Chương 6
Như con đã biết, cha nói, đêm đó thầy Rossi trao cho cha gói giấy tờ kia rồi tươi cười tiễn cha ra tận cửa, nhưng lúc quay lưng đi cha chợt có cảm giác là phải giữ chân ông ấy hoặc quay lại trò chuyện với ông ấy thêm một chút. Cha biết đó chỉ là hậu quả của lần nói chuyện kỳ lạ giữa cha và thầy ấy, cuộc nói chuyện kỳ lạ nhất trong cuộc đời cha, nên cha đã cố quên nó ngay tức khắc. Hai nghiên cứu sinh khác trong khoa đi ngang qua, sôi nổi bàn luận, chào thầy Rossi trước khi ông khép cửa lại, rồi nhanh nhẹn bước xuống lầu, theo sau cha. Cuộc chuyện trò ồn ào của bọn họ đã làm cha có cảm giác cuộc sống xung quanh vẫn diễn ra bình thường, nhưng cha vẫn cảm thấy bứt rứt. Cuốn sách có hình con rồng của cha đã là một sự hiện diện nóng bỏng trong cặp, và bây giờ thầy Rossi lại bổ sung thêm chiếc phong bì chứa tài liệu ghi chép còn chưa mở niêm phong này. Cha tự hỏi lát nữa đây, liệu có nên xem qua chúng ngay trong đêm, khi ngồi một mình ở bàn làm việc trong căn hộ nhỏ bé hay không. Cha kiệt sức; cha cảm thấy không thể đối mặt với thứ chứa đựng trong phong bì đó, dù nó có là gì.
Cha cũng không chắc buổi mai và ánh sáng ban ngày có mang trở lại cho mình tinh thần minh mẫn cùng lòng tự tin hay không. Có thể lúc thức dậy thậm chí cha sẽ không còn tin câu chuyện của thầy Rossi, tuy nhiên cha cũng cảm thấy chắc chắn câu chuyện sẽ ám ảnh mình, dù cha có thực sự tin hay không. Và làm sao, cha tự hỏi - khi đã ra khỏi nhà, đi ngang qua dưới cửa sổ phòng thầy Rossi và bất chợt nhìn lên căn phòng vẫn còn sáng ánh đèn - làm sao cha có thể không tin vị giáo sư hướng dẫn của mình trong những vấn đề liên quan đến quá trình nghiên cứu của chính ông ấy? Nếu cha không tin, liệu điều đó có đòi hỏi phải xem xét lại tất cả những công trình mà cha đã cùng thực hiện với ông? Cha run lên khi nghĩ đến những chương đầu tiên trong luận văn của mình, đến bản thảo đánh máy đã được hiệu đính xếp thành chồng ngay ngắn trên bàn làm việc tại nhà. Nếu cha không tin câu chuyện của giáo sư Rossi, liệu cha và ông ấy có thể tiếp tục làm việc chung với nhau hay không? Liệu cha có dám giả định là ông ấy đã mất trí hay không?
Có thể vì đang suy nghĩ về thầy Rossi lúc đi ngang qua dưới cửa sổ phòng làm việc của ông ấy, nên cha mới cực kỳ chú ý đến chuyện lúc đó đèn phòng thầy vẫn còn sáng. Bất luận thế nào, lúc cha thực sự bước vào vùng ánh sáng hắt ra từ ô cửa sổ kia xuống đường, bước hướng về khu vực cha ở, thì chúng - những vũng ánh sáng kia - bất chợt tắt ngóm đúng ngay dưới chân cha. Việc này xảy ra chỉ trong tích tắc, nhưng cảm giác ớn lạnh vì kinh sợ liền tràn ngập trong cha, từ đầu đến chân. Vừa mới mải mê suy nghĩ lúc bước vào vùng sáng ánh đèn hắt ra từ cửa sổ phòng thầy, bây giờ cha đã đứng lặng người ngay nơi đó. Cha nhận ra hai sự việc kỳ lạ hầu như đồng thời. Thứ nhất, từ trước đến nay cha chưa bao giờ thấy vùng ánh sáng đó ở chỗ vỉa hè này, nằm giữa những phòng học kiểu Gothic, dù đã đi trên con đường đó cả ngàn lần. Trước đây cha chưa hề thấy nó vì không thể nhìn thấy nó ở đó được. Bây giờ sở dĩ nó nhìn thấy được là vì tất cả đèn đường đã tắt. Chỉ có mình cha trên con đường đó, những bước chân của cha là âm thanh duy nhất vang vọng quanh đó. Và ngoại trừ những mảng sáng chập chờn hắt ra từ căn phòng mà mười phút trước đây cha và thầy Rossi vừa ngồi trò chuyện, cả khu phố đều tối đen.
