sachtruyen.net - logo
chính xáctác giả
TRANG CHỦLIÊN HỆ

Thanh gươm huyền bí (Quyển 1) - Chương 6 phần 3

Người phụ nữ mặc một chiếc quần túm bằng vải bạt và cưỡi ngựa giống như đàn ông, cô ta không nói gì với những phù thủy cả. Khuông mặt cô ta thật lạnh lùng. Cô tiến đến phía bọn trẻ, nói với chúng bằng một giọng nghiêm túc sâu lắng, cố lờ đi nước mắt của bọn trẻ. Ánh chiều tràn ngập sắc vàng làm cho từng thứ trở lên rõ ràng hơn nhưng chẳng có gì rực sáng cả, và khuôn mặt của đàn ông, đàn bà và cả những đứa trẻ dường như trở nên bất diệt, mạnh mẽ và đẹp đẽ.

Khi than đã rực hồng trong đống lửa được quây quanh bằng đá, ngọn đồi như yên ả hơn dưới ánh trăng, Lorenz kể với Serafina lịch sử thế giới của anh ta.

Anh ta giải thích, trước đây nó cũng đã từng là một thế giới hạnh phúc. Những thành phố rộng rãi và lịch thiệp, ruộng vườn màu mỡ. Những con thuyền buôn chất hàng nặng trĩu đi tới đi lui trên đại dương xanh. Những người đánh cá kéo lên những mẻ lưới đầy cá tuyết, cá ngừ, cá voi lẫn cá đối, rừng còn được làm chỗ vui chơi và không có đứa trẻ nào phải chịu đói cả. Trong những hội đồng và quảng trường của các thành phố lớn, những vị đại sứ hòa mình vào những người bán thuốc lá, với những nhà hát kịch ứng tác từ Bergamo, những thương gia thịnh vượng. Buổi tối những người yêu nhau đeo mặt nạ, gặp nhau dưới những hàng cây hoa hồng hay những khu vườn có ánh sáng nhân tạo, không khí như được pha thêm mùi hoa nhài và tiếng nhạc rộn ràng của đàn mandarone.

Những phù thủy mở to mắt lắng nghe câu chuyện của anh ta về một thế giới quá giống với thế giới của họ nhưng cũng thật quá đỗi khác.

“Nhưng rồi mọi thứ tệ đi,” anh ta nói. “Từ ba trăm năm trước một số người nhận ra Hội Torre degli Angeli của các nhà hiền triết, Tháp Thiên thần, trong thành phố chúng tôi ở đã rời đi, và họ chính là những người đáng bị trách móc. Những người khác thì nói đó là sự trừng phạt giành cho chúng tôi vì mắc phải một vài tội lỗi lớn, mặc dù tôi chưa từng được nghe bất cứ sự tán thành nào về việc định tội. Nhưng đột nhiên, bọn Spectre xuất hiện, không biết ở đâu ra và chúng tôi bị ám kể từ đó. Các bạn vừa nhìn thấy những gì chúng làm. Bây giờ các bạn thử tưởng tượng xem sống trong một thế giới có Spectre sẽ như thế nào. Làm sao mà chúng tôi có thể thịnh vượng nổi, khi mà chúng tôi không thể tin tưởng về bất cứ thứ gì tiếp diễn như thế này? Bất cứ lúc nào, một người cha, người mẹ có thể bị cướp đi, gia đình tan nát, một thương gia đã bị lấy đi linh hồn thì việc kinh doanh của anh ta cũng sẽ thất bại, tất cả thư ký, nhân viên của anh ta đều bị mất việc. Làm thế nào để những người yêu nhau có thể tin vào lời thề của họ? Tất cả niềm tin và đức hạnh trên thế giới này đều bị sụp đổ khi mà bọn chúng tới.

“Những nhà hiền triết đó là ai?” Serafina hỏi. “Và cái tháp mà anh nói đến nằm ở đâu?”

