. Một nữ hoàng xinh đẹp nào, mà đối với quần chúng cũng là ảo ảnh và mỗi năm ngốn hết ba mươi triệu dân nghèo, thì cũng phải khoẻ đẹp như vậy thôi.

Sau lưng người đàn bà kia, trong bóng tối chập chờn. Người ta nhận thấy tên hầu el mozo[27] một anh, chàng bé nhỏ trẻ con, trắng trẻo, xinh xắn, có dáng vẻ nghiêm trang. Một tiểu đồng thật trẻ, thật nghiêm trang, vốn là kiểu thời thượng bấy giờ. Tên hầu kia mặc áo đi giầy, đội mũ nhung mầu lửa và trên mũ vạch vàng của nó có một túp lông chim anh vũ, dấu hiệu gia nhân quyền quí, và tỏ ra mình là một nô bộc của một phu nhân rất cao sang.

Quân hầu là thành phần của lãnh chúa, cho nên không thể không chú ý đến tên hầu cầm đuôi áo này trong cái bóng của người đàn bà kia. Trí nhớ thường ghi chép mà ta không biết, và Guynplên cũng không ngờ rằng đôi má phình phính, vẻ mặt nghiêm trang, cái mũ có cái vạch và một túp lông chim của tên hầu phu nhân kia, đã để lại trong trí óc mình thột dấu vết. Vả lại tên tiểu đồng cũng chẳng làm gì để người ta phải nhìn nó, thu hút sự chú ý là thiếu lễ độ; nó đứng im lìm trong xó khán đài, và lùi thật sát váo cánh cửa đóng kín.

Mặc dầu có một thằng hầu kín đáo cầm đuôi áo của mình, người đàn bà kia vẫn không vì thế mà kém phần lẻ loi trong khán đài, vì chẳng ai kể đến một tên nô bộc cả.

Sự sao lãng do con người mang tính chất nhân vật kia gây nên tuy có mãnh liệt thật, nhưng đoạn kết thúc vở Hồng hoang chiến bại còn mãnh liệt hơn. Cũng như mọi lần, cảm xúc vẫn không thể cầm được. Có lẽ trong phòng còn thêm chất điện, do người nữ khán giả lộng lẫy vì đôi khi người xem cũng tự góp phần vào buổi biểu diễn. Nụ cười lừng lẫy của Guynplên càng thắng lợi hơn bao giờ hết. Toàn thể khán giả như lịm đi trong trận cười điên loạn không bút nào tả hết, trong đó có nét mặt cuồng nhộn và đàn anh của Tom-Jim-Jack.

Riêng người đàn bà xa lạ, ngồi xem vở tuồng với đôi mắt ma và bất động như một pho tượng, vẫn không cười.

Hiện tượng kỳ quái, nhưng của mặt trời.

Buổi biểu diễn kết thúc, tấm quảng cáo nâng lên, trong Hộp Xanh lại chan hoà không khí đầm ấm.

Uyêcxuyt mở túi tiền vào cửa và dốc lên bàn ăn.

Giữa một đống xu bỗng lấp lánh một đồng tiền vàng Tây Ban Nha.

- Bà ta! - Uyêcxuyt reo to.

Đồng tiền vàng giữa đống xu gỉ xanh, chính là người đàn bà kia giữa đám dân chúng.

- Bà ta đã trả chỗ ngồi bằng một đồng tiền vàng! - Uyêcxuyt phấn khởi nhắc lại.

Đúng lúc ấy, người chủ quán bước vào Hộp Xanh, thò cánh tay qua cánh cửa sổ phía sau, mở cái lỗ thông gió đã nói ở bức tường sau lưng Hộp Xanh và ngang tầm với cửa sổ, nó cho phép nhìn ra bãi, rồi lẳng lặng ra hiệu cho Uyêcxuyt nhìn ra ngoài. Một cỗ xe lộng lẫy, có thêm một lũ quân hầu cầm đuốc, mũ cắm lông chim, với bầy ngựa rất sang, đang phi nước đại rời xa.

Uyêcxuyt kính cẩn cầm đồng tiền vàng giữa ngón cái và ngón trỏ, nói với ông Nicơlex:

- Một nữ thần đấy.

Rồi đôi mắt ông nhìn theo chiếc xe rẽ ở góc bãi, theo cái mui xe được những cây đuốc của bọn quân hầu soi sáng một vòng kim miện có chạm trổ tám bông hoa.

Và ông reo to:

- Hơn thế nữa, một nữ công tước.

Chiếc xe mất hút. Tiếng bánh lăn cũng tắt.

Uyêcxuyt đứng ngây ngất một lúc, rồi với hai ngón tay, trở thành hình thánh thể, ông nâng cao đồng tiền vàng lên như người nâng mình thánh Chúa.

Đoạn ông đặt đồng tiền lên bàn, vừa ngắm nghía vừa nói về "phu nhân". Người chủ quán tiếp chuyện ông. Đấy là một nữ công tước. Đúng, danh vị thì biết rồi. Nhưng còn tên? Không rõ, ông Nicơlex đã nhìn gần cỗ xe, có đầy đủ gia huy, và quân hầu đều có vạch vàng. Tên đánh xe đội bộ tóc giả trông cứ như một vị lãnh chúa tể tướng. Cỗ xe mang hình dáng hiếm thấy. Ở Tây Ban Nha gọi là Côsơ-tumbon, một loại xe lộng lẫy có nắp kiểu quan tài, đấy là cái đế rất sang đỡ vành kim miện. Tên tiểu đồng là một mẫu người bé nhỏ đến nỗi nó có thể ngồi dưới ở bậc lên xuống xe bên ngoài cửa. Người ta thường dùng những loại người xinh xắn ấy đề nâng đuôi áo cho các phu nhân, cũng để đưa cả thư từ. Và có ai nhận thấy cái chòm lông chim anh vũ của tên tiểu đồng không? Đấy mới là điều quan trọng. Nếu không được phép mà cắm lông chim ấy là phải nộp phạt, ông chủ Uyêcxuyt cũng được nhìn tận mặt phu nhân. Đúng là một nữ hoàng. Bao nhiêu vàng bạc châu báu tạo nên sắc đẹp. Nước da thêm trong mát, con mắt thêm kiêu hãnh, dáng điệu thêm cao sang, sắc đẹp thêm ngạo mạn. Không gì sánh kịp cái vẻ thanh lịch láo xược của đôi bàn tay không lao động kia.