Nhận thức thứ hai, cứ cho đúng là nó xuất hiện sau nhận thức thứ nhất đi, ập đến với cha như một cơn liệt kháng khi cha dừng lại. Cha dùng chữ ập đến bởi vì đó là cách nó xảy ra trước mắt cha, chứ không phải trong lý trí hoặc bản năng. Ngay chính khoảnh khắc đó, khi cha đứng chết lặng trên đường đi của nó, ánh sáng ấm áp từ cửa sổ văn phòng vị thầy mẫn tuệ của cha bỗng vụt tắt. Có thể con cho rằng đó là chuyện bình thường: hết giờ làm việc, vị giáo sư cuối cùng còn ở lại cũng đã tắt đèn trước khi rời khỏi tòa nhà, một con phố bỗng tối thui vì đèn đường bất ngờ bị hỏng. Nhưng cảm giác khi ấy thì không giống như vậy. Cha không có cảm giác như khi một ngọn đèn bàn sau cửa sổ được tắt bình thường. Thay vì vậy, tựa như có một cái gì đó bay vụt lên cánh cửa sổ phía sau cha, che kín nguồn ánh sáng. Sau đó, đường phố hoàn toàn tối đen.
Trong chốc lát, cha như ngừng thở. Khiếp đảm và lóng cóng, cha quay lại, nhìn cánh cửa sổ tối om, gần như vô hình trên con phố tăm tối, rồi bột phát chạy vội đến đó. Giờ cánh cửa mà cha vừa từ đó đi ra đã bị khóa chặt. Không có ngọn đèn nào rọi vào mặt tiền tòa nhà. Vào giờ này, có lẽ bất cứ ai ra ngoài cũng phải khóa chặt cửa lại - tất nhiên, đó là điều bình thường. Cha đứng đó, lưỡng lự, sắp sửa chạy vòng sang cánh cửa khác đến nơi thì ngay lúc ấy đèn đường lại bật sáng, và đột nhiên cha cảm thấy bối rối. Chẳng có dấu vết gì của hai sinh viên lúc nãy còn đi phía sau cha; có lẽ họ đã rẽ sang hướng khác, cha thầm nghĩ.
Nhưng lúc này thì một nhóm sinh viên khác đang tản bộ ngang qua, cười nói; con phố không còn vắng nữa. Điều gì sẽ xảy ra nếu ngay sau đó thầy Rossi bước ra, bởi ông ấy chắc chắn sẽ ra sau khi đã tắt đèn và khóa cửa phòng làm việc, và thấy cha vẫn còn đang chờ ở đây? Ông đã nói không muốn bàn luận thêm về những gì mà cha và ông vừa mới thảo luận. Làm sao cha có thể giải thích với ông những sợ hãi phi lý của mình, ở đó - trên ngưỡng cửa kia, lúc ông khép lại chủ đề ấy - và có lẽ khép lại tất cả những chủ đề quái dị xấu xa ấy? Bối rối, cha quay đi trước khi ông có thể bắt gặp, vội vàng trở về nhà. Ở nhà, cha cứ để chiếc phong bì trong cặp, không mở nó ra, rồi ngủ - dù là chập chờn - suốt đêm.
Hai ngày kế tiếp là hai ngày bận rộn, cha đã không cho phép mình nhìn đến mớ giấy tờ của thầy Rossi; thực ra, cha đã kiên quyết gạt ra khỏi đầu óc tất cả những điều bí ẩn kia. Vì vậy, vào cuối buổi chiều hôm thứ hai sau đó, cha hết sức ngạc nhiên khi một đồng sự cùng khoa chặn cha lại trong thư viện. “Anh đã nghe tin gì về thầy Rossi chưa?” anh ta hỏi, chụp lấy cánh tay cha và giật lại lúc cha đang vội vàng đi ngang qua khiến cha lảo đảo. “Paolo, đợi chút.” Phải, con đã đoán đúng - đó là Massimo. Ông ấy cao lớn và nói rất lớn tiếng ngay từ hồi còn là một nghiên cứu sinh, có lẽ còn nói to hơn bây giờ nhiều. Cha nắm chặt cánh tay ông.
