“Hãy nhìn quanh thật kỹ.” Viên cảnh sát buông tay khỏi vai cha. Ông ta nhìn cha chăm chú, còn cha thì có cảm giác ông trưởng khoa và những người khác vẫn đang lảng vảng ở lối đi trước cửa, sau lưng cha và ông ta. Cha chợt nhận ra cho đến khi chứng minh được ngược lại, cha sẽ vẫn nằm trong số những người bị tình nghi, trong trường hợp giáo sư Rossi bị sát hại. Nhưng Bertrand và Elias sẽ làm chứng cho cha cũng như cha sẽ làm chứng cho họ. Cha chăm chú quan sát mọi vật trong phòng, như cố nhìn xuyên qua chúng. Nhưng đó là một nỗ lực tuyệt vọng; mọi vật đều có thực, bình thường, vững chắc, và thầy Rossi đã hoàn toàn biến mất.
“Không,” sau cùng cha thốt lên. “Tôi không thấy có điều gì bất thường.”
“Được rồi.” Tay cảnh sát hướng cha về phía cửa sổ. “Vậy thì anh hãy ngước lên đi.”
Trên trần nhà thạch cao màu trắng phía trên bàn làm việc, phía bên trên cha và viên cảnh sát, có một vết bẩn màu đen dài khoảng mười hai phân, nghiêng xéo về một bên tựa như chỉ về một cái gì đó ở phía bên ngoài. “Cái đó cũng có vẻ là máu. Đừng lo, nó có thể là của giáo sư Rossi hoặc không. Trần nhà này quá cao, một người bình thường không thể với tới, ngay cả đứng trên ghế. Chúng tôi sẽ cho xét nghiệm mọi thứ. Bây giờ, anh hãy suy nghĩ kỹ vào. Đêm đó, ông Rossi có đề cập đến việc có một con chim bay vào phòng không? Hoặc anh có nghe âm thanh gì đó khi ra về, có thể giống như có cái gì đó đi vào? Anh có nhớ lúc đó cửa sổ mở hay đóng không?”
“Không,” cha trả lời. “Ông ấy chẳng đề cập đến chuyện gì như vậy cả. Các cửa sổ đều đóng kín, tôi chắc chắn vậy.” Cha không thể rời mắt khỏi cái vệt kia; cha có cảm giác nếu quan sát đủ lâu hẳn cha có thể sẽ đọc ra điều gì đó trong cái hình dạng tượng hình đáng sợ của nó.
“Đã nhiều lần chim bay vào tòa nhà này,” ông trưởng khoa lên tiếng ở sau lưng chúng tôi. “Lũ bồ câu. Thỉnh thoảng chúng bay vào qua các cửa sổ trên mái.”
“Đó là một khả năng,” tay cảnh sát nói. “Mặc dù chúng tôi không tìm thấy chút phân chim nào, nhưng đó dứt khoát là một khả năng.”
“Hoặc dơi,” ông trưởng khoa lại lên tiếng. “Bọn dơi thì sao? Những tòa nhà cũ kỹ này chắc hẳn có đủ tất cả mọi loài vật sinh sống trong đó.”
“Vâng, đó là một khả năng nữa, nhất là khi ông Rossi dùng một cái chổi hoặc dù để cố đánh đuổi và làm bị thương một con vật gì đó.” Một giáo sư đứng ở lối cửa vào góp ý.
“Anh đã từng thấy ở đây có vật gì giống như dơi hoặc chim chưa?” Tay cảnh sát lại hỏi cha.
“Chưa,” cha trả lời. Phải mất vài giây để một từ đơn giản hình thành và bật ra trên môi cha, nhưng cha hầu như không hiểu được ý nghĩa câu hỏi của anh ta. Rốt cuộc, mắt của cha cũng bắt được cái ý nghĩa tiềm ẩn của phần đuôi vệt đen và cái mà dường như nó muốn hướng đến. Trên ngăn trên cùng của kệ sách, trong dãy “những việc thất bại” của thầy Rossi, một cuốn sách đã biến mất. Nơi hai đêm trước ông đặt cuốn sách bí ẩn của mình trở lại vị trí cũ bây giờ là một khe hở đen ngòm giữa các gáy sách.
Các bạn đồng nghiệp đưa cha ra ngoài, vỗ vỗ lên lưng khuyên cha đừng lo lắng; chắc hẳn mặt cha đã trắng bệch như một tờ giấy. Cha quay sang tay cảnh sát đang khép và khóa cánh cửa phía sau lưng. “Có thể nào giáo sư Rossi đã ở trong một bệnh viện nào đó sau khi ông tự cắt vào người hoặc ai đó gây thương tích cho ông ấy?”