Ông chủ Nicơlex kể mãi về vẻ diễm lệ của làn da trắng ngần với những mạch máu xanh xanh, cái cổ, đôi vai, cánh tay, chỗ nào cũng thoa phấn, đôi hoa tai bằng ngọc, mái tóc rắc phấn vàng, toàn thân châu báu, hồng ngọc, kim cương.

- Không sáng bằng đôi mắt - Uyêcxuyt nói khẽ.

Guynplên im lặng.

Đêa lắng nghe.

- Và ông có điểm kinh ngạc nhất không? - Người chủ tiệm hỏi.

- Điểm gì? - Uyêcxuyt hỏi.

- Là tôi đã trông thấy bà ta lên xe.

- Sao nữa?

- Không phải lên một mình đâu nhé.

- Tưởng gì.

- Có một người lên theo bà ta.

- Ai thế?

- Ông đoán xem.

- Nhà vua chăng? - Uyêcxuyt nói.

- Trước tiên - Ông chủ quán Nicơlex gạt luôn, - lúc này không có vua. Chúng ta không sống dưới triều đại một nhà vua. Ông đoán xem ai đã trèo vào xe của nữ công tước ấy nào.

- Giuypite -Uyêcxuyt nói.

Ông chủ quán đáp:

- Tom-Jim-Jack.

Guynplên, từ nãy không nói một lời nào. Chợt bỏ thái độ im lặng, reo lên:

- Tom-Jim-Jack!

Mỗi giây phút ngạc nhiên, qua đó có thể nghe được tiếng Đêa thì thào:

- Không có cách nào ngăn cản và ấy đến đây sao?

"Bóng ma" không trở lại.

Nó không trở lại rạp hát, nhưng nó trở lại trong tâm trí Guynplên.

Trong chừng mực nào đó, Guynplên có xao xuyến băn khoăn, nó thấy hình như đây là lần đầu tiên trong đó nó được nhìn một người đàn bà.

Đột nhiên nó gần như lảo đảo trong trạng thái suy nghĩ vẩn vơ kỳ lạ. Nên cẩn thận với lối mơ màng miễn cưỡng này. Mơ màng cũng huyền bí tinh tế như một thứ hương. Đối với tư tưởng nó cũng như hương thơm đối với cây huệ. Đôi khi nó là sự giãn nở của một ý nghĩ độc hại, và có sức thâm nhập của một làn khói. Con người có thể có thể ngộ độc vì mơ màng cũng như vì hoa thơm. Một lối tự sát say sưa, tuyệt diệu và thê thảm.

Tâm hồn tự sát khi nghĩ đến điều sai trái. Đó là cảnh ngộ độc. Mơ màng thường lôi cuốn, vuốt ve, cám dỗ, trói buộc, rồi biến anh thành đồng phạm. Nó bắt anh dự một nửa phần trong những trò nó lừa lọc lương tâm.

Nó mê hoặc anh. Rồi làm anh sa đoạ. Có thể nói về mơ màng những gì ta thường nói về cờ bạc. Thoạt đầu người ta bị lừa, cuối cùng người ta trở thành bịp bợm.

Guynplên tư lự.

Nó chưa bao giờ thấy đàn bà.

Bóng đàn bà nó đã được thấy trong quần chúng phụ nữ, linh hồn đàn bà nó đã thấy ở Đêa.

Những đàn bà thực sự thì bây giờ nó mới thấy.

Một làn da ấm áp sống động, dưới đó người ta cảm thấy có dòng máu sôi nổi cuộn chảy, những đường nét rõ ràng như đá hoa cương, nhấp nhô như sóng nước, mỗi gương mặt kiêu kỳ, thản nhiên, bao hàm cả cự tuyệt lẫn lôi cuốn, thu lại thành một vẻ chói lọi; làn tóc như nhuộm ánh hồng của một đám cháy, một cách trang sức lẳng lơ vừa chứa đựng vừa gây cho người khác cảm giác rùng mình của khoái lạc: mỗi vẻ trần truồng phác hoạ, bộc lộ nỗi thèm khát ngạo mạn muốn được quần chúng chiếm đoạt mà cũng không đến gần, một lối làm duyên không để ai phạm tới, một sắc đẹp không sao với được; một sự cám dỗ có thêm ý vị trầm luân cảm đoán; một nỗi lo sợ ngại ngần hai mặt, một bên là tình dục, một bên là sợ hãi, Guynplên vừa mới thấy được điều đó. Nó vừa mới thấy một người đàn bà.

Nó vừa thấy được chỗ hơn và chỗ kém của một người đàn bà, một giống cái. Và đồng thời một bậc thần tiên.

Một giống cái của thần thánh.

Điều bí mật ấy, tính chất nam nữ, vừa mới biểu hiện ra với nó.

Ở đâu? Ở chỗ nào với tới.

Ở một quãng cách vô cùng tận.

Số mệnh thật trớ trêu, linh hồn, điều mang tính chất tiên giới ấy thì nó nắm được, nó có trong tay, đó là Đêa, còn tính chất nam nữ, điều trần tục này, nó lại trông thấy ở chốn thăm thẳm của trời cao, đó là người đàn bà kia.

Một nữ công tước.

Hơn cả một nữ thần - Uyêcxuyt đã nói.