“Ở thành phố mà chúng tôi đã bỏ đi - Cittagazze. Thành phố của những kẻ ba hoa. Bà biết tại sao nó bị gọi như vậy không? Vì những kẻ ba hoa thì ăn trộm, và đó là tất cả những gì mà chúng tôi có thể làm bây giờ. Chúng tôi chẳng tạo ra cái gì cả, đã hàng trăm năm rồi, chúng tôi có xây được cái gì đâu, tất cả những gì chúng tôi có thể làm là ăn cắp từ thế giới khác. Ồ, phải, chúng tôi biết về những thế giới khác. Những nhà hiền triết từ Torre degli Angeli đã khám phá ra tất cả những gì chúng tôi cần biết về chuyện đó. Họ có một câu thần chú, nếu bà đọc nó ra, nó sẽ cho phép bà đi qua một cánh cửa không phải ở đây và bà sẽ thấy mình đang ở một thế giới khác. Một số người nói đó không phải là câu thần chú mà là chìa khóa để mở mặc dù không có một ổ khóa nào. Ai biết nhỉ? Bất kể nó là cái gì nó cũng đã để cho bọn Spectre tràn vào. Những nhà hiền triết vẫn sử dụng nó, tôi biết. Họ đã đi sang thế giới khác, ăn cắp từ thế giới đó và mang về đây những thứ họ tìm thấy. Vàng và đá quý, dĩ nhiên, nhưng có cả những thứ khác nữa, những ý tưởng, những bao ngũ cốc, bút chì. Đó là nguồn gốc của tất cả của cải của chúng tôi,” anh ta nói thật cay đắng, “đó là cái Hội trộm cắp.”

“Thế tại sao Spectre lại không làm hại trẻ con?” Ruta Skadi hỏi.

“Đó là một điều bí ẩn lớn nhất. Vẻ ngây thơ của bọn trẻ có sức mạnh đẩy lùi được sự lãnh đạm của bọn Spectre. Nhưng còn hơn thế. Đơn giản là trẻ con không nhìn thấy chúng, mặc dù chúng tôi cũng không hiểu tại sao. Nhưng những đứa bé mồ côi do Spectre gây ra rất nhiều. Các bà có thể hình dung - những đứa trẻ bị cướp mất bố mẹ; chúng tụ tập thành một nhóm, lang thang trên khắp đất nước, thỉnh thoảng chúng còn thuê mướn nhau ra ngoài tới chỗ người lớn để tìm thức ăn và đồ tiếp tế trong vùng Spectre hoành hành, và thỉnh thoảng thì chúng chỉ đơn giản lượn lờ và bới móc.

“Đó là thế giới của chúng tôi. Ờ, chúng tôi cố gắng xoay xở để sống với lời nguyền này. Chúng là lũ kí sinh chính hiệu: chúng không giết chết thân xác vật chủ mặc dù đã hút hầu như cạn kiệt sinh mạng của họ. Nhưng vẫn có một sự cân bằng nhất định… cho đến gần đây, lúc xuất hiện cơn bão khủng khiếp. Quả đúng là một cơn bão kinh hoàng! Nó nghe như là toàn thể thế giới đang bị vỡ ra, bẻ vụn thành từng phần; chưa hề có một cơn bão nào như vậy trong trí nhớ của con người.

“Rồi có một đám sương mù kéo dài trong vài ngày, nó bao phủ từng phần của thế giới mà tôi biết, không ai có thể đi lại; khi đám sương tan thì thành phố này ngập tràn Spectre, một trăm nghìn con. Vì vậy chúng tôi chạy trốn lên đồi và ra biển, nhưng bất kể chúng tôi đi đâu cũng không thoát khỏi bọn chúng. Như những gì các bà đã tận mắt mục kích.

Bây giờ tới lượt bà. Nói cho tôi biết về thế giới của bà, tại sao các bà lại bỏ nơi đó tới đây.”

Serafina nói với anh ta tất cả sự thật mà bà biết. Anh ta là một người chân thật và không phải nói dối anh ta bất cứ điều gì. Anh ta lắng nghe, lắc đầu khi ngạc nhiên, rồi khi bà nói xong, anh ta mới nói:

“Tôi đã kể với bà rằng sức mạnh mà người ta nói những triết gia của chúng tôi có là mở ra một canh cửa tới thế giới khác. Một số người nghĩ là hiếm khi họ để cánh cửa mở, chỉ vì tính hay quên, tôi sẽ không ngạc nhiên nếu những người lữ hành từ thế giới khác dần dần sẽ tìm đến nơi này. Sau rốt thì, chúng tôi biết rằng những thiên thần cũng đã đi qua đây.”