Viên sĩ quan cảnh sát lắc đầu. “Chúng tôi có đường dây liên lạc với các bệnh viện, và đã kiểm tra. Không có dấu vết gì của ông ta. Tại sao anh hỏi vậy? Anh nghĩ ông ta có thể tự gây thương tích sao? Tôi nhớ là anh đã nói ông ta không có vẻ như muốn tự sát hoặc thất vọng gì kia mà.”
“Phải, đúng vậy.” Cha hít vào một hơi thật sâu và lại cảm thấy sức nặng cơ thể đang đè lên đôi chân. Trần nhà quá cao, ông có cắt cổ tay thì đằng nào cũng không thể làm vấy bẩn lên đến đó được - đó cũng là một điều an ủi chẳng mấy vui vẻ.
“Nào, các bạn, lên đường thôi.” Ông ta quay sang ông trưởng khoa, và họ vừa đi vừa rì rầm trao đổi với nhau. Đám người chung quanh cửa phòng bắt đầu tản mác, cha bỏ đi trước họ. Trên tất cả mọi điều, cha đang cần một nơi yên tĩnh để ngồi xuống.
Chiếc ghế dài ưa thích của cha trong gian giữa thư viện trường đại học cổ kính vẫn còn ấm hơi nóng ánh mặt trời của buổi chiều mùa xuân. Chung quanh, ba hoặc bốn sinh viên đang đọc sách hay thì thầm nói chuyện, cha cảm nhận cái không khí êm ả quen thuộc của nơi trú ẩn đậm chất học thuật kia như thấm sâu vào xương tủy mình. Gian sảnh lớn của thư viện trổ những khung cửa sổ nhiều màu sắc, qua một số cửa sổ đó, người ta có thể nhìn vào các phòng đọc, các hành lang giống như trong tu viện và các sân trong, vì vậy cha có thể nhìn thấy mọi người đi lại ở cả bên trong lẫn bên ngoài, hoặc đang nghiên cứu này nọ tại những bàn gỗ sồi lớn. Đó là quãng thời gian cuối một ngày bình thường; chẳng bao lâu ánh mặt trời sẽ biến mất khỏi các phiến đá dưới chân cha và cả thế giới sẽ đắm chìm trong ánh chiều chạng vạng - ghi dấu bốn mươi tám giờ tròn kể từ lúc cha ngồi trò chuyện với vị thầy thông tuệ của mình. Còn giờ thì, tri thức và hoạt động của con người vẫn chiếm ưu thế ở đây, làm chậm bước của bóng tối.
Cha thấy cũng nên lưu ý với con là trong những ngày đó, khi làm việc, cha thích được ở hoàn toàn một mình, không bị quấy rầy, trong sự tĩnh lặng giống như ở tu viện. Cha đã mô tả ngăn làm việc của cha ở thư viện rồi đấy, ở tầng trên kho sách thư viện, nơi cha có được góc của riêng mình và cũng là nơi cha đã tìm thấy cuốn sách kỳ lạ đã làm thay đổi cả cuộc đời và suy nghĩ của cha hầu như chỉ sau một đêm. Cách đó hai hôm, cũng khoảng giờ này cha vẫn còn đang làm việc ở đấy, bận rộn và không hề lo âu sợ hãi, chuẩn bị dọn dẹp những cuốn sách viết về Hà Lan và vội vàng cho một cuộc gặp gỡ thú vị với vị thầy thông tuệ của mình. Cha không nghĩ gì ngoài điều mà năm ngoái Heller và Herbert đã viết về lịch sử nền kinh tế thành phố Utrecht và làm thế nào để phản bác lại điều đó bằng một bài viết, có thể là một bài trích ra từ một trong các chương luận văn của cha.
Thực ra, nếu có tưởng tượng được phần nào về quá khứ, thì cha chắc chỉ hình dung ra những người Hà Lan có chút ngớ ngẩn, có chút tham lam kia đang tranh luận về những vấn đề cỏn con trong các phường hội buôn bán của họ, hoặc đang đứng, tay chống nạnh, trong những khung cửa bên trên dòng kênh, nhìn những sọt hàng hóa được kéo lên tầng trên cùng của những căn nhà-kiêm-kho của họ. Nếu cha từng nhìn được một phần nào đó của quá khứ, hẳn cha sẽ thấy được những khuôn mặt hồng hào, phóng khoáng của người miền biển, những cái trán vồ, những đôi tay thành thạo; nghe được âm thanh kẽo kẹt từ những chiếc tàu xinh đẹp của họ va vào nhau; cảm nhận được hương vị của các loại gia vị, nhựa đường và cống rãnh ở các cầu tàu; và cảm thấy thú vị trước sự khôn khéo nhưng kiên quyết trong việc mua bán và mặc cả của họ.