Cheo leo khó tới thay!

Trước một cảnh cheo leo như thế, bản thân mơ mộng cũng phải lùi bước.

Liệu nó có điên rồ khi nghĩ đến người đàn bà xa lạ kia không? Nó đang cân nhắc.

Nó nhớ tất cả những điều Uyêcxuyt nói về nó về những cuộc sống hầu như vương giả; những lời nói dông dài của vị triết gia, trước đây nó tưởng như vô ích, trở thành những cọc tiêu cho nó nghiền ngẫm; thường thường trong trí nhớ chúng ta cho có một lớp quên lãng rất mỏng, gặp cơ hội nó đột nhiên để lộ cho chúng ta những gì bên dưới, Guynplên hình dung cái giới uy nghiêm đó, giới lãnh chúa, giới của người đàn bà kia, khắc nghiệt chồng lên cái giới nhỏ mọn là nhân dân trong đó có nó. Và kể cả giới nhân dân nữa, nó có thuộc giới ấy không? Nó chẳng phải phường múa rối là gì? Dưới cả tầng lớp dưới. Lần đầu lên, từ ngày đến tuổi biết suy nghĩ nó mơ hồ cảm thấy đau xót về địa vị thấp kém của nó mà ngày nay chúng ta quen gọi là hèn mạt. Những bức tranh và những bản liệt kê của Uyêcxuyt, những tờ kê khai trữ tình của ông, những bài thơ ông chúc tụng các lâu đài, vườn hoa, vòi nước, hàng cột, những phơi bầy của ông về sự giầu sang và quyền thế, sống lại trong tư tưởng của Guynplên rõ nét như một thực tế xen lẫn với trời mây. Nó bị đỉnh trời ấy ám ảnh. Một con người lại có thể trở thành lãnh chúa, điều ấy nó thấy như hoang đường. Thế mà lại có thật. Khó tin quá! Có những ngài lãnh chúa! Nhưng họ có phải bằng thịt bằng xương như chúng ta không? Thật đáng ngờ. Nó cảm thấy nó cảm thấy nó đang đứng trong bóng tối, có tường bao bọc xung quanh, và cao vút trên đầu, như qua miệng một cái giếng mà nó đang đứng dưới đáy, nó thấy cảnh rực rỡ hỗn độn của trời xanh, của những khuôn mặt và những hào quang, nơi thần tiên ngự trị. Giữa khung cảnh vinh quang đó có hình ảnh chói loà của người nữ công tước.

Đối với người đàn bà kia, nó cảm thấy một thèm muốn kỳ dị, phức tạp vì không thoả mãn được.

Và bất chấp cả nó, điều phi lý đau lòng ấy cứ lởn vởn trong đầu óc Guynplên, bên cạnh, ngay tầm tay, trong thực tại chật hẹp và sờ mó được, nhìn thấy phần linh hồn, còn chỗ không với tới. Ở chốn cùng thẳm của lý tưởng, lại thấy phần xác thịt.

Những tư tưởng ấy, không một tư tưởng nào đến với Guynplên rõ ràng cả. Đây là một thứ sương mù nội tại. Luôn luôn thay dạng đổi hình và bềnh bồng lơ lửng. Nhưng lại tối tăm mù mịt.

Vả lại, trong trí óc Guynplên không lúc nào nghĩ đến một cái gì đó có thể gần được. Ngay cả trong mộng, nó cũng không hề mơ tới chuyện vươn đến người nữ công tước. May mắn thay.

Một khi đã đặt chân lên những cái thang ấy, cảm giác run sợ có thể còn mãi trong đầu óc anh, tưởng trèo lên đỉnh thiên thai lại hoá ra đến bệnh viện tâm thần[28]. Một thèm khát rõ ràng, giá có thành hình trong nó, cũng đã làm cho nó khủng khiếp, Guynplên không cảm thấy một chút gì như thế cả.

Mặt khác, rồi nó có bao giờ gặp lại người đàn bà kia nữa không? Hẳn là không. Say mê một ánh sáng thoáng lóe ở chân trời, ai lại điên cuồng đến mức ấy. Liếc mắt đưa tình với một vì sao, điều đó còn tạm được, người ta còn thấy lại vì sao, nó sẽ tái hiện, nó cố định. Nhưng lẽ nào lại phải lòng một tia chớp.

Guynplên cứ mơ màng vớ vẩn. Thần tượng trong khán đài, uy nghiêm, lịch sự, mờ mờ tỏ in trong những ý nghĩ mông lung của nó rồi lại nhoà mất. Nó nghĩ đến thần tượng, rồi thôi không nghĩ nữa, lo làm những việc khác, rồi lại quay về đấy. Nó như người bị đu đưa, chẳng có gì khác.

Thế mà nó mất ngủ suốt mấy đêm. Giờ phút mất ngủ cũng đầy mộng mị như khi ngủ mê.

Hầu như không sao diễn đạt nổi, trong giới hạn chính xác của chúng, những diễn biến trừu tượng trong đầu óc nó. Trở ngại của từ ngữ là có nhiều đường viền hơn ý nghĩ. Tất cả các ý nghĩ đều hoà lẫn vào nhau qua các mép biên; từ ngữ không thể. Luôn luôn có một khía cạnh mờ mịt nào đó của tâm hồn thoát khỏi chúng. Lời nói có biên giới, tư tưởng không có.

Cõi bao la tối tăm trong lòng ta lạ lùng ở chỗ những gì diễn ra trong tư tưởng Guynplên chỉ thoáng chạm đến Đêa thôi. Đêa thiêng liêng đứng giữa trí óc của Guynplên. Không có gì có thể đến gần cô.

Thế mà những điều trái ngược ấy lại là toàn bộ tâm hồn con người, trong đó có sự xung đột, Guynplên có ý thức về điều ấy không? Cùng lắm chỉ thế thôi.