“Thiên thần?” Serafina hỏi. “Khi nãy anh đã nhắc tới họ. Họ thật mới mẻ với chúng tôi. Anh có thể giải thích được không?”

“Bà muốn biết về thiên thần à?” Joachim Lorenz nói. “Tốt thôi. Họ tự đặt tên mình là bene elim, tôi nghe bảo thế. Cũng có người gọi họ là Thần canh giữ. Họ không phải dạng thể xác như chúng ta, mà là một kiểu linh hồn. Hoặc có lẽ thể xác của họ ở mức tinh tế hơn chúng ta, tôi cũng không biết nữa; nhưng họ không giống như chúng ta. Họ mang thông điệp từ bầu trời, đó là những gì họ gọi. Thỉnh thoảng chúng tôi có nhìn thấy họ đi qua thế giới này tới một thế giới khác, tỏa sáng như những con đom đóm ở trên cao.

Nếu màn đêm tĩnh lặng thì bà thậm chí còn nghe được cả tiếng vỗ cánh của họ ấy chứ. Họ có những mối quan tâm khác hẳn chúng ta, mặc dù vào những thời xa xưa họ đã từng hạ xuống và đi lại cùng những người đàn ông và phụ nữ, cũng có cả con với chúng ta, vài người nói thế.

“Và khi đám sương mù kéo đến, sau trận bão lớn, tôi bị đe dọa bởi lũ Spectre trên ngọn đồi phía sau thành phố Sant’Elia, trên đường trở về nhà. Tôi trú ở trong lều của người linh mục bên suối cạnh cây phong, suốt đêm đó, tôi nghe thấy tiếng gọi mình từ trên đám sương, kêu la, giận dữ và cả tiếng vỗ cánh nữa, gần như chưa bao giờ tôi được thấy; gần rạng sáng có tiếng vũ khí va chạm, có cả tiếng những mũi tên, tiếng những thanh gươm va vào nhau lanh canh. Tôi không dám ra nhìn mặc dù rất tờ mò. Vì tôi sợ. Tôi đã chết cứng trong khiếp hãi, nếu bà muốn biết. Khi bầu trời sáng chưng hơn nó đã từng trong suốt thời gian sương mù, tôi đánh bạo ra ngoài và nhìn thấy một dáng hình to lớn đang bị thương nằm cạnh suối. Tôi cảm thấy như thể mình không có quyền được nhìn thấy những điều thần thánh. Cho nên tôi đã ngoảnh đi và khi tôi quay đầu lại thì hình thù đó đã biến mất.”

“Đó là lần đầu tôi đến gần các thiên thần nhất. Nhưng như những gì tôi đã nói với các bạn nhìn thấy họ một đêm khác, ở trên cao giữa những vì sao đang hướng về Cực, giống như hạm đội hùng mạnh nhổ neo giông buồm… Điều gì đó đang xảy ra và ở dưới này, chúng tôi không biết như thế nào. Có thể có một cuộc chiến tranh đang xảy ra. Hàng nghìn năm trước, từ những thời đại xa xưa, có một cuộc chiến tranh xảy ra trên thiên đường, nhưng tôi không biết kết quả như thế nào. Nhưng sức tàn phá của nó thì thật là lớn, và hậu quả cho chúng tôi là… Tôi không tưởng tượng nổi.”

“Dù vậy,” Anh ta vừa khơi lửa vừa tiếp tục, “kết cục có lẽ sẽ khả quan hơn là những gì tôi lo ngại. Có thể một cuộc chiến tranh trên thiên đường sẽ quét hết bọn Spectre trở về cái hố mà chúng đã từ đó ra. Đó quả thật là một phúc lành, chao ôi! Chúng tôi sẽ được sống trong thanh bình và hạnh phúc đến nhường nào, không còn phải sợ hãi nữa!”

Dẫu cho Joarchim trông có thể là bất cứ thứ trừ hi vọng khi anh ta nhìn đăm đăm vào đống lửa. Ánh lửa đu đưa trên khuôn mặt anh ta, nhưng nó không làm cho tâm trạng của anh ta khá lên mấy, trông anh ta thật buồn và khắc nghiệt.

Ruta Skadi nói, “Còn Cực nữa, thưa anh. Anh nói là thiên thần đang hướng tới Cực. Tại sao họ lại làm như vậy, anh biết không? Có phải thiên đường nằm ở đó?”