Nhưng dường như lịch sử, có thể là cái gì đó khác hẳn, một vệt máu mang trong nó nỗi thống khổ mà sau một đêm, thậm chí sau hàng thế kỷ, cũng không dễ gì quên đi. Từ nay, những nghiên cứu của cha sẽ chuyển sang một kiểu mới - mới đối với cha, nhưng không phải vậy đối với giáo sư Rossi và nhiều người khác, những người từng dò dẫm bước qua cái bụi rậm tăm tối đó. Cha muốn khởi đầu loại hình nghiên cứu mới mẻ này trong tiếng xôn xao phấn khởi và tiếng chuông rền vang trong gian chính sảnh, chứ không phải trong những kho sách im lìm, thỉnh thoảng chỉ vọng lại những bước chân nặng nề, mệt mỏi từ những bậc cầu thang xa xa. Cha muốn mở ra giai đoạn kế tiếp cuộc đời nghiên cứu sử của mình ở đó, dưới ánh mắt vững tin của các nhà nhân học trẻ tuổi, những người thủ thư già dạn dày kinh nghiệm, những chàng trai mười tám tuổi đang nghĩ về các trận bóng hay những đôi giày trắng mới, hoặc những sinh viên tươi cười cùng những giáo sư danh dự có vẻ điên khùng nhưng thực ra rất lành - tất cả các sinh hoạt buổi chiều tối của trường đại học. Cha nhìn quanh một lần nữa gian sảnh đông người, những vạt nắng đang nhanh chóng lùi dần, những cánh cửa ở lối ra vào chính liên tục đóng mở quanh bản lề bằng đồng. Rồi thì cha cũng cầm cái cặp cũ kỹ của mình lên, mở khóa và lôi ra một phong bì màu đen dày cộm, có chữ viết của thầy Rossi bên ngoài. Chỉ vỏn vẹn có dòng chữ sau: LƯU GIỮ CHO NGƯỜI KẾ TIẾP.
Người kế tiếp? Hai đêm trước cha đã không nhìn kỹ chiếc phong bì này. Phải chăng ông ấy có ý để dành thông tin được phong kín này cho lần nỗ lực kế tiếp của chính mình cho công trình này, cho cái pháo đài tăm tối này? Hoặc phải chăng chính cha là “người kế tiếp”? Liệu đây có phải là bằng chứng rằng ông đã mất trí?
Bên trong phong bì, cha thấy một xấp giấy tờ có trọng lượng và kích thước khác nhau, nhiều tờ đã xỉn màu và có vẻ như đã mỏng đi theo năm tháng, một số là giấy vỏ hành đặc kín những hàng chữ đánh máy. Một khối lượng tư liệu đồ sộ. Cha quyết định phải soạn chúng ra. Cha đến chiếc bàn màu mật ong gần nhất, bên cạnh tủ thẻ danh mục. Ở đó vẫn còn đông người, những người lạ thân thiện, nhưng cha vẫn nghi ngại liếc chừng trước khi lấy mớ tài liệu ra và sắp xếp lại trên bàn.
Hai năm trước, cha đã xử lý vài bản thảo viết tay của ngài Thomas More, một số các bức thư gửi từ Amsterdam của Albrecht Cha, và gần đây đã giúp lập danh mục một bộ sổ sách kế toán tiếng Flemish có từ những năm 1680. Cha biết, đối với một nhà sử học, thứ tự thời gian của bất kỳ tài liệu lịch sử được tìm thấy là một phần quan trọng trong bài học mà nó mang lại. Lôi giấy bút ra, cha lập một bản kê thứ tự của từng hạng mục tài liệu mà cha rút ra. Tài liệu đầu tiên, cái ở trên cùng trong số các tài liệu của thầy Rossi là những tờ giấy vỏ hành. Chúng dày đặc những hàng chữ đánh máy ngay ngắn, ít nhiều dưới dạng những lá thư. Cha cẩn thận xếp chúng lại với nhau mà không cho phép mình nhìn kỹ.