Trong thâm tâm nó cảm thấy. Ở chỗ có thể rạn nứt - tất cả chúng ta đều có chỗ như thế - một sự xung đột của những ý nghĩ thoáng qua. Đối với Uyêcxuyt thì rõ ràng, nhưng đối với Guynplên lại mù mờ không rõ.

Hai bản năng, một bên lý tưởng, một bên giới tính, đang tranh giành nhau trong người nó. Thường vẫn có những cuộc đọ sức như vậy giữa thần thiện và thần ác trên chiếc cầu bắc qua vực thẳm.

Cuối cùng thần ác bị xô ngã.

Một hôm bỗng nhiên Guynplên không nghĩ gì đến người đàn bà xa lạ kia nữa.

Cuộc chiến đấu giữa hai yếu tố, cuộc đọ sức giữa khía cạnh trần tục và khía cạnh thần tiên, đã diễn ra trong chỗ sâu kín nhất của tâm hồn nó, sâu kín đến mức nó chỉ nhận thấy một cách rất mơ hồ.

Điều chắc chắn là không một phút nào nó sao nhãng tôn thờ Đêa.

Trong nó và từ rất lâu, có trạng thái rối loạn, máu nó có lúc bừng hừng cơn sốt, nhưng nay hết rồi. Một mình Đêa vẫn còn.

Chỉ có ai bảo với Guynplên rằng đã có lúc Đêa sắp lâm nguy, nó còn ngạc nhiên nữa.

Trong một hai tuần, bóng ma hình như đe doạ hai tâm hồn đó bỗng nhiên biến mất.

Trong Guynplên chỉ còn trái tim, là bếp lò, và tình yêu là ngọn lửa.

Vả lại như ta đã nói "nữ công tước" không trở lại.

Điều mà Uyêcxuyt thấy rất giản đơn, "Phu nhân tiền vàng" là hiện tượng. Nó vào. Trả tiền và tan biến. Giá nó trở lại thì hay quá.

Còn Đêa thì không ám chỉ đến người đàn bà đã đi qua ấy nữa. Hẳn là cô có lắng nghe, và cũng hiểu đầy đủ nhờ những tiếng thở dài của Uyêcxuyt, và thỉnh thoảng nhờ một lời cảm thán có ý nghĩa như:

Không phải ngày nào cũng có tiền vàng!

Cô không nhắc đến "người đàn bà" kia nữa. Đấy là một bản năng thầm kín. Tâm hồn thường có những lúc thận trọng tối tăm như vậy, trong chỗ bí mật của những việc thận trọng ấy, không phải là lúc nào. Không nói đến một người, tức như đẩy người đó ra xa. Hỏi thăm lại sợ phải gọi. Im lặng với họ cũng như đóng một cái cửa.

Sự việc tình cờ tự nó rơi vào quên lãng.

Có phải là một sự việc không nữa? Nó có xảy ra thật không? Đêa không biết, mà Guynplên cũng không biết.

Không. Chẳng có gì xảy ra cả. Chính người nữ công tước lan toả trong viễn cảnh xa xăm như một ảo ảnh. Chẳng qua chỉ là một phút mộng mị của Guynplên, và bây giờ nó thoát khỏi. Một phút sao nhãng của mơ màng, cũng như một lúc tan biến của sương mai, không hề để lại dấu vết, và một khi đám mây đã qua, tình yêu vẫn không hề giảm sút trong trái tim hơn vừng dương trên bầu trời rộng.

Một bộ mặt khác cũng biến mất, đó là Tom-Jim-Jack. Bỗng nhiên anh chàng thôi không đến quán Tacaxtơ nữa.

Những người ở cái thế được nhìn cả hai phía cuộc sống thanh lịch của tầng lớp đại lãnh chúa Luân Đôn có thể ghi nhận rằng có lẽ cũng vào thời kỳ ấy. Tin tức hàng tuần, giữa hai đoạn trích sổ giáo khu, báo tin "huân tước Đêvit Điry Moa theo lệnh nhà vua, đã lên đường nhận chức chỉ huy chiến hạm trong hạm đội trắng đang tuần tra dọc bờ hiển Hà Lan".

Uyêcxuyt nhận thấy Tom-Jim-Jack không đến nữa, điều ấy làm ông bết sức băn khoăn. Từ ngày ra đi cùng xe với phu nhân tiền vàng, Tom-Jim-Jack không hề trở lại. Tất nhiên việc tay Tom-Jim-Jack này dang tay phỗng được các bà nữ công tước là một điều bí ẩn. Đi sâu tìm hiểu là một việc làm thú vị; bao nhiêu câu hỏi đặt ra! Bao nhiêu điều để nói! Cho nên Uyêcxuyt không nói nửa lời.

Vốn là người từng trải, Uyêcxuyt biết những chuyện tò mò mạo hiểm thường gây nhiều phiền toái. Tính tò mò bao giờ cùng phải cân xứng với kẻ tò mò. Nghe ngóng nguy hiểm cho cái tai, rình mò tai hại cho con mắt. Khôn ngoan thì chớ nghe gì hết và chớ nhìn gì cả. Tom-Jim-Jack đã lên ngồi trong chiếc xe sang trọng kia, ông chủ quán đã chứng kiến việc trèo lên. Tên thủy thủ đó ngồi cạnh phu nhân kia có một vẻ kỳ diệu khiến Uyêcxuyt phải thận trọng. Người dưới phải xem những chuyện bất thường trong lối sống của bề trên là thiêng liêng. Tất cả mọi giống bò sát, vẫn mang tên là kẻ nghèo hèn, không có gì làm tốt hơn hết là thu mình trong hang mỗi khi thấy một điều gì kỳ lạ. Im lặng là một sức mạnh. Nhắm mắt lại, nếu anh không có diễm phúc được mù; bịt tai lại, nếu anh không có may mắn được điếc; giữ chặt lưỡi lại nếu anh không đạt mức hoàn hảo là câm. Kẻ mạnh làm theo ý muốn, người yếu làm theo khả năng, ta hãy để mặc cho vô định có tiếng nói. Ta chớ tìm hiểu thần thoại; ta đừng thắc mắc về những vẻ ngoài: ta nên có một lòng tôn trọng sâu sắc đối với những thần tượng. Chúng ta đừng bàn tán đến những chuyện thu hẹp hoặc phóng đại trong những tầng lớp trên vì những lý do ta không biết.