“Tôi không thể nói được. Tôi không phải là người có ăn học, cô có thể thấy rõ mà. Nhưng họ nói rằng phía Bắc ở thế giới của tôi là nơi ở của những tâm hồn. Nếu những thiên thần tập hợp lại, thì đó là nơi họ sẽ đi, và nếu họ định mở đợt tấn công trên thiên đường thì tôi dám nói rằng đó chính là nơi họ xây pháo đài và xông phá vòng vây.”

Khi anh ngẩng lên, những phù thủy dõi theo ánh mắt anh ta. Những ngôi sao ở thế giới này cũng giống như ở thế giới của họ: dải ngân hà tỏa sáng dưới vòm trời và vô số những ngôi sáng được rắc trên màn trời đen, như hòa với ánh trăng…

“Thưa anh,” Serafina nói. “Anh đã từng nghe về Bụi chưa?”

“Bụi á? Tôi đoán rằng cô có ý hỏi những thứ khác chứ không phải là bụi trên đường. Không, tôi chưa nghe bao giờ. Nhưng nhìn kìa! Một đoàn thiên thần…”

Anh ta chỉ vào chùm sao Ophiucus. Chắc chắn, có cái gì đó đang di chuyển qua, những đám màu sáng nhỏ xíu. Chúng không trôi lờ lững; chúng đang bay có chủ đích như những đàn ngỗng hoặc thiên nga.

Ruta Skadi đứng dậy.

“Các chị em, đã đến lúc tôi phải chia tay các bạn. Tôi sẽ đi nói chuyện với những thiên thần đó, bất kể họ là ai. Nếu họ đi về hướng Ngài Asriel thì tôi sẽ đi cùng họ. Nếu không, tôi sẽ tự tìm thấy ông ta. Cảm ơn vì các bạn đã đi cùng tôi. Chúc thượng lộ bình an.”

Họ hôn tạm biệt, Ruta Skadi lấy nhành thông mây và bay lên không khí. Con nhân tinh Sergi cũng bay bên cạnh cô.

“Chúng ta sẽ tăng tốc chứ?” nó hỏi.

“Tăng hết mức như những vật bay phát sáng phía Ophiucus. Họ bay nhanh lắm đấy, Sergi, chúng ta phải bắt kịp họ”.

Rồi cô cùng nhân tinh của mình vọt lên, nhanh như tia lửa vậy. Không khí quất vào những nhánh nhỏ trên nhành thông và làm mái tóc đen của cô phất phới về phía sau. Cô không hề ngoái lại nhìn đống lửa nơi có những đứa trẻ đang ngủ, nơi có những người bạn phù thủy đã đồng hành với mình. Phần đó trong chuyến hành trình của cô đã kết thúc, và, hơn nữa, nhứng sinh vật phát sáng trên đầu cô nhìn từ xa rất nhỏ, nếu cô không dán mắt vào đó thì rất dễ nhầm với những vì sao trên trời. Cứ như thế cô bay, không để mất dấu của những thiên thần, dần dần, khi cô lại gần hơn, thì cũng nhìn thấy họ rõ hơn.

Họ tỏa sáng không phải vì họ đang cháy mà giống như thể, bất kể họ ở đâu và bất kể đêm tối như thế nào, ánh sáng mặt trời vẫn đều tỏa sáng trên người họ. Trông họ giống con người nhưng có cánh và họ cao lớn hơn rất nhiều; vì họ đều không mặc quần áo nên cô phù thủy có thể nhận ra có ba người đàn ông và hai người đàn bà. Đôi cánh của họ ló ra từ phía xương vai, lưng và ngự học cơ bắp cuồn cuộn. Ruta Skadi giữ khoảng cách đằng sau họ một quãng, quan sát và ước chừng sức mạnh của họ để đề phòng trường hợp cô phải chiến đấu chống lại họ. Họ không có vũ khí nhưng với sức mạnh của họ, họ có thể bay rất nhanh và có thể bỏ xa cô nếu có một cuộc đuổi bắt.

Lên sẵn cung, đề phòng bất trắc, cô phóng nhanh lên cạnh họ và gọi: “ Hỡi những thiên thần! Hãy dừng lại và nghe tôi nói! Tôi là phù thủy Ruta Skadi và tôi muốn nói chuyện với các bạn!”