“Thầy Rossi ư? Chuyện gì? Ông ấy thế nào?”
“Ông ấy đã đi rồi. Biến mất. Cảnh sát đang lục soát phòng làm việc của ông ấy.”
Cha vội lao ngay đến khu nhà ấy, lúc này trông nó rất bình thường, phía bên trong lờ mờ ánh nắng buổi chiều muộn và đông đầy các sinh viên đang tan lớp học. Trên tầng hai, trước phòng làm việc của thầy Rossi, một nhân viên cảnh sát của thành phố đang nói chuyện với trưởng khoa và vài người khác mà cha chưa hề gặp. Khi cha đến, hai người đàn ông mặc áo khoác đen đang ra khỏi phòng làm việc của thầy, đóng chặt cánh cửa lại sau lưng rồi rảo bước hướng về phía cầu thang và các phòng học. Cha chen lấn bước tới, hỏi viên cảnh sát. “Giáo sư Rossi đâu? Chuyện gì đã xảy ra với ông ấy?”
“Anh biết ông ta?” viên cảnh sát hỏi, ngẩng đầu lên khỏi sổ ghi chép, nhìn cha.
“Ông ấy là giáo sư hướng dẫn của tôi. Đêm hôm kia tôi đã ở đây. Có người nói ông ấy đã mất tích?”
Ông trưởng khoa tiến đến, bắt tay cha. “Anh biết những gì về chuyện này? Trưa hôm nay, bà giúp việc điện đến nói là cả đêm hôm qua và hôm kia ông ấy đều không về nhà - ông ấy không gọi bữa tối và cả bữa điểm tâm. Bà ấy nói trước nay ông ấy không hề như vậy. Ông ấy đã bỏ một cuộc họp khoa chiều nay mà không điện báo trước, đó cũng là việc ông ấy chưa bao giờ làm. Một sinh viên ghé lại báo là phòng làm việc ông ấy bị khóa suốt giờ làm việc, trong khi trước đó họ đã thỏa thuận hẹn gặp nhau, và giáo sư Rossi không hề xuất hiện. Ông ấy cũng đã bỏ bài giảng hôm nay, và cuối cùng tôi phải cho người phá cửa.”
“Thầy ấy có trong đó chứ?” Cha cố không thở hổn hển.
“Không.”
Cha gạt bọn họ ra và loạng quạng đi về cửa phòng làm việc của thầy Rossi, nhưng viên cảnh sát đã kéo tay cha lại. “Đừng nôn nóng như vậy,” anh ta nói. “Anh nói đêm kia anh đã ở đây?”
“Đúng vậy.”
“Anh trông thấy ông ta lần cuối lúc mấy giờ?”
“Khoảng tám giờ ba mươi.”
“Lúc đó anh còn thấy ai khác quanh đây không?”
Cha suy nghĩ. “Có, chỉ có hai sinh viên trong khoa - Bertrand và Elias, tôi nghĩ vậy, họ đi ra cùng một lúc với tôi. Lúc tôi ra thì họ cũng ra.”
“Tốt. Xác minh việc này đi,” viên cảnh sát nói với một trong số những người đứng đó. “Anh có nhận thấy điều gì không bình thường trong hành vi của giáo sư Rossi không?”
Cha có thể nói gì đây? Vâng, thực ra… thầy đã nói với tôi rằng ma cà rồng có thật, rằng Bá tước Dracula vẫn đang sống giữa chúng ta, rằng có thể tôi vừa được thừa hưởng một lời nguyền từ công trình nghiên cứu của chính thầy, và rồi tôi thấy ánh đèn phòng ông ấy vụt tối đi như thể bị một gã khổng lồ che khuất ư?
“Không,” cha trả lời. “Chúng tôi có một cuộc gặp để thảo luận về luận văn của tôi và đã ngồi chuyện trò với nhau đến khoảng tám giờ rưỡi.”
“Xong hai người cùng nhau ra về?”
“Không, tôi về trước. Ông ấy tiễn tôi đến cửa rồi trở lại phòng làm việc.”
“Anh có thấy điều gì hoặc người nào đáng nghi ở quanh tòa nhà lúc anh ra về không? Hoặc có nghe thấy gì không?”
Cha lại ngần ngại. “Không, không có gì. À, có việc mất điện trong giây lát trên đường phố. Đèn đường bị tắt.”