Thông thường đối với chúng ta, những kẻ hèn yếu, đó là những ảo ảnh quang học. Những chuyện thay hình đổi dạng là việc của thần thánh; những sự thay đổi và tan rã của các nhân vật vĩ đại bất thường trôi nổi trên đầu chúng ta là những đám mây không sao hiểu thấu và nguy hiểm nếu ta đi sâu nghiên cứu. Tò mò thái quá là thần tiên nổi giận trong lúc họ tùy ý bay lượn; rất có thể một tiếng sét sẽ cho anh hiểu con bò đực mà anh quan sát quá tò mò kia là Giuypite. Ta không nên vén những nếp áo khoác mầu tường thành của các bậc quyền uy khủng khiếp. Dửng dưng là thông minh. Chớ có động đậy thế là hay hơn cả. Cứ giả vờ chết, người ta sẽ không biết anh. Đấy là lối khôn ngoan của sâu bọ. Uyêcxuyt, thực hành điều đó.

Về phía mình. ông chủ quán cũng lo lắng, một hôm ông gọi Uyêcxuyt lại.

- Ông có biết là người ta không trông thấy Tom-Jim-Jack nữa không?

- Kìa - Uyêcxuyt nói - tôi không để ý đấy.

Ông chủ Nicơlex lẩm bẩm suy nghĩ, chắc chắn là về chuyện chiếc xe công tước mà lại chở Tom-Jim-Jack, nhận xét hẳn là thiếu cung kính và nguy hiểm Uyêcxuyt; giữ ý không thèm nghe. Tuy nhiên, Uyêcxuyt vốn giàu óc nghệ sĩ, không thể không luyến tiếc Tom-Jim-Jack, ông có hơi chán nản, ông chỉ trao đổi cảm tưởng của mình với Ômô, người tri kỷ kín đáo duy nhất mà ông tin được, ông rỉ tai nói với con sói:

- Từ hôm Tom-Jim-Jack không đến nữa, với tư cách con người tao cảm thấy trống trải, còn với tư cách nhà thơ tao cảm thấy lạnh lẽo.

Việc thổ lộ với một trái tim bầu bạn có làm vợi bớt nỗi lòng Uyêcxuyt.

Đối với Guynplên, ông giữ thái độ rất kín đáo. Còn anh chàng này không hề đả động đến Tom-Jim-Jack.

Thực ra thêm hay bớt Tom-Jim-Jack cũng chẳng quan hệ gì mấy đối với Guynplên, lúc nào tâm trí cũng để vào Đêa.

Guynplên ngày càng quên dần hết mọi sự. Còn Đêa, cô cũng không ngờ rằng đã có một sự chấn động không rõ rệt. Đồng thời cũng không nghe nói đến chuyện âm mưu khiếu nại chống Thằng Cười nữa. Mọi hằn học hình như đã buông tha. Tất cả đều lắng dịu bên trong và xung quanh Hộp Xanh. Hát rong đã hết, múa rối không còn, cha cố cũng thôi. Không còn ầm ĩ bên ngoài. Thành công mà không bị đe doạ. Số phận có những lúc sáng sủa đột ngột như vậy. Hạnh phúc huy hoàng của Guynplên và Đêa lúc này không gợn chút bóng đen. Nó dần dần lên đến điểm mà không còn gì phát triển hơn nữa. Có một từ ngữ diễn đạt những hoàn cảnh ấy, là cực điểm. Hạnh phúc cũng như biển cả đạt đến chỗ tràn đầy của nó. Điều lo ngại, đối với những ai hoàn toàn hạnh phúc, là biển cả sẽ hạ xuống.

Có hai cách không cho ai chạm tới mình là đứng thật cao hay thật thấp. Cách sau đáng được mong ước hơn, ít ra có lẽ cũng bằng cách trước. Con thảo mao trùng chắc chắn dễ khỏi bị dẫm nát hơn con chim ưng thoát khỏi mũi tên. Cảnh an toàn ấy của kẻ hèn mọn, như chúng ta đã nói, nếu có ai được hưởng nó trên trần, thì đó là hai sinh linh kia, Guynplên và Đêa; nhưng chưa bao giờ nó được trọn vẹn như lúc này. Càng ngày chúng càng sống dựa vào nhau, trong lòng nhau, một cách say sưa tột độ. Trái tim tự bão hoà bằng tình yêu, như nhờ một chất muối thần bảo quản; vì vậy nẩy sinh ra sự gắn bó không bao giờ tan vỡ, của những người yêu nhau từ thủa cuộc đời mới chớm rạng và những mối tình già mãi mãi tươi xanh. Có một kiểu ướp hương của tình ái. Có Philêmông và Bôxi là do Đapni và Clôe[30]. Cảnh già ấy, là cảnh chiều tà giống buổi bình minh chắc chắn dành cho Guynplên và Đêa. Trong lúc chờ đợi, chúng đều trẻ trung.

Uyêcxuyt nhìn cuộc ái ân đó như một người thầy thuốc theo dõi bệnh tình, vả lại ông có cái mà thời ấy, người ta gọi là "con mắt của Ipôcrat"[31]. Ông dán cặp mắt tinh tường vào Đêa, mảnh dẻ xanh xao, và ông lẩm bẩm:

- May mà con bé được hạnh phúc.