Họ quay lại. Những đôi cánh lớn vỗ vỗ hướng vào trong để bay chậm dần, người họ đu đưa xuống phía dưới cho đến khi họ đứng thẳng trên không khí, đôi cánh đập đập để giữ thăng bằng. Họ vây quanh cô, năm thân hình chiếu sáng trong màn đêm, họ sáng rực lên.

Cô phù thủy nhìn quanh, vẫn ngồi trên nhành thông, tim cô đập mạnh trước những người lạ lùng này, nhân tinh của cô cũng vỗ cánh ngồi gần cô.

Mỗi thiên thần rõ ràng là một cá thể riêng biệt, dẫu họ có vẻ rất giống nhau hơn bất kể người nào mà cô đã từng gặp. Họ cùng nhau tỏa sáng, bay nhanh như tên, thông minh và cảm giác tất cả những thứ đó đồng thời được quét lên người họ vậy. Họ không mặc quần áo nhưng cô lại cảm thấy mình như thể mới là người không mặc gì trước những con mắt của họ, những ánh mắt thật sắc và sâu.

Khi đã hết xấu hổ, cô quay lại đáp lại cái nhìn của họ, đầu ngẩng cao.

“Vậy, các bạn là thiên thần,” cô nói, “hay Người canh giữ, hay là bene elim. Các bạn đang đi đâu thế?”

“Chúng tôi đi theo một tiếng gọi,” một thiên thần nói. Cô không chắc là vị nào nói nữa.

“Tiếng gọi của ai?”

“Của một người.”

“Ngài Asriel?”

“Có thể.”

“Tại sao các bạn lại đi theo tiếng gọi của ông ấy?”

“Bởi vì chúng tôi thích thế,” một giọng nói đáp lại.

“Vậy thì bất kể ông ấy ở đâu, các bạn cũng có thể dẫn tôi tới chỗ của ông ấy,” cô ra lệnh cho họ.

Ruta Skadi đã bốn trăm mười sáu tuổi, với tất cả tự tôn và tri thức của một nữ hoàng phù thủy trưởng thành. Cô thông minh hơn bất cứ người sống ngắn ngủi nào, nhưng cô không hề có một ý nghĩ dù là nhỏ nhất nào về việc trông cô giống như một đứa trẻ ra sao bên cạnh những giống loài cổ xưa này. Cô cũng không biết nhận thức của họ trải rộng như những sợi tơ mảnh đến những vùng xa xôi hẻo lánh nhất trên vũ trụ, những vùng mà cô thậm chí chưa bao giờ mơ tới; hoặc biết rằng cô nhìn thấy họ dưới hình dạng người chỉ bởi vì mắt cô muốn vậy. Nếu cô nhận thức được hình dạng thật sự của họ, thì họ sẽ có vẻ giống như tòa kiến trúc hơn là cơ thể, như những cấu trúc khổng lồ do trí tuệ và cảm xúc tạo nên.

Nhưng họ không mong đợi gì hơn: cô ta còn quá trẻ.

Ngay lập tức họ vỗ cánh bay dần lên cao, cô cũng lao vụt lên cùng với họ, lướt trên những tiếng cánh vỗ lao xao trên không để thưởng thức tốc độ và sức mạnh như được thêm vào chuyến bay của cô.

Họ bay suốt đêm. Những vì sao trên đầu họ nhạt dần và biến mất khi ánh rạng đông bắt đầu hiện lên. Khi ánh sáng mặt trời xuất hiện, thế giới như bừng sáng, họ bay qua bầu trời xanh trong không khí trong lành, ngọt ngào và ẩm ướt.

Ban ngày những thiên thần ít bị nhìn thấy hơn mặc dầu dáng vẻ lạ lùng của họ là rất rõ ràng. Ánh sáng mà Ruta Skadi nhìn thấy không phải là ánh sáng mặt trời đã bắt đầu chiếu lên đỉnh núi mà là ánh sáng từ nơi nào đó.