Tài liệu thứ hai là một bản đồ, vẽ bằng tay, rõ ràng nhưng vụng về. Nó đã mờ, các dấu hiệu và địa danh lờ mờ hiện ra trên một tờ giấy, sờ vào có cảm giác là lạ, dày như giấy sổ tay, rõ ràng là bị xé ra từ một cuốn sổ cũ nào đó. Tiếp theo là hai tấm bản đồ giống nhau. Sau đó là ba trang giấy rải rác những ghi chú viết tay, bằng mực và đọc được dễ dàng. Cha xếp chúng lại với nhau. Kế tiếp là một tập quảng cáo chào mời khách du lịch đến với “Rumani lãng mạn” bằng tiếng Anh, có vẻ như mang phong cách trang trí Deco, giống như một sản phẩm của các thập niên 1920 và 1930. Tiếp theo, hai hóa đơn của một khách sạn và các bữa ăn đã dùng ở đó. ỞIstanbul, thực tế là vậy. Rồi một bản đồ lớn, cũ về đường sá vùng Balkan, in hai màu một cách cẩu thả. Thứ cuối cùng là một phong bì nhỏ màu ngà, dán kín và không ghi gì bên ngoài. Cha để phong bì đó qua một bên, không đụng đến nắp phong bì, theo đúng kiểu anh hùng mã thượng.
Chỉ có vậy. Cha đã dốc ngược và thậm chí còn lắc lắc chiếc phong bì màu nâu lớn đó đến độ tưởng chừng như xác một con ruồi chết cũng không thể không bị phát hiện. Khi đang làm động tác đó, cha bất chợt (và cũng là lần đầu tiên) có cảm giác ấy, cảm giác sẽ theo cha trong suốt những nỗ lực cha phải thực hiện sau này: Cha cảm nhận sự hiện diện của thầy Rossi, niềm tự hào của ông về tính chu đáo ở cha, điều gì đó như linh hồn ông đang sống và trò chuyện với cha qua những phương pháp thận trọng mà ông đã truyền dạy cho cha. Cha biết, với tư cách một nhà nghiên cứu, ông ấy đã làm việc một cách nhậm lẹ, nhưng đồng thời cũng biết rằng ông không bao giờ lạm dụng hoặc bỏ sót điều gì - không bỏ sót một tài liệu nào, một tư liệu lịch sử nào, dù nằm ở một nơi xa xôi cách trở đến đâu, và càng chắc chắn không bỏ sót một ý tưởng nào của các bạn bè đồng sự, bất chấp nó có lạc mốt đến đâu. Sự biến mất của ông và - đầu óc cha như quay cuồng trong dòng suy tưởng - việc ông quá ư cần đến cha, đột nhiên đã khiến cha và ông trở nên gần như ngang hàng. Cha cũng có cảm tưởng là ông vẫn luôn hứa hẹn với cha điều này, sự bình đẳng này, từ trước tới nay, và chờ đợi cho đến lúc cha nhận được nó.
Bây giờ, mọi thứ vẫn còn nguyên sơ và đang được bày ra trên bàn, trước mặt cha. Cha khởi đầu với những lá thư, những bức thư dài dày đặc chữ đánh máy trên loại giấy vỏ hành, rất ít lỗi và ít chỉnh sửa. Mỗi lá thư chỉ có một bản và có vẻ như chúng đã được sắp xếp theo trình tự thời gian. Được ghi ngày tháng cẩn thận, tất cả đều được viết từ tháng Mười hai năm 1930, hơn hai mươi năm trước. Trên đầu mỗi lá thư đều có tiêu đề CAO ĐẲNG TRINITY, OXFORD, không có địa chỉ chi tiết. Cha liếc qua lá thư thứ nhất. Nó thuật lại chuyện Rossi đã tìm thấy cuốn sách bí ẩn và nghiên cứu sơ khởi của ông tại Oxford. Lá thư được ký tên “Người bạn khổ đau của anh - Bartholomew Rossi”. Và lá thư mở đầu - Cha cầm tờ giấy vỏ hành cẩn thận ngay cả khi tay đã bắt đầu hơi run - lá thư bắt đầu một cách thân mật: “Người kế thừa thân mến và bất hạnh của tôi…”
Cha đột nhiên dừng lại, giọng nói run run của cha làm tôi phải kín đáo quay mặt đi trước khi cha có thể gắng gượng nói tiếp được điều gì khác. Như ngầm đồng thuận, chúng tôi cầm áo khoác lên, tản bộ băng qua cái quảng trường nhỏ bé và nổi tiếng, vờ như mặt tiền của ngôi nhà thờ kia vẫn còn thu hút sự chú ý của chúng tôi.
@by txiuqw4