Có lúc ông lại nói:

- May mắn cho sức khoẻ của nó.

Ông gật gật đầu và đôi khi chăm chú đọc Avixen, do Vôxpicux Fortunatus dịch, Luvanh 1650, một cuốn sách ông có, mục "rối loạn tim".

Đêa, rất dễ mệt, thường ra hồ hôi, hay mỏi mệt chập chờn, và như ta còn nhớ, hay ngủ ngày. Một lần cô ngủ như thế, nằm trên tấm da gấu và Guynplên không có đấy Uyêcxuyt khẽ cúi xuống áp tai vào ngực Đêa: phía bên tim, ông như nghe ngóng một lúc rồi vừa ngẩng lên vừa thì thầm: "Không được để nó xúc động mạnh. Vết rạn sẽ nứt to rất nhanh".

Quần chúng tiếp tục đổ tới những buổi trình diễn Hồng hoang chiến bại. Thành công của Thằng Cười tưởng như bất tận. Khắp nơi kéo về; không riêng gì Xaothuak nữa, đã lác đác có cả Luân Đôn. Công chúng cũng bắt đầu pha trộn, không chỉ thuỷ thủ thuần tuý và dân đánh xe; theo ý kiến của ông chủ Nicơlex, người am hiểu dân hạ lưu, bây giờ trong đám tiện dân: có cả lớp người lịch sự và tiểu nam tước, ăn mặc giả thường dân.

Giả trang là một trong những thành công của tính ngạo mạn và là kẻ thời thượng lúc bấy giờ. Giới quí tộc đứng lẫn với dân đen là một dấu hiệu tốt và cho thấy thành công đã lan sang đến Luân Đôn. Vinh quang của Guynplên rõ ràng đã đi vào công chúng tầng lớp trên.

Và sự việc đã thành hiện thực. Tại Luân Đôn người ta chỉ nói đến Thằng Cười. Ngay tai câu lạc bộ Môhôc, nơi lui tới của lãnh chúa, người ta cũng nói về nó.

Trong Hộp Xanh không ai ngờ đến điều ấy họ chỉ cần được hạnh phúc. Niềm say sưa của Đêa là tối tối được mơn trớn vầng trán có mớ tóc quăn mầu hung của Guynplên. Trong tình yêu không gì bằng thói quen. Tất cả cuộc sống đều tập trung vào đấy. Việc tái hiện của thiên thể là một thói quen của vũ trụ. Tạo hoá không khác gì một cô gái si tình, và mặt trời là gã tình lang, ánh sáng là một cái cột chói lọi, hình người, đội đỡ cả trần gian. Ngày nào cũng vậy, trong một giờ phút huy hoàng, Quả đất đầy bóng đêm lại đè lặng lên mặt trời đang mọc. Đêa, mù, cũng cảm thấy vẫn hơi ấm ấy, vẫn niềm hy vọng ấy, trở lại với mình lúc cô đặt bàn tay lên đầu của Guynplên.

Là hai kẻ tối tăm tôn thờ nhau, yêu nhau trong im lặng hoàn toàn, chúng sẽ thích ứng vĩnh cửu như vậy.

Một tối nọ, lòng tràn ngập hạnh phúc, như khi ngây ngất hương trời, lòng cảm thấy một nỗi bứt rứt thần tiên, Guynplên đang lang thang, như nó vẫn thường đi sau buổi biểu diễn, trên bãi cỏ, cách Hộp Xanh chừng một năm bước. Con người thường có những phút giãn nở như thế để trút bớt cõi lòng. Đêm khuya tối tăm, và trong suốt; trời sao vằng vặc. Toàn bộ bãi chợ phiên vắng vẻ, mọi người đều ngủ yên và quên lãng trong các lều rải rác quanh cánh đồng Tarinhz.

Chỉ có ánh sáng chưa tắt; đó là chiếc đèn kính trong quán Tacaxtơ, vẫn mở hé chờ đợi Guynplên về.

Nửa đêm vừa điểm ở năm giáo khu Xaothuak, cách quãng và khác âm thanh nhau, từ gác chuông nọ sang gác chuông kia. Guynplên đang nghĩ đến Đêa. Nó có thể nghĩ gì?

Nhưng đêm hôm ấy, ngượng nghịu khác thường, lòng tràn ngập niềm say sưa xen lẫn ngại ngùng, nó đang nghĩ tự Đêa như một người đàn ông nghĩ tới một người đàn bà. Nó tự chê trách mình về điều ấy. Đây là một sự yếu đuối. Trong nó người chồng đang bắt đầu tấn công ngấm ngầm. Nôn nóng, dịu dàng và quyết liệt. Nó đang vượt qua biên giới vô hình; bên này có nàng trinh nữ, bên kia có người đàn bà. Nó lo sợ tự hỏi: nó đang cảm thấy điều mà người ta có thể gọi là nỗi hổ thẹn trong lòng, Guynplên những năm đầu đã dần dần thay đổi mà không hay biết đến một sức phát triển bí mật. Chàng trai mới lớn bẽn lẽn trước kia tự cảm thấy mình vẩn đục và đáng lo ngại. Chúng ta có lỗ tai ánh sáng để nghe trí tuệ nói và lỗ tai bóng tối để nghe bản năng nói. Trong cái tai khuếch đại ấy nhiều tiếng nói xa lạ mời chào nó. Dù chàng trai trong giấc mơ tình có trong trắng đến mấy thì một chút xác thịt cũng xen vào giữa chàng và giấc mơ hoa. Bao nhiêu ý định mất hết vẻ trong sáng. Điều không dám nói ra do thiên nhiên sắp đặt đi vào ý thức, Guynplên đang có một thèm muốn gì đó về cái vật chất bao trùm mọi dục vọng, mà Đêa không có. Trong cơn sốt của nó, nó thấy hình như không lành mạnh, nó đang làm cho Đêa biến dạng, có lẽ về mặt nguy hại, và nó đang cố thêm thắt cho cái bóng dáng thanh khiết kia thành hình ra thù một người phụ nữ. Ôi, đàn bà, chính mi là thứ chúng ta cần có.