Tràn đầy sinh lực, họ vẫn tiếp tục bay và cô cũng bay theo không biết mệt mỏi. Cô thấy vui sướng cực độ khi biết mình có thể ra lệnh cho những hình dạng bất tử này. Cô thấy niềm vui tràn ngập máu thịt của cô, trên nhành thông trầy xước mà cô cảm nhận được trên da mình, cả cơn đói lúc này và sự hiện diện của con nhân tinh đáng yêu của cô; dưới mặt đất kia là tất cả sinh vật, từ cây cối đến muông thú; cô vui thích vì giống như họ, và vì biết rằng khi cô chết, da thịt cô sẽ nuôi dưỡng những cuộc sống khác như chúng đã từng nuôi dưỡng cô. Một niềm vui nữa là cô sẽ được gặp Asriel.

Một đêm nữa trôi qua, những thiên thần vẫn tiếp tục bay… Tầng khí đã thay đổi, không tốt hơn mà cũng không xấu hơn, Ruta Skadi biết rằng họ đã bay qua thế giới này đến một thế giới khác. Cô không thể đoán được điều gì sẽ xảy ra.

“Thiên thần à!” cô gọi khi cảm thấy sự thay đổi trong không khí. “Làm cách nào mà chúng ta đã rời khỏi thế giới mà tôi đã tìm ra các bạn? Đường biên giới ở đâu thế?”

“Có nhiều chỗ không thể nhìn thấy được trong không khí,” tiếng trả lời vọng tới. “Những cái cổng vào một thế giới khác. Chúng tôi có thể nhìn thấy chúng, nhưng cô thì không.”

Ruta Skadi không nhìn thấy những cái cổng, nhưng cô cũng không cần, phù thủy có thể định hướng tốt hơn là chim muông. Ngay khi những thiên thần nói, cô để ý tới ba đỉnh núi lởm chởm răng cưa ở phía dưới và cố nhớ chính xác hình dáng đó. Từ bây giờ, cô có thể tìm lại nó nếu cần, mặc cho những thiên thần này muốn nghĩ gì.

Họ bay cao hơn, đột nhiên, cô nghe thấy có giọng nói: “Ngài Asriel đang ở thế giới này, ông ấy đang xây một pháo đài…”

Họ bay chậm dần, rồi bay vòng quanh như những con đại bàng trên không trung. Ruta Skadi nhìn theo hướng một thiên thần đang chỉ. Những ánh sáng đầu tiên của một ngày đang le lói ở phía đông mặc dù những vì sao vẫn sáng lấp lánh trên bầu trời đen như nhung. Ánh sáng ngày một rõ hơn; một ngọn núi hùng vĩ nhô lên ở phía sau với những tảng đá đen có đỉnh nhọn hoắt, những phiến đá mỏng xen lẫn những đỉnh núi lởm chởm răng cưa cứ chồng đống vào nhau như sau một thảm họa vũ trụ vậy. Nhưng ở đỉnh núi cao nhất, nơi đầu tiên đón nhận những tia nắng đầu tiên của mặt trời rạng rỡ lại đứng sừng sững một pháo đài có tường bao quanh làm bằng đá bazan, cao bằng một nửa ngọn đồi, chỉ có thể đo được nó bằng cách tính thời gian bay mà thôi.

Khi trời vẫn còn tối, dưới pháo đài khổng lồ là những ánh lửa bập bùng từ những lò luyện kim, Ruta Skadi có thể nghe được cả những tiếng quai búa cách đó vài dặm và tiếng của những cối xay gió lớn. Từ mọi hướng, hướng nào cô cũng thấy những đôi cánh của các thiên thần đang bay tới, không chỉ có mỗi thiên thần mà còn những chiếc máy nữa, những chiếc máy có cánh bằng thép đang lướt nhanh như những con chim hải âu lớn, những khoang kính nhỏ phía dưới lập lòe như cánh rồng, những tiếng kêu o o của khí cầu zepơlin giống những con ong nghệ khổng lồ - tất cả đang hướng tới pháo đài mà Ngài Asriel đang xây ở trên dãy núi ngay rìa thế giới.

“Ngài Asriel ở đó sao?”

“Đúng, ông ấy ở đó,” những thiên thần đáp.

“Vậy ta hãy bay đến gặp ông ấy. Các bạn hãy làm người hộ giá cho tôi.”

Họ tuân lệnh, sải rộng đôi cánh bay về phía pháo đài có viền vàng, với cô phù thủy háo hức bay đằng trước.


SachTruyen.Net

@by txiuqw4

Liên hệ

Email: [email protected]

Phone: 099xxxx