“Vâng, điều đó đã được ghi nhận. Nhưng anh không nghe hoặc thấy điều gì bất thường sao?”
“Không.”
“Cho đến nay anh là người cuối cùng trông thấy giáo sư Rossi,” viên cảnh sát nhấn mạnh. “Gắng nhớ lại xem. Khi anh đang ở cùng giáo sư, ông ta có hành động hay nói điều gì kỳ lạ? Bất kỳ lời nào về tuyệt vọng, tự tử, hoặc bất kỳ điều gì tương tự? Hoặc bất kỳ lời nói nào về việc bỏ đi hoặc một chuyến đi, chẳng hạn?”
“Không, chẳng có gì như vậy cả.” Cha thành thực trả lời. Taycảnh sát ném cho cha một cái nhìn không mấy thân thiện.
“Tôi cần tên và địa chỉ của anh.” Ông ta ghi lại mọi thứ rồi quay qua ông trưởng khoa. “Ông có thể xác nhận về chàng trai trẻ này chứ?”
“Chắc chắn anh ấy là người đúng như lời anh ấy nói.”
“Được rồi,” tay cảnh sát nói với cha. “Tôi muốn anh vào đây với tôi và cho tôi biết anh có thấy gì bất thường không. Đặc biệt là bất kỳ cái gì khác lạ so với đêm hôm kia. Đừng đụng vào bất kỳ thứ gì. Thành thực mà nói, hầu hết những trường hợp như thế này đều hóa ra là vì một chuyện gì đó dễ đoán, chuyện khẩn cấp gia đình hoặc một cơn trầm cảm nho nhỏ nào đó - chắc hẳn ông ấy sẽ quay về trong ngày một ngày hai thôi, tôi đã chứng kiến những việc như thế này cả triệu lần rồi. Tuy nhiên, do có máu trên bàn, nên chúng tôi không thể hành động sơ suất được.”
Máu trên bàn? Đôi chân cha như muốn sụm xuống dưới sức nặng cơ thể nhưng cha cố tỏ ra tự nhiên bước chậm rãi theo sau viên cảnh sát. Căn phòng nhìn vẫn như hàng chục lần trước đây khi cha có dịp nhìn nó dưới ánh sáng ban ngày: gọn gàng, dễ chịu, bàn ghế ở đúng tư thế sẵn sàng đón khách, sách vở và giấy tờ được xếp đúng vị trí của chúng thành từng chồng trên các bàn cũng như bàn làm việc. Cha bước lại gần hơn. Phía bên kia bàn làm việc, trên tờ giấy thấm màu nâu của thầy Rossi là một vũng chất lỏng sậm màu, kể từ khi loang ra, ngấm xuống rồi định hình ở đó hẳn đã khá lâu. “Lượng máu bị mất không đủ gây tử vong,” viên cảnh sát nói. “Có lẽ một ca chảy máu cam nặng hoặc một loại xuất huyết nào đó. Giáo sư Rossi có bị chảy máu cam lần nào khi anh có mặt bên ông ấy? Tối hôm đó, ông ta có vẻ gì bệnh tật không?”
“Không,” cha trả lời. “Tôi chưa bao giờ thấy ông ấy - chảy máu cam - mà ông ấy cũng chưa bao giờ nói với tôi về chuyện sức khỏe.” Cha bất chợt nhận ra, hết sức rõ ràng, là cha đã nói về những cuộc đàm thoại giữa ông ấy và cha bằng các động từ ở thì quá khứ, tựa như chúng đã vĩnh viễn trôi qua. Cổ họng cha như nghẹn lại vì xúc động khi nhớ lại hình ảnh thầy Rossi đứng ở cửa, tươi cười nhìn cha ra về. Phải chăng ông đã tự làm mình bị thương, bằng cách nào đó - thậm chí là cố ý? - trong một khoảnh khắc bất ổn, và rồi hấp tấp khóa cửa phòng lại, bỏ đi? Cha cố hình dung ra cảnh tượng ông ấy đang nửa tỉnh nửa mê trong một công viên nào đấy, có thể đang đói và rét, hoặc đang đáp một chuyến xe buýt đến một nơi chốn ngẫu nhiên nào đó. Chẳng có giả thiết nào hợp lý. Rossi vốn là một người khỏe mạnh, bản chất trầm tĩnh và sáng suốt như bất kỳ người nào cha từng gặp.
@by txiuqw4