Nhiều thiên đường quá, đến nỗi một lúc nào đó tình yêu không muốn như thế. Nó cần có làn da nóng bỏng, sức sống hồi hộp, cái hôn như tích điện và không sao cưỡng nổi nó cần mái tóc buông xoã, vòng tay ôm ấp có mục đích. Tính vũ trụ gây phiền phức. Chất ête vẫn đè nặng. Tình yêu thừa tính thần tiên cũng như lửa thừa nhiên liệu; vì thế mà ngọn lửa đau khổ, Đêa, có thể nắm bắt được và đã bị nắm giữ, cảnh gần gũi choáng ngợp đem điều mới lạ của tạo hóa trộn vào hai tâm hồn. Giấc mộng tuyệt vời ấy, Guynplên đang ngây ngất trải qua. Một người đàn bà. Nó đang nghe thấy trong lòng có tiếng kêu thầm kín đó của thiên nhiên. Như Pimaliông đang gọt dũa trong mơ một nàng Galatê[32] của trời xanh, nó cũng đánh bạo, trong tận cùng trí óc, chấm sửa lại cái hình dáng trong trắng của Đêa; hình dáng thần tiên quá nhưng chưa mang đủ tính chất địa đàng; vì địa đàng là Eva; và Eva là đàn bà, một người mẹ xác thịt, một người vú nuôi trần tục, là cái bụng thiêng liêng sản sinh ra mọi thế hệ: là vú sữa bất tận, là người ru ngủ thế giới sơ sinh; và đôi vú ngoại trừ đôi cánh. Chữ trinh chỉ là ước mơ được làm mẹ. Tuy vậy trong ảo giác của Guynplên, Đêa vẫn đứng trên xác thịt. Lúc này, lạc lối, trong trí óc, nó đang cố đưa Đêa trở về với xác thịt, và nó đang kéo sợi dây giới tính, vẫn giữ chặt người con gái vào Quả đất. Trong số các con chim ấy, không một con nào được thả, Đêa cũng chẳng hơn gì: không thoát khỏi qui luật: và Guynplên, chỉ thú nhận nửa vời điều ấy, cũng mơ hồ muốn cho Đêa phải khuất phục qui luật đó, nó miễn cưỡng mong muốn như vậy, và cứ cố thôi, rồi lại cứ mong muốn. Nó tự hình dung Đêa mang đủ tính chất người. Nó đi đến chỗ có một ý nghĩ lạ lùng, Đêa, còn người không chỉ của đê mê ngây ngất nữa, mà còn của khoái lạc, Đêa ngửa đầu trên gối. Nó hổ thẹn trước sự lấn át trong mộng tưởng; đó là một sự cố tình xúc phạm, nó cưỡng lại ám ảnh ấy; nó ngoảnh đi, rồi vẫn quay lại; hình như nó sắp phạm tội cưỡng đoạt. Đối với nó, Đêa là một áng mây hồng. Nó đang run rẩy vén bức màn mây, y như vén chiếc áo lót. Trời đang tiết tháng tư.

Cuộc sống có những phút mơ màng của nó.

Guynplên cứ lơ đãng bước lảo đảo như lúc ta đi một mình. Không có ai xung quanh, càng thúc đẩy suy nghĩ miên man. Tư tưởng Guynplên đang hướng về đâu? Chắc nó chẳng dám nói điều đó với nó. Lên trời ư? Không. Vào một chiếc gường. Ngàn sao ơi, các người đang nhìn nó.

Tại sao lại gọi là một người si tình? Lẽ ra phải gọi là một người bị ám ảnh. Ma ám chỉ là biệt lệ, bị đàn bà ám mới là qui luật. Người đàn ông nào cũng bị cái bệnh tâm thần ấy cả. Một người đàn bà đẹp là một mụ phù thủy tai quái. Tên thật của tình yêu là giam giữ.

Ta bị giam giữ vì linh hồn một phụ nữ, mà cũng vì xác thịt người đó nữa. Đôi khi vì xác thịt nhiều hơn vì linh hồn. Linh hồn là người yêu, xác thịt là nhân tình.

Người ta đổ tiếng xấu cho quỉ. Có phải nó cám dỗ Êva đâu. Chính Êva cám dỗ nó. Người đàn bà đã bắt đầu.

Guynplên đang bình tĩnh đi qua. Nó trông thấy người đàn bà. Thế là từ đó nó trở thành quỉ Sa tăng.

Xác thịt là cái mặt trên của cái được biết. Lạ thay, nó lại khiêu khích bằng vẻ thẹn thùng bẽn lẽn. Thật không còn gì làm con người bối rối hơn. Đồ vô liêm sỉ ấy, nó còn xấu hổ hơn nữa.

Vào lúc này, điều đang khiến Guynplên băn khoăn và đang giữ chặt nó, chính là mối tình bề mặt đáng sợ đó. Còn giây phút nào dễ sợ bằng giây phút người ta khao khát sự trần truồng. Rất dễ trượt chân vào tội lỗi lắm. Biết bao tối tăm trong vẻ trắng ngần của vệ nữ!

Trong Guynplên có một cái gì đó đang lớn tiếng kêu gọi Đêa. Đêa con gái. Đêa của một nửa người đàn ông. Đêa bằng da bằng thịt và rực lửa. Đêa với lồng ngực lồ lộ. Hầu như nó đang xua đuổi thiên thần. Còn biến động huyền bí mà mọi cuộc tình duyên đều trải qua, mà lý tưởng lâm nguy. Điều này nằm trong dự tính của tạo hoá.

Thời cơ sa ngã của thần tiên.

Mối tình của Guynplên đối với Đêa đang trở thành một tình son sắt. Tình yêu trinh bạch chỉ là bước quá độ. Thời cơ đã đến. Phải cho Guynplên người đàn bà đó.

Phải có cho nó một người đàn bà.

Cái dốc mà người ta chỉ nhìn thấy phía trước.

Tiếng gọi không rõ ràng của thiên nhiên thật nghiệt ngã.

Toàn bộ người đàn bà, vực thẳm rùng rợn thay!

May mắn cho Guynplên, ngoài Đêa không có người đàn bà nào khác. Người duy nhất Guynplên ưng. Người duy nhất có thể ưng nó.

Guynplên có cái cảm giác lớn rờn rợn mơ hồ là sự đòi hỏi sống còn của vô biên.

Thêm vào đó, mùa xuân góp phần rất quan trọng. Nó đang hít thở những không khí không tên của u minh vũ trụ. Nó đi tới trước mặt, lơ láo một cách thích thú. Những hương thơm toả khắp của nhựa sống đang lên, những phát tán ngây ngất lửng lơ trong bóng tối; những hoa đêm chớm nở xa xa, những tổ chim kín đáo đồng tình, dòng nước róc rách, ngọn cỏ lao xao, vạn vật thở dài, không khí mát mẻ ấm áp, toàn hộ cảnh bừng tỉnh huyền bí của tháng tư và tháng năm, đó là giới tính mênh mông tản mát đang thì thầm hứa hẹn niềm khoái lạc, trò khiêu khích ngây ngất, khiến linh hồn phải ấp úng. Lý tưởng không còn biết nó nói gì nữa.

Người nào trông thấy Guynplên bước đi hẳn phải nghĩ: Kìa! Một thằng say rượu.

Thật thế nó gần như lảo đảo dưới sức nặng của con tim, của trời xuân và đêm tối.

Trên bãi cỏ, vắng lặng thanh bình đến nỗi thỉnh thoảng nó lại nói to một mình.

Cảm thấy mình không bị ai nghe, thường thường người ta phải nói.

Guynplên thong thả dạo bước, đầu cúi gằm, tay chắp sau lưng, bàn tay trái trong bàn tay phải, ngón tay xoè rộng.

Thình lình nó cảm thấy có một vật gì lùa vào kẽ tay bất động của mình.

Nó vội quay phắt lại.

Trong bàn tay nó, có một mảnh giấy và trước mặt, một người đàn ông.

Chính con người ấy đã rón rén sau lưng như một con mèo, lùa vào kẽ tay nó mảnh giấy.

Mảnh giấy là một bức thư.

Anh chàng được bóng tối chập chờn của sao đêm soi vào đủ sáng, người bé nhỏ, má phính, còn trẻ, nghiêm trang, mặc bộ chế phục mầu lửa, lộ rõ suốt từ trên xuống dưới qua tà áo khoác mầu xám mà thời bấy giờ vẫn gọi là capênôs, từ ngữ Tây Ban Nha rút ngắn có nghĩa là áo khoác đêm. Hắn đội một chiếc gora đỏ sẫm, y hệt cái mũ chỏm của Hồng y giáo chủ, có vạch vàng dấu hiệu rõ ràng của phường nô hộc. Trên chiếc mũ chỏm thấy có chòm lông chim anh vũ.

Hắn đứng im lặng trước mặt Guynplên. Y hệt một hình bóng trong mơ.

Guynplên nhận ra ngay, tên tiểu đồng của người nữ công tước.

Chưa kịp thốt lên một tiếng ngạc nhiên, đã nghe giọng nói yếu ớt, vừa trẻ con, vừa đàn bà của tên tiểu đồng:

- Ngày mai giờ này ông hãy đến đầu cầu Luân Đôn.

- Tôi sẽ có mặt ở đấy. Tôi sẽ dẫn ông đi.

- Đi đâu?

- Đến chỗ ông được chờ đợi.

Guynplên nhìn xuống bức thư mà nó vẫn vô tình nắm trong tay.

Lúc nó ngước mắt lên, tên tiểu đồng đã không còn đấy nữa. Xa xa trên bãi chợ phiên, một hình dáng mờ mờ nhỏ dần rất nhanh. Đấy là thằng hầu cận đang xa dần.

Nó rẽ ở một góc phố, rồi không còn bóng một ai nữa.

Guynplên nhìn tên tiểu đồng tan biến rồi lại nhìn bức thư. Đời người có những lúc điều phải đến lại không đến, sự kinh ngạc giữ anh cách xa sự vật một lúc.

Guynplên đưa bức thư lên gần mặt như người định đọc, lúc ấy nó mới thấy là không đọc được vì hai lẽ: thứ nhất vì thư chưa bóc: thứ hai là vì đang đêm. Phải mấy phút nó mới nghĩ ra trong quán có chiếc đèn kính. Nó đi mấy bước, chệch sang một bên, y như người không biết về đâu.

Một kẻ mộng du được ma trao cho bức thư cũng đi như vậy thôi.

Cuối cùng nó quyết định, chạy hơn là đi về phía quán rượu, đứng ở ngưỡng cửa hé mở, và nhờ ánh sáng nhìn ngắm lá thư vẫn dán kín, không có dấu vết gì ở chỗ niêm phong cả, và trên phong bì đề: gửi Guynplên. Nó bẻ vỡ xi niêm phong, xé phong bì, mở lá thư, chìa hẳn vào ánh sáng và sau đây là những dòng chữ nó đọc được:

"Anh xấu kinh khủng, tôi đẹp tuyệt trần, anh phường hát rong, tôi nữ công tước. Tôi cao sang đệ nhất, anh hèn hạ tột cùng. Tôi ưng anh. Tôi yêu anh. Anh đến nhé!"


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx